ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA KINH CÚNG DƯỜNG THỨ ĐỆ PHÁP SỚ

QUYỂN THƯỢNG

Thích Bất Khả Tư Nghị vị tăng Chùa Linh Diệu soạn.

 

Đảnh lễ Phật Tỳ-lô-giá-na

Pháp Duyên khởi thật tướng pháp trí

Bậc Thánh Diệu Âm A-xà-lê

Rũ ân giúp chứng biển pháp tánh.

PHẨM THỨ NHẤT

Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì Kinh cúng dường thứ đệ Pháp chân ngôn hành học xứ thứ nhất.

Cách giải thích Kinh nầy chia làm bốn phần: I. Nói về đại ý. II. Nói lý do.

  1. Giải thích đề mục.
  2. Giải thích theo văn.

I. Nói về đại ý:

Xét rằng, chân tánh vốn chí lý, xa lìa ngôn ngữ, bặt dứt hìn tướng, ứng cơ thị hiện, không tướng thì chẳng hiển. Cái gọi là tự môn A v.v… nghĩa lý nhiệm mầu sáng tỏ. Nay kinh này lý chứa đựng trong lời, ý hoàn toàn ngoài văn, vì thế nhờ thần lực che chở Như Lai hợp với Bí-Ấn và chân ngôn. Do vậy, nếu không thọ học với thầy thì cấm vào môn kia.

Chẳng phải người truyền trao bừa bãi, không những thế mà nếu, chưa qua quán đảnh thì bị cấm không được nghe. Nếu người được thấy nghe, đảnh lễ thì diệt trừ tội lỗi nhiều như cát sông Hằng, nếu người nào tu hành đúng như lời Phật dạy thì biển công đức nhóm họp ở trong thân .

II. Nói lý do:

Xưa, ở nước Trung Thiên Trúc, nhà vua có bốn người con, khi vua nước ấy sắp băng thì Hoàng Hậu tâu rằng: Tâu Đại Vương! nếu sau khi Đại Vương băng thì người con nào sẽ lên kế vị? Vua liền đáp: Thái tử út có khả năng kế vị. Sau khi vua cha băng, đại thần trăm liêu thảy đều nhóm họp thưa hỏi di chế, Hoàng hậu liền trả lời như lời nhà Vua lúc sắp qua đời. Bấy giờ Vương Hậu và các người anh cùng các đại thần v.v… thỉnh Thái tử út lên kế vị ngôi vua. Người con út đáp rằng: Con có thệ nguyện xuất gia học đạo mong giúp đỡ muôn loài, không thể lên nối ngôi vua. Mẫu Hậu v.v… hai ba lần nói lại di ngôn của vua cha. Thái tử út từ chối như trước, sau ba lần thỉnh bắt buộc Thái tử phải nối ngôi vua, Thái tử út không dám trái lệch. Sau khi lên ngôi vua lại suy nghĩ: Ta ở nước này không được xuất gia, dì ta làm Hoàng hậu ở nước lân cận nên đến giao gởi chắc sẽ được xuất gia. Nghĩ đoạn, Thái tử liền tìm cách trốn đến nước kia, đến biên giới , có lính canh giữ (biên giới) hỏi rằng, ông là ai? Thái Tử trả lời: Ta là vua nước Trung Thiên Trúc. Lính giữ biên giới hỏi: nếu là vua sao lại một mình đến đây? Đáp rằng: Ta vốn muốn được xuất gia học đạo, nếu trụ lâu tại nước mình sẽ không được xuất gia, Ta rất muốn xuất gia học đạo. Lính giữ biên giới liền sai sứ giả đem tin về tâu, Vương hậu nghe xong liền sai người đến đón. Thái Tử thấy Vương hậu liền quỳ xuống trình bày chí nguyện. Vương hậu nghe nói thương khóc rơi lệ, lo buồn thương cảm, một hồi lâu mới nói: Con là giòng dõi vua chúa, cháu của vua Tịnh Phạn, cháu họ của Thích-ca Như Lai. Ta nghe Đức Thích-ca bỏ ngôi vua vượt thành nhập đạo mới thành Chánh Giác, thiên hạ khó bỏ, chỉ bỏ ngôi báu. Con giống Đức Thích-ca Như Lai bỏ ngôi vua, phát thệ nguyện rộng lớn, sẽ được thành Phật, từ nay về sau đối với dân chúng, ôm bát khất thực, đạm bạc giữ gìn trai giới, thật đáng thương xót. Nhưng điều mong ước của bậc Đại trượng phu hết lòng thệ nguyện, không biết làm sao. Liền cho xuất gia, thỉnh được pháp sư cao đức trong nước, làm đệ tử xuất gia học hỏi. Thái Tử bẩm tánh thông minh, hễ nghe qua liền lãnh hội tông mầu; hỏi han so sánh biết được trăm ngàn, tuy học không nhiều năm, nhưng thông đạt tất cả. Vì thế vị Pháp sư từ chối rằng, con đã hiểu biết cả rồi không còn gì để giảng nói. Ta nghe nước kia có bậc Hiền Thánh, Đại đức, nên đến đó mà học!. Thái Tử vâng lời dạy, lạy tạ mà lui, đi đến chỗ Hiền Sư, tu học như trước, trải qua hơn năm mươi nước, đến Bắc Thiên Trúc, có một ngôi thành tên Càn-đàn-la, vua nước ấy nương nhờ Hòa-thượng thọ pháp tụng niệm. Kinh ấy văn rộng nghĩa sâu không thể tìm pháp cúng dường theo thứ lớp một cách vừa ý, nên xin Hòa thượng chỉ dạy phương pháp cúng dường. Hòa thượng nhận lời, ở bên cạnh ngôi tháp do vua Kim Túc xây dựng, cầu Thánh che chở. Pháp cúng dường này bỗng hiện ra giữa không trung, chữ vàng sáng rực. Hòa-thượng đọc qua một biến ghi chép rõ ràng, ngửa mặt lên hư không nói rằng, ai đã làm ra như thế? Đáp ta đã làm ra. Hỏi: ta là ai? Đáp ta là Văn-thù-sư-lợi, liền bảo người ghi chép ngay, rồi dâng vua kia một bản, tự chép một bản mang theo trên đường đi truyền bá khắp bốn phương. Cái gọi là Tiểu Tử, hiệu của Ngài là HòaThượng Tam Tạng Thiện Vô Úy, tức là Tiểu tăng Bất Khả Tư Nghì nhiều may mắn, trực tiếp thưa hỏi Hòa- thượng pháp yếu được nghe phần văn thì ghi chép lại phần ấy.

III. Giải thích đề mục:

Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì Kinh cúng dường thứ đệ pháp chân ngôn hành học xứ phẩm thứ nhất:

– Đại: nghĩa là không bờ mé.

– Tỳ-lô-giá-na: Tức là mặt trời; có chỗ nói là mặt trời trí tuệ.

– Thành Phật: là nghĩa chứng Chánh giác Chánh trí.

– Thần biến gia trì: Tức là thần lực che chở.

– Kinh: nghĩa là sâu suốt, khâu kết có công năng giải thích những điều này.

– Cúng dường: Tức là lý, sự cúng dường. Lý: là hiểu lý nhập chứng, đó gọi là lý cúng dường, về sự: là hết lòng gắng sức sắm sửa hương hoa cúng dường biển Phật, đó gọi là sự cúng dường.

– Thứ đệ: Là theo thứ lớp trước sau để lễ bái và lui ra.

– Pháp nghĩa là phép tắc.

– Chân ngôn: để phân biệt với luống dối.

– Hành học: Là học hiểu được và hành chân ngôn.

– Xứ: Tức là bốn thứ: 1. Như pháp giới tư tánh; 2. Giáo bản; 3. Truyền Giáo Sư; 4. Diệu sơn phụ phong v.v…

  • Phẩm: là phẩm loại.
  • Thứ nhất: Pháp nầy có năm phẩm, đây là phẩm đầu nên nói thứ nhất.

Vì thế nói là: “Đại Tỳ-lô-giá-na thành Phật thần biến gia trì kinh cúng dường thứ đệ pháp chân ngôn hành học xứ phẩm thứ nhất”.

IV. Giải thích theo văn:

Trong đây có ba phần: Phần tựa, phần Chánh tông và Lưu thông. Phẩm thứ nhất là Tựa, ba phẩm kế tiếp là Chánh thuyết, một phẩm sau cùng là Lưu thông. Trong phần Tựa, trước tiên có hai bài tụng, là lời tựa quy kính, khuyên kính “tín”, nhưng, sau phần đầu tiên là tựa tinh tấn tu hành. Trong tựa đầu có bốn môn: Hai câu giữa của bài kệ đầu: là môn kính, chủ khen đức; hai câu tiếp theo là môn nương kinh hiển bày; hai câu tiếp đến là môn thành tựu pháp được lợi ích, hai câu kế tiếp là môn khế hiệp bổn kết thúc giảng nói. Tỳ-lô-giá-na, Hán dịch là Nhật (mặt trời); Khai phu tinh nhãn: là mở ngộ lý mầu; Sở tư: là các bản tôn; Chúng nghi quỹ là các ấn chân ngôn…; Vi thành thứ đệ: là lễ bái, lui ra ; Như bỉ: là kính trọng mặt trời trí tuệ; Nay con một câu: là kết ý từ trước đến đây. Trong bài Tựa tinh cần tu hành chia làm sáu môn: 1. Trọn bài kệ đầu là thành tựu tín giải môn; 2. Nửa bài kệ là khuyên tín Tam bảo môn; 3. Hữu tình tín hiểu về sau hai mươi lăm bài kệ là khuyên thực hành Chế giới môn; . Một bài kệ nương chính trụ nầy Y chánh giới trọng cấm môn; 5. Một bài kệ diệu chân ngôn môn là giác tâm được Lợi ích môn; . Mười bài kệ, “từ muốn” trở xuống là một đời Thành phật môn.

Căn cứ vào đoạn thứ nhất:

– Nhiên sơ tự tha lợi thành tựu: là nêu lên quả đã thành tựu.

– Phương tiện Vô thượng trí nguyện: là nói về trí năng thành.

– Thành bỉ: là chỉ quả đã chứng.

– Phát khởi v.v… là nêu quả bày nhân.

Y theo đoạn thứ hai:

– Hai câu, đối với mãn tất-địa các thắng nguyện v.v… tiêu biểu chung cho hai bảo Phật bảo, Tăng bảo.

– Một bài kệ đẳng đẳng kia: là giải thích riêng.

– Chân ngôn hình: Tức là chữ chân ngôn đã trang nghiêm thân kia.

– Sở trụ chủng chủng ấn oai nghi: nói về ấn và nằm nghiêng hông phải.

– Sở hành đạo: Tức là như tự tánh pháp giới.

– Phương Quảng Thừa: là Kinh Đại Nhật.

Trên đã nói rõ tin Tam bảo xong.

Hỏi: Quy kính Tam bảo trong đây và quy kỉnh Phật bảo trong phần đầu, nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: Phần đầu là hiển bày Bồ-tát Văn-thù tự tôn kính. Trong đây thì nói phép tắc người đời sau tu hành.

Hỏi: Văn-thù có tôn kính Tam Bảo không?

Đáp: Quy kính.

Cái gọi là, ta nương kinh Đại Nhật tức là kính Pháp, không khinh thân mình là kính tăng. Như vậy có thể biết được đồng thể Tam bảo.

Y cứ vào đoạn thứ ba:

– Hữu tình tin hiểu thượng, trung, hạ: tức là chúng sanh trong sáu đường.

– Nếu đối với đấng Tối thắng v.v… là chỉ cho kinh Đại Nhật ở trước.

