ĐẠI THỪA NGHĨA CHƯƠNG

SỐ 1851

QUYỂN 08

Đời Tùy, Pháp Sư Tuệ Viễn soạn.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

(Phần Đầu)

NGHĨA PHÁP NHIỄM NHÓM KHỔ BÁO

Có mười bốn môn:

  1. Nghĩa hai món sinh tử.
  2. Nghĩa bốn sinh.
  3. Nghĩa bốn hữu.
  4. Nghĩa bốn thức trụ.
  5. Nghĩa bốn thực..
  6. Nghĩa năm ấm.
  7. Nghĩa sáu đường
  8. Nghĩa bảy thức trụ ..
  9. Nghĩa tám nạn .
  10. Nghĩa chín chúng sanh ở.
  11. Nghĩa mười hai nhập.
  12. Nghĩa mười tám giới.
  13. Nghĩa hai mươi lăm hữu.
  14. Nghĩa bốn mươi nương ở .

1- NGHĨA HAI THỨ SINH TỬ:

Chia ra sáu môn

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Nói về tướng.
  3. Phân biệt giai vị.
  4. Phân biệt giới.
  5. Phân biệt nhân duyên. . Phân biệt trị đoạn.

1) Giải thích tên gọi: Hai thứ sinh tử xét ra theo kinh Thắng-man là:

  1. Sinh tử phần đoạn.
  2. Sinh tử biến dịch.

Nói phần đoạn là nói quả báo sáu đường chia ra ba thời khác nhau nên gọi là phần đoạn, bắt đầu sinh khởi thì gọi là sinh, cuối cùng ra đi gọi là chết.

Nói biến dịch có ba cách giải thích:

  1. Vi tế sinh diệt vô thường niệm niệm dời đổi, trước biến sau dịch gọi là biến dịch, biến dịch gọi là tử, gọi là tử biến dịch. Cho nên trong Địa Trì ghi: Sinh diệt hoại khổ gọi là khổ biến dịch, sinh diệt này là chung cho cả phàm Thánh.
  2. Duyên chiếu vô lậu chướng đắc Pháp thân thần hóa vô ngại, năng biến năng dịch, nên gọi là biến dịch, biến dịch là tử, gọi là tử biến dịch ở đây bao gồm Đại thừa và Tiểu thừa.
  3. Chân chứng Pháp thân, ẩn hiện tự tại, năng biến năng dịch, nên nói biến dịch, biến dịch chẳng phải tử, nhưng Pháp thân này chưa ra khỏi sinh diệt, cũng bị pháp vô thường chết, chỗ theo biến dịch trên thân, có sinh tử gọi là biến dịch tử, đây chỉ có ở cõi trời.

    Ba nghĩa này được nói trong kinh Thắng-man.

    Thứ hai là nói theo các môn ở sau, lắng nghe lời này:

Sinh tử phần đoạn, kinh Thắng-man cũng gọi là sinh tử hữu vi; sinh tử biến dịch, trong kinh Thắng-man cũng gọi là sinh tử vô thường. Bởi chính từ người mà đặt tên khác nhau. Phàm phu phần nhiều khởi các nghiệp ác hữu lậu, kiến tập hữu quả, gọi là hữu vi. Có khi vì chúng sinh đã chịu sinh tử, gọi là hữu vi sinh tử. Vô vi sinh tử trước dịch lập xưng, bậc Thánh không khởi các nghiệp ác hữu lậu nên chịu quả báo phần đoạn, gọi là vô vi. Tất cả sinh tử của Bậc Thánh Vô vi gọi là sinh tử Vô vi, danh nghĩa như vậy (xong một môn này).

2) Kế nói về thể tướng:

Sinh tử phần đoạn khai hợp không nhất định, bao gồm chỉ có một, hoặc chia làm hai:

1. Thiện; 2. Ác.

Trời, người gọi là thiện, ba đường gọi là ác. Hoặc chia làm ba: Tất cả inh tử trong ba cõi. Hoặc chia làm bốn: Đó gọi là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh cho đến hóa sinh, như đây ở sau có giải thích. Hoặc chia làm năm, nghĩa là trong năm đường thọ sinh có khác nhau. Hoặc chia làm sáu, quả báo trong sáu đường sinh tử khác nhau, ở năm đường trước, thêm A-tu-la gọi là sáu đường. Nếu chia theo loại khác nhau thì có vô lượng. Phần đoạn như vậy.

Trong biến dịch cũng khai hợp không nhất định, tóm lại chỉ có một hoặc chia làm hai:

  1. Sinh tử biến dịch trong sự thức.
  2. Sinh tử biến dịch trong vọng thức, duyên chiếu báo vô lậu đã thọ trong sáu thức gọi là sinh tử biến dịch trong sự thức.

Duyên chiếu quả sở đắc vô lậu trong thức thứ bảy, gọi là sinh tử biến dịch trong sự thức. Biến dịch sinh tử trong sự thức ấy, nhân quả ở đời khác, đời này tạo nghiệp, đời khác mắc quả báo. Như trong Đại luận nói có Tịnh độ nhiệm mầu vượt qua ba cõi. Bậc A-la-hán sẽ sinh trong cõi ấy, đồng như vậy. Sinh tử biến dịch trong sự thức kia, có thô có tế. Địa tiền gọi là thô, địa thượng gọi là tế. Ở trong thô nhân quả đời khác giống với trước. Vi tế; niệm trước là nhân, niệm sau là hiện quả. Trong vi tế này không thể lấy đời khác bàn luận, trong mỗi niệm, phạm vi đời khác cũng không bị tổn hại. Hoặc chia làm ba. Nghĩa là sinh tử biến dịch của hàng ba thừa. Hoặc chia làm bốn: Như trong kinh Thắng-man nói!

  1. A-la-hán
  2. Bích-chi-phật
  3. Bồ-tát Đại Lực

Bồ-tát Địa Tiền, hai vòng sinh tử hoàn toàn chưa dứt trừ, mà không bị phiền não lôi kéo, lại ở trong ba cõi thọ sinh tự tại, nên gọi là đại lực.

Hỏi rằng: Hàng Địa Tiền, Bồ-tát Đại Lực: Trong kinh Niết-bàn nói vì phàm phu có tánh phiền não. Vì sao trong kinh Thắng-man nói là biến dịch?

Giải thích rằng: Kinh Niết-bàn đối với Sơ Địa là vượt lên Chánh nhân, gọi là phàm phu, chưa dứt được hai vòng hoặc của Địa Thượng, gọi là đủ phiền não, nếu nói về Thanh văn, Bích-chi-phật v.v… thì đây là hai chướng thanh tịnh của bậc đại Thánh, vì sao không được nói là biến dịch? Cho nên trong kinh Niết-bàn nói: Tu-đà-hoàn có tám muôn kiếp đảo, cho đến Bích-chi-phật mười ngàn kiếp đảo, nghĩa là đảo tánh địa A-nậu Bồ-đề. Đây là Đại Thánh, biến dịch nghi gì.

Bốn ý sinh thân, bậc Sơ địa trở lên thọ sinh như ý nguyện gọi là ý sinh thân. Ý có nghĩa gì? Sinh như ý là sao?

Ý có ba nghĩa:

  1. Có năng lục mau chóng
  2. Có năng lực đến khắp.
  3. Có năng lực vô ngại

Bậc Sơ địa trở lên thọ thân như vậy, hoặc chia làm sáu. Như kinh Thắng-man nói: Ba địa này đồng với ba món ý sinh thân kia. Ba địa này là Địa Tiền, La-hán, Bích-chi-phật, đại lực Bồ-tát Tam Thừa địa.

Ba món kia: Nghĩa là Sơ địa trở lên, ba món sinh thân. Ba món ý sinh như trong kinh Lăng-nghiêm có nói:

  1. Tam-muội ý sinh thân: Là từ sơ địa đến địa thứ năm. Do thiền Ba-la-mật Tăng thượng nên gọi là Tam-muội ý sinh thân.
  2. Tự tánh giác pháp tánh ý sinh thân, lục, thất, bát Địa thành tựu tuệ hành, biết pháp tự tánh, biết pháp vô tánh, gọi là tánh thân giác pháp tự tánh.

Tuệ tánh trước: Là pháp hữu tánh, sắc trong hữu pháp, vì ngại tánh tâm làm tu tánh, tất cả như vậy gọi là tự tánh.

Lại nói tánh: Là pháp vô tánh, không phải thật tánh của tất cả pháp, nên gọi là tánh. Tánh hữu vô này đều có khả năng khéo chiếu soi, nên gọi là Giác. Ba loại: Câu sinh, vô tác và hạnh ý sinh thân, nghĩa là từ hai Cữu Địa trở lên vô công dụng hạnh, nhận vận chuyển khởi, gọi là chủng loại câu sinh hạnh thân vô tác.

Ba món này, ba món kia, là từ hạnh báo thuần thục Bậc Cửu địa trở lên, chủng loại đã tu trong bảy Địa trước đến địa này quả báo thuần thục, hiện tiền gọi là chủng loại câu sinh, giống như nước pháp nhậm vận đi lên, xa lìa công dụng. Ba món này ba món kia hợp thành sáu. Nếu chia nữa thì có vô lượng. Biến dịch như vậy. Môn thứ hai dã xong.

3) Kế y cứ vị để bàn luận:

Tướng chung của phấn thô; Phần đoạn tử: Là chúng sinh luống dối. Biến dịch tử: Nghĩa là A-la-hán, Bích-chi-phật, Đại Lực Bồ-tát ý sinh thân.

Trong hàng Tiểu thừa, phàm phu, bậc học, trong hàng Đại thừa ngoại phàm đường thiện, đều ở trong ba cõi, vọng ái thọ sinh, gọi là luống dối. La-hán, Bích-chi-phật trong hàng Tiểu thừa, bậc chủng tánh trở lên trong hàng Đại thừa, do nghiệp chánh trí vô lậu thọ sinh, cho nên chẳng phải hư ngụy. Hư ngụy đã thọ, gọi là phần đoạn tử, chẳng phải hư ngụy thọ, gọi là biến dịch tử.

Hỏi: Tiểu thừa từ Tu-đà-hoàn trở lên, trong Đại thừa Thập Tín trở lên, cũng có năm phần công đức Pháp thân, vì sao không gọi là biến dịch tử, mà gọi là phần đoạn?

Giải thích rằng: Người này ở trong ba cõi, kết nghiệp hữu lậu thọ sinh chưa hết, nên gọi là phần đoạn, tuy có năm phần Pháp thân vô lậu, nhưng do Pháp thân này chưa được quả báo, cho nên không được gọi là Biến dịch tử, phần thô như vậy.

Ở trong tế gọi phần đoạn có hai:

  1. Đường ác.
  2. Đường thiện

Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh ba đường gọi là ác, trời, người gọi là thiện. Trong pháp Tiểu thừa, đường ác phần đoạn, khi kiến đạo hết, nên Tu-đà-hoàn gọi là để tránh là xúc chạm trong ba đường.

Nếu nói chung thì lúc tăng thượng nhẫn, quả báo ba đường ác, đều chẳng phải thường diệt. Phần đoạn đường thiện khi Vô học hết trong hàng Đại thừa chỗ tận cùng nơi phần đoạn đường ác có ba:

1. Vì nghiệp ác làm nhân, bốn trụ làm duyên, thọ quả báo đường ác. Khi hết Thập Tín để tu thân giới tâm tuệ v.v… hạnh chuyển nghiệp ác, cho nên trong luận Đại Trí Độ nói là đường thiện.

Lại trong kinh Hoa Nghiêm nói: Ngài Hiền Thủ có khả năng hiện làm Phật thì rõ biết, cũng có thể lìa quả báo đường ác.

2. Nghiệp ác làm nhân, bốn trụ làm duyên. Do lực duyên kém nên không thể dẫn dắt sinh, thêm thiếu bi nguyện thọ thân đường ác khi chủng tánh hết. Trong kinh Thắng-man nói: Bồ-tát Đại lực có chủng tánh lớn nên lìa phần đoạn tử.

3. Nghiệp ác làm nhân, bi nguyện làm duyên, khi bốn trụ hết, tùy duyên trợ giúp, thọ sinh trong đường ác, khi Sơ địa hết, Địa tiền chưa dứt, đến Sơ địa thì hết.

Trong kinh Thập Địa nói: Bồ-tát Sơ địa lìa sợ đường ác. Trong kinh Trí Địa nói: Bồ-tát Giải hạnh, chuyển quả báo đường ác, nhập Hoan Hỷ địa. Lại tùy theo năng lực trợ giúp bốn trụ phiền não, đến Sơ địa thì dứt hết. Trong Địa Trì nói: Hàng Bồ-tát Tăng thượng và phiền não trong đường ác, bậc Sơ địa ra khỏi, hàng Địa tiền chưa dứt hết.

Trong Địa Trì nói: Chủng tánh giải hạnh, hoặc đọa đường ác, đường ác đã như vậy, phần đoạn đường thiện cũng có ba bậc:

1. Nghiệp thiện làm nhân, bốn trụ làm duyên, thọ quả báo trời người khi chủng tánh hết.

2. Nghiệp thiện làm nhân, bốn trụ làm duyên, do năng lực duyên yếu kém nên không dẫn sinh, thêm thiếu bi nguyện nên khi Sơ Địa hết, Địa tiền chưa dứt, vì Sơ địa hết thọ thân trời người.

Trong kinh Lăng-già nói: Hàng Bồ-tát Sơ địa đắc hai mươi Tammuội, phá hai mươi lăm cõi, vì trước chưa dứt.

Trong kinh Pháp Hoa nói: Hàng Địa tiền vẫn còn sinh tử phần đoạntrong ba cõi, nên trong luận ấy nói: Đã nói nhập sinh cho đến một lần sinh đắc Bồ-đề. Nghĩa là bậc Sơ địa chứng trí gọi là tám lần sinh đến một lần sinh, là sinh phần đoạn trong ba cõi kia.

3. Nghiệp thiện làm nhân, bi nguyện làm duyên, bốn trụ dứt, kiết tập tùy theo sự trợ giúp, thọ sinh cõi trời người, đến quả Phật mới hết. Từ trước chưa dứt vì đến Phật mới hết.

Trong kinh Khen ngợi, chỉ có Phật mới dứt hữu đảnh chủng, hàng Thập Địa trở xuống thọ sinh cõi trời người, vì hạt giống chưa cùng tận.

Trong Địa Trì chỉ nói: Bồ-tát Giải hạnh, chuyển báo đường ác nhập Hoan Hỷ địa, không nói đến chuyển thiện. Lại Bồ-tát Thập Địa trở xuống thọ sinh cõi trời người, phiền não chưa hết. Trong Địa Trì chỉ nói: Bậc Sơ địa vượt khởi phiền não đường ác không nói vượt qua phiền não đường thiện. Dùng văn này chứng minh hàng trời người hết tập khí thì biết đến Thập Địa. Trong đó phân biệt, phần đoạn người là khi Bát Địa hết, từ trước chưa dứt vì đến Bát Địa mới hết.

Trong kinh Niết-bàn nói: Bát Địa là A-na-hàm không thọ nhục thân, vì trước chưa dứt.

Trong kinh Đại Phẩm nói: Bảy Địa trước cũng là nhục thân.

Phần đoạn đến quả Phật mới hết, từ trước chưa dứt vì đến quả Phật mới dứt chỉ một mình Đức Phật dứt hữu đảnh chủng, vì trước chưa dứt, hàng Bát Đại trở lên chỉ gọi là A-na-hàm, chẳng phải A-la-hán.

Hỏi rằng: Bậc Địa thượng sinh khắp trong sáu đường, vì sao riêng nói sinh trong trời người cho là phần đoạn?

Giải thích: Vì hàng Địa thượng đã dứt nghiệp ác, tuy sinh trong đường ác, cũng chỉ ứng hiện. Nghiệp thiện trời người, vì chưa cùng tận nên sinh trong trời người, khi tương ứng với nghiệp nhẹ của phàm kia gọi là phần đoạn.

Kế nói về Biến dịch. Trong biến dịch, có nhân có quả. Trong Tiểu thừa, kiến đạo trở lên do biến dịch sinh. Sau quả Vô học báo biến dịch khởi, là sao? Như trong luận nói: Cõi tịnh độ nhiệm mầu, vượt ngoài ba cõi, không có phiền não, Bậc A-la-hán sẽ sinh về đó, như vậy v.v… Phần chủng trong Đại thừa có bốn:

  1. Khởi nhân xứ
  2. Thập Tín trở lên.
  3. Đắc quả xứ
  4. Chủng tánh trở lên.

Cho nên trong kinh Thắng-man nói: Chủng tánh trở lên đến Bồtát đại lực là biến dịch tử.

Hỏi: Trong kinh Pháp Hoa ngài Ưu-bà-đề-xá nói: Trước giải hạnh là phần đoạn tử, vì sao trong kinh Thắng-man nói là biến dịch?

Giải thích rằng: Bồ-tát chủng tánh trở lên có năm thân:

  1. Thân pháp tánh: Nghĩa là thanh tịnh, hướng v.v.., trong tánh chủng tánh và Giải Hạnh. Như trong Địa Trì nói: Sáu nhập thù thắng, pháp vô thỉ như vậy v.v…
  2. Thân thật báo: Nghĩa là trong Tập chủng tánh và Giải hạnh đắc tiền phương tiện. Như trong Địa Trì nói: Nếu từ trước đến nay tu thiện sở đắc, như vậy, v.v…
  3. Pháp thân sinh diệt biến dịch: Đó gọi là duyên chiếu nghiệp quả vô lậu.
  4. Thân phần đoạn: Nghĩa là nghiệp quả hữu lậu từ vô thỉ đến nay.
  5. Thân ứng hóa: Tùy chúng sinh mà hiện sinh. Năm thân này, đều có nhân duyên:

    Thân pháp tánh: Là Phật tánh làm nhân, là các độ làm duyên.

Thân thật báo: Là sáu độ làm nhân, Phật tánh làm duyên. Lại có nghĩa khác, như ở sau, trong phần hai món chủng tánh có nói.

Thân biến dịch: Nghiệp vô lậu làm nhân, vô minh làm duyên.

Thân phần đoạn: Là nghiệp hữu lậu làm nhân, bi nguyện làm duyên, trong thân ứng hóa có hai món ấy:

  1. Pháp ứng nương Pháp thân khởi.
  2. Báo ứng nương báo thân hiện.

Nhân duyên của hai loại ứng này đều khác nhau. Nói về pháp ứng ấy, pháp môn Tam-muội hóa dụng trong Như Lai Tạng làm nhân, bi nguyện làm duyên. Nếu nói về báo ứng: Bi nguyện làm nhân, pháp môn Tam-muội hóa dụng làm duyên.

Trong năm thân này, hai thân đầu chẳng phải ? từ hai thân kế thật tử, một cái sau ứng tử, vì thế đối với Bồ-tát chúng tánh trở lên, trong thân thật báo, có xen lẫn biến dịch; trong thân ứng hóa, có xen lẫn phần đoạn, Trong kinh Pháp Hoa y cứ môn thứ tư nói là phần đoạn.

Trong kinh Thắng-man, y cứ môn thứ ba nói là kiến dịch. Mỗi môn là một nghĩa, không trái bỏ nhau, đây là chỗ đắc quả thứ hai.

  1. Tiệm xả xứ: người Sơ địa trở lên, bốn chỗ cùng tận hết. Ở Như Lai địa phần vị như vậy. ( xong ba môn này)

4) Kế y cứ giới mà luận:

Giới nghĩa là ba cõi, trong đó lược dùng hai môn phân biệt:

1. Tùy tướng phân biệt, phần đoạn sinh tử thuộc về ba cõi, vì nó là quả của nghiệp hữu lậu trong ba cõi. Biến dịch sinh tử chẳng thuộc về ba cõi, vì quả của nghiệp vô lậu xuất thế. Trong luận nói: Có tịnh độ nhiệm mầu vượt ngoài ba cõi. Bậc A-la-hán, sẽ sinh về đó: Thế nên biết nó là Xuất thế. Tất cả là như vậy.

2. Y cứ tánh nói chung: Là hai món sinh, tử đều thuộc ba cõi, nghĩa này thế nào?

Như trong kinh Thắng-man nói: Thế gian có hai:

  1. 1. Vô thường hoại 2. Vô thường bịnh

Vô thường họai: Là phần đoạn ba cõi.

Vô thường bịnh: Là biến dịch ba cõi.

Sinh tử phần đoạn lại thuộc về phần đoạn ba cõi, biến dịch sinh tử là thuộc biến dịch ba cõi.

Hỏi: Phần đoạn ở trong ba cõi rất dễ hiểu. Biến dịch sinh tử ở trong ba cõi phân chia ở chỗ nào, chỉ có bậc Thánh mới biết được. Cũng có thể biến dịch. Theo Thiền địa nói: Nương Sơ thiền địa phát nghiệpvô lậu, thọ báo biến dịch, hệ thuộc vào Sơ thiền. Tất cả như vậy. (xong môn thứ tư).

5) Kế nói về nhân duyên:

Thân sinh gọi là Nhân, giúp đỡ gọi là Duyên, nói thô về tướng chung nghiệp nhân hữu lậu của sinh tử phần đoạn bốn trụ làm duyên. Cho nên trong kinh Thắng-man nói: Lại, nếu chấp duyên nghiệp nhân hữu lậu mà sinh vào ba cõi, thủ do ái vậy khi thọ sinh, hoặc khởi ái dâm, hoặc khởi ở các ao hoa v.v… mà ái, liền thọ thân nên nói là Duyên thọ thân trong ba cõi; sức ái mạnh thêm, nên nói riêng. Biến dịch sinh tử là nghiệp nhân vô lậu, vô minh làm duyên. Kinh Thắng-man nói: Nghiệp nhân vô lậu, vô minh làm duyên, sinh A-la-hán, Bích-chi-phật, v.v… Duyên có hai loại:

1. Duyên trước sau: Do từ trước bị vô minh không thấy bổn tánh các pháp bình đẳng nên cầu sinh sau.

2. Đồng thời làm duyên: vô minh trụ địa, là thể của bảy thức, nghiệp quả của biến dịch, y đây là được lập, nên nói là duyên, như mộng khởi đều nương tâm ngủ. Tướng chung như vậy. Tùy theo phân biệt giới hạn, sinh tử phần đoạn có thiện có ác. Phần đoạn đường ác nghĩa có ba bậc khác nhau:

  1. Phàm phu đã thọ nghiệp ác làm nhân, bốn trụ làm duyên.
  2. Hàng Thập Tín thọ nghiệp ác làm nhân, bốn trụ chánh duyên, bi nguyện theo trợ giúp.
  3. Bồ-tát Chủng tánh trở lên đến Sơ địa thọ nghiệp ác làm nhân, bi nguyện là chánh duyên, bốn trụ theo trợ giúp.

Nếu không có nghiệp ác thì quả khổ không sinh, nên dùng nghiệp ác làm nhân. Nếu không có bi nguyện thì không đến thọ, nên dùng bi nguyện làm duyên. Trong kinh Niết-bàn nói: Bồ-tát Địa tiền, thời quá khứ đã có nghiệp ác nhiều như cát bụi, do nguyện lực nên thọ hết tất cả.

Lại nói nguyện lực, phải biết cũng dùng bi lực cho nên chịu khổ.

Thiện đạo phần đoạn cũng có ba bậc:

  1. Phàm phu, Nhị thừa cho đến Thập Tín Đại thừa thọ nghiệp thiện làm nhân, bốn trụ làm duyên.
  2. Chủng tánh Giải Hạnh thọ nghiệp thiện làm nhân, bốn trụ làm chánh duyên, bi nguyện theo trợ giúp.
  3. Bậc Địa thượng thọ nghiệp thiện làm nhân, bi nguyện chánh duyên, bốn trụ theo trợ giúp.

    Biến dịch có hai:

    1. Biến dịch sinh tử trong sự thức.
    2. Biến dịch sinh tử trong vọng thức.

    Biến dịch trong sự có ba bậc:

1. La-hán, Bích-chi-phật nhận, dùng chúng sinh không quán trong sự thức làm chánh nhân, vô minh làm duyên.

2. Chủng tánh Giải Hạnh nhân sự hiểu biết về dứt tưởng chẳng phải có chẳng phải không trong sự thức làm chánh nhân, vô minh làm duyên.

3. Địa Thượng nhận pháp quán tất cả vọng tưởng đều nương theo tâm trong vọng thức làm chánh nhân, vô minh làm duyên.

Trong vọng biến dịch cũng có ba bậc:

  1. Địa Tiền thọ, trong dụng vọng thức tất cả vọng tướng nương tâm quán, để làm chánh nhân, vô minh làm duyên.
  2. Địa Thượng thọ, tất cả vọng tưởng y theo chân quán trong vọng thức làm chánh nhân, vô minh làm duyên.
  3. Bồ-tát Bát địa trở lên thọ, pháp quán dứt tưởng về chỉ có chân, không có vọng trong vọng thức làm chánh nhân, vô minh làm duyên.

Hỏi: Chỉ có quán chân không có vọng, có thể khiến vọng trí không còn dẫn dắt pháp sau, làm sao làm nhân cho biến dịch?

Giải thích: Pháp quán này so sánh với pháp đồng loại ở sau, tuy không dẫn sinh, mong về phẩm ở sau thù thắng, chẳng phải không thể sinh, nên được làm nhân, các pháp quán này là quán riêng như trong chương Bát Thức ở trước có nói đủ. Phần đoạn tử ở trước, nhân cũ duyên mới. Do nhân duyên này đồng duyên có khác nhau. Biến dịch tử này, duyên cũ nhân mới, vì duyên đây đồng nhân có khác nhau, tùy theo nghĩa mà bàn luận kỹ. Nhân phần đoạn duyên biến dịch, chẳng phải không khác nhau, tướng khác khó phân, cho nên không nói Lý thật vô minh cũng giúp phần đoạn.

Tập khí bốn trụ, cũng giúp biến dịch, tướng ẩn kém thiếu, nên bỏ không nói đến (năm môn này xong).

