ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẠP TẬP LUẬN
An Huệ Bồ-tát tập hợp
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 3

Phẩm 1 – 3: PHẨM 3 PHÁP TRONG BẢN SỰ PHẦN

Lại nữa, uẩn, giới, xứ phân biệt rộng như thế nào?

Ốt-đà-nam nói:

Tính thật hữu v.v…, sở tri v.v…,

Sắc v.v…, lậu v.v…, đã sinh v.v…,

Đời quá khứ v.v…, các duyên v.v…,

Thế nào? Mấy thứ? Nghĩa ra sao?

Hỏi: Trong uẩn, giới, xứ thế nào là thật hữu, bao nhiêu là thật hữu, vì nghĩa gì mà quán thật hữu ư?

Đáp: Nghĩa là không đợi danh ngôn, bao nhiêu căn cảnh này là nghĩa của thật hữu. Tất cả đều là thật hữu. Để xả bỏ chấp trước ngã thật hữu, nên quán sát thật hữu. Sở dĩ lập ra 3 câu Hỏi này là để đoạn tướng, sự, 2 ngu và chấp tăng ích.

Thế nào là thật hữu? Biện biệt tướng thật hữu là đoạn tướng ngu. Tất cả thật hữu là đoạn sự ngu. Xả chấp thật ngã là đoạn chấp tăng ích. Như vậy bao nhiêu chỗ khác như lý phải biết. Không đợi danh ngôn căn cảnh, nghĩa là không phân biệt sắc thụ v.v… các danh ngôn mà lấy nghĩa tự sở thủ. Không đợi các căn cảnh này, nghĩa là không đợi các nghĩa này mà biết cảnh tự sở giác. Không phải như đối với cái bình v.v…phải đợi đến danh ngôn và sắc hương v.v… mới khởi cái biết về cái bình v.v…

Thế nào là giả hữu? Bao nhiêu là giả hữu? Vì nghĩa gì mà quán giả hữu? Nghĩa là đợi nơi danh ngôn các căn cảnh này là nghĩa của giả hữu. Tất cả đều là giả hữu. Để xả bỏ chấp trước ngã thạt hữu, nên quán sát giả hữu.

Thế nào là thế tục hữu? Có bao nhiêu là thế tục hữu? Vì nghĩa gì nên quán thế tục hữu? Nghĩa là tạp nhiễm sở duyên là nghĩa của thế tục hữu. Tất cả đều là thế tục hữu. Để xả bỏ chấp trước tướng ngã tạp nhiễm nên quán sát thế tục hữu.

Tạp nhiễm sở duyên, nghĩa là có thể phát tất cả nghĩa tạp nhiễm. Tướng ngã tạp nhiễm, nghĩa là chấp ngã là nhân của tạp nhiễm.

Thế nào là thắng nghĩa hữu? Bao nhiêu là thắng nghĩa hữu? Vì nghĩa gì nên quán thắng nghĩa hữu? Nghĩa là thanh tịnh sở duyên là nghĩa của thắng nghĩa hữu. Tất cả đều là thắng nghĩa hữu. Để xả bỏ chấp trước ngã tướng thanh tịnh nên quán sát thắng nghĩa hữu.

Thanh tịnh sở duyên, nghĩa là để được thanh tịnh duyên cảnh giới này. Là nghĩa sở hành của tối thắng trí cho nên tất cả đều là thắng nghĩa hữu, nghĩa là vì tất cả pháp không tách rời chân như nên tính vô ngã của các pháp gọi là chân như. Tính vô ngã kia là chân thật có.

Thế nào là sở tri? Bao nhiêu là sở tri? Vì nghĩa gì nên quán sở tri? Sở tri có 5 thứ: sắc, tâm, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành, và vô vi.

Sắc, là sắc uẩn, 10 sắc giới, 10 sắc xứ, và pháp giới pháp xứ sở nhiếp các sắc. Tâm, là thức uẩn, 7 thức giới và ý xứ. Tâm sở hữu pháp, là thụ uẩn, tưởng uẩn, tương ưng hành uẩn, và một phần của pháp giới pháp xứ. Tâm bất tương ưng hành, là bất tương ưng hành uẩn, và một phần của pháp giới pháp xứ. Vô vi, là một phần của pháp giới pháp xứ.