– Điều phục hành giả: là không phạm Tam-muội-da.

– Biệt luật nghi: Nghĩa là kinh Đại Nhật.

– Cụ duyên chúng chi phần: nghĩa là sửa chữa, xây dựng các đạo tràng.

– Nhất tâm trú: một lòng hướng về Thầy.

– Tam-muội-da: là nói bổn thệ bình đẳng v.v…

– Đạo tràng: tức là đàn tràng nhiệm mầu tròn đầy.

– Giáo bản: là kinh Tỳ-lô-giá-na.

– Đích thân đến tôn sở: là vị thầy làm quán đảnh.

– Được Tam-muội-da tốt đẹp, và người đã được truyền thọ pháp quán đảnh có được.

– Nhiếp chánh chân ngôn bình đẳng hành: nghĩa là đối với lý vốn bất sanh,trong tâm yên ổn bất động.

– Nhập chân ngôn tối thượng thừa nầy: nghĩa là người nhập vào thì hiểu.

– Tối thượng thừa: là lý tự thể mà Tỳ-lô-giá-na đã chứng.

– Mật hạnh: là hành giả thực hành chân ngôn.

– Quỹ phạm: tức là A-xà-lê…

– Các công đức rộng lớn: Quỹ phạm là biển lớn công đức. Biển lớn công đức trụ ở thân kia. Vì sao? Kinh chép: Nếu muốn thấy Phật lễ bái, hoặc muốn cúng dường Phật, lễ bái cúng dường thì người nầy không khác với Phật. Vì sao không khác? Vì năm thứ chân ngôn tâm và ấn… trang nghiêm thân ấy.

– Khế kinh: là chỉ cho kinh Tỳ-lô-giá-na.

– Không gì hơn sân: như Kinh Hoa nghiêm có nói rộng.

– Tịnh tâm Bồ-đề: tức là chân ngôn.

– Có tâm nhẫn nhục, không nhìn thấy lỗi: là điều khó nhẫn trong pháp nhẫn của thế gian.

– Chỉ có quên ân đức: cho nên khuyến khích cố gắng nhẫn.

– Sĩ: là chờ đợi.

– Cái gọi là đợi thời: Chính là khi muốn tu chân ngôn tam-muội.

– Bỗng có đàn việt thỉnh giảng nói: tức nói rằng dạy con tu tammuội, sau đó giảng thuyết, nói cho ông nghe, lúc bây giờ thì không thể.

– Pháp Thanh bạch thuần tịnh: ở trong lý thể thường có được hằng sa tánh công đức vô lậu và bố thí v.v… các độ môn.

– Do các thứ rượu: nghĩa là rượu nầy là gốc của sự buông lung, nếu uống vào thì tán loạn chánh định.

– Tăng ngã mạn: là thêm lớn vọng chấp, vọng chấp sâu dày thì tu tập thiền định càng khó.

– Nay, con v.v… là than lời sơ lược mà nghĩa sâu kín.

– Khiến rộng biết giải sanh quyết định: nghĩa là khen ngợi lợi ích học rộng.

Từ trước đến đây nói sơ lược về giới, định, tuệ đã xong.

Trong đoạn thứ tư: nương chánh trú bình đẳng giới nầy.

– Chánh trụ bình đẳng giới: là trụ tâm tánh giới, không khởi tâm giữ giới. Trước đã nói về đức, ở đây là nhân cấm phạm.

Trong đoạn thứ năm, diệu chân ngôn môn giác tâm, đẳng tương ưng ấy có hai, trước quán bổn tôn, quán bổn tôn thành thục rồi thì tự thân làm bổn tôn, tâm này không tán loạn nói là tương ưng; người trí ngộ vốn bất sanh.

Trong đoạn thứ sáu nói về pháp tức chân ngôn.

– Hai câu: người trí được thầy… là kết thúc phần trước, sanh khởi phần sau.

– Ba bài kệ rưỡi từ Diệu sơn phụ phong trở xuống: là chỉ chỗ nương của người tu tập. Trong Diệu sơn Phụ phong có bốn chỗ, mỗi chỗ đều có biểu chế.

– Diệu Sơn: là tên núi Diệu Cao.

– Phụ phong: là ngọn núi ở trong lòng ngọn núi lớn có thể ở an ổn.

– Giữa khe núi: Tức là giữa vách đá có hang ở được.

– Khám: có ba thứ: 1. Khám nhà; 2. Khám đất; 3. Khám đá. Nghĩa là giống như cái hang nhưng có an thờ tượng gọi là khám.

– Quật: là hang đá.

– Giữa hai núi: là ở những chỗ suối đá trong sạch tu hành an ổn.

– Kị: là trái ấu, hà là cây sen.

– Kinh xuyên: là thường chảy nước không cạn.

– Châu: là chỗ ở giữa nước, có thể ở được.

– Ngạn: là một bên, nghĩa là bên bờ sông, trong sạch có thể ở để tu đạo.

Một câu kế: Bây giờ có thể xa lìa chỗ không thích hợp, trong lòng rối loạn không yên tĩnh, nghĩa là bị người, vật làm cho rối loạn ồn ào.

Kế là nói chỗ cỏ cây, rừng cây:

– Phò sơ: là dáng cây cỏ tốt đẹp, chỗ rừng rậm yên lặng có thể ở để tu hành.

– Nhũ mộc: là cây dâu, cây lúa.

– Tường thảo: tức là cỏ tranh mầu vàng ở đất nầy.

– Hai câu kế : nói rõ kia có thể hay không.

Kế là nói nơi chùa, tháp:

– Luyện nhã: có ba: 1. Đạt-ma; 2. Đàn-đà-già; 3. Ma-đăng-già.

– Đạt-ma: là đạo tràng Bồ-đề.

– Đàn-đà-già: là cỏ sạch, không dơ bẩn, hôi hám.

– Ma-đăng-già: là chỗ không ồn ào náo động.

– Điều trong đây nói: là y cứ theo Ma-đăng-già.

– Một câu kế là: phân biệt rõ ràng có thể hay không, chủ yếu là việc.

– Năm dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc.

– Các cái triền: là năm cái: Tham sân, hôn trầm, thùy miên, trạo cử, và tán loạn.

– Tất-địa: là thành tựu, cũng gọi là thành Bồ-đề.

– Nói tịnh mạng: là hạnh ưa muốn biết đủ.

Tiếng Hồ là Đầu-đa, gồm có mười sáu thứ: Kinh, Luận có chỗ nói, có chỗ không nói cho nên nói mười hai; mười sáu thứ ấy là: y có bốn thứ, ăn có sáu thứ và ở có sáu chỗ.

– Y có bốn thứ: là mặc y phẩn tảo, mặc áo lông thú, mặc nạp y và chứa ba y.

– Y phẩn tảo: tức là vải bị lửa cháy vải, trâu nhai vải, chuột gặm vải liệm, người chết… những thứ vải như thế người nước ngoài ném bỏ chỗ hoang vắng hoặc ngõ hẻm, đồng với rác rưởi nên gọi là phẩn tảo, hành giả lượm lấy giặt nhuộm may sửa để cung cấp cho thân thể.

Hỏi: Vì sao chỉ thọ y nầy? Có ba phẩm: Phẩm dưới: để nuôi sống mà mua bán các thứ tà mạng mà được y phục. Phẩm giữa: là xa lìa lỗi thọ tăng y và việt thí ở trước. Phẩm trên: không thọ Tăng, việt, chỉ thọ phẩn tảo của đàn việt.

Vì sao không thọ Tăng mà thọ y nầy? Tăng pháp phải cùng Tăng sự quyết đoán lý, trừng phạt làm cho khách tăng dứt việc loạn tâm bỏ đạo.

Vì sao không thọ đàn việt? Nếu thọ đàn việt vì y mà tìm cầu nhiều thì rơi vào tà mạng, lại sẽ khiến thân sanh đắm trước khó được giải thoát, lại bị nghiêng về chỗ thân không được bèn sơ, chướng ngại sự cảm hóa, lại được nhiều sanh kiêu mạn, được ít thì trách oán. Người vô tri không hiểu ruộng phước nên cúng dường hay không cúng dường, hoặc tự xem thường hổ thẹn mà sanh lo buồn hối hận; lại thường đi thì bỏ đạo, không đi thì oán giận; lại ghen ghét người tốt, gièm chê người lương thiện, không muốn đến gặp họ; nhiều lỗi như thế, cho nên không thọ việt thí y.

Vì sao chỉ thọ phẩn tảo? Bởi vì ít việc, thêm lớn đạo nghiệp, lìa lỗi, không tội, cho nên chỉ thọ y ấy.

– Nói tàm y: là mùa ẩm thấp săn tìm hết lông nhỏ của chim, nếu người tu hành không có y phẩn tảo thì có thể dùng thứ nầy làm y.

– Nói nạp y: vải rách xấu cũ mục, chấp vá cung cấp thân thể, không mặc áo tốt. Vì sao? Nếu tìm cầu áo đẹp thì sanh phiền não đến nỗi mắc tội, hao tốn công sức, phế bỏ đạo nghiệp; lại nữa, áo đẹp làm cho người chưa đắc đạo sanh tâm tham đắm; lại ở chỗ hoang vắng có rất nhiều cướp bóc, hoặc đến nổi mất mạng.

– Nói ba y: là y năm điều, y bảy điều, và y lớn (đại y). Những bậc thượng hạnh chỉ thọ ba y nầy, không chứa cất y dư. Vì sao? Vì cư sĩ chứa để nhiều thứ y phục; ngoại đạo tu khổ hạnh lõa thể không biết hổ thẹn. Phật ở Trung đạo xa lìa hai bên, vì thế chỉ cho cất chứa ba y, lại cất nhiều y phí công phế đạo, cất ít thì không xong việc cho nên cất ba y như thế, ba y cung cấp đầy đủ cho thân làm việc. Nếu làm các việc lặt vặt, qua lại thì đắp y năm điều, làm việc lành nên đắp y bảy điều; giáo hóa nhiếp độ người đời khiến họ kính tin phải đắp đại y. Lại nữa, ở chỗ vắng thì đắp y năm điều, khi vào trong Chúng tăng đắp y bảy điều, nếu đi đến những nơi như cung vua, xóm làng thì phải đắp đại y. Lại khi nóng lạnh điều hòa đắp y năm điều, khi trời đông lạnh nên đắp thêm y bảy điều, quá lạnh khẩn cấp thì đắp thêm đại y. Nguyên nhân là vào một lúc mùa đông, đến nửa đêm trời quá lạnh, nên Như Lai trong đêm chia thời gian đầu đêm đắp y năm điều, đến nửa đêm trời chuyển lạnh đắp thêm y bảy điều, vào lúc gần sáng trời lạnh chuyển lạnh đắp thêm đại y; Đức Phật liền nghĩ: Trong đời tương lai các người thiện nam không chịu nổi các khổ hạnh của lạnh thì có thể dùng ba y nầy đủ để che thân. Vì có nhiều nghĩa như vậy, cho nên được chứa ba y.

Trong thực có sáu: Đó là 1. Khất thực, 2. Thứ lớp khất thực; 3. Bất thực hành pháp dư thực mà ăn; 4. Nhất tọa thực; 5. Nhất sủy thực, cũng gọi là Tiết lượng thực; 6. Không uống nước trái cây ép sau giờ ngọ.