6) Kế nói về đoạn xứ:

Trong phần đoạn năm đường khác nhau, chỗ đoạn không nhất định. Trong pháp Tiểu thừa, đại vị nói hết ở Vô học, Trong đó phân biệt phần đoạn đường đều ở ba cõi:

1. Bất thọ xứ: Y như trong Luận Thành Thật, Noãn tâm trở lên một bề không thọ. Ở trong tông ấy, Noãn tâm trở lên gọi là Trụ phần, không còn lui sụt trong ba đường, cho nên Luận Thành thật kia trích dẫn để chứng minh. Chánh kiến của Bậc Thế thượng qua lại trăm ngàn đời, không bao giờ đọa vào đường ác. Noãn tâm trở lên gọi là thượng Chánh kiến. Nếu theo Luận Tỳ-đàm, nhẫn tâm trở lên mới gọi là Trụ phần, một bề không thọ báo trong ba đường, trong kinh Niết-bàn cũng đồng với thuyết này, ở đây y cứ lời đó. Nhẫn tâm trở lên mới được gọi là Thế Thượng Chánh Kiến, đây là không thọ xứ thứ nhất.

2. Chẳng thường diệt xứ: Theo Luận Tỳ-đàm khi tăng thượng nhẫn, thì báo ba đường chẳng phải thường diệt, ở một đời này dứt nhân kia không thọ báo, cho nên trong kinh Niết-bàn cũng đồng với thuyết này.

3. Kinh Niết-bàn nói: Lúc Tăng thượng nhẫn thì quả báo ba đường ác, nên biết đó không từ trí duyên mà diệt. Nơi ba duyên dứt ở trong kiến đạo, nhuận hoặc vĩnh viễn đoạn đốt cháy nghiệp chủng. Phần đoạn trong loài người, là A-na-hàm trở lên, không còn thọ lại nữa.

Phần đoạn cõi trời là La-hán, Bích-chi-phật không bao giờ thọ nữa.

Trong pháp Đại thừa, phân theo đại vị tất cả phần đoạn đều ở Chủng tánh, nên trong kinh Thắng-man nói: Phần đoạn tử, là hư ngụy chúng sinh, trong đó phân biệt, phần đoạn sinh tử có hai món:

1. Định hệ bị nghiệp dẫn dắt, chỗ lúc định trói buộc đó gọi là sau khi sinh.

Xứ là sáu đường.

2. Không định nghiệp ràng buộc được nghiệp tự tại, được sinh tự tại, lúc không ràng buộc, vì lúc không ràng buộc, nên sau khi hiện sinh, tùy ý tho sinh; vì không ràng buộc, ở trong sáu đường tùy ý thọ sinh trong ba đường ấy chắc chắn ràng buộc.

Thập Tín trở lên tu tập thân giới tâm tuệ hạnh, lần lần thứ lớp dứt trừ, thì chủng tánh dứt sạch.

Không nhất định ràng buộc: Là chủng tánh trở lên dứt trừ dần thứ lớp, khi Sơ Địa hết, trong Địa Trì y cứ theo đây nói, bậc Sơ địa lìa báo đường ác.

Định trời, người: Là chủng tánh trở lên dần dần dứt trừ. Khi Sơ Địa hết. Nếu lại nói chung, hàng Thập Tín trở lên dần dần dứt trừ theo thứ lớp, đến Sơ địa thì hết. Trong kinh Lăng-già y cứ đây mà nói: bậc Sơ địa chứng đắc hai mươi lăm Tam-muội, phá hai mươi lăm cõi.

Bất định: Bậc Sơ địa trở lên dần dần dứt trừ theo thứ lớp, đến quả Phật mới hết. Trong đó phân biệt: Phần đoạn ở cõi Người, khi đến Bát Địa thì hết, vì thế lên hàng Bát Địa gọi là A-la-hán, không thọ lại thân thịt hôi thối này nữa.

Phần đoạn ở cõi trời, đến quả Phật mới hết, nên một mình Đức Phật dứt được hữu đảnh chủng, vượt qua vòng sinh tử. Nhưng lên bậc Sơ địa, tuy nói có phần đoạn cõi trời người, chỉ có hoặc tập khí nhẹ. Nghĩa là ở trong đại bi ứng hiện thân, có chút ít tàn khí, không có khả năng thọ quả báo phần đoạn. Phần đoạn như vậy. Kế nói về biến dịch.

Trong biến dịch có nhân có quả, đều là chỗ không nhất định.

Trong pháp Tiểu thừa nhân biến dịch đều có hai xứ:

1. A-la-hán trở lên tạm diệt diệt định.

2. Vô dư hằng diệt, trong quả Vô học, quả biến dịch, Tiểu thừa chưa diệt. Trong pháp Đại thừa, nhân biến dịch, chủng tánh tạm diệt, đến quả Phật mới hết. Quả biến dịch, người Sơ địa tạm diệt, đến quả Phật mới hết, hai món sinh tử rất lớn, huống chi là thô.

2. NGHĨA BỐN LOẠI PHÂN BIỆT, CÓ BA MÔN

  1. Biện tướng
  2. 2. Chung và riêng.
  3. Rộng và hẹp

1. Bốn loại: Thai, noãn, thấp, hóa.

Thai sinh: Như loài người bẩm thọ nương gá tinh khí mà thọ quả báo gọi là thai sinh.

Noãn sinh: Như các loài chim, nương trứng mà thọ thân gọi là noãn sinh.

Thấp sinh: Như ngày mùa hè, các loài trùng sinh ở chỗ ẩm ướt, không nhờ cha mẹ, nương ẩm ướt thọ thân gọi là thấp sinh.

Hóa sinh: Như các loài trời, không chỗ nương gá, không mà bỗng khởi có, gọi là Hóa sinh. Nếu không nương gá làm sao sinh được? Theo trong Địa luận giải thích: Nương nghiệp mà sinh, tướng sinh như vậy.

2. Kế là y cứ vào năm đường để nói chung và riêng

Một loại hóa sinh trong bốn loài hoàn toàn thuộc về hai đường, và ba phần nhỏ thì hoàn toàn thuộc về hai, là các vị trời địa ngục, một bề hóa sinh.

Ba phần nhỏ là người, quỷ và một phần súc sinh. Như thời kiếp Sơ người quỷ và súc sinh, đều hóa sinh; thời nay phần nhiều không có, nên gọi là phần ít.

Một loại thai sinh có ở người quỷ và một phần ít ở súc sinh các loài đường khác hoàn toàn không có. Hai loài noãn, thấp, chỉ có ở loài người và súc sinh, đường khác đều không có. Trong loài người có thai sinh.

Như đứa trẻ Tỳ-xá, Mẹ Tỳ-xá sinh bộc trứng, trong trứng có ba mươi hai đức trẻ. Các loại như vậy là trứng sinh người.

Người do thấp sinh, như vua Đảnh Sinh. Vào thời quá khứ có vị Vua tên là Thiện Trụ, trên đảnh vị ấy mang thai đủ mười tháng thì sinh một đứa bé, do đó đặt tên cho đứa bé đó là Đảnh Sinh. Các việc như vậy. Đây là người sinh ở nơi ẩm ướt. Trong đường súc sinh, noãn sinh, thấp sinh có thể tự biết.

3. Kế nói về rộng hẹp:

Như Tạp Tâm có hỏi: Là sinh thuộc về thú hay là thú thuộc sinh?

Luận tự giải thích: Bốn loài thuộc về thú, chẳng phải thú thuộc về sinh. Vì sao? Vì tất cả năm đường không ngoài bốn loài sinh nên sinh thuộc thú. Trong năm đường thân trung ấm đều là hóa sinh, không thuộc năm đường, cho nên năm đường không thuộc bốn loài sinh, lược nói như thế.

3. PHÂN BIỆT NGHĨA BỐN CÕI, SÁU MÔN

  1. Nói về tướng.
  2. Phân biệt theo thời.
  3. Phân biệt theo xứ.
  4. Năm ấm, sáu căn đủ và không đủ.
  5. Phân biệt nhiễm tịnh.
  6. Phàm Thánh có không

1- Nói về tướng:

Nghĩa của bốn cõi, xuất xứ từ kinh A-hàm. Trong Luận Tỳ-đàm có phân biệt rộng, quả báo sinh tử là có chẳng phải không, nên gọi là có. Có khác nhau không đồng. Một môn nói bốn. Bốn tên là:

  1. Sinh có.
  2. Chết có
  3. Sẵn có.
  4. Trong có.

Phần đầu tiên của báo đặt tên là sinh có. Quả báo thọ mạng hết gọi là chết có; sau khi sinh trước khi chết gọi là bổn hữu; đối với tử và Trung ấm nên gọi là Bổn; thân trung ấm giữa hai thân đã thọ gọi là trung hữu. Tướng trung hữu ẩn có chín trường hợp hiện rõ:

1. Định có, không: Các kinh, luận nói khác nhau.

Trong Luận Tỳ-đàm: Nhất định có trung ấm. Trong Luận Thành Thật nhất định không. Định riêng về Có, Không nên thành tranh luận. Trong Kinh Niết-bàn nói: Các đệ tử ta, không hiểu ý ta, nên tuyên bố rằng: Đức Như Lai nói Trung ấm, là nhất định có, là nhất định không. Trong Đại thừa đã nói: Có, không chẳng nhất định; Bậc thượng thiện quả báo đường ác nặng nên mau chóng thì không có trung ấm, như năm tội nghịch, v.v… các nghiệp khác thì có vì khác với thiên định nên không tranh luận.

2. Định về phần sinh: Sinh có bốn loại: Thai, noãn, thấp, hóa tất cả trung ấm, đồng một hóa sinh.

3. Nói về hình loại kia: thân trung ấm, duyên lờ mờ sinh ấm. Trung ấm cõi trời, duyên lờ mờ dường như cõi trời, cho đến hướng đến địa ngục, trung ấm duyên lờ mờ như địa ngục.

4. Nói về hình lượng trung ấm lớn nhỏ: Người sinh trung ấm, như đứa trẻ nhỏ có biết thọ thân trung ấm sinh lên cõi trời do dần dần lớn. Trung ấm như vậy tùy theo chỗ hướng đến. Nhỏ ở sinh ấm, y cứ theo người thì có thể tự biết.

5. Nói về hình sắc: Như trong Địa Trì nói: Sắc có đẹp xấu, sắc đẹp có hai:

  1.  Cực đẹp, như trăng sáng.
  2. Đẹp nhẹ nhàng, như y Ba-la-nại.Xấu cũng có hai:
    1. Cực xấu như ban đêm tối đen.
    2. Hơi xấu, như màu lông dê đen sáng.

Nhưng thật trung ấm có muôn màu khác nhau. Trong Địa Trì lại nói theo hình thô.

. Nói về trung ấm thú hướng có khác nhau. Như trong luận nói: Trung ấm địa ngục, khi đến địa ngục, chân trên đầu dưới, thẳng đến địa ngục, khi đến địa ngục, khi thọ báo, thân như người đứng.

Trung ấm các cõi trời, khi đến cõi trời, như tên bắn lên hư không còn các thân trung ấm khác thì nương gá mà đi.

1. Nói thấy tướng trung ấm khác nhau: Có người nói: Tất cả trung ấm đều được thấy tướng. Lại có người nói: Trên được thấy dưới, mà dưới không thấy trên. Nói như thế thì trung ấm địa ngục, chỉ có được thấy trung ấm ở địa ngục. Không thấy các tướng trung ấm khác khác, trung ấm súc sinh thấy được trung ấm địa ngục súc sinh, không thấy trung ấm khác. Cho đến trung ấm cõi trời, có thể thấy tất cả trung ấm trong năm đường.

2. Nói về thức ăn khác nhau của trung ấm. Trung ấm cõi Dục có đủ bốn cách ăn.

Trong ấy đoạn thực, lại ăn sinh ấm; ăn mùi hương; trung ấm thượng giới, thì không có đoạn thực, chỉ có thức xúc, ý, tư, thực v.v…

. Nói ý phục trung ấm có không: Trung ấm các vị trời luôn luôn có y phục; trong loài người thì không nhất định, như gần chỗ Phật có các đại Bồ-tát, vua chuyển luân và Tỳ-kheo ni Bạch tinh v.v… phước đức thù thắng lại đủ tàm quý thì trung ấm có y, còn lại thì không. (xong một môn này).

2. Kế nói về thời:

Phần lâu mau của bốn hữu sinh có tử có thời phần rất ngắn, chỉ dứt một niệm. Cho nên trong Tạp Tâm nói: Sinh có và tử có là mỗi cái một sát-na, trong bổ hữu có phân ra thời gian không nhất định. Bổn hữu ngắn nhất thì dứt một niệm; dài thì hoặc trải qua ức trăm ngàn kiếp, trung hữu có dài ngắn, nhiều chỗ nói khác nhau, có chỗ nói: Ngắn nhất là một niệm, dài nhất bảy ngày. Nói như thế, đến khoảng bảy ngày, sẽ được chỗ sinh. Nếu đến bảy ngày không được chỗ sinh, thì ấm trước diệt rồi lại thọ Trung ấm. Có người lại nói: Trung ấm rất dài, thọ bốn mươi chín ngày, đến bốn mươi chín ngày thì được chỗ sinh, nếu không được chỗ sinh thì chết rồi sinh lại. Lại có chỗ nói: Thọ mạng không nhất định, cho đến cha mẹ chưa hòa hợp, thường còn không diệt trong các thuyết này thì thuyết sau là thiện. (xong hai môn này).

3. Kế y cứ chỗ năm đường ba cõi phân biệt bốn cõi:

Trước y cứ ba cõi nói về chung và riêng, sinh tử vốn có chung khắp ba cõi, nhưng trung hữu thì không nhất định. Trong pháp Tiểu thừa, cõi Dục và cõi Sắc thì có, cõi Vô sắc thì không. Trong pháp Đại thừa, bốn không có sắc, vì có sắc nên cũng có trung ấm, cho nên trong kinh Hoa Nghiêm nói: Tỷ căn của Bồ-tát có thể nghe mùi thơm của cung điện Vô sắc, thế thì biết rõ hữu sắc.

Kế y cứ, thú hướng để nói, phải biết bốn cõi chung khắp năm đường. ( môn thứ ba xong )

Kế nói rõ căn, ấm có hay không có. Ấm là năm ấm, căn là sáu căn. Trước y cứ năm ấm nói có hay không có, sinh tử vốn có, ba thứ này nếu ở trong cõi Dục nhất định có năm ấm, cõi Sắc, Vô sắc thì Đại thừa và Tiểu thừa nói khác nhau.

Tiểu thừa nói: Trong cõi Sắc kia không có cõi trời vô tưởng có sắc mà không có tâm, trong cõi bốn không, có tâm không sắc, không đủ năm ấm, còn các trời cõi Sắc đều có năm ấm.

Đại thừa nói: Cõi trời vô tướng cũng có tâm tưởng cõi bốn không có sắc thì ba cõi đều có năm ấm. Trong Địa Luận nói: Cho đến cõi trời hữu đảnh tăng trưởng tất cả nhóm khổ năm ấm trong đó có một loại, quyết định đủ năm ấm, không hề thiếu giảm.

4. Kế y cứ sáu căn nói đủ hay không đủ:

Trong sinh hữu chỉ có ý căn, sắc sở duyên chưa thành thể thân thể, nên không có thân căn. Vì không có thân, cũng không có các căn nhãn nhĩ tỷ thiệt thân, bốn hữu không nhất định, chúng sinh cõi Dục, dần dần qua đời chỉ còn thân căn và ý căn, cho nên khi thân chết, khi một niệm chết sáu căn đều hoại, chúng sinh ở cõi sắc không chết từ từ. Vì thế, khi chết .v.v.., sáu căn đều hoại. Chúng sinh cõi Vô sắc, Đại thừa và Tiểu thừa nói khác nhau.

Tiểu thừa nói: Chỉ có ý căn diệt hoại sau cùng. Đại thừa nói: Còn có hình sắc, đồng với cõi Sắc. Trong bổn hữu, các căn không nhất định, chúng sinh cõi Dục, phần nhiều đủ sáu căn, nhẫn đến chúng sinh rất nhỏ cũng đủ thân và ý. Cõi Sắc, cõi Vô sắc, Đại thừa và Tiểu thừa nói khác nhau.

Tiểu thừa nói: Trong cõi Sắc kia, trừ chỗ Vô tướng, còn các cõi trời, đều có đủ sáu căn; trong cõi trời Vô tưởng không có ý căn, trong cõi Vô sắc chỉ có ý căn, năm căn khác không có.

Đại thừa nói: Cõi Sắc, Vô sắc đều có đủ sáu căn, vì sao như vậy?

Đại thừa nói: Vì vô tưởng, Vô sắc, hữu sắc, trong tâm có một loại, nhất định đủ sáu căn không thiếu. Vì sao? Vì thân trung ấm thọ thuần nghiệp quả, không thọ tạp nghiệp nên đủ sáu căn. Lại thân trung ấm, sắc tinh vi không có duyên khác hoại căn nên có sáu căn.

Lại trong sáu căn tìm chỗ thọ sinh nên thân trung ấm nhất định có đủ sáu căn, nhưng sáu căn của trung ấm lanh lợi, thanh tịnh hơn chư thiên tất cả thế giới, xứng chỗ thọ sinh, thấy nghe vô ngại, do năng lực cầu sinh tự tại. (môn thứ tư xong).

5. Kế nói về nghĩa nhiễm tịnh của bốn cõi:

Sinh có một loại, chỉ có nhiễm mà không có tịnh, thọ sinh phải là tâm phiền não, còn chung nhiễm tịnh, nên Tạp Tâm nói: Một nhiễm ba có hai:

Nói một nhiễm, là sinh có.

Ba có hai, là vốn chết mà trong chung nhiễm tịnh, đây chính là nói riêng về phàm phu, Nhị thừa. Nếu chung cả Bồ-tát nguyện lực thọ sinh thì bốn cõi đều chung nhiễm tịnh. (xong môn thứ năm).

6. Kế y cứ phàm thánh phân biệt bốn cõi:

Phàm Thánh tuy khác, nhưng đều đủ bốn cõi, phàm phu thì có thể biết. Trong bậc Thánh, bậc học có đủ bốn cõi; bậc vô học chỉ có ba. Lược bỏ cõi vô sinh. Bậc Thánh vô học, không sinh trở lại. Bốn cõi như vậy.

4. NGHĨA BỐN THỨC TRỤ PHÂN BIỆT, BỐN MÔN

  1. Nói về tướng.
  2. Phân biệt hữu lậu, vô lậu.
  3. Phân biệt theo địa.
  4. Phân biệt ba đời

1- Nói về tướng: Bốn thức trụ, trong năm ấm; sắc, thọ, tưởng, hành và thức là sở y nên gọi là Thức trụ.

Trụ nghĩa là thế nào? Theo Luận Tỳ-đàm, thể tâm Vương đồng thời nương ở sắc, thọ , tưởng, hành nên gọi là Thức trụ.

Hỏi: Y cứ pháp tâm, tâm sở kia đồng thời nương nhau, vì sao nói riêng thức nương trụ khác mà không nói thọ v.v…trụ khác ư ?

Giải thích rằng: Lý thật nghĩa trụ đều chung, nhưng thức là vua nên nói nghiêng về nó lại phái ngoại đạo cho rằng: Thức nương thần trụ nên nói Thức trụ. Nếu theo Luận Thành Thật: Tâm khởi trước sau, không nói đồng thời nương nhau mà trụ, chỉ nói tâm thức duyên bốn ấm khác, duyên mà ái chấp, nên gọi là Thức trụ.

Hỏi: Tông ấy tham ở trong hành; tâm thức không tham. Vì sao trong kinh nói là Thức trụ?

Giải thích rằng: Nương tham kia có hai loại:

  1. Khởi tham chỉ ở tâm hành.
  2. Tánh tham ở khắp bốn tâm.

Vì tánh tham chung thì trong thức có nên được y cứ nơi thức nói là thức trụ.

Sao là tánh tham chấp tánh phiền não. Vì chấp trước cảnh giới nên gọi là tánh tham.

Hỏi: Tánh tham đã chung cả bốn tâm, vì sao chỉ nói riêng thức trụ mà không nói thọ trụ, tưởng hành trụ, v.v…?

Giải thích: Theo lý nghĩa trụ chung cho cả bốn tâm, nay dùng ba nghĩa riêng nói thức trụ:

  1. Do ban đầu giống sau, thức tâm đứng đầu nên chỉ nói thức trụ, loại khác có thể biết nên không nói đủ.
  2. Nêu yếu hiển mạnh, y cứ vào bốn tâm, thức tâm chấp tánh rất kém yếu, cho đến tâm hành thủ tánh rất mạnh. Y cứ yếu nói trụ, tăng mạnh nên biết, nên bỏ qua không nói.
  3. Vì phá ngoại đạo nói thức nương thần, gọi là Thức trụ. Do ngoại đạo kia phần nhiều chấp tâm nương thần ngã.

Hỏi: Nếu nói tham cho nên trụ, vì sao luận Thành Thật nói ưa thích cho nên trụ?

Giải thích: Lý thật tham đắm cho nên trụ, tâm tham do trước mà có ưa thích mà sinh, nên nói hỷ nhuận. Lại ở sau, trong các tham, còn có nghĩa hỷ, giúp thành tham nên nói hỷ nhuận.

Hỏi: Trước nói tánh tham cho nên trụ, tánh tham thường có, tại sao mượn hỷ nhuận?

Giải thích: Trong thức đã có tánh tham, là trong hạnh trước chú trọng về khí phần tham, trong hạnh trước tăng thêm chú trọng tham, do hỷ nhuận sinh nên có tánh tham trong thức, từ gốc mà luận nói, nên nói hỷ nhuận.

Hỏi rằng: Sắc v.v… thuộc về thức nào mà nói là thức trụ? Nếu theo Luận Tỳ-đàm, thuộc chung sáu thức nên nói là Thức trụ. Trong pháp Thành Thật, người giải thích khác nhau.

Có người giải thích rằng: Chỉ có thuộc về ý địa, tâm, hành nên nói trụ, do tham ái trong hành mạnh.

Lại có người nói: Chung về tâm hành sáu thức nên nói Trụ, vì ba tâm trước không tham ái: Ở đây đều không như vậy, trong kinh nói thức trụ không nói hành trụ, làm sao nói thuộc về tâm hành trụ.

Có người lại giải thích rằng: Trong tông ấy tưởng thọ và hành, là danh thức chung, nên nói Thức trụ. Nêu nói tâm hành là chung danh, thức nói Thức Trụ, là luận chung chẳng khác nhau, làm sao phân biệt bốn thức trụ khác nhau. Nên biết trong Luận Thành Thật cũng đứng về sáu thức mà nói là thức trụ. Do đâu mà biết được? Trong Luận Tỳ-đàm: Thuộc chung về sáu thức nói là thức trụ. Luận Thành Thật không trái nên biết rõ dụng ấy. Lại các nghĩa tánh tham trong sáu thức trụ, chấp không khác, nên nhiếp chung để nói thức trụ.

Hỏi: Nếu thuộc chung về sáu thức nói thức trụ ấy, tâm của sáu thức duyên riêng một sắc, không duyên pháp khác, làm sao có được bốn món thức trụ?

Giải thích: Nhiếp chung về tâm sáu thức nói bốn thức trụ, chẳng phải cho rằng mỗi món đều có bốn trụ.

Lại hỏi: Năm thức chỉ ở một niệm, vì sao gọi là Trụ?

Ở đây nói Trụ, là trụ chấp gọi là trụ chấp, không do kinh dừng nói là Trụ; một niệm năm thức, cũng được gọi là Trụ.

Hỏi: Vì sao chỉ nói các ấm sắc, thọ, tưởng, hành dùng làm thức trụ, không còn nói thức dùng làm Thức trụ? Nếu theo Luận Tỳ-đàm nói: thức là tâm vương, hai vua khác nhau nên không nói thức vì thức trụ. Nếu theo Luận Thành Thật, khi thức thiếu thức, cho nên không nói thức là thức trụ. Vì sao thiếu thức? Trong sáu thức chỉ có ý thức thông đủ niệm tương tục còn năm thức khác hạn cuộc ở một niệm, không chung nối tiếp, không như sáu tưởng, sáu thọ, sáu hành đều thông tục niệm, cho nên nói thức thiếu vì thiếu nên không nói.

Lại phân ra hai nghĩa năng trụ, sở trụ khác nhau nên không nói thức là thức trụ. (môn thứ nhất xong).

2. Kế là phân biệt theo hữu lậu và vô lậu:

Bốn ấm hữu lậu, thuộc về thức hữu lậu gọi là Thức trụ, vô lậu thì không, vì sao như vậy?

Trong Luận Tỳ-đàm giải thích: Pháp vô lậu phá hoại thức hữu lậu nên chẳng phải Thức trụ. Lại thức vô lậu, nhàm pháp hữu lậu, cũng chẳng phải thức trụ. Lại thức vô lậu đối với pháp vô lậu, cũng không tham chấp, cho nên không có thức trụ, thức hữu lậu đối với pháp vô lậu ưa chấp không xả, nên gọi là Thức trụ. Trong Luận Thành Thật cũng đồng. (môn thứ hai đã xong).

3. Kế y cứ các địa phân biệt thức trụ:

Địa là chín địa, bắt đầu từ cõi Dục cho đến cõi Phi tưởng. Nếu theo Luận Tỳ-đàm, phải ngay địa pháp so với địa thức để nói thức trụ, địa khác thì không vì thô tế khác nhau, nếu như vậy là nương lúc thân ở địa dưới khởi tâm ở địa trên thì thân ở địa dưới lẽ ra chẳng phải Thức trụ.

Luận tự giải thích: Trụ tướng thành tựu cũng gọi là Thức trụ. Nếu theo Luận Thành Thật, không luận là tự địa và cùng với tha địa, hễ có duyên chấp thì gọi là Thức trụ. (môn thứ ba đã xong).

4. Kế y cứ ba đời phân biệt nghĩa trụ:

Nếu theo Luận Tỳ-đàm, ở trong ba đời, đồng thời nương nhau, đây gọi là Thức trụ, khác thời thì chẳng phải. Nếu theo Luận Thành Thật, trong ba đời bất luận đồng thời hay khác thời hễ khiến duyên chấp, đều là Thức trụ. Không phân biệt nghĩa bốn thức trụ, nói sơ lược như vậy.