Hoặc y nơi tạp nhiễm thanh tịnh, hoặc sở tạp nhiễm và sở thanh tịnh, hoặc năng tạp nhiễm và năng thanh tịnh, hoặc ở nơi phần vị này, hoặc tính thanh tịnh này, do y nơi đây nên tất cả đều là sở tri. Xứ, là sắc pháp. Sở nhiễm tịnh, là tâm pháp. Năng nhiễm tịnh, là tâm sở hữu pháp như tham v.v…, tín v.v…theo thứ tự của chúng. Phần vị, là phần vị nơi sắc, tâm, và tâm pháp giả lập tâm bất tương ưng hành pháp. Tính thanh tịnh, là pháp vô vi thanh tịnh tùy chỗ thích ứng chẳng phải tất cả. Sở dĩ vì sao? Vì chỉ có pháp giới và trạch pháp là tính thanh tịnh. Lại nữa pháp sở tri, là sở hành của trí tín giải, sở hành của trí đạo lý, sở hành của trí không tán loạn, sở hành của trí nội chứng, sở hành của trí tha tính, sở hành của hạ trí, sở hành của thượng trí, sở hành của trí chán bỏ, sở hành của trí không khởi, sở hành của trí vô sinh, sở hành của trí trí, sở hành của trí cứu cánh, sở hành của đại nghĩa trí. Phải biết trong đây lấy 13 thứ trí duyên cảnh giới hiển thị nghĩa sở tri. Mười ba trí là: văn sở sinh trí, tư sở sinh trí, thế gian tu sở sinh trí, thắng nghĩa trí, tha tâm trí, pháp trí, chủng loại trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận vô sinh trí, Đại thừa trí, như vậy các trí tùy theo thứ tự là tín giải v.v… các trí. Tha tâm trí gọi tha tính trí, nghĩa là vì duyên tha tâm làm cảnh. Pháp trí gọi hạ trí, là vì các đế sinh đầu tiên. Chủng loại trí gọi thượng trí, là vì từ pháp trí sau sinh ra cho nên vì yếm hoạn nên gọi là yếm hoạn trí, vì không khởi nên gọi là bất khởi trí, vì duyên vô sinh nên gọi là vô sinh trí, vì duyên trí nên gọi là trí trí, vì duyên cứu cánh nên gọi là cứu cánh trí, vì duyên đại nghĩa nên gọi là đại nghĩa trí. Tự lợi lợi tha gọi là đại nghĩa. Để xả bỏ chấp trước về ngã tri kiến, nên quán sát sở tri.

Thế nào là sở thức? Bao nhiêu là sở thức? Vì nghĩa gì nên quán sở thức? Vì vô phân biệt, vì có phân biệt, vì nhân, vì chuyển, vì tướng, vì tướng sinh, vì năng trị sở trị, vì vi tế sai biệt, phải biết đó là nghĩa của sở thức.

Vô phân biệt, là 5 thức thân. Có phân biệt, là ý thức thân. Nhân, là thức A-lại-da. Chuyển, là các thức khác. Tướng, là căn và nghĩa.