– Khất thực: người tu hành có ba hạng: hạ, trung, thượng. Hạng hạ, tuy là xuất gia nhưng buông lung tự nuôi sống bằng cách tà mạng, biết nhiều phép thuật, làm các việc khéo léo tà mạng tự nuôi sống. Hạng trung: lìa bỏ lỗi trước, nhưng thọ tăng thực và đàn việt thỉnh. Hạng thượng: không thọ tăng thực và việt thỉnh thực mà chỉ đi khất thực. Vì sao không thọ Tăng và việt thỉnh? Vì lỗi đồng như trước. Vì sao mà chuyên đi khất thực? Có chỗ nói có hai: 1. Tự mình xem xét việc tu đạo; 2. Vì người khác làm phước lợi cho đời.

– Thứ lớp khất thực: Thông thường cũng thực hành khất thực, khi khất thực biểu dương sự xa lìa lỗi nghiêng lệch. Nói riêng thì người phàm ngu tham vị mà bỏ nghèo theo giàu. Người Tiểu hạnh lòng từ bi hẹp hòi bỏ giàu theo nghèo. Bậc thượng hạnh thì lìa tham bỏ hẹp hòi, có lòng từ bình đẳng đối với chúng sanh, không phân biệt sang hèn mà theo thứ lớp khất thực bình đẳng.

– Nói không thực hành pháp thực ăn dư mà ăn: Trong luật nói: Có người tuy theo thứ lớp khất thực, vật xin thường được chánh thực, pháp dư thực thường thường ăn. Người tu hành nghĩ rằng pháp dư thực nầy, Thế tôn khai ra cho người bệnh, nay ta không bị bệnh không nên thọ, vì thế không làm pháp dư thực. Thông thường thì thuộc về “nhất tọa thực”, do đó trong kinh luận phần nhiều không nói riêng. Trong luật nói riêng: nhất tọa thực kia không phải ở trước ngọ ăn các tiểu thực khác (trước bữa ăn chính còn có bữa ăn điểm tâm). Đây là y cứ xa lìa, thường dùng chánh thực, có sự khác nhau nầy, cho nên nói riêng.

– Nhất tọa thực: Có người tuy không phải thường thường ăn, nhưng trước giờ ngọ thường ăn các thứ như bánh, trái cây, cháo v.v… người hành đạo nên nghĩ rằng, người ngu nuôi thân thường thọ (thức ăn) để nuôi thân nên phiền não thêm lớn, nay ta vì đạo không phải vì nuôi thân, là phá phiền não không phải để kết thêm, cho nên chỉ thọ ăn một bữa, lại nghĩ vì cầu ăn một bữa đã là chướng đạo, huống gì cầu ăn nhiều, vì thế chỉ thọ nhất thực, lại quán xét ăn cơm của thí chủ tín tâm cúng dường, ăn một bữa còn không thể tiêu, huống gì ăn nhiều bữa, do đó chỉ thọ một bữa.

– Nhất sủy thực: Trong kinh cũng gọi là Tiết lượng thực: Chỉ thọ nhất thực thôi gọi là Nhất sủy thực; tiết kiệm ăn ít gọi là Tiết lượng thực, huống gì người trong sáng. Có người tuy thọ pháp Nhất thực, trong bữa ăn tha hồ ăn no, bụng đầy hơi trướng, ngủ nghĩ cho nhiều, nửa ngày không tiêu, ngăn tu đạo pháp, cho nên phải tiết lượng (giảm bớt). Ăn nhiều lại thêm nhiều phiền não, khó khuất phục được, vì thế phải tiết lượng. Lại nữa, hành giả vì cầu pháp thân, bỏ dần thân do ăn uống, do đó phải tiết lượng. Tiết lượng đến bao nhiêu? Hễ mình nhận ba phần, thì dành lại một phần bố thí cho chim, thú, còn lại thì mình ăn, để được chút ít lợi ích. Có chỗ nói sau giờ ngọ không uống nước trái cây, có người tuy giảm bớt lượng ăn uống nhưng còn tham vị, sau giờ ngọ uống các thứ nước như: nước trái cây, nước đường, nước đường phèn v.v… Vì cầu nhiều nước đến nỗi tà mạng uổng công phế đạo, do đó không uống, lại quán xét nạn buông lung của tâm nầy, như ngựa không ghìm dây cương, ăn cỏ hai bên không thể chạy nhanh, nếu dùng hàm sắt và dây cương thì mới có thể nhanh chóng theo ý của người mà đi, vì thế không uống.

– Chỗ ở đúng thì có sáu:

  1. Ở chỗ A-lan-nhã.
  2. Ở trũng gian (ở chỗ gò mả).
  3. Ở dưới gốc cây.
  4. Ở chỗ đất trống.
  5. Thường ngồi.
  6. Ngồi ở bất cứ chỗ nào.

– A-lan-nhã: Hán dịch là không nhàn xứ. Như Tạp Tâm chép: một cung có bốn khuỷu tay, cách thôn xóm năm trăm cung gọi là một Culô-xá, phần nửa gọi là chỗ A-lan-nhã, tính chừng ba dặm, người tu hạnh đầu-đà ở gần nhất là chừng ấy, nếu được xa càng tốt. Vì sao ở đây? Hành giả khởi niệm: Xưa ta ở nhà trói buộc với cha mẹ, bà con, nay đã xuất gia thì phải dứt bỏ, nếu trở lại thầy, trò, bạn đồng học, người tri thức kết trước, thì không khác thế tục, vì thế nên phải dứt bỏ mà ở chỗ Lan-nhã (vắng lặng), lại làng xóm thì nam nữ lẫn lộn, nhiễm đời càng nhiều, không nên ở trong đó, lại ở gần làng xóm âm thanh ồn ào chướng ngại ý tu định.

– Nói trũng gian: Trũng gian (gò mả) có nhiều thây chết, thối nát, sình lên, hôi thối, thấy hôi thối dễ nhập vào pháp quán Bất – tịnh, lại gò mả thây chết hư hoại, do thú ăn, lửa đốt, chia lìa tiêu mất, thấy thì dễ nhập vào pháp quán vô thường;, lại nữa, ở gò mả xương người chết tan tác nhiều nơi, thấy rồi dễ nhập vào quán không, vô ngã, vì thế mà ở gò mả.

– Nói dưới gốc cây: Trước ở gò mả quán sát thây chết đắc đạo rồi, cho nên bỏ gò mả mà đi đến dưới gốc cây; lại trước ở gò mả nhiếp lấy tướng thây chết, nhưng chỗ kia có nhiều người khóc lóc v.v… Các tiếng làm chướng ngại việc tu tập chỉ – quán, vì thế đến dưới gốc cây buộc niệm tư duy quán sát; lại bóng cây che mát đồng với nửa căn nhà, an thân tu đạo, do đó ở dưới gốc cây, các Phật, Thánh, Hiền đắc đạo chứng quả phần nhiều đều nương dưới gốc cây, cho nên ở dưới gốc cây.

– Ngồi chỗ đất trống: dưới bóng cây ẩm thấp ngồi lâu gây ra bệnh, vì thế đến chỗ đất trống, lại dưới cây có nhiều tiếng chim sẻ, ồn ào làm trở ngại ý tu “định”, do đó ở chỗ đất trống, lại hành giả ở lâu dưới cây sanh tâm đắm trước cây đó, hoặc lại phân biệt đây tốt kia xấu, để trừ tai hại ấy cho nên phải bỏ cây mà đến chỗ đất trống, hiển hiện ra rõ ràng nên gọi là vô ngại; lại ánh trăng ở chỗ đất trống soi chiếu tâm tưởng trong suốt, dễ nhập định, do đó ở chỗ đất trống.

– Thường ngồi: Trong bốn oai nghi, đi và đứng thì rất khổ, nằm thì quá vui, ngồi, có thể chịu được dài lâu, cho nên phải thường ngồi, lại đi, đứng tâm bị xao động khó có thể nhiếp giữ, nằm thì mê man trong sự ngủ nghỉ, ngồi tránh được mê man xao động, vì thế phải thường ngồi, lại người cầu đạo, việc lớn chưa xong, các giặc phiền não thường rình rập chờ lúc người buông lung, do vậy không nên nằm mà phải thường ngồi, lại nữa, ngồi nhiều thức ăn dễ tiêu hóa, hơi thở điều hòa, do đó phải thường ngồi.

– Ngồi ở bất cứ chỗ nào: hễ chỗ nào có cỏ được thuận tiện thì ngồi, nên gọi là ngồi bất cứ ở chỗ nào.

Theo cách chia chi tiết thì có mười sáu thứ nầy. Kinh, luận căn cứ vào sự ẩn, hiện mà phối hợp, nói có mười hai, nương vào Luật tứ phần: Y thì có hai, Ăn có bốn, Ở có sáu, hiệp lại thành mười hai.

– Y được có hai: 1. Đắp y vá; 2. Đắp ba y, ngoài ra đều không nói.

– Ăn được có bốn:

  1. Khất thực.
  2. Bất làm pháp dư thực mà ăn.
  3. Ngồi ăn trong một oai nghi.
  4. Nhất sủy thực.

Thứ lớp khất thực đã thuộc về khất thực, cái gọi là sau giờ ngọ không uống nước (trái cây) đã thuộc về Nhất tọa thực, cho nên không nói riêng.

– Ở có sáu, đồng như trên đã nói.

Theo Kinh Thập nhị: y có ba, ăn có ba, ở có sáu, hiệp lại thành mười hai.

– Y có ba:

  1. Đắp y Phấn tảo.
  2. Đắp y Bông tơ (lông thú).
  3. Đắp ba y; các thứ khác đều không nói.

– Ăn có ba: đó là Khất thực, Nhất tọa thực, Nhất sủy thực, ngoài ra không nói, thứ lớp khất thực thuộc về khất thực, bất làm pháp dư thực mà ăn và sau giờ ngọ không uống nước trái cây ép thuộc về nhất tọa thực.

– Ở có sáu chỗ, giống như trên.

Trong luận Đại trí độ nói mười hai, lại khác với trước: y có hai là:

Đắp nạp y và đắp ba y, giống nhau với Tứ phần luật, ăn có năm:

  1. Khất thực.
  2. Thứ lớp khất thực.
  3. Ngồi ăn trong một oai nghi.
  4. Tiết lượng thực.
  5. Sau giữa ngày không uống nước trái cây ép.

Không làm phép dư thực thuộc về nhất tọa thực, không có lập riêng. Trong chỗ ở có năm, trừ ngồi bất cứ chỗ nào, các thứ khác như trên. Nếu y theo như trên đã nói mà tu hành thì gọi là “Tịnh mạng nhân” (người nuôi mạng sống thanh tịnh). Hoặc, tuy là y theo như trên đã nói như thế, nhưng cầu danh lợi cũng gọi là người bất tịnh hạnh, cũng là người sống bằng tà mạng, cũng là tên giặc nguy hiểm trong Phật pháp, vì thế kinh nói: Các loài quỷ thấy người nầy thì quét sạch dấu chân của người nầy. Chính là nghĩa ấy. Nói về hạnh Tịnh mạng đã xong.

Dưới đây nói tà mạng bất tịnh hạnh. Tà mạng có bốn thứ:

  1. Phương khẩu thực.
  2. Ngưỡng khẩu thực.
  3. Di khẩu thực
  4. Hạ khẩu thực.

– Luận Thập trụ thứ hai chép: Tà mạng có năm pháp:

  1. Kiểu dị.
  2. Tự thân.
  3. Kích động.
  4. Ngưỡng dương.
  5. Nhân lợi cầu lợi.

– Kiểu dị: là có người tham cầu lợi dưỡng, nên làm ra vẻ A-luyệnnhã, hoặc mặc áo vá, hoặc thường khất thực, hoặc nhất tọa thực, hoặc thường ngồi, hoặc sau giờ ngọ không uống nước trái cây ép, thọ những hạnh đầu-đà như vậy, chỉ cần khởi niệm ấy, người tu hạnh ấy được cung kính cúng dường, ta tu hạnh ấy có lẽ cũng được như vậy. Vì lợi dưỡng cho nên thay đổi oai nghi, gọi là “kiểu dị”.