5. NGHĨA CỦA BỐN CÁCH ĂN, CÓ CHIA RA HAI MÔN

  1. Nói về tướng
  2. Phân biệt theo thú.

1- Nói về tướng: Nói bốn cách ăn: Là đoạn thực, xúc thực, tư thực và thức thực. Bốn cách ăn này, các luận giải thích khác nhau. Nếu theo Luận Thành Thật, các việc canh, cơm gọi là đoạn thực; lạnh, nóng v.v… gọi là Xúc thực, hoặc có chúng sinh dùng tư thực để nuôi mạng sống, gọi là Tư thực. Tuy nói như vậy nhưng không biết tư về cái gì ?

Có người giải thích: Tư nghiệp quá khứ, là mạng căn khiến mạng căn không dứt nói là Tư thực. Nếu như vậy, thì tất cả chúng sinh đều có thọ mạng là đều nhờ do tư, chẳng nên nói không, hoặc phải nên dùng tư tưởng hiện tại kia mà nuôi sống bản thân.

Nói Tư thực: Như tư huyền diệu được không chết v.v… tâm thức hữu lậu, quả báo thọ mạng không hoại gọi là Thức thực. Nếu theo Luận

Tỳ-đàm: Hương, vị, xúc v.v… trong cõi Dục là đoạn thực. Trong pháp xúc hữu lậu tâm sở. Có thể biết tất cả pháp tâm tâm sở, khiến pháp không tán hoại là xúc thực; tư hữu lậu thường khởi, sau không dứt gọi là tư thực. Tâm thức hữu lậu là tâm vương khiến cho tất cả các pháp tâm sở giữ gìn không hoại, gọi là Thức thực.

Hỏi: Vô lậu vì sao không ăn?

Giải thích rằng: Vô lậu tướng hoại nối tiếp, cho nên không ăn. (môn thứ nhất xong)

2- Kế nói theo các đường: Trước nói về sinh ấm trong địa ngục các luận giải thích khác nhau. Nếu theo Luận Thành Thật thì chỉ có thức thực. Trong Luận Tỳ-đàm có đủ bốn thực. Trong luận ấy nói: Ở địa ngục nuốt hoàn sắt nóng, có thể trừ được đói khát, tức là đoạn thực; còn ba tâm khác pháp thường có nên biết, hai đường ngạ quỷ, súc sinh đều có bốn cách ăn. Trong loài người thì không nhất định. Nếu có tâm thì đều có bốn cách ăn. Tâm diệt, luận nói khác nhau. Nếu theo Luận Tỳ-đàm thì nói các việc của đoạn thực khiến cho thân không hoại, lại không có cách ăn khác, cho nên trong tông luận nhập diệt định xa nhất là bảy ngày thì phải xuất định, nếu quá bảy ngày thế lực của đoạn thực hết, đứng dậy thì thân hoại. Trong Luận Thành Thật, tâm diệt là hiện tại tuy không có nhưng tâm thức vẫn còn cũng gọi là Thức thực. Vì thức thực nên nhập định diệt tận tuy qua nhiều thời gian thân cũng không hoại. Trong cõi trời không nhất định. Các vị trời cõi Dục, giống với người. Các vị trời cõi Sắc. Nếu theo Luận Thành Thật; chỉ có thức thực. Trong Luận Tỳ-đàm nói có tâm thức nhưng không có đoạn thực mà có ba loại khác. Nếu tâm diệt, thì bốn cách ăn đều không có. Cõi trời Vô sắc, đồng với hữu tâm trong cõi Sắc.

Trong cõi Vô sắc vì không có tâm diệt nên sinh ấm như vậy.

Kế nói về Trung ấm: Trong Luận Thành Thật: Tất cả Trung ấm chỉ có thức thực. Trong Luận Tỳ-đàm thì không nhất định. Trung ấm cõi Dục có đủ bốn cách ăn tùy theo tâm khởi thì lại ăn hướng đến mùi hương, dùng làm đoạn thực, còn ba tâm pháp vẫn có thể tự biết. Trung ấm cõi Sắc, tuy không có đoạn thực, nhưng có ba loại khác. Trong luận nói: Trung ấm tuy có ba cách ăn, tư thực rất tăng mạnh nhất vì để cầu sống. Bốn cách ăn như vậy.

NGHĨA NĂM ẤM, CÓ BẢY MÔN:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Nói về tướng.
  3. Thứ lớp trước sau.
  4. Phân biệt ba tánh.
  5. Phân biệt hữu lậu, vô lậu
  6. Phân biệt thường, vô thường
  7. Ba cõi có không

1. Giải thích tên gọi : Nói năm ấm, đó là sắc thọ tưởng hành thức. Có chất ngại gọi là sắc. Lại thân hiện cũng gọi là sắc, lãnh nạp gọi là thọ.

Trong Luận Tỳ-đàm nói giác biết là thọ; chấp tướng là tưởng. Trong Luận Tỳ-đàm nói: Theo sự hiểu biết gọi là Tưởng, tạo tác gọi là Hành, rõ biết gọi là Thức. Trong Luận Tỳ-đàm cũng nói phân biệt gọi là thức. Năm loại này, trong kinh gọi là ấm, cũng gọi là chúng, chứa nhóm gọi là ấm, ấm chưa nhiều pháp nên gọi là Chúng.

Hỏi: Một sắc, một thọ, tưởng v.v… chứa nhóm không nhiều, vì sao gọi là Ấm mà lại gọi là chúng?

Giải thích rằng: Đây là phần của các ấm tích tụ nên gọi là Ấm, nhiều phần trong đó nên gọi là Chúng. Như trong chúng Tăng thỉnh được một người gọi là thỉnh chúng tăng, ở đây cũng như vậy. (đây là xong môn thứ nhất).

2. Kế nói về thể tướng:

Thể của sắc ấm, ly hợp không nhất định, nhưng tóm lại chỉ có một sắc, hoặc chia làm hai:

1. Trong; 2. Ngoài.

Năm căn như nhãn v.v.. là nội sắc, sáu trần như sắc v.v… là ngoại sắc, hoặc chia làm ba. Như trong Luận Tỳ-đàm nói:

  1. Có thể đối với thấy, nghĩa là mắt có thấy các màu sắc như xanh, vàng v.v…
  2. Không thể thấy hữu đối, nghĩa là tai, mũi, lưỡi, thân vận hành được với sắc.
  3. Không thể thấy sắc vô đối, sắc của ý căn vận hành vô tác.Hai sắc trước, vì nó đối với ngại sắc căn nên gọi là hữu đối.

Một cái sau vô tác, không bị đối với ngại sắc căn nên gọi là vô đối.

Trong Luận Thành Thật nói vô tác phi sắc tâm cho nên chỉ có hai cái trước, sơ lược không có cái thứ ba. Hoặc chia làm sáu gọi đó là sáu trần; sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.

Năm cái trước có thể tự biết; Pháp, trần và sắc nếu theo Luận Tỳđàm: Năm căn vô tác là pháp trần sắc. Trong Luận Thành thật, chưa qua năm căn, năm trần, bốn đại giả gọi đó là sắc. Pháp trần sắc này là pháp trần sắc. Hoặc chia làm mười. Như trong kinh Niết-bàn có nói: cho nên phẩm Thượng hạ trong kinh Niết-bàn đều nói mười sắc, năm căn, năm trần là mười. Vì sao trong kinh Niết-bàn không nói vô tác? Trong kinh ấy nói vô tác chỉ là sắc pháp, chẳng phải việc của sắc, thành thân tướng kém cho nên không nêu bày, hoặc phân thành mười một, như trong Luận Tỳ-đàm nói: Năm căn, năm trần và sắc vô tác là mười một. Thuyết ấy, vô tác là tánh của nghiệp thân miệng, do bốn đại tạo thành thâu vào sắc ấm. Trong Luận Thành Thật sắc có mười bốn; năm căn, năm trần và cùng với bốn đại thành là mười bốn. Có chỗ nói: Trong Luận Thành Thật nói: Tiếng không thành người, chẳng phải sắc ấm. Ở đây nói không phải như vậy, ấm chứa nhân nghĩa khác, thành nhân pháp khác, đâu được nói không thành người nên nói tiếng chẳng phải ấm.

Vì sao ấm khác, thành người pháp khác? Vì ấm có cả trong ngoài, thành người chỉ ở trong; ấm có cả sắc thanh, thành người chỉ có sắc, là khác với thanh. Làm sao biết thanh là sắc ấm? Như phẩm Sắc tướng trong Luận Thành Thật nói: Nói sắc ấm là bốn đại và đại đã do sắc hương vị xúc, cũng do bốn đại hợp thành năm căn là các tướng xúc cho nên có thinh. Nêu pháp này để giải thích thể tướng của sắc ấm, thì sao chẳng phải là sắc ấm. Lại trong Luận Tỳ-đàm nói thanh là ấm, Luận Thành Thật không trái, nên biết đó là dụng chung.

Hỏi rằng: Trong Luận Tỳ-đàm nói sắc vô tác dùng làm sắc ấm, vì sao trong Luận Thành Thật không nói ?

Giải thích: Trong Luận Thành Thật nói: Vô tác là phi sắc tâm, thuộc về hành ấm, không thuộc sắc ấm, nên ở đây không nói.

Hỏi rằng: Luận Thành Thật nói ngoài căn trần, có riêng bốn đại, dùng làm sắc ấm. Trong Luận Tỳ-đàm sao không như vậy?

Giải thích rằng: Trong Luận Thành Thật nói: Bốn đại là sắc giả danh, xem xét bốn trần thật có thể thành năm căn không thâu nhiếp căn trần nên nói riêng. Trong Luận Tỳ-đàm, nói bốn đại là pháp thật nhiếp về sắc, xúc, nhập nên không nói riêng, sắc ấm như vậy.

Kế nói về thọ ấm, trong thể thọ ấm, rộng lược không nhất định, tóm lại chỉ có một thọ, hoặc chia làm hai:

  1. Thân thọ.
  2. Tâm thọ.

Như trong Địa Trì nói: Năm thức tương ưng gọi là Thân thọ, ý thức tương ưng gọi là Tâm thọ.

Hỏi: Năm thức là tâm chẳng phải thân, vì sao tương ưng với thọ đây gọi là Thân thọ?

Giải thích: Đây là từ sở y đặt tên, năm thứ thức nương thân năm căn mà sinh tâm ý, cho nên chỗ sinh thọ gọi là Thân thọ, ý thức nương tâm cho nên chỗ sinh thọ gọi là Tâm thọ.

Hơn nữa, khổ vui cũng được phân làm hai:

  1. Quả ác gọi là khổ.
  2. Quả thiện gọi là vui.

Tất cả báo thọ không ngoài hai nghiệp quả thiện ác.

Hỏi: Tại sao xả thọ xếp vào Thọ?

Giải thích: Xếp vào lạc, vì quả nghiệp thiện, hoặc chia làm ba:

  1. Khổ;
  2. Vui;
  3. Không có khổ vui.

Cũng gọi là xả thọ nói về ba thọ này lược có năm môn.

  1. Chia ba thọ.
  2. Định hơn kém.
  3. Nói chung và riêng.
  4. Sinh lỗi khác nhau.
  5. Nhằm bỏ khó dễ.

Y cứ trong môn thì có sáu môn:

1. Phân biệt ngay tướng, như phẩm Thọ Tướng trong Luận Thành Thật nói: Tổn não thân tâm gọi là khổ thọ, tăng ích thân tâm gọi là lạc thọ, không tổn không ích gọi là không có khỗ vui.

2. Đối nhân phân biệt. Tất cả quả ác, đây gọi là khổ, tất cả quả thiện, nói là lạc xả, nghĩa này thế nào? Theo Luận Tỳ-đàm thì Tam thiền rồi trở xuống là quả nghiệp thiện gọi đó là tứ thiền trở lên là nghiệp quả thượng thiện nói đó là xả. Trong tông ấy, tam thiền trở xuống không xả thọ báo. Nếu theo Luận Thành Thật thì chia thiện làm hai:

3. Tán thiện cõi Dục

4. Định thiện thượng giới

Nghiệp quả tăng thượng trong tán thiện nói là lạc thọ, nghiệp quả kém cỏi gọi là xả thọ, do xả thọ này chỉ có lạc vi tế nên khó nhận biết.

Hỏi: Trong khổ cũng có nghiệp quả bất thiện vi tế bậc hạ sao gọi là xả mà chỉ nói lạc bậc hạ là xả thọ?

Giải thích: quả khổ trái với pháp hại, tánh trái với tình, có nhẹ tức là giác nên vào trong khổ không được gọi là xả. Quả lạc thuận với chúng sinh (tình) chẳng phải tất cả tâm pháp. Vì vi tế khó hiểu biết nên chia ra xả, lại tất cả hai thọ khổ vui, đều dụng hành khổ vi tế làm thể. Đối với hành khổ nói là khổ thọ, khổ thọ ắt nặng là tâm biết não nên không gọi là xả. Trên hành khổ nói lạc thọ tức lạc thọ vi tế. Đối với bậc trung, bậc thượng vừa ngay nơi tướng gọi là Lạc. Kém cỏi đó là chẳng phải tâm nặng giác nên gọi chung là xả. Trong định thiện nghiệp quả bậc hạ gọi là lạc. Tứ thiện trở lên, nghiệp quả thiện thù thắng gọi đó là xả. Do kia vắng lặng khó nhận biết.

1. Đối duyên phân biệt, duyên có ba loại: Nghĩa là trong trái thuận, trái duyên bức não gọi là khổ thọ, thuận duyên sinh thích hợp gọi là lạc thọ, cảnh được sinh gọi là xả thọ.

2. Đối tướng phân biệt, thích hợp với tướng đã khởi gọi là lạc thọ, không thích hợp với tưởng mà sinh gọi là khổ thọ trong chứa tưởng phát gọi là xả thọ.

3. Đối hạnh phân biệt, sinh sân là khổ, khởi tham là lạc, sinh si là xả.

Phân biệt theo thời gian: Trong đó, đối với ba duyên để nói nếu đối với duyên trái, lúc tương ưng là lúc khổ lìa sinh vui, lìa lâu thì xả; nếu đối với duyên thuận khi mới thọ thì sinh vui, chặng giữa thọ thì xả, thọ lâu thì khổ. Hoặc có thuận duyên, lúc tương ưng, lúc lìa thì sinh khổ, lìa lâu thì xả; nếu đối với trong duyên, lúc mới thọ thì xả, thọ lâu sinh khổ, lúc lìa sinh vui. Hoặc có trong duyên, lúc mới thọ thì xả, thọ lâu ưa đắm thì sinh lạc thọ, lúc lìa sinh khổ. Do sáu nghĩa này nên chia thọ làm ba.

Kế nói về ba thọ hơn kém khác nhau. Khổ thọ kém nhất, hai thọ lạc xả thì thượng trung không nhất định. Nếu theo Luận Tỳ-đàm: Thì lạc thọ nhất định là bậc hạ, xả thọ nhất định là bậc thượng. Vì quả thượng thiện. Nếu theo Luận Thành Thật ở cõi Dục, xả thọ là trung, lạc thọ là thượng, ở hai cõi trên, lạc thọ là trung, xả thọ là thượng.

Kế nói ba thọ: Ba thọ có chung và riêng. Theo Luận Tỳ-đàm: Nếu hạn cuộc ở cõi Dục thì lạc chung cõi Dục, cõi Sắc; xả chung cả ba cõi. Trong Luận Thành Thật phần thô đồng với thuyết của Tỳ-đàm, dùng thật tế để nói thì đều chung cả ba cõi, nên văn kia nói, khổ vui tùy theo thân đến Tứ thiền, ưu hỷ tùy tâm cho đến Hữu đảnh.

Kế nói ba thọ sinh lỗi khác nhau. Trong đó có hai:

1. Nói ba thọ sinh lỗi nhiều ít. Khổ sinh lỗi ít, hạn cuộc ở cõi Dục, vì sân, khuế. Trong cái lạc sinh lỗi ở cõi Dục, cõi Sắc, hay sinh pháp bất thiện ô uế. Xả có rất nhiều lỗi chung khắp trong ba cõi, sinh đủ tất cả các phiền não.

2. Nói về ba thọ sinh lỗi nặng nhẹ: Xả thọ nặng nhất sinh khởi tà kiến, dứt mất thiện căn vì làm xiển đề. Lại sinh vô minh làm ra tất cả cội gốc sinh tử, khổ thọ và lạc thọ thì nặng nhẹ không nhất định. Nếu nói về việc đã làm, vui nặng khổ nhẹ. Vì cầu lạc thọ nên phần nhiều tạo tội. Nếu nói về chỗ sinh, thì khổ nặng lạc nhẹ, tức giận là tội lớn, vì từ khổ sinh. Ba thọ sinh lỗi khác nhau như thế.

Kế nói ba thọ nhàm bỏ khó dễ, trong đó có hai:

1. Nói ba thọ khởi nhàm khó dễ. Trong cõi Dục có ba thọ, khổ thọ vì dễ nhàm lìa, vì người ghét ác. Xả thọ thì khó theo thứ lớp vì không phiền não. Lạc thọ khó giữ nhất vì tham ái sâu. Nếu nói về cõi trên thì trong xả thọ và lạc thọ, lạc thọ dễ chán do thô động nên dễ ghét ác; xả thọ khó nhàm lìa, do vắng lặng khó nhận biết.

2. Nói về sự khó dễ của ba thọ: Khi được Sơ Thiền xả thọ và khổ thọ dễ xả vì đã xa lìa.

Hỏi: Nếu nói Sơ thiền lìa khổ, vì sao trong kinh nói Nhị thiền diệt khổ?

Giải thích: Sơ thiền có ba món thức trụ là nhãn, nhĩ, thân. Ba thức này làm cội gốc cho khổ của thân nương gá chỗ nương chưa hết nên không nói Sơ thiền diệt khổ. Thật ra Sơ thiền dứt hết khổ thọ. Lạc thọ thì khó hơn, đến Tứ thiền thì diệt hết. Xả thọ khó nhất, khi Niết-bàn mới diệt. Ba thọ như vậy, hoặc chia làm năm. Đó gọi là ưu, khổ, hỷ, lạc và xả. Năm thứ này tùy chỗ không nhất định. Nếu ở cõi Dục trong năm thức, bức não gọi là Khổ, vui thích gọi là Lạc, trong ý thức suy nghĩ, ưu não gọi ưu, vui vẻ gọi là hỷ.

Trong sáu thức địa trong đó chứa tâm thọ. Xả, khổ và lạc v.v… gọi đó là xả.

Hỏi: Vì sao khổ thọ và lạc thọ trôi đến ý địa lại gọi là ưu, hỷ còn xả thì không như vậy mà trong sáu thức địa gọi chung là xả.

Giải thích: Khổ, lạc từ tưởng vi tế sinh; hai thọ; ưu, hỷ từ tưởng mạnh phát vì vậy phải chia. Trong sáu thức, xả đồng do tưởng vi tế sinh, vì vậy không chia. Cõi Dục như vậy. Nếu ở Sơ thiền, ba thức nhãn, nhĩ và thân trong thân vui thích gọi là lạc, trong địa ý thức vui gọi là hỷ; trong bốn thức của thân có tâm thọ nói đó là xả.

Trong hỷ thọ, định trong ngoài, còn hai cái định ngoài, Sơ thiền trở lên, không có tỷ, thiệt, thức cũng không có ưu, khổ vì vậy không nói. Ở cõi Nhị thiền, chỉ y cứ ý thức, nói hỷ nói xả. Ở Tam thiền chỉ nói ý địa; nói lạc, nói xả đã ở ý địa. Sao không gọi là hỷ mà nói là lạc, vì tánh lạc này tuy ở ý địa mà không được gọi là hỷ. Cho nên trong Tạp Tâm, nói lấy đó làm ý hạnh lạc căn. Trong kinh Niết-bàn nói hạ gọi là hỷ, thượng gọi là lạc, thô cũng giống như thế, Tứ thiền trở lên chỉ có ý xả, không có nghĩa khác. Năm thọ như vậy. Hoặc chia làm sáu gọi là sáu căn sinh ra thọ. Hoặc chia ra mười tám do sáu căn sinh, mỗi căn đều có khổ vui, không khổ không vui, nên có mười tám.

Lại trong Luận Thành Thật nói: Mười tám ý hạnh, cũng là mười tám. Nghĩa là năm ý thức, ý thức thứ sáu sinh cũng đều có ưu, hỷ; không ưu không hỷ, nên thành mười tám. Hoặc lại chia thành ba mươi sáu thọ, như trong Luận Thành Thật nói: Sinh sáu căn đều có khổ, vui; không khổ không vui đều chung nhiễm tịnh hợp thành ba mươi sáu thọ. Hoặc chia ra một trăm lẻ tám, như Ngài Long Thọ nói: Ba mươi sáu cái trước chia theo ba thời nên có một trăm lẻ tám, nếu phân biệt rộng, thọ chính là vô lượng, thọ ấm như vậy.

Thể tưởng ấm: Là khai hợp không nhất định, bao gồm thành một tướng. Hoặc chia làm ba:

  1. Hợp với tưởng.
  2. Không hợp tưởng.
  3. Không thích hợp chẳng phải không thích hợp tưởng: Chấp thuận gọi là thích hợp: Chấp trái thì không thích hợp chấp trung dung gọi là không thích hợp chẳng phải không thích hợp với tưởng. Hoặc chia làm sáu; là sáu thức tương ưng với tưởng. Hoặc chia ra mười tám: Trong sáu tưởng, mỗi tưởng có ba món, thích không thích v.v… thành mười tám. Tùy duyên hiện tưởng, tưởng cũng vô lượng, tưởng ấm như vậy. Thể của hành ấm rộng lược không nhất định, bao gồm chỉ có một hạnh.

Hoặc chia làm hai:

  1. Tâm pháp.
  2. Phi tâm pháp.

Trong tâm pháp, theo Luận Tỳ-đàm; nói sơ lược, có bốn mươi sáu, thuộc về hành ấm; có bốn mươi bốn. Bốn mươi sáu, thông địa có mười: 1- tưởng; 2- dục; 3- xúc; 4- tuệ; 5- niệm; – tư; 7- giải thoát; 8-ức; – định; 10- thọ.

Thiện địa có mười, đó là vô tham, vô sân, tàm, quý, tín, ỷ, bất phóng dật, bất hại, tinh tấn và xả. Chung với trước thành hai mươi. Bất thiện có hai là vô tàm, vô quý. Lấy đây chungvới trước thành hai mươi hai. Trong đại phiền não có năm tâm sở: Bất tín, biếng nhác, vô minh, trạo và buông lung chung ở trước thành hai mươi bảy.

Trong tiểu phiền não có mười loại: Phẫn, hận cuống, san, tật, não, siễm, phú, cao và hại. Chung ở trước thành ba mươi bảy. Số khác có năm là giác, quán, thùy, miên và hối chung ở trước thành bốn mươi hai.

Trong mười sử, riêng có bốn tâm sở đó là tham, sân, mạn, nghi chung trước thành bốn mươi sáu đây v.v… như trước nói ba cõi trong đó có phân biệt đầy đủ.

Nói thuộc về bốn mươi bốn hành ấm, trong bốn mươi sáu tâm pháp ở trước, trừ thọ trừ tưởng, còn tất cả đều thuộc về hành ấm.

Hỏi rằng: Vì sao trong các tâm pháp, riêng phần thọ tưởng, chia riêng hai ấm không xếp vào hành?

Trong Tạp Tâm Giải thích: Thọ là ái căn, tưởng là gốc của kiến bổn. Do hai thứ này mà trôi lăn trong sinh tử, nên phải phân biệt. Lại trong luận nói: Thọ tu các thiền, tưởng tu vô sắc, do hai loại này mà có nghĩa địa mạnh khác nhau lập ấm riêng.

Trong Luận Thành Thật; tâm pháp vô lượng, trừ thức, tưởng, thọ còn tất cả đều thuộc hành ấm. Tâm pháp như vậy.

Trong phi tâm pháp: Y như trong Luận Tỳ-đàm: Nói mười bốn món bất tương ưng hành là chẳng phải sắc tâm. Ở đây cũng như ba cõi trước vì trong có phân biệt rộng. Trong LuậnThành Thật, hỉ nói vô tác là sắc tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Năm ấm chung, đều là hành, vì sao, nói riêng một pháp này là hành ấm?

Tạp Tâm Giải thích: Trong hành ấm, hành hữu vi nhiều cho nên gọi riêng là hành còn trong bốn ấm, vì nhiếp hành ít, lại cùng khác tên, hành ấm như vậy.

Kế nói về thức ấm khai hợp không nhất định bao gồm chỉ một thức hoặc chia làm hai:

  1. Hữu lậu.
  2. Vô Lậu.

Hoặc chia làm ba:

  1. Thiện.
  2. Ác.
  3. Vô ký.

Hoặc chia làm bốn:

  1. Thiện.
  2. Ác.
  3. Ẩn một vô ký

Nghĩa là cõi Dục có thân kiến, biên kiến và tất cả tâm tương ưng với phiền não ở hai cõi trên.

4. Bạch tịnh vô ký, đó gọi là tâm báo sinh oai nghi công xảo biến hóa.

Hoặc chia làm sáu, đó gọi là sáu thức, bắt đầu từ nhãn thức cho đến ý thức.

Hoặc chia làm bảy, nghĩa là bảy tâm giới trên sáu thức trước cộng thêm thân ý căn, là bảy tâm.

Hoặc chia làm chín:

  1. Phương tiện tâm thiện
  2. Tâm thiện sinh đắc.
  3. Tâm bất thiện
  4. Ấm một vô ký.
  5. Tâm báo sinh.
  6. Tâm oai nghi.
  7. Tâm công xảo.
  8. Tâm biến hóa..
  9. Tâm vô lậu.

Hoặc chia làm mười:

  1. Phương tiện tâm thiện: Nghĩa là tương ưng tất cả tâm văn, tư, tu, thọ v.v…
  2. Tâm thiện sinh đắc: Tâm tập khí quá khứ đã thành tương ưng tín, tấn, niệm v.v…
  3. Tâm bất thiện: Nghĩa là trừ thân kiến, biên kiến cõi Dục còn tất cả tâm bất thiện kiết nghiệp tương ưng.
  4. Ẩn một vô ký: Nghĩa là hai Pháp thân kiến, biên kiến trong cõi Dục tương ưng với tất cả tâm phiền não với hai cõi trên.
  5. Tâm báo sinh: Nghĩa là tâm báo vô ký trong ba cõi.
  6. Tâm oai nghi: Là tất cả các tâm đi, đứng, ngồi, nằm, thấy, nghe.
  7. Tâm công xảo: Nghĩa là tất cả tâm doanh sinh.
  8. Tâm biến hóa: Nghĩa là khởi niệm này, ta sẽ hóa thành sự nghiệp như vậy, tâm như vậy.
  9. Tâm học: Nghĩa là người Ba thừa nhân thể vô lậu và học đẳng kiến, trong nhân Ba Thừa dứt kiết vô lậu học tâm thể này quán vô lậu, là học đẳng kiến.
  10. Tâm vô học: Nghĩa là quả thể vô lậu của người Ba thừa và vô học đẳng kiến. Trong quả Ba thừa đều là trí vô sinh là thể vô học, du quán vô lậu là vô học đẳng kiến. Hoặc phân mười hai, như Tạp Tâm nói: cõi Dục có bốn:
  1. Tâm thiện.
  2. Tâm bất thiện.
  3. Ẩn một vô ký.
  4. Bạch tịnh vô ký.

Cõi Sắc có ba, trong bốn cái trước trừ tâm bất thiện, có ba món khác, Vô sắc cũng vậy, mười hai món hữu lậu này và Học, Vô học thành mười hai. Hoặc chia ra hai mươi:

Cõi Dục có tám:

  1. Thiện phương tiện
  2. Thiện sinh đắc
  3. Tâm bất thiện
  4. Tâm ẩn một
  5. Tâm báo sinh
  6. Tâm oai nghi
  7. Tâm công xảo
  8. Tâm biến hóa

Nghĩa là nương thiền trên làm cõi Dục hóa cõi Sắc có sáu, trong tám món trước trừ tâm bất thiện và tâm công xảo. Tất cả thượng giới không có tâm bất thiện và tâm công xảo, nên có sáu món khác.

Vô sắc có bốn, trong tám món trước, trừ tâm bất thiện, oai nghi, công xảo và biến hóa, có bốn món khác và Học, Vô học thành hai mươi. Rộng thì vô lượng, thức ấm như vậy. (môn thứ hai đã xong)

3- Kế nói về nghĩa thứ lớp của năm ấm:

Các luận nói khác nhau. Trong Luận Tỳ-đàm: Năm ấm đồng thời, tùy nghĩa để nói.

Có hai thứ lớp:

  1. Thuận.
  2. Nghịch.

Thuận thứ lớp: Trước nói về sắc ấm, kế là thọ, kế là tưởng, kế nữa là hành sau đó là thức. Vì sao như vậy?

Luận giải thích có ba:

1. Thứ lớp thô tế, sắc ấm thô nhất, tướng trạng rõ ràng nên trước nói về sắc. Thọ tế hơn sắc, thô hơn các tâm pháp khác. Như người bị các bịnh đầu và chân, nên cảm thấy não căng ra, kế nói về thọ. Tưởng tế hơn thọ, thô hơn các tâm pháp khác. Tướng chấp rõ ràng nên kế nói về tưởng. Hành tế hơn tưởng và thọ, thô hơn tâm thức. Tác dụng tướng hiển nên kế là nói hành. Thức tâm sâu kín nhất nên nói ở sau.

2. Thứ lớp phá lo, như trong luận nói: Từ trước đến nay, nam vì nữ sắc, nữ vì nam sắc, đắm nhiễm sắc xứ, trước quán sắc ấm, khiến người nhàm lìa, vì tham lạc thọ nên đắm nhiễm ở sắc, kế quán thọ. Vì tưởng điên đảo, khởi tham thọ lạc, kế quán tưởng. Do hành tham, ái, phiền não nên khởi tưởng điên đão, kế là quán hành. Vì để nương tâm nên khởi hành phiền não, sau quán thức. Ba quán nhập thứ lớp. Như trong luận nói: Hai món quán sắc vào trong Phật pháp thành môn cam lộ.

  1. Quán bất tịnh.
  2. Niệm hơi thở.

Trước quán sắc, vì quán sắc lại biết thọ là hư vọng kế là quán thọ, biết thọ là hư vọng rồi, vì không có tưởng điên đảo.

Kế là quán tưởng, vì tưởng không điên đảo nên phiền não không hiện hành kế quán hành; phiền não không hiện hành, thì tâm kham nhẫn nên kế là quán thức. Từ trước đến nay ba món ấy là thuận thứ lớp.

Nghịch thứ lớp: Là quán ngược với trước. Như trong luận nói: Sinh tịnh hay uế đều do tâm làm gốc nên trước quán thức. Nhờ quán thức nên phiền não kém mỏng nên kế là quán hành. Vì phiền não kém mỏng, lại khởi pháp tưởng. Tưởng đối với tất cả khổ vô thường nên kế nói về tưởng. Vì khởi pháp tưởng nên tham thọ không sinh nên kế là quán thọ. Vì tham thọ dứt nên có thể thấy được lỗi của sắc nên kế quán sắc. Đây là nghịch thứ lớp. Trong Luận Tỳ-đàm nói như vậy.

Trong Luận Thành Thật: Ấm khởi trước sau không được đồng thời thứ lớp thế nào? Trước nói về sắc ấm kế là thức, kế là tưởng, kế là thọ, sau là hành. Vì sao như vậy? tâm thức khởi, phải nương gá sáu căn. Trong năm thức nương năm sắc căn là một loại ý thức nương vào ý căn. Từ nhiều thành luận, thức nương sắc sinh, nên trước nói sắc. Thứ hai nói về thức. Đối với thức sở duyên, phân biệt chấp tướng nên kế là nói về tưởng. Ở chỗ chấp tưởng, lãnh nạp trái thuận, chẳng phải trái chẳng phải thuận nên kế là nói về thọ. Đối với pháp sở thọ, khởi tham, sân v.v… nên kế là nói về hành. Trong pháp Đại thừa, cũng nói thể tánh năm ấm đồng thời, tùy dụng ẩn hiển, chẳng phải không có trước sau, thứ lớp trong ấy, phần nhiều đồng với Luận Tỳ-đàm. (môn thứ ba đã nói xong).

4- Kế y cứ ba tánh phân biệt năm ấm.

Nói ba tánh: Là tánh thiện, ác, tánh vô ký. Theo Luận Tỳ-đàm:

Ấm có chín, từ tướng chia thành ba đó gọi là chín:

  1. Ấm của thiện sinh đắc.
  2. Ấm của thiện phương tiện.
  3. Ấm của thiện vô lậu.
  4. Năm ấm bất thiện.
  5. Năm ấm ô uế.
  6. Năm ấm báo sinh.
  7. Năm ấm oai nghi.
  8. Năm ấm công xảo.
  • Thiện Sinh đắc: Là tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay từng tu thiện căn, không khởi tà kiến dứt bặt đến nay, thiện này nối tiếp sinh ra liền được đó gọi là sinh đắc thiện, sinh đắc thiện căn khởi thân khẩu nghiệp là sắc ấm kia, còn các tâm khác là bốn ấm khác.
  • Thiện phương tiện: Là ở đời hiện tại, gần bạn lành nghe pháp, tư duy tu tập khởi các thiện căn là thiện phương tiện. Trong đó khởi nghiệp thân khẩu đó là sắc ấm. Các tâm pháp khác là bốn ấm còn lại.

Hỏi: Phương tiện thiện và sinh đắc thiện là đồng hiện khởi có gì khác nhau?

Giải thích: Hai phần này ngang nhau rất khó biết, chỉ do tập khí đời trước theo tánh mà khởi là sanh đắc thiện. Vì nhờ người khác giáo hóa, nghe pháp tư duy, khởi năng lực khuyến khích là phương tiện thiện.

  • Thiện vô lậu: xa lìa ràng buộc, hợp lý tương ưng, là thiện vô lậu ở Trung đạo và luật nghi vô lậu là sắc ấm. Còn các tâm khác là bốn ấm khác.
  • Nói bất thiện: Là tất cả vô tàm vô quý là ấm bất thiện. Trong đó khởi nghiệp ác thân miệng là sắc ấm ấy còn bốn pháp khác thì có thể tự biết.

Hỏi: Pháp thiện ác đối nhau, trong thiện có sinh đắc phương tiện, vì sao bất thiện nói chung là một, không chia thành hai?

Giải thích: Đều là loại lý cũng nên như vậy nhưng nay vì nói pháp ác xưa nay thành chín phẩm tánh, chẳng phải là phương tiện tấn tập mới đủ cho nên ẩn tên của phương tiện ấy. Đã ẩn phương tiện thì sinh đắc cũng bỏ. Trở lại pháp thiện, khó được thành liền phải chia thượng hạ khiến cho dần dần tu tập, nói khác đi đối với sinh đắc và phương tiện dễ dứt pháp ác, tướng chung nhàm lìa: Vì thế không chia riêng hai pháp sinh đắc và phương tiện.

  • Nói ô uế: Hai chấp thân kiến, biên kiến trong cõi Dục, và tất cả phiền não ở hai cõi trên, có năng lực làm tâm nhiễm ô gọi là ô uế. Phiền não ô uế ở trong Sơ thiền, có thể động thân, miệng, đủ tánh năm ấm. Như Phạm Vương kia nói với các Phạm Chúng: Ông hãy ở đây, ta có khả năng giúp ông hết già, chết ngay, tức là nói dối. Con trâu dắt Hắc Xỉ đến chỗ vắng cầu xin là tham tà siểm. Thân và miệng này là sắc ấm. Còn các tâm pháp, là bốn ấm khác. Cõi Dục ô uế là phiền não mê lý không thể đích thân phát ra hai nghiệp thân, miệng.

Nhị thiền trở lên, phiền não sâu kín, không động thân, miệng. Trong cõi Vô sắc, không có nghiệp thân, miệng, một bề không phát, nên không có sắc ấm, nhưng có bốn cái khác.

  • Nói báo sinh: Là nhân quá khứ đã sinh ở các căn như nhãn, v.v… là báo sắc ấm. Tâm pháp v.v… kia, là bốn ấm khác.
  • Nói oai nghi: Là cử chỉ thân miệng. Khởi Sắc ấm tâm pháp đây là bốn ấm khác.
  • Nói công xảo: Là thân lo toan việc đời, miệng nói phần chỗ là sắc ấm. Bốn cái khác có thể tự biết.
  • Nói biến hóa: Nương vào thể chung, hoặc biến hóa sắc thân, hoặc biến hóa lời nói là sắc ấm. Khi muốn khởi biến hóa thì trước khởi niệm: Nay ta sẽ biến hóa sắc tượng như vậy, nói lời như vậy. Do đây khởi biến hóa pháp tâm và tâm sở là bốn ấm khác.

    Hỏi: Tâm biến hóa và thể chung của thân là một hay khác ?

Giải thích: Là khác. Tướng khác như thế nào? Tâm biến hóa là khởi tâm biến hóa.

Thân thông thể là khởi lực biến hóa. Lại nữa hóa tâm là phương tiện xa.

Thân thông thể là đích thân năng khởi hóa. Lại nữa hóa tâm chỉ là vô ký.

Thân thông thể có khi là thiện, có khi là vô ký. Vì sao như vậy?

Thông thể, có hai:

  1. Tu tuệ.
  2. Sinh tuệ.

Là y định tu đắc, là tu tuệ. Trời, rồng, quỷ v.v… không nhờ tập tánh, khởi biến hiện, là sinh tuệ kia.

Thể tánh Tu tuệ đây chỉ có thiện, tương ưng với định. Sinh tuệ là vô ký, lại là hóa tâm hoặc bao gồm tự địa, hoặc thuộc về tha địa, là khởi tự địa hóa, tức thuộc về tự địa, khởi tha địa hóa, thì thuộc về tha địa.

Nói về thông thể chỉ ở tự địa.

Hỏi: Sao không nương thẳng thông thể mà khởi biến hóa, lại riêng từ hóa tâm mà khởi biến hóa?

Tuy có thông thể sinh khởi hóa sự, nhưng nếu không có hóa tâm thì không bao giờ khởi hóa, nên phải hóa tâm.

Hỏi: Dù cho phải từ hóa tâm mà khởi hóa, đâu phải thông thể, hoặc không có thông thể?

Dù có hóa tâm, mà muốn hóa sự trước thì cũng không thể hiện, nên lại phải thông.

Hỏi: Hóa sắc là phải ngay từ hóa tâm mà hiện, hay phải chánh từ thể chung mà phát ?

Giải thích: Hóa sắc là nương ngay thông thể, là xa nương hóa tâm. Hóa tâm không thể đích thân động thân, miệng cho nên phải nương thông thể hóa. Chín ấm như vậy thì tướng từ ba pháp. Ba pháp đầu là thiện, năm pháp sau là vô ký. Trong Luận Tỳ-đàm như vậy. Trong Luận Thành thật, chỉ một hành ấm, gồm chung ba tánh. Còn các ấm khác đều là vô ký. Trong thuyết của Đại thừa phần nhiều đồng với Luận Tỳ-đàm. (môn thứ tư đã xong).

5. Kế là y cứ hữu lậu, vô lậu để phân biệt. Theo Luận Tỳ-đàm: Pháp vô lậu thứ ba trong chín loại năm ấm, còn tám pháp khác là hữu lậu. Trong Luận Thành Thật, nghĩa bao gồm có hai. Nếu dứt lậu nên gọi là Vô lậu, chỉ trong có tâm hành ngoài ra đều là hữu lậu. Nếu không sinh lậu gọi là vô lậu, năm ấm vô học một bề vô lậu. Năm ấm phàm phu một bề hữu lậu. Người học thì không nhất định. Nếu dứt chỗ kiết là vô lậu; chỗ kiết chưa hết gọi là hữu lậu.

Trong pháp Đại thừa, năm ấm chân đức hoàn toàn vô lậu; phần đoạn nhân quả một bề hữu lậu; nhân quả biến dịch tùy tướng vô lậu; thể tánh hữu lậu do tướng thuận lý nên gọi là vô lậu; vì tánh trái lý nên gọi là hữu lậu. (pháp thứ năm đã xong).

6. . Kế nói về nghĩa thường, vô thường của năm ấm: Trong pháp Tiểu thừa, một bề vô thường. Trong pháp Đại thừa, lấy phần đại vị. Năm ấm sinh tử, một bề vô thường. Năm ấm Niết-bàn một bề là thường. Cho nên trong kinh nói: Sắc là vô thường, nhân diệt là sắc được đắc thường sắc; thọ tưởng hành thức cũng giống như vậy. Tùy nói chung theo nghĩa. Năm ấm sinh tử, có thường và vô thường; Niết-bàn cũng vậy. Trong ấm sinh tử có tướng có thật. Sáu thức, bảy thức là tướng ấm. Như Lai Tạng khi ở Diệt Đế là ấm thật, tướng ấm vô thường thật ấm là thường. Ấm trong Niết-bàn có thể có dụng. Thể là thường như trên đã nói; dụng thì vô thường. Vì thế, trong kinh nói: Công đức trang nghiêm hữu vi là hữu lậu, hữu ngại là chẳng thường, vì tùy thời mà có sinh diệt. (môn thứ sáu đã xong).

7. Kế nói về nghĩa có không ở ba cõi: Trong pháp Tiểu thừa; bốn không Vô sắc, diệt định Niết-bàn hoàn toàn vô tâm. Định vô tưởng và báo vô tưởng hai luận nói khác nhau. Trong Luận Tỳ-đàm nói vô tâm, trong Luận Thành Thật nói có. Nên trong luận ấy nói: Phàm phu không thể diệt tâm tâm pháp, chỉ không có tâm thô nên nói vô tưởng. Trong pháp Đại thừa, cõi bốn không có sắc cho nên trong kinh Niết-bàn nói: Như trời Phi Tưởng, cũng Sắc Phi Sắc, ta nói Phi sắc, phi tưởng đã có. Ba loại sau cũng vậy.

Lại trong Đại thừa, nói định Vô tưởng cho đến Tiểu thừa, Vô Dư, Niết-bàn đều có tâm, sáu thức tuy mất nhưng tâm bảy thức còn, nên nói có tâm. Vì có tâm nên bốn ấm; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải không. Nghĩa của năm ấm, nói sơ như vậy.

ĐẠI THỪA NGHĨA CHƯƠNG

QUYỂN 8 ( Phần Đầu)

(HẾT)

 

ĐẠI THỪA NGHĨA CHƯƠNG

SỐ 1851

QUYỂN 08

Đời Tùy, Pháp Sư Tuệ Viễn soạn.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

(Phần Cuối)

7. NGHĨA SÁU ĐƯỜNG:

Có chia ra bốn môn:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Khai hợp.
  3. Nói về tướng.
  4. Nói về nhân.

1- Giải thích tên gọi:

Nói sáu đường: là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời, A-tula

Địa ngục: Như trong Tạp Tâm giải thích: không thể vui nên gọi là địa ngục. Trong Địa Trì giải thích: Tăng thượng đáng chán nên gọi là Nê-lê, Nê-lê là tiếng nước Phạm, Hán dịch là địa ngục, không vui đáng chán là một nghĩa. Giải thích hai nghĩa này, đều đối với tâm đáng chán để nêu rõ lỗi kia, chẳng phải ngay tướng giải thích danh nghĩa ấy. Nếu giải thích đúng thì địa ngục là y theo nơi chốn mà đặt tên, lao ngục ở dưới đất là chỗ sinh nên gọi là Địa ngục.

Súc sinh: Như trong Tạp Tâm giải thích: Do xương sống nằm ngang gọi là súc sinh, đây chính là nói về tướng, chẳng phải giải thích về danh nghĩa. Nếu giải thích đúng thì súc sinh là từ chủ nuôi dưỡng mà đặt tên. Mọi người ở thế gian hoặc vì ăn uống, hoặc vì sai khiến, nuôi chứa loài súc sinh. Từ nghĩa này nên gọi là Súc sinh.

Ngạ quỷ: Như trong Tạp Tâm giải thích: Do từ người khác cầu nên gọi là ngạ quỷ, lại thường đói khát cho nên gọi là ngạ; mọi người khiếp sợ nên gọi là Quỷ.

Người: Như trong Tạp Tâm giải thích: Vì ý vắng lặng gọi là người, ở đây y cứ đức người để giải thích người, do người có thể tự cắt đứt tà niệm gọi là ý tịnh tĩnh. Nếu theo Niết-bàn là do nhiều ân nghĩa, nên gọi là người. Trong con người cha con thân thích gần gũi nhau gọi là ân nghĩa.

Trời: Như trong Tạp Tâm giải thích: Vì có ánh sáng gọi là trời. Ở đây tùy theo tướng giải thích. Lại nói là trời vì tịnh nên gọi là trời quả báo các vị trời thanh tịnh, nên gọi là Tịnh. Nếu y theo Địa Trì, đáng thọ tự nhiên nên gọi là Thiên.

A-tu-la: Là tiếng Phạm, Hán gọi là Liệt Thiên, lại người đời truyền nhau gọi là Bất Tửu Thần.

A là vô, Tu-la gọi là Tửu, không biết nghĩa nào gọi là Tửu thần, sáu loại này kinh gọi là Thú, cũng gọi là Đạo.

Gọi là Thú, vì chính là đối nhân để gọi quả, nhân có thể hướng quả, quả là nhân thú, nên gọi là Thú.

Đã nói Đạo, từ nhân mà đặt tên hai nghiệp thiện ác, chung nhân đến quả, gọi đó là Đạo. Các báo địa ngục, là đường đi đến nên gọi là Đạo.

Cho nên trong Địa Trì nói: Nương hạnh ác đến gọi là đường ác, cũng có đạo ngay tướng đặt tên, y đường sáu thú khác nhau nên gọi là sáu đường. (môn thứ nhất đã xong).

2- Kế nói về khai hợp:

Khai hợp không nhất định, tóm lại chỉ có một sinh tử phần đoạn, hoặc chia làm hai:

  1. Đường ác.
  2. Đường thiện.

Do hai môn này gồm nhiếp hết, hoặc chia làm ba, đó gọi là quả sinh tử trong ba cõi; hoặc chia làm năm, nghĩa là ba đường ác, trời và người. Vì sao không nói Tu-la? Theo kinh Pháp Niệm, Tu-la có hai:

  1. Quỷ.
  2. Súc.

Vì loài này nhiếp vào hai đường quỷ, súc nên không luận riêng.

Theo trong kinh Du-già, Tu-la có ba:

  1. Súc.
  2. Quỷ.
  3. Trời

Do ba đường ngạ quỷ, súc sinh và trời nhiếp nhau nên không nói riêng, như trên đã nói, Tu-la nhiếp vào quỷ, súc v.v… nhưng chủng loại rất nhiều cho nên chia riêng, tùy theo hình dáng khác nhau mà có vô lượng khác nhau, khai hợp như vậy. (môn thứ hai đã xong).

3- Kế nói về tướng:

Trước nói về địa ngục. Địa ngục có hai:

  1. Chánh địa ngục.
  2. Biên địa ngục.

Chánh địa ngục: ở dưới biển lớn, phần thô có tám, nhỏ có một trăm ba mươi sáu chỗ.

Phần thô có tám là:

  1. Địa ngục Hoạt.
  2. Địa ngục Hắc thằng.
  3. Địa ngục Chúng hợp.
  4. Địa ngục Khiếu hoán.
  5. Địa ngục Đại khiếu hoán.
  6. Địa ngục Nhiệt.
  7. Địa ngục Đại nhiệt.
  8. Địa ngục A-tỳ.

Ở phương Nam này, dưới biển lớn năm trăm do-tuần, có cõi Diêm-la. Diêm-la là quỷ, xét xử người tội. Dưới cõi Diêm-la năm trăm do-tuần, đến địa ngục Hoạt, như Ngài Long thọ nói: Trong ngục này có các người tội, đều đấu tranh nhau, tâm ác lừng lẫy, tay cầm dao bén, tàn hại lẫn nhau, buồn bực mà chết. Do nghiệp duyên đời trước, gió mát thổi đến, ngục tốt quát tháo, người tội tỉnh lại, theo tiếng liền sống. Từ nghĩa này nên gọi là địa ngục Hoạt. Phần nhiều do con người sát sinh nên đọa trong đó.

Dưới địa ngục này có địa ngục Hắc Thằng, tất cả đồ tra khảo càng nhiều hơn trước, dùng dây sắt đen, cột các người tội, khiến họ chết giấc nên nói Hắc Thằng. Trong địa ngục này có nhiều việc khổ việc của Hắc Thằng rõ ràng cho nên đặc biệt đặt tên này riêng. Do đời trước sàm tấu chê bai người lương thiện, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, dùng lời ác mắng, điên cuồng giết hại người vô tội, hoặc làm quan lại gian dối, tàn khốc, hung bạo vô đạo, nên đọa trong đó.

Dưới ngục Hắc Thằng này có các thứ hợp lại, tất cả khổ cụ càng nặng hơn trước. Ngục tốt trong, ngục này hóa thành các loài cọp, sói, sư tử, heo, dê, trâu, chó tàn hại người tội. Hoặc hóa thành hai ngọn núi, hợp với tất cả khổ cụ vòng sắt, lưới sắt trị các người tội. Do các khổ cụ đều cùng hợp lại tàn hại người tội nên gọi là Chúng hợp. Do đời trước thường giết hại chúng sinh nên đọa trong đó.

Kế dưới ngục Chúng hợp này có ngục Khiếu hoán, tất cả khổ cụ càng nhiều hơn trước, có ngôi thành sắt lớn, rộng mỗi bề năm trăm do-tuần. Ngục tốt ở trong đó, hoặc chẻ xương, hoặc lột da, hoặc đâm hoặc chích, hoặc roi, hoặc đánh, hoặc đạp, hoặc giã, đánh nát đầu người tội, hoặc đuổi chạy đông tây v.v… như vậy chẳng phải một, khiến các người tội đau đớn kêu la nên gọi là Ngục Khiêu hoán. Vì đời trước đo cân dối trá, xử sự phi pháp, nhận gởi không trả lại, xâm hại kẻ thấp kém, bức não người nghèo khổ, hoặc phá thành ấp, tàn hại bóc lột, chia lìa quyến thuộc người khác, hoặc lại dối thiện dẫn dụ, điên cuông giết hại, khiến họ kêu la nên đọa trong đó.

Dưới ngục Khiêu hoán này có ngục Khiêu hoán lớn, tất cả khổ cụ cũng nhiều hơn trước. Ngục tốt ở trong đó, hoặc đuổi người tội, vào nhà sắt nóng, khiến họ kêu la thất thanh, gọi là Đại Khiêu Hoán. Những người tội này do đời trước giết hại tất cả chúng sinh ở trong hang, hoặc bắt trói chúng sinh quăng vào hầm sâu, khiến họ phải kêu la nên đọa vào đó.

Dưới ngục Khiêu Hoán này, có địa ngục nóng, tất cả khổ cụ lại càng nhiều hơn trước, trong địa ngục này có hai chảo đồng:

  1. Nan-đà.
  2. Bạt-nan-đà.

Trong hai chảo đó nước mặn sôi nóng phun lên. Ngục tốt la-sát, bỏ các người tội vào đó, hoặc bỏ vào hầm than, hoặc bỏ vào tro nóng, hoặc bỏ vào máu mủ tự làm đau đớn khổ sở gọi là địa ngục Nhiệt. Do các người tội này đời trước não loạn cha mẹ và các Sư trưởng, tất cả Samôn, Bà-la-môn v.v… khiến tâm họ nóng bức nên đọa vào đó.

Dưới địa ngục nóng này có địa ngục Đại nóng, tất cả sự khổ càng nặng hơn trước, do đời trước luộc sống chúng sinh, hoặc nấu chín chúng sinh, hoặc dùng cây xỏ qua mình chúng sinh mà nướng quay, hoặc đốt núi, ao đầm và các xóm làng, tháp Phật, phòng Tăng, hoặc xô chúng sinh vào nước sôi, vào lửa nên đọa trong đó.