– Tự thân: có người tham lợi dưỡng đến nhà đàn việt nói rằng: Tôi cũng như cha mẹ, anh em, chị em, bà con của quý vị không khác, nếu có cần việc gì tôi sẽ giúp cho, nếu có làm gì ta sẽ làm, tôi không kể xa gần sẽ đến thăm hỏi, tôi đây chính là vì giúp cho mà thôi, vì cầu cúng dường tham đắm đàn việt, hay dùng lời nói để lấy lòng người, những việc như thế gọi là “tự thân”.

– Kích động: Có người không nghĩ đến sự mắc tội, mưu cầu tham lợi, muốn được tài vật, làm bộ khen nói: bát nầy đẹp, hoặc y đẹp, hoặc móc cửa đẹp, hoặc đồ ngồi đẹp, nếu tôi được thì sẽ thọ dụng. Lại nói, tùy ý cúng dường người nầy khó được, lại đến nhà đàn việt nói rằng: nhà ông cơm canh, bánh trái đầy đủ thơm ngon, y phục lại đẹp, thường cúng dường tôi, tôi là bà con thân cũ, chắc chắn sẽ được cho, hiện bày tướng tham như thế gọi là kích động.

– Ức dương: Có người tham lợi dưỡng cho nên nói với đàn việt rằng, ông quá keo lẫn, đối với cha, mẹ, anh, em, chị em, vợ, con, giòng họ còn không thể cho, thì cho ai được? Đàn việt hổ thẹn cố gắng gượng thí cho; lại đến nhà khác nói rằng, ông có phước đức được làm thân người không nghèo đói, bậc A-la-hán thường vào ra nhà ông, ông cùng vị ấy chuyện trò tới lui. Đàn việt nghĩ rằng, đâu còn người nào ra vào nhà ta, sẽ nói rằng “chính ta”, ấy gọi là ngưỡng dương.

– Nhân lợi cầu lợi: Có người vì tiền của vật chất sinh sống như y, hoặc bát, đại y, hoặc đồ ngồi v.v… bèn đến nói với người rằng, hoặc vua, cùng hàng với vua và các quý nhân cho tôi vật ấy, nghĩ rằng, đàn việt có thể sinh tâm là các vua, quý nhân kia, còn cúng dường, huống gì ta lại không cúng dường, người kia nhân vì lợi nầy lại xin lợi khác, do đó gọi là nhân lợi cầu lợi.

– Nếu thuận theo các Đức Phật, Bồ-tát thực hạnh. Người tu hành đem tâm bày tỏ với Phật, đem thân tâm nầy hướng về người, súc sanh, lại xoay về bức vách như mặt người, không tạo điều ác Phật vui mừng, vì thế nói thuận theo hạnh quả Phật, Bồ-tát.

– Đối vơi lời nói chân chánh thí tin hiểu vững chắc: nghĩa là chân ngôn nầy biết từ pháp giới thanh tịnh lưu xuất, dùng năng lực trí tuệ vững chắc như Kim cương không lay động để tin hiểu.

– Có năng lực trí tuệ thanh tịnh, có khả năng chịu đựng: Biết thân tâm nầy do vọng tưởng khởi, vọng tưởng dừng nghỉ như tám thứ gió giữa bầu trời, thổi qua không lay động cho nên nói năng lực trí tuệ có khả năng chịu đựng.

– Tinh tấn, không cầu các thế gian: là xả bỏ danh lợi giống như đàm dãi, tâm không nhìn lui như thây thối, thẳng cầu Thập địa như cứu lửa cháy đầu, vì thế nói tinh tấn không tìm cầu thế gian.

– Thường vui vững chắc không yếu hèn: tinh tấn mạnh mẽ như Kim cương, thuận theo mà không thua như sư tử, đó là vững chắc không yếu hèn.

– Hiện pháp tự tha được thành tựu: Thấy người được lợi như mình được, nếu thấy thân mình được lợi nhất định cho người, vì thế nói mình và người đều được thành tựu.

– Không theo các trời khác, nương vô úy: Tâm trú ở “Bổn tôn”, nghe khen ngợi các vị trời mà không lay động, chỉ thẳng tiến tu, do đó nói không theo các trời khác chỉ nương bậc Vô – úy.

– Đầy đủ những điều nầy gọi là bạn lành giúp đỡ: Tất cả điều lành thế gian xuất thế gian, phàm Thánh trông thấy đều vui mừng, cho nên nói đầy đủ những điều nầy gọi là bạn lành giúp đỡ.

 

PHẨM THỨ HAI TĂNG ÍCH THỦ HỘ THANH TỊNH HẠNH

Muốn giải thích phẩm này chia làm bốn phần:

  1. Giải thích tên gọi: tùy: theo tu tánh lý hạnh thanh tịnh, giữ giới giữ thân gọi là thủ hộ, tu ắt đắc quả gọi là tăng ích.
  2. Nguyên nhân có phẩm nầy: Phẩm trước đã nói giới thanh tịnh, phẩm nầy nói giúp đỡ người đã nói, cho nên có phẩm thứ hai nầy.
  3. Tông thú: Người tu hành nương nhờ pháp lực, lấy dụng phẩm nầy làm Tông, đem thân bất hoại trú ở tâm Phật, tự ngộ, giúp người giác ngộ, là ý thú của phẩm nầy.
  4. Nhiếp văn: phẩm nầy đại khái chia làm hai: Một bài kệ rưỡi đầu là tựa chung của phẩm, nửa bài kệ thứ hai trở xuống là giải thích riêng.

a) Hai câu đầu trong tựa chung là kết thúc trước sanh khởi sau.

– Mỗi ngày trước trụ trong niệm tuệ: Mỗi ngày: thọ pháp ngay ngày đầu tiên tu tập cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian đó ba thời không thiếu, gọi là mỗi ngày. Niệm tuệ: là nhớ nghĩ trí tuệ của thầy.

– Nương pháp ngủ nghỉ: nằm nghiêng hông bên phải, tay phải làm gối, tay trái duỗi dài đặt sát trên đùi vế, đó là đúng pháp.

– Lúc Sơ khởi: Đêm thọ pháp tức là pháp lúc gần sáng khi mặt trời xuất hiện.

– Làm chướng: tức là trôi lăn trong sanh tử, ba độc phiền não là gốc. Ngộ được ba độc phiền não vốn bất sanh, tức là trừ chướng.

– Đêm ấy: là đêm dài sanh tử trước khi thọ pháp.

– Tội do buông lung sanh ra: nghĩa là căn, trần hòa hiệp sanh ra tội lỗi.

– Ân cần: y theo pháp niệm tụng gấp như cứu lửa cháy đầu.

– Tịch căn: là ngộ “Căn” vốn không sinh khởi.

– Có tâm từ bi lợi ích: Trí tuệ phân biệt với Tiểu thừa yếu kém, nói lên tâm đại bi mạnh mẽ.

– Thệ độ: Cõi chúng sanh chưa hết, nguyện ta không dừng nghỉ.

– Đúng như pháp tắm gội: Tắm bên ngoài nhất định dùng nước thơm, nóng.

– Hoặc không tắm gội: Tắm bên trong (tâm) đạt được pháp không có thân để tắm gội.

b) Giải thích riêng:

Trong phần giải thích riêng có mười lăm chân ngôn, tức là mười lăm môn. Mỗi môn đều có kệ tụng chân ngôn.

Y cứ theo bài tụng thì:

– Chỗ trai thất vắng lặng: là ở chỗ diệu cao, phụ phong v.v… mà tạo lập đàn, tụng niệm thành tựu nhà Tất-địa.

– Rãi hoa đẹp… Hễ vật dâng cúng thì tùy theo tánh loại của chư tôn và vị mạn-đồ-la v.v… mỗi mỗi khéo phân biệt, phải khiến sắc, hương, vị, xúc thích hợp vui vẻ tâm người, đối với ba mầu trắng, vàng, đỏ thì Như Lai và những vị hầu cận (bộ loại) nên dùng mầu trắng, quyến thuộc liên hoa dùng mầu vàng, quyến thuộc Kim cương dùng màu đỏ. Lại nữa, đúng như phương hướng và vị trí của Mạn-đồ-la, đàn tròn thì dùng mầu trắng, đàn vuông dùng mầu vàng, đàn tam giác dùng mầu đỏ, các vị thế thiên dùng mầu đỏ. Bát-đầu-ma: là hoa sen hồng, xanh, vàng, trắng v.v… hoa sen mọc từ nước đều có thể dâng cúng chung các Tôn vị.

Hoa Long Thọ: Thế tôn Di-lặc thành Phật dưới gốc cây nầy. Hoa Long thọ nói thẳng là Long hoa: là hoa được ưa chuộng trong loài rồng, ở Tây phương có nhiều loại hoa ấy. Kế-tát-la Hoa, Sa-la Thọ Hoa đều có ở Thiên Trúc, ở Trung Quốc không có, chỉ khiến lòng người ưa thích, thế gian cho là điềm tốt lành, đều được cúng dường, phải mỗi khéo phân biệt, lựa chọn gom lại để xỏ thành tràng lẫn lộn trang nghiêm, hoặc nối hoặc kết, vì tâm hành giả trong sáng thuần hậu nên khiến Chư – Tôn vui mừng, che chở.

– Tùy đặt: là trước đã tạo lập nơi làm lễ (đàn tràng).

– Điển: là Kinh Đại Nhật.

Phải y vào phương hướng của Bản tôn: 1. Nói: trước là phương hướng của Bản tôn trong nhà Niệm tụng; 2. Nói: thế giới mười phương tùy theo căn cơ mà hiển bày phương; hướng như phương Đông Đức Phật Dược sư, phương Tây Đức Phật A-di-đà, núi Thanh Lương Bồ-tát VănThù v.v… cũng được.

– Nhất tâm trụ: Buộc tâm thì mắt Bổn – Tôn không tạm bỏ v.v…

– Năm luận: tức là năm chi trong thân.

– Quy mạng: chúng sanh đã trọng thân mạng như là vật rất quý báu, đem kho báu nầy dâng cúng Tam Bảo, dùng chân ngôn, ấn v.v…

– Thân, miệng, ý thanh tịnh nghiệp: xả bỏ thân mạng, trở về Tôn vị, gọi là tịnh nghiệp.

– Trong chân ngôn làm lễ phương tiện: Do đây mà làm lễ đấng chân thật ngôn. Chân ngôn: tức là trí thật tướng, chư tôn dùng trí thật tướng làm thân, tâm, dùng trí thật tướng tụng chân ngôn, liền đến khắp trí thật tướng của “Tôn vị”, trí thật tướng của Tôn vị trong một lúc đến thọ lễ chân ngôn, do đó nói liền có thể lễ khắp các Đức Phật trong mười phương.

Một, gối phải chấm đất trở xuống: là phương tiện xuất tội chân ngôn môn.

Hai, tụng chân ngôn giống như trước, trí thật tướng tự vô tội, nếu chấp có tội, trí nầy có thể giúp hiểu được không tội, vì thế nói là xuất tội.

Ba, Nam-mô thập phương tam thế Phật trở xuống, là phương tiện quy y chân ngôn môn, chân ngôn nầy ngoài trí không vọng, chỗ không vọng bên ngoài tức là chân ngôn, tự thân nếu tụng chân ngôn nầy thì ngộ tự chân, cho nên nói quy y, cũng có tụng chân ngôn. Trong tụng thì:

– Nam-mô: là độ con, cũng dịch là lễ kỉnh.

– Ba thứ thường thân: Tức là ba thân: như pháp thân v.v… ngộ sanh tử vốn bất sanh, cho nên nói là “Thường thân”.

– Chánh pháp tạng: Chánh là để phân biệt với tà.

– Pháp: là phép tắc

– Tạng: là chứa đựng công đức nhiều như cát sông Hằng.

Bốn, ta thanh tịnh thân nầy, lìa các cấu trở xuống là thí thân phương tiện chân ngôn môn, cũng có tụng chân ngôn, vì ngoài chân thân không có thân riêng, các Đức Như Lai trong ba đời cũng đồng thể, chúng sanh vọng chấp có thân riêng. Chân ngôn môn nầy có thể giúp hiểu thân, ta và thân Phật bình đẳng không khác nhau, do đó nói thí thân.

Năm, của báu thắng nguyện tâm Bồ-đề thanh tịnh trở xuống là phát tâm Bồ-đề phương tiện chân ngôn môn, có thực hành tụng trì chân ngôn lâu dài, thân ta và thân Phật đã không khác, trí Bồ-đề Phật đồng với trí ta, chân ngôn ấy giúp ngộ pháp nầy, có thể giúp hiểu biết nên nói là phát Bồ-đề.

– Tăng gia: là có thể hiển bày thêm nghĩa chân ngôn.

– Tâm Bồ đề: là tự tánh thanh tịnh tự giác.

– Tâm: là nghĩa trung thực, cho nên nói lìa tất cả v.v…

– Uẩn: là năm uẩn.- Giới: là mười tám giới

– Xứ: là mười hai xứ.

– Năng chấp: là tâm luống dố

– Sở chấp: là cảnh luống dối.

– Lìa bỏ Pháp vô ngã hữu: là lìa cảnh luống dối.

– Tự tâm bình đẳng: là không vọng tưởng; lại tự tâm: là tự tâm vọng tưởng; Bình đẳng: là tự tâm vọng tưởng vốn bất sanh, do đó nói năng chấp, sở chấp cho đến xưa nay bất sanh.

– Như đại không: là trong vầng mặt trời trí tuệ vĩ đại không phát sinh sanh, tử, ngày đêm khác nhau.

– Tự tánh: mặt trời trí tuệ tức là thân, ôm vọng không sanh khiến đồng với chân tánh, nên nói là “Như”. Tăng thêm câu nầy là người dịch khen ngợi bản “Phạn”, nếu tụng được bản Phạn là bậc nhất, nương vào văn Hán hiểu được ý đọc tụng cũng được.

– Đạo tràng: là chỗ vắng lặng.

Thứ sáu: trong vô lượng thế giới ở thập phương trở xuống là vui theo phương tiện chân ngôn môn, cũng có tụng chân ngôn, trí như thật tự không có ganh ghét, trí tự không ganh ghét khiến không có tức giận, chí thành niệm tụng chân trí nầy khiến cho trí không khác chân thật, do đó gọi là pháp phương tiện tùy hỷ.

Thứ bảy: nay con khuyến thỉnh các Như Lai trở xuống là khuyến thỉnh phương tiện Chân ngôn môn, tụng chân ngôn đồng như trước, chân trí đại bi thường lợi ích chúng sanh, lợi ích chúng sanh cho nên dần dần mưa pháp, chí thành tụng niệm chân ngôn nầy khiến thỉnh pháp tồn tại ở đời lâu dài, do đó gọi là khuyến thỉnh.

Thứ tám: nguyện khiến cho nơi phàm phu nương ở trở xuống: là thỉnh pháp thân phương tiện chân ngôn môn, tụng chân ngôn giống như trước, pháp thân thường trụ trong bổn chân, vì thường trụ khiến cho đến pháp thân, tụng chân ngôn nầy là trực tiếp phụng thỉnh, vì thế nói pháp phương tiện phụng thỉnh.

Thứ chín: tu hành tất cả các nghiệp lành trở xuống: là hồi hướng phương tiện chân ngôn môn. Tụng chân ngôn giống như trước, ngoài bản giác chân trí không lìa mất, vì không lìa mất do đó cùng hồi hướng, siêng năng, khổ nhọc tụng niệm chân ngôn môn nầy, pháp trở về chân bản gọi là hồi hướng.

Thứ mười: lại làm các việc phước khác trở xuống là nhập Phật Tam-muội-da Minh môn, là thân sanh ra pháp, trong đây có tụng ấn, chân ngôn.

– Pháp khác: Tức là ngoài niệm tụng chân ngôn.

– Khắp thanh tịnh: Bất tịnh trong ba nghiệp của mình khiến không sanh.

– Thương xót cứu giúp: Bất tịnh từ trong ba nghiệp khiến bất sanh.

– Tâm tánh: là như bản tánh của tâm tự thanh tịnh.

– Thân tùy sở ứng: mặt hướng về bản Tôn; lại ở trong ba bộ, năm bộ lấy “Tôn vị” nào là Bổn tôn của ta.

– Để ngồi yên: tức là đỉnh đầu, mũi, đùi vế đều ngay thẳng, ngồi kết già và bán già v.v…

– Tịnh trừ ba nghiệp đạo: ba nghiệp bất sanh bất tịnh tức là Đạo.

– Ấn: chân ngôn là chỗ nương dựa của thân.

Hỏi: Thân, trí vì sao nói khác?

Đáp: Thân là chỗ nương của các công đức; Trí là nghĩa chiếu sáng; nhưng, nói về Dụng thì khác mà nói về Thể thì một.

– Kinh nhập Phật Tam-muội-da trì minh chép: lúc bấy giờ, Bạcgià phạm trụ trong pháp giới rộng lớn gia trì, ngay lúc ấy, trú pháp giới thai tạng Tam-muội.

– Xuất định nầy nói nhập Phật Tam-muội-da trì minh: Tiếng Phạn Tỳ-phú-la, là nghĩa rộng lớn, nghĩa là sâu rộng không bờ mé, không thể suy lường, tự thể các pháp như thế gọi là Tỳ-phú-la pháp giới, đem pháp giới nầy thay nhau gia trì, nên gọi là pháp giới gia trì. Lại nữa, như nhân duyên nam nữ giao hội, hạt giống gá vào thai tạng mà không hư hoại tức là nghĩa gia trì lẫn nhau, các Đức Phật cũng giống như thế, quốc vương Minh Phi làm phu nhân, hòa hiệp cùng sanh chủng tử Tỳphú-la, làm chỗ giữ gìn thai tạng đại bi không bị hư hoại, do đó gọi là pháp giới gia trì, Thế Tôn gia trì khắp tất cả chúng sanh, đều làm hạt giống bình đẳng xong, tức thời nhập vào Biến pháp giới thai tạng Tammuội. Quán mỗi hạt giống nầy, đều là Tỳ-lô-giá-na trên đài hoa sen, quyến thuộc Phổ môn trang nghiêm vô tận cũng cùng đại bi mạn-đồ-la bình đẳng không có khác nhau, nhưng các chúng sanh chưa thể tự chứng biết, cho nên gọi là Thánh thai Câu-xá, nếu khi ra khỏi tạng tức là giải thoát của Như Lai. Như Lai quán sát rõ ràng như thế rồi, liền xuất định nói “Tam-muội da trì minh”.

– Tam-muội-da: là nghĩa bình đẳng, là nghĩa bản thệ, là nghĩa trừ chướng, là nghĩa cảnh giác.

– Nói bình đẳng: nghĩa là khi Như Lai hiện chứng Tam-muội nầy, thấy các thứ thân, ngữ, ý của tất cả chúng sanh, thảy đều cùng giống với Như Lai. Thiền định, trí tuệ và thân thật tướng cũng rốt ráo bình đẳng, khi mới phát tâm và khi Thập địa Ba-la-mật đầy đủ cũng rốt ráo ngang nhau, vì thế phát ra lời thành thật để chỉ dạy chúng sanh, như lời ta đã nói nhất định không luống đối, cũng là khi tất cả chúng sanh phát lời thành thật nầy, cũng trông mong Tam mật gia trì, vô tận trang nghiêm bình đẳng với Như Lai, do nhân duyên ấy cho nên có thể làm sự nghiệp Kim cương (bền chắc), vì thế gọi là Tam-muội-da.

– Nói Bổn thệ: khi Như Lai hiện chứng Tam-muội-da nầy, thấy tất cả chúng sanh đều có nghĩa thành Phật, cho nên liền lập thệ nguyện rộng lớn, nay ta phải y theo Phổ môn, dùng vô lượng phương tiện, giúp tất cả chúng sanh đều đến “Vô thượng Bồ-đề”, khi nào chúng sanh các cõi chưa hết thì sự nghiệp của ta không bao giờ dừng nghỉ, nếu có chúng sanh theo bổn nguyện ta khi phát ra lời thành thật như vậy, cũng giúp sự nghiệp của kia đã làm thảy đều thành Kim cương tánh, cho nên nói là Tam-muội-da.

– Nói trừ chướng: Như Lai thấy tất cả chúng sanh đều có pháp giới Như Lai, chỉ vì một niệm vô minh, thường ở trước mắt mà không thấy biết, do đó phát lời thành thật, nay ta phải đặt ra các thứ phương tiện, khéo vì tất cả chúng sanh vẹt tan màng mắt. Nếu thệ nguyện của ta chắc chắn thành tựu thì khiến chúng sanh tu theo phương tiện của ta. Lúc nói lời thành thật nầy, chúng sanh chỉ trong một đời được đôi mắt sáng suốt, “chướng”, “cái” đều hết sạch, do đó gọi là Tam-muội-da.

– Nói nghĩa cảnh giác: Như Lai vì tất cả chúng sanh đều ngủ trong vô minh, đối với công đức như thế không tự giác biết, cho nên dùng lời thành thật để cảm động giúp họ tỉnh ngộ, cũng dùng lời thành thật nầy cảnh giác các hàng Bồ-tát v.v… khiến khởi sâu hang thiền định, học Sư tử nhiều lần co duỗi, nếu có hành giã chân ngôn nói Tam-muội-da nầy thì các Đức Phật chúng ta cũng sẽ ghi nhớ bản thệ, không được trái vượt, giống như quốc vương tự chế pháp rồi, trở lại tự mình tôn kính làm theo, do đó gọi là Tam-muội-da.

– Trì minh: Tiếng Phạn là Đà-la-ni. Minh nghĩa là tổng trì tất cả hạnh Minh môn, cho đến hết Tam-muội-da nầy thệ nguyện đến nay không bao giờ rơi mất, vì thế gọi là “Nhập Phật Tam-muội-da trì minh”.

– Câu đầu là quy mạng tất cả các Đức Phật, như trên đã giải thích.

– Câu kế tiếp là nói Vô đẳng

– Câu tiếp theo nói Tam đẳng

– Câu tiếp theo sau nói: Tức là Vô đẳng, tam bình đẳng, Tammuội-da. Lại nữa, “A” là nghĩa các pháp vốn bất sanh, tức là thể tánh pháp giới. “Bà” là nghĩa chắc thật. “Mê” là nghĩa Tam-muội. “Ma” là nghĩa tự chứng đại không cũng là ngã. Khi Đức Thế tôn chứng Tammuội nầy, quán sát kỹ mạn-đồ-la Phổ môn trong tâm mỗi chúng sanh, đều bình đẳng như ta, cho nên càng không đối đãi, không thể ví dụ gọi là “Vô đẳng”. Tam đẳng là ba đời bình đẳng, ba nhân bình đẳng, ba nghiệp đạo bình đẳng, ba thừa bình đẳng, tức là chuyển giải thích câu trước, vì thế ý là “vô đẳng”. Đán-lý nghĩa là tâm như thật tướng tất cả bụi trần xưa nay bất sanh, các Đức Như Lai trong ba đời dùng các phương tiện thảy đều vì một việc nhân duyên lớn nầy, tức là nghĩa trừ chướng.