Kế dưới ngục này có địa ngục A-tỳ. Như trong kinh Niết-bàn nói: Ngục này dài rộng mỗi bề tám vạn do-tuần, sự khổ trong ấy nặng hơn bảy ngục trước và các chỗ khác hơn hai ngàn lần. Lưới sắt trùm ở trên, lửa trên cháy suốt xuống dưới, lửa dưới cháy suốt lên trên, qua lại thông suốt, một người vào trong đó thân cũng đầy khắp, người thứ hai vào thân cũng đầy khắp. Tuổi thọ một kiếp, khổ không tạm dừng. Do họ đời trước gây ra năm tội nghịch, chê bai kinh Phương Đẳng, khởi đại tà kiến, bác không nhân quả, dứt mất thiện căn, nên đọa vào đó. Mười nghiệp bất thiện đều đọa vào tám đại địa ngục này. Từ trước đến nay đều nói về tướng thô, nói một trăm ba mươi sáu ngục là tám địa ngục trước mỗi ngục đều có mười sáu ngục quyến thuộc và tám ngục băng lạnh, tám ngục nóng đốt.

Tám ngục băng lạnh, như Ngài Long Thọ nói:

  1. An-phù-đà, Hán gọi là Khổng, đúng là núi, gò có nhiều hang lỗ nên gọi là Khổng. Cũng có thể là các người tội ở chỗ băng lạnh này có nhiều hang lỗ nên gọi là Khổng.
  2. Túc-phù-dà, Hán dịch là Vô khổng, đối lại ở trước nên có thể tự biết hai loại này tùy theo tướng đặt tên.
  3. A-la-la, Hán dịch là Hoạn Hàn Thanh
  4. A-ba-ba, cũng là Hoạn Hàn Thanh5. Tên là Hầu-hầu, cũng là Hàn Thanh.

Ba loại này từ tiếng mà đặt tên.

Âu-bát-la, Hán dịch là Thanhh Liên, tướng trạng của thành ngục giống như hoa sen xanh nên gọi là Thanh Liên. Cũng có thể các người tội ở chỗ băng đóng này, giống như màu sen xanh nên gọi là Âu-bát-la.

  1. Bát-đầu-ma, Hán dịch là Hồng Liên, giải thích có hai nghĩa, y như trước có thể tự biết.
Ma-ha Bát-đầu-ma, Hán dịch là Đại Hồng Liên Sắc, nghĩa cũng đồng ở trước, ba ngục sau từ màu mà gọi.

Tám ngục nóng gồm:

  1. Hầm than.
  2. Phấn thỉ
  3. Thiêu lâm.
  4. Kiếm thọ.
  5. Đao đạo.
  6. Thích cức
  7. Diêm hà
  8. Đồng trụ

Tám ngục lớn trước; Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi bên hai địa ngục băng và hai địa ngục lửa cháy cho nên có mười sáu. Tám địa ngục lớn, mỗi bên có mười sáu, tức là một trăm hai mươi tám ngục, cộng với tám địa ngục là một trăm ba mươi sáu.

Như trong kinh Pháp Niệm nói một trăm ba mươi sáu ngục này, tên gọi khác nhau, nghiệp quả cũng khác, không thể nói hết. Chỗ chánh như vậy.

Biên địa ngục, hoặc trong vòng sắt, hoặc giữa các núi, hoặc trong biển lớn, các chỗ trị tội gọi là biên địa ngục. (địa ngục như vậy).

Kế là nói về súc sinh: Như trong kinh Pháp Niệm nói trong súc sinh gồm có ba mươi bốn ức chủng loại, ở trong đó có đủ bốn loài sinh khác với bốn cách ăn, nghiệp quả khác nhau, đủ như trong kinh ấy, không thể nói hết. (súc sinh như vậy).

Kế nói về ngạ quỷ: Như trong kinh Pháp Niệm nói: Loài ngạ quỷ có hai:

  1. Ở trong loài người.
  2. Ở loài ngạ quỷ.

Như trong kinh ấy nói: Dưới gác Phù-đề có năm trăm do-tuần, dài, rộng mỗi bề ba vạn sáu ngàn do-tuần: Đây là cõi ngạ quỷ, nó có ba mươi sáu loài khác nhau.

1. Ngạ quỷ Thân vạc, hình dáng giống như vạc chảo, không có các tướng đỉnh đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân. Ở cõi ngạ quỷ, lúc mới sinh, cao gấp đôi thân người, sau dần dần lớn thêm, đủ một do-tuần, lửa cháy mạnh đầy trong thân vạc chảo, đốt cháy thân ấy, đói khát nóng bức, người không thể cứu. Ở trong loài người mười năm, trong một ngày đêm, thân vạc thọ mạng năm trăm năm. Do đời trước tham tài lợi, nhận làm kẻ giết hại, lại nhận vật người khác gởi rồi chống cự không trả lại nên đọa vào đó.

2. Ngạ quỷ Lỗ kim: Thân lớn như núi, miệng như lỗ kim, cũng ở trong cõi ngạ quỷ, tuổi thọ đồng với quỷ thân vạc. Lửa đói đốt thân, đốt cháy không cứu được và chịu tất cả lạnh nóng, các thứ khổ độc hại, do các chúng sinh ấy đời trước làm kẻ giết hại, hoặc có vợ chồng bảo cúng dường Sa-môn tịnh hạnh nói dối đạo không như vậy nên đọa vào đó.

3. Quỷ ăn đồ ói mửa.

4. Quỷ ăn phẩn.

5. Quỷ không ăn thức ăn.

6. Quỷ ăn khí.

7. Quỷ ăn pháp

8. Quỷ uống nước.

9. Quỷ hy vọng.

10. Quỷ ăn đồ hỉ nhổ

11. Quỷ ăn tóc.

12. Quỷ ăn huyết.

13. Quỷ ăn thịt.

14. Quỷ ăn khói hương.

15. Quỷ đi mau.

16. Quỷ tìm dịp hại.

  1. Quỷ đi dưới đất.
    1. Quỷ có thần thông.
    2. Quỷ lửa cháy.
    3. Quỷ rình trẻ nhỏ đại tiện.
    4. Quỷ dục sắc.
    5. Quỷ ở cồn bãi.
    6. Quỷ cầm gậy là vua Diêm-la.
    7. Quỷ ăn thịt trẻ con.
    8. Quỷ ăn tinh khí của người.

2. Quỷ La-sát

  1. Quỷ ăn lửa trong lò lửa.
  2. Quỷ ở trong ngõ hẻm bất tịnh.

3. Quỷ ăn gió.

  1. Quỷ ăn than lửa
  2. Quỷ ăn độc.
  3. Quỷ ở chốn hoang vắng.
  4. Quỷ ở ngoài gò mả ăn than nóng.
  5. Quỷ ở trong hốc cây.
  6. Quỷ ở đường ngã tư.

4. Quỷ đói giết thân.

Quỷ thì vô lượng gồm nhiếp như thế, nghiệp nhân quả báo trong ấy đều khác, đủ như trong kinh nói.

Kế nói về Tu-la:

Theo trong Già-đà-la, Tu-la có ba:

  1. Thiên.
  2. Quỷ.
  3. Súc sinh.

Trong kinh Pháp Niệm chỉ nói hai loại: Quỷ và súc sinh.

Quỷ Tu-la: Là gồm nhiếp sát thân ngạ quỷ kia, các tướng đó ở trên đất trong núi.

Súc Tu-la: Ở dưới đáy biển bên bắc núi Tu-di riêng bốn lớp, vào đất hai vạn một ngàn do-tuần, có A-tu-la, La-hầu-la ở cõi ấy rộng một vạn ba ngàn do-tuần, thành tên là Quang Minh, rộng mỗi bề tám ngàn do-tuần, có ngàn trụ điện, phòng báu xếp hàng, thành đất núi ao tất cả nhạc cụ đều dùng bằng báu trang nghiêm. Ở trong thành có bốn vườn báu vây quanh, mỗi vườn một trăm do-tuần, trong mỗi vườn có ba ngàn loại cây như nguyện. Cây đều là vàng thật, tinh tế mầu nhiệm, như mây như bóng, trong vườn ao kia xen lẫn chim báu các màu, dạo di nhóm hợp đầy khắp trong đó. Vua ở thành này. Ngoài thành có mười ba chỗ ở riêng, ở mỗi chỗ đều có vô lượng chung A-tu-la, La-hầu-la và Sư tử con, hình dáng như núi Tu-di, có thể tự tại biến thân, lớn nhỏ tùy ý người, ở trong đó năm trăm năm, ngay ngày đêm ấy, Tu-la La-hầu ở đó tuổi thọ năm nghìn năm. Có bốn thể nữ, từ nhớ nghĩ mà sinh, có mười hai nado-tha thể nữ, dùng làm quyến thuộc, vây quanh La-hầu-la. Vua đó ở thời quá khứ làm Bà-la-môn. Ở chỗ hoang vắng có một ngôi tháp Phật, cao hai mươi lăm dặm, ở trong đó vẽ các hình tượng Phật, các thứ hoa quả, cây rừng trang nghiêm. Nhưng bị lửa thiêu đốt, Bà-la-môn này cứu được ngôi tháp ấy. Sau khi cứu rồi, Bà-la-môn ấy nghĩ: ” Ta cứu tháp này có phước hay chăng?”. Nếu có phước, nguyện được thân người, nhưng lại ở trong ngoại đạo, thường thực hành bố thí nên thọ báo này. Các A-tu-la khác ở vào thời quá khứ, thấy người khác giết hại, cưỡng bức khiến cho thả, hoặc vì danh lợi, hoặc bị Vua sai khiến, hoặc học tập bắt chước cách giết hại của cha, không có tâm thương xót, không trì tịnh giới, không làm các việc thiện nên đọa vào đó.

Kế đó có hai vạn một ngàn do-tuần là chỗ ở của Tu-la Dũng Kiện vua tên là Dũng Kiện, dân tên là Ma-hầu, Hán dịch là Cốt yên, cõi ấy tên là Nguyệt Man, rộng hơn đất trước, thành tên là Du Ký, dài, rộng mỗi bề đều tám muôn do-tuần, trang nghiêm tốt đẹp hơn truớc, thành ấy ở giữa bốn ngọn núi vàng, núi ấy cao rộng năm ngàn do-tuần. Vua ở thành này, lại có ngôi thành khác tên là Tinh Man. Dân ở trong đó, ngoài thành có khu vườn, dài, rộng mỗi bề một vạn ba ngàn do-tuần. Ở trong đó có tổng cộng bảy khu vườn khác nhau, các thứ trang nghiêm. Các Tu-la này, thọ, lạc ở trong đó, Tu-la Dũng Kiện, thân hình cao lớn bằng hai núi Tu-di, nếu ở cõi mình thì thân biến thấp nhỏ lại, thế lực cao siêu hơn, thọ sáu trăm tuổi, tính theo ngày đêm, ở đó Tu-la thọ sáu ngàn tuổi. Vua Tu-la ở vào thời quá khứ cướp đọat vật của người cúng dường ngoại đạo, li dục nên thọ báo này. Chúng khác thuở xưa cúng dường ngoại đạo không lìa dục, và người phá giới nên đọa vào đó.

Kế ở sau có hai vạn một ngàn do-tuần, có chỗ ở của Tu-la Hoa Man Vua tên Hoa Man, dân tên Du Hí, đất tên Tu-na, thành tên Hàmtỳ-la, dài, rộng mỗi bề một muôn ba ngàn do-tuần, trang nghiêm vi diệu, càng tốt đẹp hơn trước. Thân hình Tu-la Hoa Man bằng ba núi Tu-di, nếu ở cõi mình thì hiện thân thấp nhỏ, thế lực mạnh hơn hai cõi trước, người sống bảy trăm tuổi, tính theo ngày đêm, Tu-la ở cõi này thọ bảy ngàn năm. Vua Tu-la Hoa Man ở thời quá khứ, đem thức ăn uống cho người bịnh phá giới nên thọ báo này. Chúng khác do đời trước đùa giỡn đủ thứ, cho người thức ăn mà không có tịnh tâm nên đọa vào đó.

Kế sau hai vạn một ngàn do-tuần, có chỗ ở của Tu-la Bát-ha-bàtỳ-ma-thất-da, vua tên là Bát-ha cũng gọi là Ba-la-ha, cả hai đều vốn là một tên, vì người nói âm khác cũng gọi là Tỳ-ma-chất-da. Vua thống lãnh dân ở đó, tên là Nhất Thiết Nhẫn, cõi ấy tên là Bất động, dài, rông mỗi bề sáu vạn do-tuần. Thành tên là Hàm-tỳ-la dài, rộng mỗi bề một vạn ba ngàn do-tuần. Cung điện bảy báu, mầu nhiệm như cõi trời. Vua Tỳ-ma-chất-da, thân hình cao lớn bằng bốn núi Tu-di, nếu ở cõi mình thì hiện thân nhỏ bé, thế lực hơn ba cõi Tu-la trước, người sống tám trăm tuổi, tính bằng ngày đêm. Tu-la ở cõi ấy thọ tám ngàn tuổi. Đời trước của vua Thất-da không có tâm chánh kiến, thấy người trì giới đến xin, hồi lâu mới cho, cho rồi nói rằng: “Nay ta thí cho người, có phước đức gì, ta do ngu si nên cúng thí thức ăn cho ông”.

Vì cúng thí với Tâm tà kiến nên chịu quả báo này. Chúng Tu-la khác đời trước tự bản thân lấy giữ cây trái tất và cả các vật mình không dùng, sau đó cho người nên đọa vào đó. Các Tu-la này oán hận với trời, đánh nhau với trời, như trong kinh nói, không thể trình bày đủ. (Tu-la như vậy).

Kế nói về loài người: loài người có vô lượng, đại khái có bốn: đó là bốn thiên hạ, quả báo người có khác nhau. Người trong bốn thiên hạ, có tám chỗ khác nhau:

1. Trụ xứ khác nhau: Núi Tu-di ở phía Nam có một bãi biển, tên là Diêm-phù-đề, dài, rộng mỗi bề hai mươi tám vạn dặm, người ở trên đó. Phương Đông có bãi tên Phất-bà-đề, rộng gấp bội Diêm-phù-đề, người ở trên đó. Ở phương Tây có bãi, tên là Cù-da-ni, rộng gấp đôi cõi Phấtbà, người ở trên đó. Ở phương Bắc có bãi, tên là Uất-đơn-việt, rộng hơn gấp bội lần Cù-da, người ở trên đó.

2. Hình tướng khác nhau: Bãi Diêm-phù ở phía Nam, đất ấy nhọn, giống như mặt người. Bãi Phất-bà-đề, đất giống như nửa mặt trăng, giống như mặt người. Bãi Cù-da-ni, đất như trăng tròn, mặt người cũng giống như vậy. Bắc Uất-đơn-việt, mặt đất hình vuông, mặt người cũng giống như vậy.

3. Núi dài ngắn khác nhau: Người ở cõi Diêm-phù-đề thân cao bốn khủy tay; người Phất-bà-đề cao tám khuỷu tay; người Cù-da-ni cao mười sáu khuỷu tay; người Uất-đơn-việt cao ba mươi hai khuỷu tay.

4. Tuổi thọ khác nhau: Người Diêm-phù-đề tuổi thọ không nhất định, thấp nhất là mười tuổi cao nhất là tám vạn bốn ngàn tuổi. Người Phất-bà-đề thọ hai trăm năm mươi tuổi. Người Cù-da-ni thọ năm trăm tuổi. Người Uất-đơn-việt thọ nhất định một ngàn tuổi. Chỉ có cõi Uấtđơn là có số tuổi thọ nhất định, còn các cõi khác đều không có hạn định.

5. Quả báo khác nhau: Chỉ Người Diêm-phù-đề ở phía Nam thọ mười tuổi, hoặc kiếp đói khát, hoặc kiếp bịnh tật, hoặc kiếp đao binh, ba kiếp ấy xen nhau khởi. Hai phương Đông tây, lúc kiếp đói khát, ăn uống không đủ, mà không chết đói, khi kiếp tật bịnh, bốn đại không điều hòa, mà không mất mạng. Lúc kiếp đao binh, tăng giảm tức giận mà không giết hại nhau. Uất-đơn-việt ở phía Bắc, hoàn toàn không thay đổi.

6. Sự hơn kém khác nhau. Nếu nói về đạo thì Diêm-phù-đề là trên hết Phất-bà kế sau, Cù-da dần dần kém, Uất-đơn là thấp nhất. Nếu nói về quả báo thì Uất-đơn-việt là trên hết, Cù-da thấp hơn, Phất-bà dần kém, Diêm-phù thấp nhất.

7. Khởi nghiệp khác nhau: Phương đông, tây, nam đều làm mười điều ác, nước Uất-đơn-việt, chỉ có nói dối tham, sân và tà kiến. Nghiệp nói thêu dệt nói thành mà hiện hành, ba nghiệp đạo khác thành mà không hiện hành, như chương mười nghiệp có phân biệt rộng.

8. Quả báo hướng đến khác nhau: Uất-đơn-việt ở phía Bắc, chết đều sinh lên cõi trời, không về các đường khác, vì không có nghiệp ác, còn ba cõi khác, chỗ đi không nhất định. (loài người như vậy).

Kế nói về cõi trời: Trời có cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Cõi Dục có sáu tầng trời:

1. Trời Tứ Thiên Vương: Bốn phía núi Tu-di có núi Càn-đà-la, cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, dài, rộng mỗi bề cũng như vậy, trên có bốn vua.

Phía Đông có vị Thiên Vương tên là Đề-đầu-lại-tra, Hán dịch là Trị quốc, thống lãnh hai bộ quỷ thần Càn-thát-bà và Tỳ-xá-xà. Ở phương Nam có Thiên Vương tên là Tỳ-lâu-lặc, Hán dịch là Tăng Trưởng, chủ thống lãnh hai bộ quỷ thần Cưu-bàn-trà và Bệ-lệđa.

Ở phương Tây có Thiên Vương tên là Tỳ-lâu-bát, Hán dịch là Tạp Ngữ, chủ thống lãnh hai bộ thần Long Phú, Đơn-na.

Phía Bắc có Thiên Vương tên là Tỳ-Sa-môn, Hán dịch là Đa Văn, chủ thống lãnh hai bộ quỷ thần, Dạ-xoa, La-sát.

Tứ Thiên Vương này thống lãnh thiên chúng. Có bốn chủng loại bốn mươi chỗ ở khác nhau.

Bốn chủng loại:

  1. Trời Man Trì, chỗ khác gọi là trời Trì Hoa Man.
  2. Trời Ca-lưu-túc, Hán dịch là trời Điểu Túc.
  3. Trời Thường Tứ Ý.
  4. Trời Tam Không Hầu.

Ban đầu là trời Man Trí, có mười chỗ ở:

  1. Bạch Ma-ni.
  2. Tuấn Nhai.
  3. Quả mạng.
  4. Công đức hạnh.
  5. Thường hỷ.
  6. Hành đạo.
  7. Ái dục.
  8. Ái cảnh.
  9. Ý động.
  10. Du hý lâm.

Mười chỗ ở này trụ trong khám huyệt ở bốn phía núi Tu-di. Phía nam có hai, đông đây cũng vậy. Phía Bắc có bốn,

Mỗi hang rộng ngàn do-tuần, phần nhiều có các núi báu, cây báu, ao báu vô lượng trang nghiêm. Người sống năm mươi tuổi, tính ngày đêm. Tuổi thọ cõi trời kia năm trăm năm. Trong mười cõi trời này nghiệp quả đều khác. Như trong kinh Pháp Niệm nói.

Ở cõi trời Ca-lưu-túc có mười chỗ ở:

  1. Hành liên hoa.
  2. Thắng phong.
  3. Diệu thinh.
  4. Hương nhạc.
  5. Phong hành.
  6. Man hỷ.
  7. Phổ quán.
  8. Thường hoan hỷ
  9. Ái hương.
  10. Quân-đầu.

Mười chỗ ở này đều vây quanh núi Tu-di, nghiệp quả khác nhau như trong kinh Pháp Niệm nói.

Trời Thường Tứ Ý, trời Tam Không Hầu, đều có mười chỗ, không thể nói hết.

Cõi trời ban đầu như vậy.

Trời thứ hai là trời Đao-lợi, Hán dịch là trời Tam Thập Tam, ở trên đảnh núi Tu-di.

Núi Tu-di gọi là Thiện Cao Sơn, cũng gọi là An Minh. Cách mặt đất tám vạn bốn ngàn do-tuần, mỗi bề cũng rông như vậy, có sáu vạn núi dùng làm quyến thuộc. Trên có ba mươi ba chỗ khác nhau, trong có Đế Thành tên là Hỷ Kiến cũng cao tám vạn bốn ngàn do-tuần. Bốn bên Đế Thành đều có tám chỗ thần dân ở đó là vua trong các trời tên là Thích-đề-bà-na-dân. Hán dịch là Năng Vi Thiên Chủ, chữ “Thich” có nghĩa là Năng; chữ Đề-bà nghĩa là Thiên( trời), chữ Na-dân nghĩa là chủ. Đức Phật cũng gọi là Kiều-thi-ca, bởi chính từ họ cũ mà đặt tên. Như Ngài Long Thọ nói: Vào thời quá khứ, ở nước tên Ma-da-đà có Bà-la-môn họ Kiều-thi-ca tên là Già-đà có phước đức lớn cùng với ba mươi hai người tu nghiệp thiện. Khi qua đời, họ đồng sinh lên cõi trời Đao-lợi mỗi vị ở một chỗ. Kiều-thi-ca xưa nay là Thiên Chủ nên từ họ cũ là Kiều-thi-ca. Còn ba mươi hai người bạn tức là các phụ thần ở bốn phía, thần bên trái phụ, tướng bên phải giúp, trước nương sau theo, hợp với Thiên Chủ thành ba mươi ba cho nên gọi là trời ba mươi ba.

Như trong kinh Pháp Niệm chép: Nêu bày đủ tên họ để phân biệt.

Hai cõi trời trước đây là trời Địa Cư.

Trời thứ ba là trời Dạ-ma. Hán dịch là Diệu Thiên. Ở trong đó tổng cộng có ba mươi sáu chỗ khác nhau, Thiên Chủ ở cõi này, tên là Mâu-tu-lâu-đà.

Trời thứ tư tên là Đâu-suất-đà, Hán dịch là Diệu Túc. Như Ngài Long Thọ nói: Bởi chính từ Thiên chủ đặt tên.

Trời thứ năm tên Tu-niết-mật-đà, Hán dịch là Hóa Lạc, tự biến hóa các thứ dục lạc rồi tự thọ dụng nên nói là Hóa Lạc.

Trời thứ sáu tên là Bà-xá-bạt-đề, Hán dịch là trời Tha Hóa Tự Tại. Do cõi trời dưới hóa ra đầy đủ cá thứ dục lạc nên gọi là Tha Hóa. Trên cõi trời Tha Hóa này có riêng Ma Thiên gần chỗ Tha Hóa cũng thuộc về cõi Tha Hóa.

Sáu cõi trời này là các tầng trời cõi Dục.

Hỏi: Mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao ở các tầng trời cõi Dục, thuộc về cõi trời nào ?

Giải thích: Tùy theo. Gần thì nhiếp thuộc về bốn Thiên Vương, tùy theo phân biệt khác, không thuộc cõi trời thứ sáu, vì sao như vậy?

Trời Tứ Thiên Vương là cõi trời Địa Cư, cõi trời kia là Không Cư. Lại sáu tầng trời cõi Dục, tuổi thọ rất ngắn, ở đây tuổi thọ một kiếp, cho nên không thâu nhiếp.

Các tầng trời cõi Dục như vậy.

Các tầng trời cõi Sắc.

Trong kinh luận nói khác nhau, nếu theo Tạp Tâm, luận Địa Trì v.v… thì có mười tám cõi trời, Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền đều có ba cõi trời, trong cõi thiền thứ tư có chín cõi trời, nên hợp thành mười tám. Nếu theo kinh Hoa Nghiêm cõi Sắc có đủ hai mươi hai cõi trời, Sơ thiền có bốn v.v..

  1. Phạm Thiên
  2. Phạm Chúng Thiên, cũng gọi là Phạm thân, hai cõi trời trước là nơi sinh ra Tiểu Phạm.
  3. Phạm Phụ Thiên, là chỗ sinh của Quý Phạm.
  4. Đại Phạm thiên, là trung gian thiền, là chỗ sinh của Phạm Vương, cũng đồng một chỗ với cõi trời Phạm Phụ ở trước, nhưng thần dân có khác.

Nhị thiền có bốn:

  1. Quang Thiên.
  2. Trời Thiểu Quang.
  3. Trời Vô Lượng Quang.
  4. Trời Quang Âm.

Tam Thiền có bốn:

  1. Tịnh Thiên.
  2. Trời Thiểu Tịnh.
  3. Trời Vô Lượng Tịnh.
  4. Trời Biến Tịnh.

Tứ Thiền có mười, sẽ phân có bốn:

  1. Phước Thiên.
  2. Trời Phước Sinh.
  3. Trời Phước Ái.
  4. Trời Quảng Quả.

Theo luận Địa Trì nói: Trong bốn cõi Thiền này, đều không có cõi trời thứ nhất, phải nên tùy theo chỗ gần xếp vào trời thứ hai, nên không nói riêng. Các cõi này có khác nhau, hợp thành mười hai.

Trong cõi Thiền thứ tư, tùy sự khác nhau, mà chia ra sáu tầng trời, nghĩa là trời Vô Tưởng và trời năm cõi Tịnh Cư.

Trời Vô Tưởng, cùng một chỗ với Quảng Quả ở trước đồng. Có các ngoại đạo, chấp cõi Vô Tưởng này là Niết-bàn nên tu Định Vô Tưởng, mong cầu quả báo này. Người này khi qua đời, sinh lên trời Quảng Quả, trước sau có tâm, trung gian vô tâm. Trải qua năm trăm kiếp, do riêng được pháp vô tâm này, được riêng một cõi trời.

Năm cõi Tịnh Cư:

  1. Trời Vô Phiền Thiên, cũng gọi là Vô Phàm.
  2. Trời Vô Nhiệt.
  3. Trời Thiện Kiến.
  4. Trời Thiện Hiện.
  5. Trời A-ca-ni-tra, Hán dịch là Vô Tiểu.