– Kết thúc nói Tam-muội-da: tức là Như Lai nhất định giảng nói nghĩa các pháp bình đẳng, cho nên lập thệ nguyện rộng lớn, sẽ giúp cho tất cả được như ta (Như Lai), vì thế muốn khắp vì chúng sanh mở bày tri kiến Phật, cho nên dùng Tam-muội nầy để cảnh tỉnh chúng sanh và các Đức Phật, do đó Tam-muội-da nầy gọi là thệ, giới bền chắc của tất cả Như Lai.

– Nếu trước không niệm trì: thì không được làm tất cả pháp sự chân ngôn. Thế tôn dùng bánh xe thân, ngữ, tâm trùm khắp tất cả cõi Phật để nói Tam-muội-da nầy rồi, tất cả các chúng Phật tử thảy đều nghe, đã nghe như thế rồi, đối với tất cả pháp chân ngôn không dám trái vượt; vì sao? Vì nếu Bồ-tát đối với các pháp chúng sanh có các kiến chấp không bình đẳng thì vượt pháp Tam-muội-da. Nếu đối với thệ bình đẳng nầy mà có các tâm giới hạn, cũng vượt pháp Tam-muội-da, có làm việc gì đều thuận theo danh lợi thế gian, không vì việc nhân duyên lớn, cũng vượt pháp Tam-muội-da, buông lung biếng nhác không cảnh ngộ tâm cũng vượt pháp tam-muội-da. Do vượt pháp Tam-muội-da, nên sanh ra các thứ chướng, mình và người đều tổn hại, không có nghĩa lợi, vì thế các hàng Bồ-tát vâng giữ Tam-muội-da nầy, như giữ thân mạng không dám trái vượt.

– Làm thanh tịnh Như Lai địa: là niệm tụng chân ngôn và bắt ấn liền dứt trừ được phiền não chướng và sở tri chướng.

– Địa Ba-la-mật mãn: là dứt sạch các chướng, đều vì xuất hiện công đức Phật địa.

– Thành tam pháp đạo giới: Tức là Ấn, chân ngôn và Ý mật. Giới đạo: Tức là quả. Hiệp lại mà nói thì thành quả của ba pháp.

Thứ mười một: kết pháp giới sanh trở xuống: là pháp giới sanh chân ngôn môn: là nuôi dưỡng pháp thân, trong đây có bài, tụng ấn chân ngôn.

Kinh chép: Bạc-già-phạm lại nói pháp giới sanh chân ngôn: là trước khi Thế tôn nhập pháp giới thai tạng Tam-muội thì thấy tất cả

00 chúng sanh đều có hạt giống Bồ-đề như các Đức Phật, vì thế nói “Nhập Phật Tam-muội-da trì minh”. Nhờ “trì minh” nầy mà được nhập cảnh giới Phật bình đẳng, tức là gá vào Thánh-thai-tạng. Bấy giờ, Thế tôn lại dùng mắt quán kỹ, thấy tất cả chúng sanh đều đầy đủ Thánh thai sanh trong nhà Phật, lúc ấy vô tận trang nghiêm cũng lại bình đẳng với các Như Lai, xuất định nầy rồi liền nói pháp giới sanh chân ngôn, lại dùng phổ nhãn quán kỹ, thấy mỗi chúng sanh nầy thành tựu đầy đủ sự nghiệp Kim cương, bấy giờ vô tận trang nghiêm cũng lại bình đẳng với Như Lai, xuất định nầy rồi liền nói: “kim cương tát-đỏa chân ngôn”, vì thế ba thứ nầy đều gọi là Tam-muội-da. Lại nữa, do nhập Phật Tammuội-da ở trong Thai tạng không bị thất bại nửa chừng, do pháp giới sanh nên khi vừa ra khỏi thai tạng thì lìa các chướng ngại, nhờ Kim cương tát-đỏa nên đầy đủ các tài năng, giữ gìn gia nghiệp. Lại lấy nhập Phật Tam-muội-da để gia trì Thai tạng Bí mật, dùng Pháp giới sanh gia trì Bồ-tát, Kim cương; hai lớp quyến thuộc lấy Kim cương tát-đỏa gia trì các thứ hình thể tùy theo loài. Nhập Phật Tam-muội-da như Hoa sen tạng, pháp giới sanh như hoa sen nở, Kim cương tát-đỏa như hoa sen chân thật, thành tựu sau trở lại làm hạt giống; vì thế ba thứ nầy gọi là

Tam-muội-da.

– Đạt-ma-đà-đổ: là nghĩa pháp giới.

– Tát-phạ-bà-phạ: là tự tánh, cũng gọi là tánh căn bản.

– Cú ngân: là nghĩa ngã.

– Nghĩa câu kia nói ngã tức tự tánh pháp giới, vì chắc chắn do Như Lai giảng nói, ta và tất cả chúng sanh đều là tự tánh pháp giới, là nghĩa bình đẳng, ta thường thiết lập các thứ phương tiện, khiến cho tất cả chúng sanh thảy đều chứng biết, nghĩa bản thệ nầy, do biết ngã tức là tự tánh pháp giới nên có thể dứt trừ tất cả sự phân biệt, khai mở sự hiểu biết đúng đắn. Đó là nghĩa trừ chướng. Các Đức Phật chỉ nguyện nhớ giữ bản nguyện, cho nên khiến thân ta đây liền đồng với tự tánh pháp giới Tỳ-lô-giá-na, ấy là nghĩa cảnh ngộ. Phải dùng chữ Môn giải thích rộng.

– Như tự tánh pháp giới: là để hiển bày thể sở – quán, nghĩa là trí thể mặt trời to lớn.

– Mà quán tự thân mình: là hiển bày trí năng quán của hành giả. Hoặc lấy hai câu chân thật trở xuống, chẳng phải chỉ có ý nghiệp mà cũng dùng miệng tụng chân ngôn.

– Tam chuyển: là ba lần.

– Bốn câu: Phải thấy trú pháp thể trở xuống là nói sự lợi ích hành giả đã được.

Thứ mười hai: Vì khiến cho họ vững bên trở xuống là Kim cương tát-đỏa chân ngôn môn, là thân của pháp vững chắc, lại có ấn chân ngôn và tụng.

– Khiến cho kia vững chắc: là khiến nương vào pháp giới sanh, người tu hành giữ vững thân tâm mình.

– Quán tự Kim cương thân: Đồng với thân Kim cương tát-đỏa.

– Hai hàng kệ kết ấn Kim cương trí trở xuống là nói đã bắt ấn.

– Hai câu, người nầy sẽ không bao lâu v.v… là hiện ra sự lợi ích của bắt ấn.

– Hai câu chân ngôn ấn v.v… là hiện bày tướng mà đấng cứu thế đã thấy.

– Hai câu, thường như bánh xe báu xoay chuyển v.v… đối với sở kiến của đấng cứu đời nêu việc bánh xe báu sự huống gì bánh xe báu pháp.

– Câu đầu trong Kim cương tát-đỏa chân ngôn môn là nói Kim cương tát-đỏa chân ngôn, cho nên quy mạng tất cả Kim cương đều tức là từ vô lượng môn giữ gìn trí Kim cương Như Lai, đều khiến ghi nhớ hộ trì.

– Câu tiếp theo nói: “Phạt Chiết La đát ma cú ngân” nghĩa là thân ta tức là đồng với Kim cương, chính là tự tánh pháp giới, do thành tựu năng lực bền vững lớn không thể hư hoại, môn khác nói là Kim cang. Như Lai dùng mắt quán thấy trí thể Kim cương của tất cả chúng sanh không khác với Ngài, là nghĩa bình đẳng, vì chúng sanh không tự hiểu biết nên từ vô lượng trí môn Kim cương làm thành các thứ sự nghiệp Kim cương, cần phá diệt chướng lớn như thế, khiến đến “mé thật”, đó là nghĩa bản thệ. Mé thật như thế gọi là “Vô cấu nhãn Kim cương”, tức là nghĩa trừ chướng. Do tiếng Sư tử hống nầy rung chuyển đến cõi Phật mười phương tức là nghĩa cảnh giác; vì thế gọi là tam-muội-da. Lại nữa, hành giả Chân ngôn, vừa mới theo tam-muội-da thì được thân giống như thân, miệng, ý Bí mật của Như Lai, thứ hai theo Tam-muội-da thì được thân giống như Như Lai gia trì pháp giới lớn tôn trọng đặc biệt, theo Tam-muội-da thứ ba nên khiến sanh thân nầy đều thành Kim cương, cùng vô lượng chúng trì Kim cương mà tự vây chúng quanh quyến thuộc. Phật nói Tam-muội-da thứ nhất là tự thọ dụng. Thứ hai, Tam muội da là thành tựu các Bồ-tát thân pháp tánh. Thứ ba Tam-muội-da là chiết phục nhiếp thọ chúng sanh tuỳ loài. Đức Phật nói Tam-muội-da ban đầu là kiến lập Thai tạng đại bi mạn-đồ-la. Tam-muội-da thứ hai là làm sự nghiệp A-xà-lê Tỳ-lô-giá-na. Tam-muội-da thứ ba là sự nghiệp đệ tử giữ gìn Kim cương. Tam-muội-da thứ nhất là gia trì quyến thuộc Như Lai, Tam-muội-da thứ hai là gia trì quyến thuộc Liên Hoa, Tammuội-da thứ ba là gia trì quyến thuộc Kim cương, vì thế Đức Phật dạy ba Tam-muội-da.

– Tức Chấp Kim cương nầy là Kim cương Tát-đỏa.

Chớ sanh tâm nghi hoặc: là hành giả siêng tu khiến tâm tín yên định.

Thứ mười ba: “Kế là dùng chân ngôn ấn” trở xuống là Kim cương giáp trụ chân ngôn môn. Cũng có tụng chân ngôn ấn. – Hai bài kệ đầu: là hiển bày chung đức của ấn.

– Nửa bài kệ đầu: tướng mật ấn trong đây trở xuống là chính hiển bày tướng của ấn.

– Hai câu tiếp theo kết thúc trước sanh khởi sau.

– Vô cấu: là chữ lãm.

– Kế là nói chân ngôn Kim cương khải: là trang nghiêm thân Kim cương tát-đỏa. Người tu hành đã phát thệ nguyện Kim cương, vì muốn tất cả chúng sanh trừ diệt các chướng, nên tinh tấn mạnh mẽ, được áo giáp mũ trụ Kim cương. Hơn nữa, sáu Ba-la-mật, mỗi ba-la-mật như thật tướng, đều như Kim cương không thể phá hoại, lại trong mỗi “Độ” đều có năm độ, cho nên cùng thể nhỏ nhặt khít khao không có kẽ hở, như: sáu độ, ba mươi bảy phẩm, mười tám Không, một tăm lẻ tám Tammuội, năm trăm Đà-la-ni v.v… đều phải nói “Độ”, vì mặc áo giáp Kim cương như thế, xoay vần sáu đường, ra vào sanh tử, tất cả các khổ phiền não không thể làm tổn hoại.

– Nếu nói theo cạn lược thì do hành giả dùng chân ngôn nầy tự gia trì, nên tất cả các vị trời rồng… đồng thấy thân Kim cương Tát-đỏa khắp thân đều mặc giáp, mũ, trụ Kim cương không giao tiếp ánh sáng như lửa dữ. Cho nên tất cả làm chướng ngại đều không tổn hại.

– Phạt-chiết-la: là tên áo giáp Kim cương ca-phạ-già. Như Lai dùng mắt Kim cương quán khắp chúng sanh đều mặc giáp trụ Kim cương nầy, cho nên dùng lời thành thật mà giảng nói, trước hết lấy chữ “phạ” làm thể chân ngôn, phạ là nghĩa các pháp lìa ngôn thuyết, nếu là nói năng hí luận chỗ hành xứ thì đều có thể phá, có thể chuyển, không có bền vững, cho nên dùng chữ phạ đều chuyển để giải thích. Vì sao các pháp lìa ngôn thuyết? Vì sanh không thật có. Tại sao sanh không thật có? Vì tự tánh thanh tịnh, tự tánh thanh tịnh tức là thân Kim cương Tát-đỏa.

– Tiếp theo nói về nghĩa giáp: Nếu pháp là tạo tác mà thành, phải biết chỉ có giả danh, thay đổi theo duyên, tánh kia còn không tự bền vững, huống gì có thể che giữ tên sắc sáu trần. Nay quán Kim cương thể vô tận trang nghiêm nầy thảy đều lìa các tạo tác, vì thế vững bền không hư hoại, “bách – phi” đã không xâm phạm, cho nên nói là Kim cương giáp trụ (áo giáp, mũ trụ Kim cương).

Cuối cùng chữ “Hồng” tức là tiếng không lo sợ, cũng là nghĩa năng lực tự tại, cũng là nghĩa vui mừng. Do định tuệ đầy đủ, khi chứng môn chữ “Hồng” nầy tự biết nhất định phá hoại được các chướng, che chở khắp chúng sanh; do đó rất vui mừng.

Thứ mười bốn: “Chữ la mầu trắng tinh” trở xuống là Lãm tự chân ngôn môn. Cũng có tụng chân ngôn, một bài kệ đầu là nói chỗ đặt để. Một câu đầu trong bài kệ nầy là chỉ cho chữ: thể, sắc, tướng, rõ ràng sáng sạch.

– Một câu kế tiếp: là nói cách dùng chữ “trang”.

– Như kia: là Kim cương.

– Một câu tiếp theo, nói lên chỗ chữ Lãm mà người trì tụng đặt bày.

– Một bài kệ từ “dù trong trăm kiếp” trở xuống là hiện bày sự lợi ích đã được của người trì tụng.

– La: là vật dơ.

– Ở trên dấu chấm là nghĩa hư không: nghĩa là lìa cấu đồng với hư không (bầu trời). Đó là nghĩa pháp giới tâm, cũng gọi là chỗ Vô cấu tự, chân ngôn đồng pháp giới, tức là nói ở ngoài chân pháp giới thì chân ngôn kia không từ đâu đến, cho nên dưới đây nói Vô lượng tội tiêu trừ, nghĩa là hiển bày đức dụng của chân ngôn.

– Hai câu “không bao lâu” là nói địa vị trí người trì chân ngôn đã đạt được.

– Hai câu “tất cả chỗ dơ bẩn v.v…” là nói người trì tụng khi ra vào nơi nhơ bẩn phải dùng pháp để nghiêm thân.

– Hai câu “mầu đỏ” là tướng ánh sáng vây quanh chữ Lãm. Chữ “lãm” là sử dụng chữ Phạn, theo phẩm Cúng dường Nghi thức chép: lúc bấy giờ quán chữ “Lãm”, đầy đủ các điểm trang sức, nghĩa là ánh sáng trong sáng chói lọi như ánh sáng mặt trời buổi sáng. Phẩm Trì tụng pháp tắc chép: Chữ “Lãm” là ánh sáng mặt trời mới mọc, màu đỏ ở ba góc, gia trì “bản tâm vị”, ấy gọi là ánh sáng trí tuệ. Phẩm Nhập mạn-đồ-la Cụ duyên chân ngôn chép: Đều đội chữ Vô Cấu, trang nghiêm dùng chấm đại không xoay quanh bày ra ánh sáng chói lọi, tự môn sanh ánh sáng trắng, lưu xuất ra như mặt trăng tròn. Lời sớ nói: Lại quán trên đảnh

kia có một chữ “lãm”, trên chữ có dấu chấm, cho nên nói trang nghiêm dùng chấm đại không, đây là chữ “lãm”. Khắp bốn bên có ánh sáng, giống như tràng hoa liền nhau không đứt quãng, trong chữ lại khắp lưu xuất ra ánh sáng trắng, như ánh mặt trăng tròn sáng, đem tịnh pháp giới tâm nầy để gia trì có công năng trừ được các chướng trong ngoài, nói là nghĩa thấm nhuần lợi ích. Phẩm Tất-địa xuất hiện chép: Thứ nhất nhiếp trừ tướng đặt chấm đại không, chữ “La” chân thắng chân thật, Phật dạy trên hết trong lửa; thứ hai nói chữ la trừ chướng mạn-đồ-la, là pháp chân thật bậc nhất trong sự trừ chướng, chữ “la” nầy là thiêu đốt trong lửa cháy, trong lửa cháy đỏ hết sạch không còn; do có thể đốt sạch các thứ phiền não, nghiệp khổ; cho đến hiện nay gây ra năm tội- Vô – gián, nếu tu tựu môn nầy cũng có thể trừ sạch không có dư thừa, đã trừ tội rồi thì sanh các công đức lành.

Thứ mười lăm: “Kế là hàng phục ma” trở xuống là vô kham nhẫn đại hộ minh môn. Cũng có tụng chân ngôn, trong đây hàng phục ma có bốn thứ: phiền não ma, ấm ma, thiên ma và tử ma.

– Không thể chịu đựng nổi: Ma quỷ… thấy người trì tụng chân ngôn nầy, mở mắt muốn thấy thì không thể thấy, cho nên nói “Vô kham nhẫn minh”. Khi pháp sự Mạn-đồ-la đã cần chi phần môn chân ngôn. Lúc bấy giờ, Tỳ-lô-giá-na lại quán tất cả hội chúng bảo với Chấp Kim cương, bí mật chủ v.v… trở xuống là nói khi pháp sự Mạn-đồ-la đã cần chi phần chân ngôn, A-xà-lê phải hiểu rõ cho nên nói sau, đem hiển bày tạng mật ngữ của Như Lai, cho nên quán khắp đại chúng mà gia trì, như sanh thân Đức Phật, khi sắp phát lời thành thật thì hoặc hiện ra tướng lưỡi rộng trùm khắp mặt mà bảo với người đáng độ rằng, trong kinh sách ông có thấy người nào có tướng như thế mà phát ra lời luống dối không? Như trong Đại thừa thị hiện tướng lưỡi trùm khắp Tam thiên thế giới. Nay, Thế Tôn sắp nói lời bình đẳng của Như Lai, đem lời nầy lần lượt rộng ngang cùng khắp tất cả pháp giới.

Nói rằng tướng ngữ luân dài rộng, tướng nầy bản chữ Phạn chính là nói Mạn-đồ-la. Trước đã mở bày khắp môn thân Mạn-đồ-la, nay lại hiển bày khắp môn ngữ Mạn-đồ-la. Như hạt châu như ý vắng lặng vô tâm, cũng không có tướng định, mà có thể ứng khắp tất cả đều xứng đẹp tâm người, nên gọi là sắp đẹp Ma-ni, từ sắc đẹp Ma-ni thân phát xuất ra sắc đẹp ma-ni ngữ, bày ra sắc đẹp Ma-ni tâm, mưa khắp pháp tài, chúng sanh khắp pháp giới có nhiều thứ mong muốn, dấu vết ứng vật như thế thường trùm khắp mười phương ba đời, dùng vô lượng môn trồng các gốc “đức” không khi nào cùng tận, trú trong hạnh không thể tổn hại, tức là nghĩa đối với tất cả sự nghiệp đều không thể gây cản trở, không thể phá hoại, vì thế nói ba đời không thể sánh với năng lực một câu chân ngôn; đây là nói chung các chỗ đã phát sinh ra chân ngôn. Đến văn dưới sẽ nói đại lực, đại hộ v.v… Tức là dụng xứng cơ từ Như ý châu luân của Như Lai phát ra. Lúc bấy giờ, tất cả đại chúng tự biết, tâm khí hoàn toàn trong sạch, lại nhờ năng lực gia trì không thể suy nghĩ bàn luận của Như Lai cho nên lãnh thọ được pháp lớn, bấy giờ, dùng Vô lượng môn mỗi vị đều đồng thanh thỉnh Đức Phật rằng, Thế Tôn! Bây giờ chính là đúng thời, bậc Thiện-Thệ! bây giờ chính đã đúng thời. Theo bản chữ Phạn thì lúc trước gọi là Ca-la, đó là lúc thích hợp nhất, như một năm có ba phần bằng nhau, thời sau gọi là tam-ma-da, đó là thời nhỏ trong các thời. Như trong ngày đêm sáu thời, lại canh có ít phần v.v… Như có người nói: Bây giờ chính là lúc làm việc, gặp được ân mưa móc, đến thời thích hợp để gieo trồng, chớ để mất cơ hội ấy, cho nên nói lại. Bấy giờ, Thế Tôn đã thọ thỉnh rồi, sắp nói đại lực đại hộ minh- phi, trụ trong mãn tất cả nguyện xuất ra tướng lưỡi dài rộng trùm hết tất cả cõi Phật, cờ pháp thanh tịnh, cao phong quán tam – muội. Trong đây nói xuất: Bản Phạn phiên dịch đúng nên nói là phát sanh, bản dịch xưa nói, hoặc mạnh mẽ, phát ra tướng lưỡi dài rộng nầy, tức là Như Lai mạnh mẽ thị hiện năng lực đại thần thông, cho nên hội ý mà nói. Tam muội nầy đối với tướng lưỡi dài rộng trùm khắp tất cả cõi Phật của Như Lai ma-ni phổ môn, là trên hết trong các đại dụng giống như cờ của vị đại tướng, cho nên nói cờ pháp thanh tịnh. Tiếng phạm nói là Đà-phạ-nhạ, Hán dịch là “tràng”. Tiếng Phạn Kế- đô, Hán dịch là “Kỳ”, hơi khác với tướng kia, tràng chỉ dùng các thứ tơ năm mầu xen lẫn để trang nghiêm cột cờ, đại khái giống như kế – đô nhưng lại thêm tua cờ mật hiệu, như nhà binh vẽ làm hình các loài như: rùa, rồng, chim thú v.v… để làm chừng mực trong ba quân, có một nhà cũng dịch là “Tràng”, cho nên hiệp lại để nói. Nếu hiện nay bản Phạn đầy đủ thì nên nói ”Thanh thịnh pháp tràng kỳ: như vị đại tướng trên núi cao xây dựng cột cờ, thấy đủ hình dáng núi, sông nơi nương dựa ẩn núp của kẻ địch, chỉ huy chúng trăm, muôn, động dừng như nhau, lìa hiệp do tâm, dùng chiến ắt thắng, dùng công ắt thủ, nếu tướng vụng về đối với sự thế lại mất cột cờ, thì mỗi người tâm thua trận lạ lùng không trở được gót chân. Tâm Bồ-đề thanh tịnh nầy làm cột cờ muôn hạnh cũng giống như thế, trú ở trên núi trung đạo đệ nhất nghĩa đế, yên định vững chắc không lay động, thực hành tam-muội, quán khắp mười phương, đều thấy vô lượng độ môn, chủng tánh hơn kém, chỗ đã ứng dụng và nhân duyên chướng đạo thông suốt, bít lấp ở các “địa”, cho nên có thể nhiếp trì vô lượng công đức, khắp hộ vô lượng chúng sanh. Hễ có làm gì thì không thể làm trở hoại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghĩ rằng ta từ khi mới phát ý đến nay thường dùng tâm Bồ-đề mạnh mẽ nầy hộ trì chánh pháp và các chúng sanh, trong các nạn xứ thực hành việc khổ hạnh, giống như Kim cương không có lui sụt, chính vì thành tựu tam-muội như thế nên che chở khắp các cõi Phật ở mười phương. Nay chỗ nguyện của ta đều đã đầy đủ hoàn toàn, làm việc đáng làm, nay chính là đúng lúc. Nói câu trì minh pháp nầy, như ta đã nói thành thất không luống dối, kia có tụng trì tu tập, khiến thế lực của kia không khác với ta, vì thế gọi là đại lực đại hộ. A-xà-lê nói: Minh là nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt. Phi, tiếng Phạn là “La-thệ”, tức là chữ vương làm giọng nữ mà gọi, vì thế nghĩa truyền độ nói là phi. Phi là nghĩa Tam-muội, đó là đại bi Thai tạng Tam-muội. Tam-muội nầy là mẹ của tất cả Phật tử; Phật tử nầy chính là “thanh tịnh pháp tràng Bồ-đề tâm”. Như Thai tạng kia, bắt đầu từ khi Ca-la-la chứa đựng giữ gìn, khiến không bị các duyên làm thương tổn, dần dần lớn lên, cho đến sau khi sinh ra còn hết sức giữ gìn nuôi dưỡng hơn nữa, vì thế nói ân mẹ rất sâu khó báo đáp được.