Người đắc quả A-na-hàm, nhờ huân tập đạo vô lậu lên cõi Thiền thứ tư. Huân có năm bậc nên được quả báo ở năm tầng trời này. Năm bậc là: Hạ, trung, thượng, thượng trung và thượng thượng. Bậc hạ được sinh lên trời Vô Phiền cho đến bậc thượng thượng thì được sinh lên cõi Vô Tiểu Thiên.

Huân là thế nào?

Bậc A-na-hàm trước được cảnh Thiền thứ tư là Huân Thiền. Ở trong Tứ Thiền, trước nhập trăm ngàn tâm vô lậu, kế nhập trăm ngàn tâm thiền hữu lậu, sau đó nhập trăm ngàn tâm vô lậu, do dần dần sơ lược, cho đến trước nhập hai tâm vô lậu, kế là hai hữu lậu, sau là hai vô lậu, đây là Huân thiền đạo thành, rồi sau đó lại vào một tâm vô lậu, kế là một hữu lậu, như vậy năm lần hợp thành mười lăm tâm, mười là vô lậu, năm là hữu lậu. Đây là Huân thiền rốt ráo thành tựu.

Trong năm lần này phẩm đầu là hạ, cho đến sau cùng là thượng thượng. Vì thuần thục như vậy, huân tu cảnh Tứ thiền. Kế là huân Tam thiền, kế là hai cái kế và sơ, pháp huân đồng như trước, rồi sau đó sinh lên cõi Ngũ Tịnh Cư. Ngũ Tịnh Cư này là chỗ ở của bậc A-na-hàm cho nên cũng gọi là trời Ngũ A-na-hàm. Do cõi trời này chung với trước thành hai mươi hai.

Theo Luận Đại Trí Độ nói: Trên trời Ngũ Tịnh Cư, lại có riêng một cõi của Bồ-tát Tịnh Cư, gọi là Ma-hê-thủ-la, Hán dịch là trời Đại Tự Tại, là chỗ ở của các Bồ-tát Thập địa, do đây chung ở trước, cõi Sắc hợp lại thành hai mươi ba cõi trời.

Vô sắc có bốn:

  1. Không xứ.
  2. Thức xứ.
  3. Vô sở hữu xứ.
  4. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Các nhân hạnh này như trong Tám thiền có phân biệt rộng, cõi trời là như vậy. (môn thứ ba đã xong).

4- Kế nói về nhân : Nhân có chung và riêng. Nói về chung, chỉ có thiện và ác.

Thiện là mười điều thiện, ác là mười điều ác. Mười điều ác là nhân chung trong ba đường; mười điều thiện là nhân chung của ba đường trời, người, A-tu-la cho nên Ngài Long Thọ nói: Ác có ba phẩm là hạ, trung và thượng. Bậc hạ sinh ngạ quỷ, bậc trung đọa vào súc sinh và bậc thượng đọa địa ngục. Trong Địa Kinh cũng đồng thuyết này.

Thiện cũng có ba phẩm: Hạ đọa Tu-la, trung thiện sinh lên loài người, thượng thiện sinh lên cõi trời.

Hỏi: Tu-la thuộc bốn đường ác, vì sao trong luận nói hạ thiện sinh về đó?

Giải thích: Tu-la cảm vời tạp nghiệp. Trong tạp nghiệp này có thiện có ác, nghiệp ác mắc quả báo chung, nên gọi là đường ác. Nghiệp thiện được hưởng quả báo vui cho nên gọi là hạ thiện sinh về cõi ấy, trái lại nghiệp ác mắc chánh báo ấy, nên gọi là đường ác, thiện được quả nên nói là thiện sinh.

Hỏi: Trong các loài quỷ, súc khác cũng có thọ vui vì đều sinh về cõi thiện, vì sao chỉ nói thiện sinh Tu-la?

Giải thích: Tu-la thọ vui tăng thượng. Như trong kinh nói là chỗ Tu-la thọ an lạc như cõi trời cho nên chỉ nói thiện sinh Tu-la.

Hỏi: Tu-la vui như cõi trời, cảm được thiện vui, nên gọi là trung, vì sao gọi là hạ?

Giải thích: Tu-la thọ lạc là do phước bố thí, phước bố thí tăng thượng nên được vui như cõi trời; thí phước so với giới thì không bằng giới thiện cho nên gọi là Hạ.

Hỏi: Thí phước thì được sinh vào cõi an lạc thù thắng, vì sao không sinh vào đường thiện mà đọa đường ác?

Giải thích: Đường thiện phải do giới mà được bố thí, chẳng phải giới thiện cho nên không thể sinh vào đường thiện chân thật.

Lại trong Tu-la có ngạ quỷ, có súc sinh, có cõi trời vui của Tu-la , quỷ, súc sinh không từ thiện sinh. Nói chung, do quả báo ác mà có nên gọi là đường ác.

Trời A-tu-la: Nói chung do quả báo tuy từ nghiệp thiện mà được, vì tâm nghi kém, không thể lãnh hội được quả Thánh nên gọi là hạ thiện sinh. Nhân chung như vậy, nếu nói về nhân riêng, thì trong sáu đường, có vô lượng chủng loại, nghiệp nhân đều khác. Như trong kinh Pháp Niệm có phân biệt rộng.

Nghĩa của sáu đường nói lược như thế.

8. NGHĨA CỦA BẢY THỨC TRỤ:

Bảy thức trụ như trong kinh đã nói: Vì sao nói? Vì phá chấp riêng của ngoại đạo. Có các ngoại đạo chấp thức là ngã, chọn thiện mà ở. Phật nói vì phá các tà chấp ấy nên nói thức trụ chẳng phải ngã trụ. Thức trụ được chia thành bảy, thế nào là bảy?

Trời, người ở cõi Dục lấy đó làm thành một, Sơ thiền là hai, Nhị thiền là ba, Tam thiền là bốn, Không xứ là năm, Thức xứ là sáu, Vô sở hữu xứ là thứ bảy. Bảy chỗ này tâm thức an vui, nên gọi là Thức trụ.

Hỏi: Vì sao không nói thọ trụ, tưởng. hành trụ v.v… mà chỉ nói Thức trụ?

Giải thích: Nghĩa lý của trụ lẽ ra cũng chung, nhưng Thức là chủ nên chỉ nói về thức.

Hỏi: Cõi Dục có ba đường ác, vì sao không nói?

Đáp: Luận có ba đường ác, có chỗ ép thức không an vui, do đó không nói đến.

Lại hỏi: Cõi Sắc có đủ Tứ thiền, trong thiền thứ tư vắng lặng an vui hơn cõi dưới, vì sao không gọi là Thức trụ?

Trong luận tự giải thích: Trong Thiền thứ tư, có Định Vô Tưởng, tàn hại tâm thức, thức không an vui, cho nên chẳng phải Thức trụ. Lại nữa, trong tứ Thiền có năm cõi Tịnh Cư, nhập vào Niết-ban cũng phá hoại tâm thức nên Thức không trụ an lạc.

Hỏi: Cõi Vô sắc có bốn không xứ, vì nghĩa gì không nói Phi tưởng dùng làm thức trụ?

Luận rằng: Trong Phi tưởng có Định Diệt Tận, cũng tàn hại tâm thức, thức không an vui, nên không có Thức trụ. Nghĩa bảy thức trụ, nói đại khái như thế.

9. NGHĨA TÁM NẠN:

Phân biệt thành năm môn:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Nói về tướng.
  3. Phân biệt năm đường.
  4. Phân biệt nghiệp báo phiền não.
  5. Ước đối bốn vầng minh trị khác nhau.

1- Giải thích tên gọi: Nói tám nạn:

  1. Địa ngục.
  2. Súc sinh.
  3. Ngạ quỷ.
  4. Đui, điếc, câm, ngọng.
  5. Thế trí biện thông.

Sinh trước Phật, sau Phật.

  1. Cõi Uất-đơn-việt.
  2. Trời Trường Thọ.

Ba nạn đầu và một nạn sau là theo đường mà nêu tên. Trong ba cái đầu hoàn toàn thuộc về ba đường cho nên nói nạn địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Một nạn thứ tám là bất tận thiên thú, có riêng Trường thọ, cho nên gọi là nạn trời Trường Thọ; Đui điếc câm ngọng, thế trí biện trông, ngay thể mà đặt tên. Chánh dụng đui điếc, thế trí, biện thông cho là nạn. Sinh trước Phật, sau Phật, y cứ chương mục, lấy chỗ riêng đặt tên. Tám loại này làm ngăn ngại Thanh đạo, nên gọi là nạn. (ở đây xong một môn).

2- Nói về tướng: Tám loại này có bốn nghĩa cho nên là nạn:

  1. Vì khổ chướng nên gọi là nạn.
  2. Lạc chướng nên gọi là nạn.
  3. Ác tăng nên gọi là nạn.
  4. Thiện căn kém nên là nạn.

Tất cả ba đường, đui điếc câm ngọng là chỗ chướng nên gọi là nạn, Trường Thọ, Uất-đơn-việt, lạc chướng nên gọi là nạn. Thế trí, biện thông, ác tăng nên gọi là nạn. Vì tà kiến kia trái với chánh đạo, sinh trước Phật, sau Phật, thiện căn kém nên gọi là nạn. Các nạn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh báo chướng tất cả ba đường sâu nặng, không thể lãnh hội bậc Thánh nên gọi là nạn.

Hỏi: Dù cho ba đường là nạn không lãnh hội được bậc Thánh? Nghĩa này không đúng. Như kinh Phương Đẳng nói; Có các chúng sinh, ở trong địa ngục, gặp ánh sáng Phật, tìm ánh sáng đến chỗ Phật, nghe pháp đắc đạo. Như Ngài Long Thọ nói: hai đường quỷ súc, nghe Phật nói pháp, có đắc đạo. Như trong kinh Trường A-hàm, phẩm Thiên nói: “Mẹ con quỷ thần, nghe pháp đắc đạo”. Trong kinh Đề-vị nói: “Các rồng, quỷ, v.v… nghe Phật nói pháp, cũng đều đắc đạo. Trong ba đường không ngại lãnh hội bậc Thánh, vì sao gọi là nạn?”

Giải thích: Ba đường là chỗ chướng nạn, nên không đắc đạo nhưng có chúng sinh được nhân thù thắng tu tập đã lâu, lỡ đọa trong ba đường ác, nay gặp sức không thể nghĩ bàn của Đức Như Lai và Đại Bồ-tát, là vì duyên mạnh. Có đắc đạo ấy, như Nan-đà v.v… bỏ phiền não chướng ràng buộc, nên không đắc đạo. Nhờ Phật làm duyên, nên được nhập Thánh đạo. Ở đây cũng như vậy, không có tự lực và xá-lợi và các nhân duyên nhỏ nên có thể nhập Thánh đạo nên gọi là Nạn. Lại trong ba đường ác, gặp Thánh đắc đạo, phần nhiều là người tạm thời, vì dẫn các chúng sinh khiến cho khởi tâm, rõ ràng đã có sở đắc, chẳng phải thật phàm. Thật phàm không được, nên gọi là Nạn.

Nạn đui điếc câm ngọng: Đui là không thấy bậc Thánh, điếc là không được nghe pháp, câm là không thưa hỏi được, không thể vào bậc Thánh, cho nên là nạn.

Hỏi: Tất cả đui điếc câm ngọng đều là nạn, nhưng có cái chẳng phải nạn?

Giải thích: Sinh mù, sinh điếc, sinh ngọng là thuộc về tám nạn, còn bao nhiêu chẳng phải nạn.

Hỏi: Tất cả đui điếc câm ngọng, đều không thấy nghe, không thể thưa hỏi, vì sao chỉ nói sinh mù điếc ngọng cho là nạn.

Giải thích: Nếu chẳng phải sinh ra đã mù, điếc, ngọng trước đã được thấy bạn nghe pháp thăm hỏi, sau nương cửa đạo, do chẳng phải hoàn toàn chướng, cho nên chẳng phải nạn.

Thế trí biện: Có người thông minh, lanh lợi vọng chấp, khó mà trở lại, cho nên là nạn.

Nói nạn sinh trước Phật, sau Phật: sinh trước Phật, sau Phật là thời không có Phật pháp, không biết đạo xuất thế, không có tâm cầu Thánh, cho nên là nạn.

Hỏi: Hàng Bích-chi ra đời không gặp Phật, thì sinh trước Phật, sau Phật có nạn gì?

Giải thích: Hàng Bích-chi đã tu lâu thuần thục, có thể tự độ mình, không nhờ thầy dạy, còn các chúng sinh khác không được như vậy, nên y cứ nói người khác nói đó là nạn.

Uất-đơn-việt: Uất-đơn-việt ở phía Bắc được quả báo an lạc thù thắng thấy việc không khổ, chúng sinh ở cõi ấy, tuệ lực yếu kém, không biết nhàm lìa quán lỗi để cầu xuất ly, nên nói là nạn.

Hỏi: Uất-đơn-việt ở tầng trời cõi Dục hưởng vui cao quý,vì sao chẳng phải nạn?

Giải thích: Quả báo vui ở sáu tầng trời tuy cao quý, mà tuệ lực trong cõi trời kia mạnh hơn, có thể chán lìa quán lỗi cầu ra khỏi, cho nên chẳng phải nạn. Hơn nữa, trong cõi trời kia có Phật biến hóa rừng gương tường gương. Các vị trời ở trong đó, thấy đời trước của mình tự đến đường ác, tâm sẽ rất buồn lo, bèn bỏ vui cõi trời, như cách ngàn đợi, không còn sót lại. Lại quả báo cõi dục hết, khi năm tướng suy báo hiện vì buồn lo nên không biếng nhác. Trong hai thời này, có thể nhàm lìa hai cõi, thú cầu xuất ly, đây là do chẳng phải nạn.

Nước Uất-đơn-việt: Không phải như vậy cho nên là nạn.

Trời Trường Thọ ở cõi Sắc, Vô sắc, quả báo tuổi thọ lâu dài, thấp nhất là nửa kiếp nên gọi là trời Trường Thọ. Trong cõi trời kia vắng lặng an ẩn. Phàm phu sinh lên cõi trời ấy, phần nhiều cho là Niết-bàn, trên bảo thủ chấp sâu, lại không có Phật pháp để nương cầu xuất ly nên là Nạn.

Hỏi: Kinh nói sinh hạnh vô hạnh bát Niết-bàn v.v… đều ở cõi trời Trường thọ được quả Niết-bàn, vì sao nói Trường Thọ là nạn?

Giải thích: Nạn là nói theo phàm, sinh Niết-bàn v.v.. kia, là người ở cõi Na-hàm, sinh lên đó được diệt, do đó không có lỗi. (môn thứ hai đã xong).

3. Y cứ năm đường: Phân biệt thành tám nạn:

Địa ngục, quỷ, súc ở ba đường dưới. Đui điếc, thế trí, trước Phật sau Phật và Uất-đơn-việt loài người ít có phần. Nhưng y cứ vào loài người, đui điếc, thế trí, trước Phật sau Phật, trừ Uất-đơn-việt, còn ba phương khác. Uất-đơn-việt chỉ ở Uất-đơn-việt, một nạn Trường Thọ thiếu phần các vị trời, vì cõi Dục chẳng phải là nạn. (môn thứ ba đã xong).

4. Y cứ nghiệp báo phiền não để phân biệt:

Địa ngục, quỷ, súc sinh, điếc câm ngọng, Trường thọ, Uất-đơnviệt, y cứ quả báo để nói về nạn. Ở trong địa ngục, quỷ, súc, đui điếc, là báo khổ; Uất-đơn-việt, Trường thọ là báo vui. Thế trí, biện thông, là thuộc về phiền não tà kiến. Trước Phật sau Phật nghiệp báo phiền não không bao gồm trong ba phần, nhưng không có Phật pháp để nương cầu xuất ly cho nên gọi là Nạn. (môn thứ tư đã xong).

5. Y cứ bốn vầng để nói về đối trị : Thế nào là bốn vầng?

Như trong Luận Thành Thật nói:

  1. Trụ thiện xứ, nghĩa là sinh ở trung quốc.
  2. Nương người lành, nghĩa là gặp Phật ở đời.
  3. Tự phát chánh nguyện, nghĩa là có chánh kiến.
  4. Đời trước gieo trồng gốc lành, nghĩa là đối với các căn hiện tại đầy đủ.

Bốn loại này chỉ ở trong cõi trời, người trong luận gọi là bốn vầng trời, người.

Nói luân, là theo dụ đặt tên, có thể bẻ dẹp tám nạn, đọa vào pháp luân vô lậu Thánh đạo, gọi là luân. Bốn luân như vậy, tướng trị như thế nào? Như trong luận nói: Ban đầu trụ thiện xứ, có thể bẻ dẹp năm nạn, nghĩa là ba đường ác là Trường Thọ, Uất-đơn-việt, do khi ở cõi trời, người sinh ở trung quốc lìa năm nạn này.

Nương người lành: Là xa lìa nạn trước Phật sau Phật, nhờ gặp Phật ở đời, nên lìa nạn này.

Tự phát chánh nguyện, xa lìa nạn thế trí biện thông, do chánh cầu nên lìa tà nạn kia.

Đời trước gieo trồng nhân thiện, xa lìa nạn đui điếc câm ngọng, vì đủ các căn, xa lìa nạn ấy, tám nạn như vậy.

10. NGHĨA CHÍN CHÚNG SINH Ở CHÍN CÕI:

Chín cõi chúng sinh ở như trong kinh nói. Vì sao nói? Vì phá các chấp của ngoại đạo. Có các ngoại đạo, đều chấp chúng sinh cho là thần ngã, chọn nơi tốt mà ở, Đức Phật vì phá chấp ấy nên nói chín cõi này là chúng sinh ở, chẳng phải ngã ở. Đó là trời, người ở cõi Dục là một, Sơ thiền là hai, Nhị thiền là ba, Tam thiền là bốn, Vô Tưởng là năm, Không xứ là sáu, Thức xứ là bảy, Vô sở hữu xứ là tám, Phi tưởng là chín. Chín chỗ này, chúng sinh thích ở gọi là chúng sinh ở.

Hỏi: Trong bảy thức trụ ở phần trước, không nói Vô tưởng và Phi tưởng xứ, vì sao ở đây nói chung là ở?

Giải thích: Ở hai cõi ấy tàn hại tâm thức, nên chẳng phải thức trụ, không diệt chúng sinh nên nói là chúng sinh ở.

Hỏi: Trong ba đường cõi Dục, cũng có chúng sinh, vì sao không nói là chúng sinh ở?

Giải thích: Chúng sinh đồng nhàm lìa ba đường ác, chẳng phải chỗ thích ở nên, ở đây không nói.

Lại hỏi: Cõi Sắc trong thiền thứ tư, trừ trời vô tưởng còn có tám cõi trời, chúng sinh thích ở, vì sao không nói là chúng sinh ở ?

Trong Tạp Tâm giải thích: Trong Tứ thiền ấy có Ngũ Tịnh Cư, ưa cầu Niết-bàn, không muốn trụ lâu, cho nên không nói là chúng sinh ở. Còn có các cõi Phước Sinh, Phước Ái, Quảng Quả, hoặc cầu Tịnh Cư, hoặc cầu Vô sắc, hoặc cầu Niết-bàn, không muốn trụ lâu, cho nên cũng chẳng phải chúng sinh ở.

Nghĩa chín chỗ ở nói lược như vậy.

11. NGHĨA MƯỜI HAI NHẬP:

Chia ra sáu môn.

  1. Giải thích tên gọi;
  2. Nói về thể;
  3. Nói về tướng;
  4. Tùy nghĩa phân biệt
  5. Đối ấm phân biệt
  6. Đối cõi phân biệt.

1- Giải thích tên gọi:

Mười hai nhập là chỗ sinh Thức gọi là Nhập. Như tám thắng xứ gọi là tám trừ nhập. Lại căn trần xen nhau thuận nhập, cũng gọi là Nhập. Nghĩa nhập được chia mười hai phần khác nhau đó là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Trong mười hai pháp này, sáu pháp đầu là nội, sáu pháp sau là ngoại. Nội gọi là sáu căn, ngoại gọi là sáu trần.

Thế nào gọi là nhãn cho đến gọi là ý?

Giải thích có hai nghĩa:

1. Ước đối để luận, đối sắc gọi là nhãn, cho đến thứ sáu đối pháp gọi là ý.

2. Y cứ công năng giải thích, thấy được gọi là nhãn, được nghe gọi là nhĩ, ngửi được gọi là tỷ, nếm được gọi là thiệt, cảm giác được gọi là thân, nhớ được gọi là ý.

Thế nào gọi là Sắc cho đến gọi là Pháp?

Giải thích có hai:

1. Y cứ đối để giải thích: Đối với nhãn gọi là Sắc, cho đến thứ sáu đối ý gọi là Pháp.

2. Theo tướng để giải thích: Chất ngại gọi là sắc. Nói chung thinh, hương, vị v.v… đều là chất ngại, mà sắc trần hiển bày tướng chất ngại nên gọi như vậy.

Lại nữa hiển bày hình tướng cũng gọi là Sắc; hưởng vận gọi là thinh; phân phức gọi là hương. Ở đây nói hương thơm thì không đủ, trong đó cũng có các mùi tanh tao, không thể nêu ra hết, vả lại còn có các hương thơm tương xứng, đây chính là ngôn lời bất tận. Có thể nếm gọi là vị, có thể cảm giác gọi là xúc, tự thể gọi là Pháp, tên gọi như vậy.

2- Nói về thể: Trong môn thứ hai nói về thể tánh kia, năm căn như nhãn v.v… tịnh sắc làm thể, y theo trong Luận Tỳ-đàm, bốn đại tạo sắc làm thể; nếu theo Luận Thành Thật, thì bốn đại tạo thành sắc tạm làm thể.

Hỏi: Bốn đại đã không thêm bớt, làm sao thành năm căn khác nhau?

Giải thích: Bốn đại tạo thành pháp, như ngoài bốn đại tuy không thêm bớt, mà tạo thành lúa, bắp, đâu v.v… các loại khác nhau, lại do nghiệp nên thành căn khác nhau. Có nghiệp để sinh một loại bốn đại hợp thành nhãn căn có thể thấy sắc, cho đến có nghiệp sinh một bốn đại tập thành thân căn có thể cảm giác với xúc, như do đèn sáng, được ánh sáng là nhãn căn, đưa ra các chuông linh v.v… có các tiếng đó là nhĩ căn. Tất cả như vậy.

Hỏi: Do nghiệp có thể thấy, cho đến có thể cảm giác, vì sao dùng căn?

Giải thích: Tuy có nghiệp làm nhân, nhưng phải nhờ căn duyên, như lúa tuy do nghiệp mà được, nhưng phải nhờ hạt giống, ở đây cũng như vậy.

Kế nói về ý nhập: dùng tâm làm thể. Y theo Luận Tỳ-đàm: Tất cả sáu thức có thể sinh nghĩa sau đều là ý căn đều gọi là ý nhập, còn lại tất cả tưởng, thọ, hành v.v.. do trước sinh sau, đều chẳng phải ý nhập, vì thuộc bao gồm pháp nhập.

Hỏi: Tất cả sáu thức sinh ra nghĩa sau, đều là ý căn. Vậy, sáu thức đã sinh được gọi chung là ý thức được không?

Luận tự Giải thích: Nương có hai loại:

  1. Cùng nương: sáu thức cùng nương ý căn mà sinh.
  2. Không cùng nương: Tâm của sáu thức đều riêng nương căn, mong ý cùng nương, đồng gọi là ý thức; mong ý không cùng nương, như năm thức như nhãn v.v… đều đặt tên khác nhau, không gọi là ý thức.

Nếu theo Luận Thành Thật, giải thích có ba nghĩa:

  1. Nói theo Tướng chung: Tất cả bốn tâm do trước sau sinh, đều là ý căn, đồng gọi là ý nhập. Từ trước sinh nghĩa, đều gọi là ý thức, thuộc về pháp nhập.
  2. Phân biệt năm thứ: Trừ sinh năm thức, còn tất cả thức, tưởng, thọ, hành do trước sinh sau, đều là ý nhập. Y cứ một môn này, năm thức về trước thứ lớp diệt tâm, thuộc về pháp nhập, chẳng phải ý nhập.
  3. Đối với khác nhau gọi là ý thức. Để rõ ý nhập: Thức, tưởng, thọ, hành, trong bốn tâm chỉ phân tâm sinh ý thức của sở hành sau cùng dùng làm ý nhập, còn lại đều thuộc Pháp nhập. Trong Đại thừa đã nói đồng với Luận Tỳ-đàm; nội nhập như vậy.

Kế là nói ngoại nhập: năm trần như sắc v.v… dùng sắc làm thể. Trong Luận Tỳ-đàm: Bốn đại tạo sắc, thinh, hương v.v… dùng làm năm trần. Trong Luận Thành Thật, bốn đại nhơn sắc, hương, vị, xúc làm bốn trần. Bốn đại kích nhau lại có phát ra tiếng, đây thời bốn trần là nhân có bốn đại, thinh là đại quả. Năm trần là như vậy.

Kế nói về pháp nhập: pháp nhập rộng thông, trừ mười một pháp trước còn tất cả hữu vi vô vi đều là pháp nhập, thể tánh như vậy.

3- Nói về tướng: Trong môn thứ ba kế nói về tướng, nhãn nhập có hai:

  1. Nhục;
  2. Thiên.

Nhục có hai loại: 1. Báo căn

2. Trưởng dưỡng.

Tất cả nhãn căn người, quỷ, súc, v.v…, từ nhân quá khứ sinh gọi là báo căn, nhờ các duyên ăn uống, thuốc men hiện tại mà được nhãn, gọi là trưởng dưỡng.

Trong thiên nhãn cũng có hai loại:

1. Báo căn; 2. Phương tiện.

Bắt đầu từ Dục thiên đến Sắc Cứu Cánh, báo được tịnh nhãn, là báo căn. Y theo tự nhiên thiền tu được thiên nhãn là phương tiện.

Hỏi: Trong kinh nói có năm nhãn, vì sao trong đây chỉ nói hai loại nhãn?

Giải thích: Tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn, thể là tuệ tánh, chẳng phải sắc căn, nên ở đây không nói.

Nhãn nhập như vậy.

Kế nói về nhĩ nhập: cùng với nhãn căn đồng với tỷ, thiệt, thân nhập cũng có hai loại:

  1. Nhục.
  2. Thiên.

Nhục đồng với trước, trong cõi trời chỉ có căn báo sinh, không có phương tiện. Vì sao như vậy? Vì các vị trời cõi Dục, vì muốn ngửi hương, nếm, vị, giác xúc, để trang nghiêm thân, nên có báo căn. Các vị trời cõi Sắc, vì làm nghiêm thân, nên cũng có báo căn. Nhưng tỷ, thiệt, thân chẳng phải tánh thần thông, trần cảnh đến mới biết, không thể biết được mầu nhiệm, nên không nương thân phương tiện tu khởi.

Hỏi: Nếu vị trời có tỷ, thiệt, thân trong kinh, luận vì sao không nói?

Giải thích: kinh luận thật có nói trên trời có ty, thiệt, thân, nhưng ba căn này, chẳng có tánh thần thông, không khác với người, nên trong kinh luận không nói mũi, lưỡi, ở cõi trời.

Kế nói về ý nhập:

Trong Luận Tỳ-đàm sáu thức sinh sau, tức là sáu ý.

Trong LuậnThành thật, ý có chung riêng tâm sở hành sau cùng.

Sinh ý thức, cho đó là riêng, tất cả bốn tâm sinh sau là ý, lấy đó làm chung, ý nghĩa của tên khác có chia làm ba:

  1. Sau năm thức, tâm sở hành sau cùng. Sinh ra ý thức nói là ý nhập.
  2. Sau năm ý thức tâm sở hành sau cùng, sinh ý thức nói là ý nhập.
  3. Thứ sáu độc đầu ý thức tâm sở hành sau cùng. Sinh ý thức nói là ý nhập. Nếu có ý thức là nương vào năm thức trước khai dẫn sinh, gọi là năm ý thức. Không nhờ năm ý thức khai dẫn sinh, gọi là độc đầu. Tên riêng như vậy. Nếu nói chung thì tóm lại thành bốn lớp, rộng thành mười hai.

Nói bốn lớp là thức, thọ, tuởng, hành, sinh ra tất cả, gọi chung là ý căn, đều gọi là ý nhập.

Nói mười hai: Năm thức về sau mỗi lớp có bốn tâm, năm thức sau mỗi thức có bốn tâm; thức, độc đầu sau một lớp bốn tâm, ba lớp bốn tâm đều có thể sinh sau, đây gọi là ý căn, đều gọi là ý nhập. Nên có mười hai, tùy theo nghĩa riêng thì chia ý thành vô lượng.

Kế nói về Sắc nhập: Bao gồm chỉ một sắc, hoặc chia làm ba, nghĩa trong tốt xấu, hoặc chia làm năm, đó là màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu đen; hoặc chia hai mươi. Như trong Luận Tỳ-đàm nói là: xanh, vàng, đỏ, trắng, khói, mây, sương, bụi, ánh sáng, bóng sáng tối, vuông, tròn, dài ngắn, cao thấp, chánh bất chánh.

Trong Luận Thành Thật không có số nhất định, nhưng trong luận nói, chỉ nói các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen v.v… dùng làm sắc trần. Còn tất cả khói mây bụi sương vuông tròn dài ngắn v.v… đều là sắc giả. Pháp nhập gồm thâu chẳng phải là sắc nhập, ánh sáng bóng sáng tối, ở trong tông ấy tùy theo sắc tuớng, thuộc về các màu sắc: Xanh, vàng, đỏ. Nếu lại nói rộng về sắc thì vô lượng.

Kế nói về thanh nhập: bao gồm chỉ có một thinh, hoặc chia làm ba:

  1. Nhân thọ: Thanh của bốn đại, thân chúng sinh, có khả năng sinh tâm ái gọi là bốn đại, nương theo đây phát ra tiếng gọi là nhân thọ.
  2. Nhân bất thọ: thanh của bốn đại, nghĩa là thinh dã phát ra ngoài bốn đại.
  3. Nhân câu thanh: Nghĩa là các tiếng đánh trống thổi sáo, trong ngoài đều phát ra gọi đó là nhân câu.

    Nếu nói rộng thì có vô lượng.

Kế nói về hương nhập: Bao gồm chỉ một hương, hoặc chia ra hai loại, như trong luận Thành Thật nói:

  1. Thành chất hương, tức các gỗ hương.
  2. Duyên sinh hương, nương chất hương kia duyên sinh mùi hương, lìa chất mà đi duyên sinh khác nhau, có khi thành đất. Như hương xông ướp y phục khiến y phục có mùi thơm: có khi thành nước, như xông hương ướp mè khiến dầu có mùi thơm, có khi thành gió, như gió đi ngang qua cây hương, mà trong gió đến có mùi. Có khi lại một mình dạo đi lại không có thành. Trong hai mùi hương này, mùi hương thành chất, tỷ căn không nghe; duyên sinh mùi hương đến tỷ căn nên tỷ căn nghe được.

Hỏi: Khi mùi hương đến mũi, là lúc một mình đến hay có bạn? Ngoại đạo nói mười tướng yếu kém dẫn đến tỷ căn:

Nói mười kém yếu, năm trần như sắc v.v… năm đại như đất v.v…. Trong Luận Tỳ-đàm nói tám tướng kém yếu dẫn đến tỷ căn.

Nói tám tướng yếu kém: Trong mười kém yếu trước trừ thinh và không. Trong luận Thành Thật rộng phá nghĩa này. Nếu nói mùi hương cùng các sắc kia đều đến mũi, thì chất trước nên bớt cũng có thể đều hết. Lại đốt chất hương hoại hương đầy, thì rõ biết không đến cùng các sắc, chỉ cùng đến với phong đại ở mũi, hoặc đến một mình, hoặc chia làm ba. Như trong Tạp Tâm nói là trong tốt xấu, trong tốt xấu này tùy theo tình phân biệt. Vừa ý gọi là tốt, trái ý gọi là xấu, chẳng phải trái, chẳng phải vừa ý cho là trung. Tùy theo tướng mà nói riêng, mùi hương thì có vô lượng.

Kế nói về vị nhập: Bao gồm chỉ một vị, hoặc chia làm ba là tốt, xấu, trung; hoặc chia làm sáu là cay, đắng, ngọt, chua, mặn, lạt khác nhau. Như trong Niết-bàn nói: bơ ngọt tám vị đều đủ, văn kia không kể, chẳng biết thế nào, tùy theo khác nhau để phân ra mùi vị cũng có vô lượng.

Vị nói về về xúc nhập: Bao gồm chỉ một xúc, hoặc chia làm ba là tốt, xấu, trung. Hoặc chia ra mười một. Như trong Luận Tỳ-đàm: Là cứng, ướt, ấm, động, nạng, nhẹ, rít, trơn, lạnh, đói, khát v.v… Cứng là địa đại, ướt là thủy đại, ấm là hỏa đại, động là phong đại, bốn đại này là năng tạo, bảy cái sau là sở tạo. Bảy cái sau tuy là do bốn đại tạo thành nhưng trong đó cũng có nặng nhẹ khác nhau. Như trong Tạp Tâm nói: Hỏa phong tăng nên nhẹ, địa thủy tăng nên nặng, địa phong tăng nên rít, thủy hỏa tăng nên trơn, thủy phong tăng nên lạnh, phong tăng nên đói, hỏa tăng nên khát.v.v… từ nghĩa suy ra. Xúc lẽ ra có mười lăm, mười một pháp như trước, lại nên có bốn, địa hỏa tăng thêm nên lập xúc mạnh, địa tăng nên no, thủy tăng nên đầy.

Trong Luận Thành Thật có nói mà trong Luận Tỳ-đàm không nói. Bốn đại đều đồng, phải nên lập một xúc điều hòa. Trong Luận không nói đến, đây là do thông ở trước, nên phải mười lăm. Trong pháp Luận Thành Thật, xúc không có số nhất định, lấy nghĩa đó suy ra có ba mươi chín:

1- Cứng; 2- Mềm; 3- Nhẹ; 4- Nặng; 5- Mạnh; – Yếu; 7- Lạnh; 8- Nóng; – Rít; 10- Trơn; 11- Mạnh; 12- Trong sáng.

Mười hai pháp này là ngoại xúc.

13. Ỷ lạc thân lìa xúc não tự biết ưa thích nên gọi là ỷ lạc.

14- Mệt nhọc; 15- không mệt nhọc; 1- bịnh; 17- già; 18- thân lợi căn; 1- thân độn; 20- thân biếng nhác; 21- thân nặng nề; 22- mê; 23- muộn; 24- mơ hồ; 25- đau đớn; 2- tê liệt; 27- cang cường; 28- đói; 2- khát; 30- no; 31- đủ; 32- ưa thích, là điều ưa thích nên gọi là thị lạc; 33- thân không ưa thích lại gọi là không ưa thích; 34- phiền muộn; 35- ợ ngát; 3- đau; 37- ngứa; 38- gấp như người ngồi thiền có sở đắc; 3- chậm.

Sau đây nêu hai mươi bảy loại là nội xúc. Trong các xúc này, ba mươi bốn xúc trước là nói trong phẩm xúc của luận Thành Thật, năm nghĩa sau, tùy theo nghĩa bố trí. Ở đây v.v… đều là sở giác của thân, nên gọi chung là Xúc.

Hỏi: Ỷ v.v… là pháp tâm sở, vì sao nói là xúc nhập ý?

Giải thích: Xúc nhập đều là sắc pháp, nên tâm hiển bày riêng. Nếu nói rộng, xúc cũng vô lượng.

Kế nói về pháp nhập: Nếu nói chung thì chỉ có một pháp, hoặc chia làm hai:

  1. Hữu vi.
  2. Vô vi.

Hoặc chia làm sáu.

Hữu vi có ba:

1. Sắc; 2. Tâm; 3. Phi sắc phi tâm.

Theo Luận Tỳ-đàm nói: Thiện, ác vô tác dùng làm sắc pháp, tưởng thọ hành v.v… dùng làm tâm pháp, còn lại mười bốn món bất tương ưng hành, là phi sắc tâm.

Nếu theo Luận Thành Thật, chưa quá năm trần thân miệng tạo nghiệp, sắc giả danh như bốn đại, v.v…, dùng làm sắc pháp, năm thức về trước thứ lớp diệt tâm, dùng làm tâm pháp. Nếu nói chung thì tất cả sáu thức đều từ nghĩa trướ sinh đều là tâm pháp. chúng sinh giả danh, thiện ác vô tác là phi sắc tâm.

Vô vi cũng có ba: Là hư không vô vi, thường diệt vô vi và chẳng thường diệt vô vi.

Nghĩa này như chương ba món vô vi ở trước có phân biệt rộng. Tướng khác nhau như vậy.

4- Tùy nghĩa phân biệt: Môn thứ tư phân biệt theo nghĩa trong đó có sáu:

  1. Phân biệt giả thật.
  2. Phân biệt ba đời.
  3. Phân biệt ba cõi.
  4. Phân biệt ly hợp.
  5. Phân biệt theo nhân.
  6. Phân biệt theo báo.

Ban đầu nói giả thật, năm căn như nhãn v.v… ngoại đạo nói là có định tánh. Trong LuậnTỳ-đàm, phá định tánh ấy nên nói nhãn v.v… từ nhân duyên sinh. Tuy nói từ duyên, mà thể là thật phi xứ phi giả. Trong Luận Thành Thật, một bề là giả, để kéo các đại tập hợp nhập vào ý thức thành căn thứ sáu. Theo Luận Tỳ-đàm là thật. Trong Luận Thành Thật nói vừa thật vừa giả gọi là thật, ba tướng thành niệm gọi là giả. Năm trần như sắc v.v…. Trong Luận Tỳ-đàm nói một bề là thật. Trong Luận Thành Thật, vừa thật vừa giả. Pháp năm trần dừng lại ở một niệm hiện tiền không thông nối nhau gọi là thật, lại không lôi kéo các trần, các đại giả để tập thành nên gọi là Thật.

Cái gọi là giả, giải thích có hai nghĩa:

1. Nhân hòa hợp, gom tế thành thô; gần sắc không, lấy đó làm tế, tập hợp nhiều tập có thể thấy gọi là Thô ?

2. Pháp hòa hợp, khổ vô thường v.v.. đồng thể hư tập nên gọi là giả. Trong pháp Đại thừa nói vừa thật vừa giả, nghĩa thật đồng như trước, tạm có năm loại:

  1. Nhân hòa hợp
  2. Pháp hòa hợp.

    Hai pháp này đồng với trước.

  3. Vọng tưởng hư giả: Các pháp sắc v.v… cuồng tuởng tạm có như hoa đốm trong hư không.
  4. Vọng tưởng luống dối. Sắc v.v… đều từ vọng tâm giả tập như nằm mộng thấy.
  5. Giả của chân thật duyên tập: Nghĩa là nương chân thức duyên tập các sắc, nên trong kinh nói: “Ba cõi luống dối đều một tâm tạo”.

Trong luận giải thích đều là tâm tạo, nghĩa là chân tâm khởi.

Đủ năm nghĩa này nên gọi là giả.

Kế nói về pháp nhập: Luận Tỳ-đàm chỉ có thật. Trong Luận Thành Thật nói theo tướng, có thật có giả, chưa qua ba pháp vô vi trong năm trần là pháp thật còn tất cả ngã, nhân, chúng sinh, nhà cửa, quần chúng, tòng lâm, cỏ cây, bốn đại, các pháp, đều là giả danh.

Nói theo lý, tất cả các pháp đều là giả danh, vì nhiếp vào bốn giả. Đại thừa cũng nói vậy. (môn thứ nhất xong).

Theo ba đời biện định các nhập: Y theo Luận Luận Tỳ-đàm, mười hai pháp nhập, đều chung cả ba đời. Nếu theo Thành Thật, sáu căn, năm trần hạn cuộc trong một sát na ở hiện tại, không chung quá khứ, vị lai. Hiện tại, quá khứ, vị lai là pháp nhập, một loại pháp nhập, bao gồm cả ba đời, vì pháp rộng.

Trong pháp Đại thừa, văn không phán định, phần nhiều đồng với Luận Tỳ-đàm. (môn thứ hai đã xong).

Kế phân biệt các nhập trong ba cõi: Trong pháp Tiểu thừa hai trần, hương, vị chỉ ở cõi Dục, cõi trời không có vì cõi trên không có tánh đoạn thực.

Trong Luận Đại thừa, Quả báo chư Phật, Bồ-tát chân thật, không thuộc ba cõi. Các pháp khác thì như trước.

Năm căn như nhãn v.v… xúc, trần như trong pháp Tiểu thừa sắc thinh quyết định ở cõi Dục, cõi Sắc.

Trong Luận Đại thừa, qủa báo chư Phật, Bồ-tát chân thật, không thuộc ba cõi. Đại thừa nói: Trong cõi Vô sắc còn có Sắc, ý nhập, pháp nhập. Như vô lậu, không thuộc về ba cõi còn các pháp khác thì chung cả ba cõi. (môn thứ ba đã xong).

Kế nói về nghĩa căn trần ly hợp: Ngoại đạo nói: sáu căn sáu trần, hợp lại sinh hiểu biết. Căn trần khác chỗ, làm sao hợp được? Họ nói: Nhãn căn có thần quang đi đến trần trước nên sẽ thấy sắc. Còn bốn căn không có ánh sáng đến trần, do sức thần ngã, cảm trần đến căn, cho nên biết là hợp. Một loại ý căn, thần ngã dắt đi đến cảnh trước nên biết được pháp.

Trong Luận Thành Thật rộng phá nghĩa này: Nếu nhãn quang đi, nên thấy vật thô tế ở chặng giữa. Lại nếu ánh sáng đi thì thấy lẽ ra lửa thiêu đốt, thấy nước lẽ ra ướt; lại nếu ánh sáng đi, xa thấy sắc xa, phải nên thấy chậm, thấy xa không chậm thì biết rõ không đi. Lại nếu ánh sáng đi thì xa thấy sắc xa, không nên sinh nghi; lại nếu ánh sáng đi thì vật trong thủy tinh, có đá dưới vực sâu, mắt đều trông thấy, sao không thấy được? Lại nếu thấy sắc hợp mà thấy, hiện thấy cho là vật để trong mắt, tự đã không rõ, nên biết không hợp.

Nếu nói do ngã sai khiến còn bốn trần đến căn thì ở đây chỉ có ấm, chỗ nào có ngã nói là có năng lực cảm ứng. Nếu căn không sáng thì năng lực thần ngã không thể đem đi; trần cũng không sáng thì năng lực thần ngã làm sao có thể sai đến? Lại thinh. vị v.v… không lìa thể chất, dầu có thần ngã cũng làm sao khiến nó lìa chất mà đến.

Hỏi: Nếu thinh không lìa chất, kia đây cách bặt, làm sao nghe được?

Giải thích: Thế gian thấy nghe pháp, như sắc tuy xa mà mắt có thể thấy, tiếng cũng như vậy, thì có gì quái lạ.

Nếu nói thần ngã đem ý đi thì trong vô ngã ai đem ý đi ? Lại nếu ý đi thì trong thân không có tâm nên gọi là người chết. Người không gọi là chết, rõ biết không đi. Lại nếu ý đi thì vật ở phương khác chỗ không thấy nghe cũng sẽ biết hết, vì không biết nên không đi. Đã phá như vậy.

Đúng nghĩa chính thì thế nào? Trong Luận Thành Thật, một loại nhãn căn, lìa mà sinh biết, tỷ thiệt và thân hợp mà sinh biết. Một loại nhĩ căn, vừa lìa vừa hợp. Tai nghe tiếng kêu, hợp lại thì nghe được, còn các tiếng bên ngoài, lìa thì được nghe. Ý chẳng phải sắc pháp, không đến mà chẳng ở đâu không đến, chẳng phải lìa chẳng phải hợp. Nếu theo Tạp Tâm, hai căn nhãn, nhĩ lìa mà sinh biết. Tuy tai nghe tiéng, cũng là lìa nghe. Tỷ thiệt và thân, đồng với Luận Thành Thật. Một loại ý căn, vừa lìa vừa hợp, nên bài kệ ấy nói: “Hai cảnh không gần thọ, xa gần một cảnh giới còn một bề gần thọ”.

Hai cảnh không gần, chính là nhãn nhĩ.

Xa gần một cảnh, đó gọi là ý căn; còn một bề là tỷ, thiệt, thân. (môn thứ tư đã xong).

Kế là y cứ nghĩa nhân phân biệt các nhập, trong mười hai nhập, năm căn như nhãn v.v… năm trần; hương, vị, xúc là pháp vô ký, một bề chẳng phải nhân. Hai trần sắc, thinh các luận nói khác nhau. Trong Luận Thành Thật một bề nói chẳng phải nhân. Luận ấy nói: Năm trần chẳng phải do tội, phước sinh nên chẳng phải nhân. Trong Luận Tỳ-đàm có nhân chẳng phải nhân, trong nghiệp thân miệng sắc thinh thiện ác, một bề là nhân, còn lại chẳng phải nhân. Ýcăn pháp trần, nhân chung chẳng phải nhân. Trong ý căn cả thiện, ác đều được gọi là nhân, còn các pháp khác chẳng phải nhân. Trong pháp trần, các nghiệp phiền não và pháp tương ưng dây cùng có, phán xét đó làm nhân, còn các pháp khác chẳng phải nhân. (môn thứ năm đã xong).

Kế y cứ nghĩa báo phân biệt các nhập, năm căn như nhãn v.v… Như Luận Thành Thật đã nói một bề là báo. Trong Luận Tỳ-đàm nói có báo chẳng phải báo, nhân quá khứ sinh, nói đó là báo. Trưởng dưỡng căn và nương thiền định tu tập nói là chẳng phải báo. Một loại ý nhập, là chung cả báo phi báo. Theo luận Thành Thật năm trần như sắc v.v…chỉ có báo.

Luận Tỳ-đàm thì một loại thinh nhập một bề phi báo. Vì sao vậy? Luận ấy nói: Sắc báo không xen hở, thinh nhập có xen hở, cho nên chẳng phải báo. Lại sắc báo, nhân thù đã định, không tùy theo tâm chuyển. Thanh thì không như vậy, đại tiểu tùy tâm, nặng nhẹ theo ý cho nên chẳng phải báo.

Hỏi: Nếu nói thinh là phi báo, thì trong kinh nói, bày ra các chuông linh được âm thinh tốt, vì sao chẳng phải báo?

Luận tự giải thích: Do bày ra các chuông linh được bốn đại tốt, ở trong cổ họng phát tiếng hay, từ chỗ nương ấy nói là báo, chứ thể của thanh chẳng phải báo. Còn bốn trần chung báo phi báo. Báo căn chung gọi đó là báo còn lại chẳng phải báo.

Hỏi: Các sắc ngoài như hương vị xúc, v.v… là báo nương quả, vì là phi báo?

Luận tự Giải thích: Gió nghiệp thiện ác thổi các chúng sinh đến chỗ tốt xấu, mà chỗ đi đến không do nghiệp sinh, cho nên phi báo.

Trong pháp Đại thừa, năm trần như sắc v.v…, chung báo phi báo, từ nhân quá khứ sinh, một bề là báo, nơi biến hóa và tất cả chỗ khác, hiện khởi phương tiện đều là phi báo, trong pháp nhập, chung báo phi báo, các pháp thiện ác, ba món vô vi v.v… là phi báo, ngoài ra là báo. Nghĩa khác nhau như vậy.

  1. Đối ấm phân biệt: Trong môn thứ năm đối ấm phân biệt. Ấm là năm ấm, phân một sắc ấm, dùng làm mười nhập và một phần ít, năm căn, năm trần là mười nhập.

Nói một phần ít, Như Luận Tỳ-đàm trong pháp nhập thiện ác vô tác, là sắc ấm kia. Nếu theo Luận Thành Thật, trong pháp nhập, quá khứ, vị lai, năm trần, bốn đại đồng là sắc giả danh là sắc ấm nên nói một phần. Trong bốn ấm khác. Theo Luận Tỳ-đàm thì chấp lấy thức ấm dùng làm ý nhập; tưởng, thọ và hành thuộc về pháp nhập. Nếu theo Luận Thành Thật tùy nghĩa mà nói chung, tất cả bốn tâm có thể sinh nghĩa sau, đều là ý nhập. Tất cả tâm thức từ trước sinh nghĩa đều thuộc về pháp nhập. Nếu lựa chọn năm thức, năm thức về trước thứ lớp diệt tâm, là pháp nhập, còn bao nhiêu đều thuộc ý nhập, đều gọi chung là thuộc về ý căn, nếu ngay khi đối với ý căn thì gọi riêng là ý thức. Tâm sở hành sau cùng sinh ý thức, là ý nhập. Ngoài ra còn đều là Pháp nhập.

5. Đối cõi phân biệt: Trong môn thứ sáu đối giới phân biệt: Mười hai nhập này đối với mười tám giới, làm sao phân biệt? Theo Luận Tỳđàm, năm căn, sáu trần mười tám giới tức là mười một. Trong ý nhập chia ra sáu thức, hợp chung với trước thành nghĩa mười tám giới.

Nếu y theo Luận Thành Thật, năm căn, năm trần, mười tám giới tức là mười một. Trong pháp nhập chia ra thành sáu thức, hợp chung nơi trước thành nghĩa mười tám giới. Vì theo tông ấy, sáu thức nhiếp vào pháp nhập. Nghĩa mười hai nhập, nói lược như vậy.

12. NGHĨA MƯỜI TÁM GIỚI:

Chia thành mười một môn

  1. Giải thích tên gọi;
  2. Phân biệt ba nhóm;
  3. Phân biệt trong ngoài;
  4. Phân biệt ba tánh;
  5. Phân biệt theo địa;

– Phân biệt hữu vi, vô vi;

  1. Phân biệt hữu lậu, vô lậu;
  2. Phân biệt học v.v…;

– Phân biệt ba đoạn; 10- Phân biệt ba đối;

11- Thức duyên khác nhau.

1. Giải thích tên: Sáu căn như nhãn v.v… sáu trần như sắc v.v… và cùng sáu thức là mười tám giới. Có khả năng sinh gọi là căn, vì thức năng sinh, sinh ra bụi nhơ gọi là trần, vì bụi bặm dơ tâm. Nhưng sắc v.v… này ngay pháp đặt tên gọi là sáu cảnh giới, mà nói trần là riêng đối với tâm nhiễm để nêu bày tên, bởi vì tâm tịnh nhiều duyên lý sinh, nhiễm nương sự khởi, nên chỉ đối với nhiễm để gọi là Trần, có khả năng phân biệt gọi là Thức, vì rõ các trần. Mười tám giới này, trong kinh gọi là giới, cũng gọi là Tánh. Giới hạn riêng gọi là giới, tánh riêng gọi là Tánh, tánh riêng của các pháp nên gọi là giới. (môn thứ nhất đã xong).

2. Y cứ ba tụ phân biệt các giới:

Nói ba tụ: Đó là sắc, tâm và phi tâm sắc phi tâm. Trong mười tám giới, năm căn, năm trần một bề là sắc; ý căn sáu thức một bề là tâm: Trong pháp giới gồm đủ ba tụ. Theo Luận Tỳ-đàm, thiện, ác, vô tác là sắc pháp; tưởng, thọ, hành v.v… là tâm pháp; còn mười bốn bất tương ưng hành và ba món vô vi là phi sắc tâm. Trong Luận Thành Thật các sắc, năm trần, bốn đại quá khứ, vị lai là sắc pháp; năm thứ về trước thứ lớp diệt tâm. Tâm pháp ấy, tạm gọi là chúng sinh thiện, ác vô tác ba món vô vi v.v… là phi sắc tâm.