Từ tam-muội nầy: khi nhập, trú, xuất đều là pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận, không phải như Thiền định thế gian có động, tịnh ngại nhau, có khi lui sụt xen kẽ.

– Câu đầu là quy mạng tất cả các Như Lai.

– Câu thứ hai là có công năng dứt trừ tất cả các chướng sợ hãi v.v…

Đó là khen ngợi đức đại lực đại hộ của tất cả Như Lai.

– Lại câu tiếp theo là khen ngợi vô lượng độ môn.

Tỳ-thấp-phược, cũng là nghĩa khéo đó là vô lượng xảo độ môn, tức là nghiệp dụng Phổ môn, Tam-muội Pháp tràng cao phong quán, nay muốn nói Minh phi nầy, cho nên trước quy kỉnh công đức tất cả Như Lai như thế.

Tiếp theo nói: “Tát – bà – tha”, là chỉ chung công đức của chư Phật như thế, muốn khiến cho đồng nhập một tự môn.

Kế tiếp có hai chữ “hàm khiếm”, chính là thể chân ngôn, cũng gọi là hạt giống.

Các câu ở dưới đều giải thích hai tự môn.

Chữ “ha” là nghĩa “nhân”, có chỗ nói nhân Đại thừa: tức là tâm Bồ-đề, vì tất cả “nhân” vốn bất sanh, cho đến xa lìa nhân duyên gọi là Tâm Bồ-đề thanh tịnh. Tâm Bồ-đề thanh tịnh là hạt giống để thành Phật, là nhân chân thật của ngọn cờ chánh pháp, cho nên chuyển thanh là “Hàm”. “Khư” là đại không, ở trên thêm dấu chấm chuyển thanh là “khiếm”, tức là chứng đại không nầy gọi là Bát-nhã Phật mẫu, chính là nghĩa “Minh- phi”. Ở trong hư không tạng nầy nuôi dưỡng chính nhân chủng tử, tức là nghĩa “Đại hội”). Lại nữa, môn chữ “khư” giống như hư không rốt ráo thanh tịnh không chỗ nào không có, tức là cảnh giới mà cao phong quán biết được. Chữ “Ha” là cờ Bồ đề cũng là năng lực tự tại, vì hai chữ nầy tương ưng, giống như vị đại tướng có khả năng phá tan oán địch. Lại tự môn Ha là tâm Bồ-đề quý báu, cùng tự môn “khư” hư không tạng hòa hiệp nên được thành Ma-ni có sắc đẹp, có thể đầy đủ tất cả ước nguyện. Nay trong chân ngôn nầy thiếu chữ “Khiếm” nầy, văn dưới có đầy đủ.

– Câu kế là La-khất-sái, tức là nghĩa ủng hộ; như người bị ách nạn sợ hãi, nếu cậy nhờ người có sức mạnh, hoặc được thành cao, ao sâu bền chắc thì an vui không lo sợ, các kẻ thù kia dù dùng các thứ phương tiện nào cũng không sánh bằng. Người tu hành cũng giống như vậy, nương nhờ vào tâm Bồ-đề vương, dùng Bát-nhã Thai tạng làm thành quách, giống như hư không không thể phá hoại, tức là chuyển thích nghĩa trước.

– Câu kế là, “Ma-ha-mạt-lệ”, Hán dịch là “đại lực”. Chữ “ha” chỉ cho tâm Bồ-đề đầy đủ tất cả năng lực Như Lai; nay hòa hiệp với chữ “khư”, cho nên xa lìa các sự trói buộc vô quái ngại, như giữa hư không gió xoay chuyển tự tại, vì thế gọi là đại lực, lại nữa, năng lực tự tại của chữ “Ha” hòa hiệp với vô lượng xảo độ môn của chữ “Khư”, do đó giống như lực sĩ đầy đủ ngàn thứ tài năng, cho nên nhiều người không thể thắng được, vì thế gọi là Đại lực.

– Câu kế là giải thích nguyên nhân của đại lực, do đó nói từ nơi tất cả công đức của Như Lai sanh ra, nói đại lực vững chắc nầy vốn từ chủng tánh Kim cương của các Đức Phật sanh ra, lại từ vô lượng kiếp đến nay thường dùng chánh nhân chữ “Ha” nầy để tu đầy đủ muôn của chữ “Khư”, mỗi chữ đều như Kim cương không thể phá hoại; nay các đức đã tròn đầy, các năng lực đều đủ, lại phải dùng đỉnh cao cờ pháp nầy quán tam-muội, diệt hết pháp giới oán địch, hộ khắp chúng sanh, sau đó phát lời thành thật, đó gọi là chữ Hồng, Hồng là tiếng sợ hãi.

– Cho nên nói lại: 1. Là diệt hết ngoại chướng; 2. Diệt hết nội chướng; lại nữa ngoài là phiền não, trong là trí chướng, nếu giải thích tự môn, Như Lai dùng pháp nào để trừ các chướng? Đó là dùng tự môn Ha nầy.

Dưới có vẽ tam-muội, tức là tu đủ muôn hạnh, trên có dấu chấm “đại không”, tức là đã thành muôn đức, chữ Ha tức là cây cờ pháp tam-muội, dấu chấm không hòa hiệp, do đó chính là ở đỉnh cao quán tam-muội.

– Đầy đủ tất cả hạt giống Như Lai: Dấu chấm tên là mẹ của “Minh phi”, dưới vẽ là Thai phần mỗi ngày thêm nhiều, đầy đủ nghĩa như thế, cho nên ngay khi phát ra lời, ma quân đều tan hoại.

– Kế là nói Đát-la-tra, là nghĩa tra ha nhiếp phục, như khi sư tử nổi giận rống lớn thì các loài thú đều nhiếp phục.

– Cũng nói lại: là đối trị phiền não căn bản, tùy phiền não, cho đến đối trị phiền não bên trong, phiền não bên ngoài.

– Câu cuối cùng nói: A-bát-la-để-ha-đế, là nghĩa năng lực không đối trị không so sánh, kết thúc lại văn trên. Vì nhân duyên nầy cho nên gọi là “Đại lực đại hộ Minh phi”.

– Ta ha: là báo cho biết cácĐức Phật đã chứng minh cũng là nghĩa ức – niệm trì (nhớ nghĩ giữ gìn), như trước đã giải thích. Kinh dạy: Khi tất cả các Như Lai và chúng Phật tử nói “Minh” nầy rồi, ngay lúc ấy khắp cả cõi Phật rung chuyển sáu cách, nghĩa là khi Đại Nhật Như Lai phát ra lời nầy khắp cả pháp giới, các Đức Phật, Bồ-tát do cảnh giới bất – nhị, nên đều đồng thanh cùng nói. Nay pháp gia trì nầy oai thế đầy đủ, lại vì Như Lai nói lời thành thật, cho nên ngay lúc ấy các cõi Phật mười phương rung chuyển sáu cách, để biết đại thệ của Phật là chân thật không luống dối, nghĩa rung chuyển sáu cách và tướng của nó các kinh khác có nói đầy đủ. Nay nương vào Tông Bí mật nầy giải thích rung chuyển sáu cách, nghĩa là sáu phiền não căn bản là tham, sân, si, kiến, mạn, nghi; tâm địa của tất cả chúng sanh thường bị lớp bụi nầy giữ lại nên không thể tự khởi, nay nhờ cảm động đến lòng thành thật của Thế tôn, khiến lớp võ bọc bị xé tan, mầm giống Phật sanh, cho nên nói rung chuyển sáu cách. Bấy giờ, tất cả Bồ-đề thấy hai thứ nhân duyên động đất sâu kín và cạn cợt, tâm đều tự khai mở được điều chưa từng có, dùng kệ vi diệu khen ngợi trí tuệ của Thế tôn. Song, kinh dạy: ở trước các Đức Phật: nghĩa là khi Phật nói Minh nầy, các vị Bồ-tát v.v… trong các thế giới mười phương mỗi vị đều thấy Đức Phật kia, ở trước cũng đều nói, cho nên đồng một âm thanh, cùng một lúc nhận hiểu, tức là nhờ vào văn nầy mà chứng, thành oai lực tự hộ. Trong kệ nhận hiểu, các Đức Phật rất đặc biệt đầy đủ trong bản Phạn, nên nói kỳ lạ thay tất cả các Đức Phật nói năng lực hộ trì lớn lao nầy, ngay lúc ấy các vị Bồ tát trong mỗi thế giới đều cùng lúc nhận hiểu, tất cả các Đức Phật trong mười phương đều nói chân ngôn, vì các Đức Phật trong mười phương cùng hộ trì, giống như thành Kim cương lầu gác cao không thể tiến lên, lại vây quanh dùng hồ nước nóng sâu thì không thể đến, cho nên tất cả các chướng không thể xâm hại.

– Do bỉ hộ tâm trụ: nghĩa là những người tu hành có thể dùng chân ngôn mật ấn nầy giữ gìn thân tâm mà an trụ.

– Cho nên tất cả là chướng: nghĩa là các Tỳ-na-dạ-ca, ác hình lasát v.v… tự nhiên tan lùi. Chữ trụ nầy nếu nương vào tiếng Phạn cũng còn tên, để giữ gìn tâm kia.

– Nếu giải thích sâu: là nói tâm Bồ-đề thanh tịnh nầy, người dùng thật nghĩa “Minh phi” nầy giữ tâm mà trú nên ba thứ chướng nặng, các ác la-sát v.v… đều bị xua tan, không thể làm tổn hại căn lành của người đó. Dưới cho đến khi sanh tâm nhớ nghĩ, cũng có thế lực như thế. Cho nên câu cuối lại kết thúc thành tựu. Do vừa nghĩ nên bắt đầu từ Nam-ma cho đến Sa-ha, trong khoảng giữa đó thì nói là “tài” (vừa mới).

– Tất cả kia: là loại Tỳ-na-dạ-ca.

– Tan ra đi khắp: Tan ra đi khắp trong mười phương, không biết chỗ đi.

 

Pages: 1 2