Ba tụ như vậy. Trong sắc riêng dùng để phân biệt ba môn:

1. Y cứ bốn đại phân biệt các sắc.

Theo luận Thành Thật thì sắc hương vị xúc là nhân bốn đại, có thể thành bốn đại, không vì đại thành. Một loại thanh trần, là quả bốn đại nương bốn đại sinh, không lôi kéo đại thành. Năm căn như nhãn v.v.. là bốn đại thành. Sắc trong pháp giới, nghĩa không nhất định, nếu nói về năm trần, sắc pháp, quá khứ, vị lai, đồng với năm trần trước không do đại thành, năm căn quá khứ vị lai đồng với năm căn ở trước là do bốn đại thành giả sắc bên ngoài cũng do bốn đại thành. Bốn đại xen nhau có được tướng sinh, vô tướng thành lý.

Trong Luận Tỳ-đàm, năm căn như nhãn v.v… sắc trần như sắc thinh, hương, vị và pháp, đều do bốn đại tạo, xúc giới không nhất định, bảy món như khinh v.v… là do bốn đại tạo; cứng ướt nóng động, là xúc của bốn đại, chẳng phải bốn đại tạo.

Hỏi: Ngay nói một bốn đại tạo đủ các sắc hay phải tạo riêng?

Đáp: Luận ấy nói tạo khác nhau. Có chỗ nói rằng: Một loại bốn đại tạo đủ các sắc. Có chỗ lại nói: Tụ là tạo chung, dị là tạo riêng. Ở trong Tạp Tâm nói: Bốn đại tạo riêng, đều không nói hết lý.

2. Y cứ đối phân biệt, sắc có ba loại:

  1. Có thể thấy hữu đối.
  2. Không thể thấy hữu đối.
  3. Không thể thấy vô đối.

Một cõi Sắc có thể thấy hữu đối là sở hành của nhãn gọi là có thể thấy; vì nó đối ngại sắc căn sở đối nên gọi là hữu đối. Thinh hương vị xúc là không thể thấy hữu đối, chẳng phải sở hành của nhãn, nói không thể thấy. Hữu đối đồng như trước. Năm căn như nhãn v.v… và sắc vô tác, là không thể thấy vô đối, chẳng phải sở hành của nhãn, nên không thể thấy, vì sở duyên của ý, không bị đối ngại sắc căn sở đối, nên gọi là Vô đối.

3. Y cứ về thọ phân biệt, nếu có sắc pháp phá hoại ép ngặt hay sinh tâm nhận biết thì gọi là Thọ, không sinh tâm nhận biết gọi là Bất thọ. Như trong Tạp Tâm nói, năm căn như nhãn v.v…như hiện tại, hay sinh thọ tâm thì gọi là thọ. Nếu ở quá khứ, vị lại không sinh giác tâm, gọi là không thọ, sắc hương vị xúc, ở hiện tại không lìa căn gọi là Thọ, còn lại là không thọ. Sắc trong thinh trần và pháp trần, một bề không thọ, vì không sinh giác. Sắc pháp như vậy.

Kế nói về tâm pháp, ở trong đó đối giác quán phân biệt, giống như trong Tỳ-đàm, trong năm thức, quyết định có giác quán, ý căn, ý thức và pháp giới, nghĩa khác với ba món. Sơ thiền trở xuống quyết định có giác quán, trung gian địa thiền, không giác có quán, Nhị thiền trở lên, định không có giác quán.

Hỏi: Năm thức sao không như vậy?

Giải thích: Năm thức chỉ ở trong Sơ thiền cõi Dục có, các địa trên thì không, cho nên năm thức chỉ có ở giác quán. Nếu theo Luận Thành Thật, trong năm thức nhất định không có giác quán, vì trong năm thức không có tư duy, ý căn ý thức và tâm pháp giới thô đồng như trong Luận Tỳ-đàm, tế thì khác nhau. Tông ấy nói: Giác quán nhất tâm, chung cả ba cõi, vì dùng tướng thô tế của tâm, y cứ theo ba cõi. Tâm địa cõi Dục, nhất định có giác quán, cõi Sắc, cõi Vô sắc, thiền phương tiện có, thể của định thì không, do thể ấy vắng lặng. Tâm pháp như vậy.

Kế nói về pháp phi sắc phi tâm. Ở trong đó y cứ phân biệt có không. Nếu đối với lý không, tất cả pháp giới này gọi là có, nên trong Địa Trì nói: Hữu vi, vô vi, gọi là có; vô ngã, ngã sở, gọi là vô sở hữu; vì tùy tướng phân biệt.

Ba pháp vô vi đó là phi sắc phi tâm vô pháp, có thì không nhất định.

Trong Luận Tỳ-đàm nói: Mười bốn món bất tương ưng hành, dùng làm phi sắc phi tâm hữu pháp. Trong Luận Thành Thật nói: Tạm gọi chúng sinh thiện ác vô tác, dùng làm phi sắc phi tâm hữu pháp. ( môn thứ hai đã xong).

3. Phân biệt trong ngoài: Kế y cứ trong ngoài phân biệt các cõi. Ở trong đó nếu y cứ ba phần mà luận, thì sáu căn là trong, sáu trần là ngoài, sáu thức là trung. Nếu nói theo từng phần thì căn trần như trên, sáu thức không nhất định. Trong LuậnTỳ-đàm thuộc nhiếp là trong, nên luận ấy nói: nội giới nói mười hai. Trong Luận Thành Thật không phải như vậy. Nói theo sáu thứ thì thuộc về pháp nhập thì thuộc về ngoài sáu thức.

(môn thứ ba đã xong).

4. Y cứ ba tánh phân biệt các giới:

Thiện ác vô ký, là ba tánh. Theo Luận Thành Thật, năm căn, năm trần và năm thức, một bề vô ký, ý căn, ý thức và pháp giới, gồm chung ba tánh. Trong Luận Tỳ-đàm, năm căn nhãn v.v… hương vị xúc trần, một bề vô ký, còn các pháp khác có cả ba tánh. Nên trong luận ấy nói: Vô ký có cả tám món, còn các pháp khác thì chỉ có thiện và bất thiện; ý căn ý thức và pháp giới có thiện, ác nên tự biết. Thế nào là nghĩa thiện, ác của năm thức sắc thinh? Như tông ấy nói tâm thiện lễ bái, khen ngợi các việc là sắc thinh; tâm ác phát động ra hai nghiệp thân miệng, là sắc, thinh ác. Trong năm thức địa duyên cảnh giới thiện sinh năm thức. Phán xét là thiện; nếu duyên các cảnh đáng tham đáng sân thì sinh năm thức, phán xét là bất thiện.

Hỏi: Vì sao trong Luận Tỳ-đàm nói sắc, thanh v.v… chung cả ba tánh mà trong pháp Thành Thật chỉ nói vô ký?

Giải thích: Trong Luận Tỳ-đàm nói hai nghiệp thân, miệng là tánh sắc thân, nên chung cả ba tánh. Trong Luận Thành Thật, tất cả thiện ác, đều ở trong giả, trong thật thì không. Nhưng trong luận ấy, năm trần chỉ thật không giả danh nên không có thiện ác.

Hỏi: Vì sao thiện và ác chỉ ở trong giả không chung với pháp thật?

Giải thích: Trong tông nối tiếp ấy mới có tổn ích vì một niệm không có.

Lại hỏi: Trong Luận Tỳ-đàm nói năm thức chung ba tánh, vì sao Thành Thật nói chỉ vô ký?

Giải thích: Trong Luận Tỳ-đàm không lập nghĩa giả, nói thiện ác đều ở trong thật, cho nên trong một niệm năm thức, có được thiện ác.

Trong Thành Thật nói thiện ác trong giả mới có, năm thức chỉ có thật, nên không có thiện ác. Lại trong Luận Tỳ-đàm, tâm pháp đồng thời, ở cạnh năm thức tâm, có tám sở thiện ác, do tâm vương theo tâm sở nên nói thiện ác. Trong Luận Thành Thật tâm riêng khác nhau, năm thức tâm khởi biết rõ năm trần, lại không có nghĩa khác, nên không có thiện ác.

Hỏi: Giả sử trong Luận Thành Thật năm thức vô ký không thiện không ác, tâm của năm thức lẽ ra chẳng phải diệu hạnh mới phải?

Giải thích: Tông tâm thể năm thức kia, thật chẳng phải diệu hạnh sau tâm năm thức trong hạnh không có lỗi, mới gọi là diệu hạnh. Trong Đại thừa nói: Hàng phàm phu, Nhị thừa đồng với Luận Tỳ-đàm, cảnh giới thật báo của chư Phật, Bồ-tát, căn thức chỉ có thiện, trần chung cho ba tánh. (môn thứ tư đã xong).

5- Phân biệt theo địa: Kế phân biệt theo tự địa, tha địa.

Nói tự địa: Thân ở cõi Dục, ở trong tự địa, căn trần và thức, tất cả đầy đủ. Thân ở sơ thiền, ở trong tự địa, sáu căn đầy đủ. Trần chỉ có bốn.

Sắc, thinh, xúc, pháp, cảnh giới đó không có đoạn thực, nên không có hương vị, thức cũng có bốn, trừ tỷ thức thiệt thức, vị không có hương vị, thân ở Nhị thiền, cho đến Tứ thiền, ở trong tự địa, sáu căn bốn trần đồng với Sơ thiền, thức thì không nhất định. Trong luận Tỳ-đàm chỉ có ý thức, thức khác đều không, nếu không có thức khác thì làm sao thấy được các việc như thấy sắc, nghe tiếng, hiểu biết, xúc chạm? Luận ấy nói: Nhị thiền trở lên, mượn thức Sơ thiền, nên được thấy sắc nghe tiếng cảm giác xúc chạm. Trong luận Thành Thật nói các pháp ấy đồng với Sơ thiền, ngay địa phải có đủ bốn chủng thức nhãn nhĩ thân ý, nên thân ở trong bốn không, nghĩa thì không nhất định. Trong pháp Tiểu thừa chỉ có ý căn ý thức pháp giới. Đại thừa nói căn trần và thức đồng với bốn thiền, Đại thừa nói bốn thiền còn có sắc, cho nên tự địa như vậy.

Nói tha địa các căn; tỷ, thiệt, thân và căn thức kia, chỉ ngay địa khởi, không chung với địa khác. Nhãn, nhĩ ý căn và căn thức này thân ở địa dưới, ở địa trên tùy theo chỗ có đều khởi được. Trong sáu trần hương vị và xúc, chỉ là tự địa, căn thức đã rõ, không chung tha địa, vì không biết nhiệm mầu. Cõi Sắc thinh giới, trong pháp Tiểu thừa, bốn thiền trở xuống, tùy thân ở chỗ nào, ở trong tha địa đều được thấy nghe, không chung cõi Vô sắc. Đại thừa đã nói: Cõi Sắc trở lại, cùng Tiểu thừa đồng. Trong cõi vô sắc, có đồng có khác. Nói phàm phu, Nhị thừa kia, ở chỗ Vô sắc, ở trong tha địa, chỗ có sắc thinh đều không thấy nghe, vì tâm yếu kém? Ở đây đồng với Tiểu thừa, đối với Bồ-tát ở trong tha địa tất cả sắc thinh đều được thấy nghe, vì tâm tự tại, các căn sáng suốt lanh lợi. Ở đây khác với Tiểu thừa, vì pháp giới không nhất định.

Theo Luận Tỳ-đàm, pháp giới hữu lậu trừ bốn thiền trở xuống thì tùy thân ở chỗ nào ở địa khác đều duyên biết được. Vô sắc sinh trụ thì không phải như vậy, chỉ duyên tự tha và pháp Thượng địa, không duyên hạ địa. Nên trong Luận kia nói: Vô sắc không duyên hữu lậu ở địa dưới; pháp giới vô lậu thì không như vậy, ở trong địa khác hễ thân ở bất cứ chỗ nào đều duyên biết được, không phân biệt cõi trên hay cõi dưới.

Nếu theo Luận Thành Thật thì tất cả hữu lậu vô lậu ở địa khác trong ba cõi, hễ thân ở chỗ nào, đều duyên biết được. Nhưng luận ấy nói: Cõi Vô sắc, tuy duyên pháp hữu lậu địa dưới mà tâm không nhiếp chung, như đốt gân lông, chẳng phải không duyên. Trong pháp Đại thừa đồng với Luận Thành Thật.

Hỏi: Có người thân ở cõi Dục dùng nhãn Sơ thiền, thấy sắc tự địa và sắc tha địa, sinh ra nhãn thức thì thuộc về địa nào?

Giải thích: Nơi sinh thuộc về địa Sơ thiền, vì nương nhãn sinh.

Lại hỏi: Có người thân ở cõi Dục và địa Sơ thiền, dùng nhãn Nhị thiền, cho đến dùng nhãn của tứ thiền, thấy sắc Tự địa và sắc Tha địa, chỗ sinh nhãn thức thuộc về địa nào ?

Đáp: Như Luận Tỳ-đàm thì đều thuộc về Sơ thiền. Trong tông ấy nói Nhị thiền trở lên đều không có nhãn thức, phải muợn thức Sơ thiền để thấy rõ các sắc. Nói mượn: Từ Nhị thiền trở lên, tất cả nhãn thức thô, tế đều giống với thức Sơ thiền nên nói tá (vay mượn) ở đây không phải từ nơi kia đến nói là mượn. Có người thân ở Nhị thiền trở lên, dùng nhãn tự địa và nhãn tha địa thấy sắc tha địa và sắc tự địa, phải biết chỗ sinh của nhãn thức cũng thuộc về Sơ thiền, giống như trên, có thể tự biết. Nếu theo Luận Thành Thật: Tất cả nhãn thức, tùy theo nhãn nói không mượn thức sau, nhãn thức đã như vậy, nhĩ thức cũng đồng như vậy.

Nếu nói về thân thức, người Sơ thiền trở xuống, ngay địa ấy thì nói: Nhị thiền trở lên biết nơi xúc chạm hiểu thì phải ở ngay địa. Nơi sinh thức cũng nhiếp về Sơ thiền. (môn thứ năm đã xong).

6. Y cứ hữu vi vô vi để phân biệt:

Mười bảy pháp trước, trong pháp Tiểu thừa, một bề là hữu vi, pháp giới gồm chung hữu vi vô vi, sắc pháp, tâm pháp, phi sắc tâm pháp là hữu vi, hư không thường diệt và chẳng phải thường diệt là vô vi.

Trong pháp Đại thừa, chư Phật, Bồ-tát căn thức chân thật, thể thì vô vi mà dụng hiện hữu vi. Trong sáu trần, ba pháp vô vi hoàn toàn là vô vi. Theo thật báo của Phật, Bồ-tát đó là vô vi ấy, ngoài ra là hữu vi. (môn thứ sáu đã xong).

7. Phân biệt hữu lậu, vô lậu:

Trong Luận Tỳ-đàm nói năm căn, năm trần và năm thức đều là hữu lậu, vì từ lậu sinh, lậu nương đó trụ. Ý căn, ý thức và pháp giới có cả lậu và vô lậu.

Trong Luận Thành Thật: Nếu vì dứt lậu gọi là vô lậu. Như trong Luận Tỳ-đàm, nếu không sinh lậu gọi là vô lậu. Các cõi phàm phu hoàn toàn hữu lậu; các cõi vô học, hoàn toàn vô lậu. Người học thì không nhất định: Kiết sử đã dứt thì tất cả đều vô lậu, kiết sử chưa dứt thì tất cả đều hữu lậu.

Trong pháp Đại thừa, thật báo căn thức của chư Phật, Bồ-tát, thể thì vô lậu. Trong sáu trần chung cả lậu, vô lậu; năm trần như sắc v.v… căn thức thật báo của Phật, Bồ-tát là vô lậu còn lại là hữu lậu. Trong pháp trần, thường diệt vô vi, luôn luôn là vô lậu, còn lại như năm trần. (môn thứ bảy đã xong).

8.Phân biệt theo học: Pháp có ba loại:

  1. Học pháp nghĩa là nhân vô lậu của hàng tam thừa.
  2. Pháp vô học là quả vô lậu của hàng Ba thừa.
  3. Phi học và phi vô học nghĩa là tất cả các pháp hữu lậu và ba món vô vi, học v.v.. như vậy.

Trong pháp Tiểu thừa ý căn, ý thức và pháp giới, có cả ba nghĩa nhân vô lậu và học các kiến, cho đó là học, người học quán hết vô lậu không dứt kiết gọi là học các kiến, các kiến trí vô lậu cực quả và vô học nói là Vô học.

Vì sao nói là cực quả vô học ? Vì đó gọi là tận trí và trí vô sinh.

Vì sao nói là các kiến vô học? Nghĩa là người Vô học quán vô lậu, còn ý căn ý thức pháp giới khác phi học phi vô học còn mười lăm cõi luôn luôn là phi học và phi vô học.

Trong Đại thừa có nói: Mười tám giới pháp trong phàm phu, Nhị thừa đồng như Tiểu thừa, mười tám giới pháp của chư Phật, Bồ-tát đều có cả ba món. Tất cả cảnh giới thật báo căn trần và thức của Bồ-tát đều gọi là Học. Như trong Địa Trì nói: Bồ-tát Chủng tánh sáu nhập rất cao siêu, pháp từ vô thỉ như vậy, từ trước đến nay tu thiện, sở đắc như vậy.

Tất cả học sáu căn này nương đây sinh tâm là học sáu thức, thật báo sở đắc cảnh giới tịnh độ, và nương cảnh giới do Tam-muội hiện ra, là học sáu trần; tất cả cảnh giới thật báo căn trần và thức của Như Lai là Vô học, ngoài ra đều chẳng phải học, chẳng phải Vô học. (môn thứ tám đã xong).

9- Phân biệt ba đoạn: Kế phân biệt các giới theo ba đoạn.

Nói ba đoạn là:

  1. Kiến đoạn.
  2. Tu đoạn.
  3. Vô đoạn.

Pháp kiến đế đoạn gọi là Kiến đoạn.

Pháp tu đạo đoạn gọi là tu đoạn.

Còn pháp vô lậu vô vi gọi là Vô đoạn.

Theo Luận Tỳ-đàm, năm căn, năm trần và năm thức, mười lăm giới này chỉ tu đạo đoạn, còn ba cõi vừa kiến đế đoạn, vừa tu đạo đoạn, vừa vô đoạn.

Cùng Kiến hoặc là kiến đoạn.

Cùng Tu hoặc là tu đoạn.

Nếu theo Luận Thành Thật, năm căn, năm trần và năm thức có cả kiến đế đoạn và tu đạo đoạn, không có vô đoạn vì dứt kiến hoặc, khiến năm căn, năm trần năm thức kia không sinh trong ba đường ác nên xếp vào kiến đoạn; vì dứt tu hoặc, khiến năm căn, năm trần, năm thức của trời người không khởi, xếp vào tu đoạn. Luận ấy nói: Pháp kiến đoạn: Nghĩa là chỉ bày tuớng ngã mạn và chỗ khởi các pháp kia. Pháp tu đoạn, không chỉ nêu bày tướng mạn và chỗ khởi các pháp kia.

Kiến đế mê có thể hoặc là chỉ bày tướng mạn, chỗ sinh khởi nghiệp báo, còn các pháp khác tu đạo mê hoặc thể, là nghiệp quả khởi lên không chỉ bày tướng mạn, là các pháp kia. Trong Thành Thật ấy, dứt kiết nhân quả, đây gọi là thường diệt cho nên quả của hai hoặc kiến, tu từ căn bản nói là kiến đoạn và tu đạo đoạn. Ý căn ý thức và pháp giới, đồng với Luận Tỳ-đàm.

Trong pháp Đại thừa mười tám giới pháp chung cả ba loại, người Sơ địa đã dứt tất cả pháp sinh tử mười tám giới, đây gọi là kiến đoạn.

Nhị địa trở lên đã dứt mười tám giới pháp, là tu đoạn. Thật báo của chư Phật, Bồ-tát đã thành căn thức vô đoạn, nên có cả ba loại. (môn thứ chín đã xong).

10- Phân biệt ba đối: Kế phân biệt các giới theo ba đối.

Nói ba đối như trong Tạp Tâm nói:

  1. Cảnh giới hữu đối.
  2. Chướng ngại hữu đối.
  3. Duyên hữu đối.

Cảnh giơi hữu đối, tất cả sắc căn và tâm tâm pháp hay ở cảnh bên ngoài thuộc đối phân rõ gọi là cảnh hữu đối. Trong môn này sáu căn, sáu thức và tâm pháp giới là hữu đối; năm trần như sắc v.v… và pháp phi tâm trong pháp giới là vô đối vì chẳng phải tình.

Chướng hữu đối; sắc căn và sắc trần cùng đối đãi nhau: Chướng cách không thông gọi là chướng hữu đối. Trong môn này mười giới hữu đối, cái gọi là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân căn. Năm trần như sắc v.v… còn bảy tâm giới và tâm pháp giới hoàn toàn là vô đối, chẳng phải là sắc, sắc tướng đối ngại.

Hỏi rằng: Dù cho năm căn, năm trần là chướng ngại, nhãn v.v..

y xứ chẳng lẽ có được sắc hương vị, v.v… Nếu có được lại chẳng phải chướng ngại? Luận nói: Mỗi trụ nhỏ nhất nhóm hợp lại nên cũng gọi là chướng ngại.

Duyên hữu đối: Tâm tâm pháp v.v… đối cảnh năng duyên gọi là duyên hữu đối. Trong môn này một phần ít trong bảy giới là hữu đối nghĩa là phần ít trong tâm giới, pháp giới, còn là vô đối, vì vô duyên. (môn thứ mười đã xong).

11- Thức duyên khác nhau: Kế nói về duyên không đồng theo các thức, như trong Tạp Tâm nói: Cõi Sắc hai thức duyên, cho đến xúc cũng vậy, còn mười ba giới khác, hoàn toàn duyên ý thức. Ở đây nói, năm trần như sắc v.v…phải chia thành năm thức sở duyên. Ý thức duyên chung tất cả pháp nên cũng được duyên. Còn sáu căn, sáu thức pháp trần, năm thức không rõ ràng chỉ thức duyên. Trong Luận Thành Thật: Văn không xếp nhất định nên người giải thích khác nhau.

Có người giải thích: Đồng với Luận Tỳ-đàm. Có người lại nói: Sáu căn sáu thức và pháp trần đồng như Luận Tỳ-đàm, chỉ có duyên ý thức. Năm trần như sắc v.v… chỉ có duyên thức ý.

Không duyên ý thức. Nếu duyên ý thức thì lẽ ra người mù thấy được sắc, người điếc lẽ ra nghe được tiếng. Không chạm vật lẽ ra biết cứng mềm, tất cả như vậy. Vì đui điếc v.v… không thấy nghe, rõ ý không duyên.

Trong Luận Đại Trí Độ: Đồng như giải thích ở sau. Theo Luận Thành Thật, ý thức duyên chung tất cả năm trần, nhưng không chia rõ. Vì sao biết được, như người hiện tại, duyên với sắc thinh hương vị xúc v.v… trong tất cả mười phương, nên biết rõ duyên chung. Bởi vì không rõ sắc hương vị v.v… chẳng phải ý chánh cảnh, vì thế không nói.

Nếu được duyên chung, vì sao Ngài Long Thọ nói: Ýthức không biết năm trần ?

Đáp: Ngài Long Thọ nói: Không biết chẳng bằng hiện rõ năm thức, nên nói không biết, chẳng phải hoàn toàn không duyên. Nghĩa của mười tám giới nói sơ lược như vậy.

13- NGHĨA HAI MƯƠI LĂM CÕI:

Hai mươi lăm cõi, xuất xứ từ kinh Niết-bàn. Từ nhân có quả nên gọi là có. Coi có khác nhau không đồng, thành hai mươi lăm. Là thế nào?

Như trong kinh nói: Cõi Dục có mười bốn, đó là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và Tu-la, tức là bốn; người trong bốn thiên hạ là thành bốn, cộng với trước thành tám; sáu tầng trời cõi Dục, lại thành sáu, cộng với trước là mười bốn.

Cõi Sắc có bảy, cộng với trước hợp thành hai mươi mốt cõi; bốn cõi thiền kia là bốn, Phạm Vương chính giữa là năm, ở trời Vô Tưởng thành sáu, tất cả Tịnh Cư hợp thành thứ bảy.

Vô sắc có bốn: Nghĩa là ở bốn không.

Cộng với trước hợp thành hai mươi lăm cõi.

Hỏi: Vì sao người trong bốn thiên hạ chia thành bốn loại, Ngũ Tịnh Cư hợp thành một?

Giải thích: Ly hợp tùy theo thích nghi, nay y cứ một môn lại chia như vậy.

Hai mươi lăm cõi, nói sơ lược như vậy.

14. NGHĨA BỐN MƯƠI CHỖ Ở:

Nói cư chỉ: Chỗ ở của chúng sinh ba cõi gọi là cư chỉ. Chỗ ở khác nhau, chia thành bốn mươi: Ở trong cõi Dục có hai mươi chỗ; tám đại địa ngục tức là tám; súc sinh ngạ quỷ cộng lại thành hai, cộng với trước thành mười. Người trong bốn thiên hạ và sáu tầng trời cõi Dục hợp thành mười, cộng với trước thành hai mươi.

Trong cõi Sắc có mười sáu: Sơ thiền có hai, đó là trời Phạm thân và trời Phạm phụ.

Trong cõi Sơ thiền có Đại Phạm Vương, vì sao không nói?

Đáp: Cùng vì cõi ấy trời Phạm phụ đồng ở một chỗ, nên không nói riêng.

Nhị thiền có ba, đó là trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, và trời Quang Âm, cộng với trước thành năm. Tam thiền có ba: đó là trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh và trời Biến Tịnh, cộng với trước thành tám. Trong cõi Tứ thiền, phải chia làm ba: Đó là Phước ái, Phước sinh, Quảng Quả, cộng với trước thành mười một cõi và Ngũ Na-hàm, cộng thành mưới sáu cõi; Vô Tưởng và Quảng Quả một chỗ, nên không nói riêng. Mười sáu cõi này cộng với trước hợp thành ba mươi sáu chỗ. Tứ thiên Vô sắc cộng với trước thành bốn mươi cõi. Nếu y cứ cõi Sắc chia riêng trời Đại Phạm và Vô Tưởng, là chỗ ở, có bốn mươi hai chỗ ở như vậy.

ĐẠI THỪA NGHĨA CHƯƠING

QUYỂN 8 (Phần Cuối)

HẾT