Tướng sinh, là nghĩa của căn sinh các thức. Năng trị sở trị, là có tham lìa tham, có sân lìa sân, có si lìa si. Như vậy các vi tế sai biệt, là 7 thứ thức khó liễu biệt sai biệt. Bảy thứ thức khó liễu biệt là: 1. Không thể biết liễu biệt khí liễu biệt. Nghĩa là hành tướng của vô phân biệt tất cả mọi thời. 2. Các thứ hành tướng liễu biệt. Nghĩa là một pháp, một hành, có các thứ tướng. Đây khó kiến lập cho nên vi tế. 3. Câu hữu liễu biệt. Nghĩa là các thức cùng khởi trong một thời gian. Làm sao hiểu rõ được cảnh giới riêng biệt? Điều này khó kiến lập cho nên vi tế. Phải biết cái vi tế này nói chung tất cả xứ. 4. Năng trị sở trị mau chóng hồi chuyển liễu biệt. Nghĩa là nói cụ phược, làm sao có tâm tham v.v..? Giây lát chuyển biến khởi lìa tâm tham v.v… 5. Tập khí liễu biệt. Nghĩa là các nghiệp hiện hành huân tập nơi tâm. Thế nào là chẳng phải lìa tâm, riêng có ở ngoài? Tập khí cũng chẳng phải tức tâm, lại cùng quả tuần tự mà chuyển. 6. Tương tục liễu biệt. Nghĩa là vô lượng chủng cảm tự thân nghiệp, huân tập tại thức. Sao đối với các minh liễu khác khi lâm chung mới tạm khởi giác ngộ? Các nghiệp khác huân tập chuyển nơi dị thú khiến sinh tương tục. 7. Giải thoát liễu biệt. Nghĩa là tâm A-la-hán chứng được đệ nhất pháp tính không hý luận, siêu quá sinh tử, từng tích tập tất cả chủng hữu lậu hạnh. Hành tướng của tâm này lưu chuyển như thế nào? Đây khó kiến lập cho nên vi tế. Như vậy phải biết tất cả đều là sở thức. Đế xả bỏ chấp trước ngã năng kiến v.v… nên quán sát sở thức. Nói kiến v.v… phải biết nói kiến v.v… là nói thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, và biết.

Thế nào là sở thông đạt? Bao nhiêu là sở thông đạt? Vì nghĩa gì nên quán sở thông đạt? Nghĩa là chuyển biến, tùy văn, nhập hành, đến, đi, xuất ly, là nghĩa của sở thông đạt.

Nói sở thông đạt là các cảnh giới của 6 thần thông. Dùng như ý thông, vận chuyển hiển thị sai biệt cho nên nói những cảnh giới thông đạt này là chuyển biến. Dùng thiên nhĩ thông, hiểu rõ các thứ âm thanh của các cõi khác, nên gọi là tùy văn. Dùng tha tâm thông, hiểu các thứ tâm hành như tham v.v…, nên gọi là nhập hành. Dùng túc trụ thông, hiểu rõ những việc quá khứ lần lượt chuyển đến, nên gọi là đến. Dùng thiên nhãn thông, hiểu rõ những việc tương lai sẽ đi tới, nên gọi là đi. Dùng lậu tận thông, hiểu rõ phương tiện giải thoát 3 cõi, nên gọi là xuất ly. Như vậy tất cả đều là sở thông đạt. Sau dùng 3 thần thông duyên khắp tất cả cảnh giới. Để xả bỏ chấp trước cái ngã oai đức nên quán sát sở thông đạt.

Thế nào là hữu sắc? Bao nhiêu là hữu sắc ? Vì nghĩa gì nên quán hữu sắc? Là tự tính của sắc, là dựa vào đại chủng, là hỷ tập, là có phương sở, là phổ biến khắp nơi, là có thể nói phương sở, là phương xứ sở hành, là 2 đồng sở hành, là thuộc vào nhau, là đuổi theo, là hiển rõ, là biến hoại, là hiển thị, là tích tập kiến lập, là ngoại môn, là nội môn, là xa tắp, là phần hạn, là tạm thời, là thị hiện. Đó là nghĩa của hữu sắc.

Tự tính của sắc, tức là lấy sắc pháp làm tự tính nên gọi là hữu sắc, chẳng phải hợp cùng các sắc khác nên gọi là hữu sắc. Cho nên trước tiên nói tự tính của sắc. Dựa vào đại chủng, nghĩa là đây hiển thị sự hợp cùng với các sắc khác nên gọi là hữu sắc. Các sở tạo sắc hợp cùng với sắc của đại chủng nên gọi là hữu sắc. Các sắc của đại chủng lần lượt hợp nên gọi là hữu sắc. Hỷ tập, tức là hữu sắc pháp vì thích hợp nên hợp lại, nên gọi là hỷ tập, không như hỷ ái của hiện tại trước tiên là xúc, rồi thụ v.v… mà tập họp, nên gọi là hỷ tập. Có phương sở, là có phần lượng. Phổ biến khắp nơi, là hình lượng biến khắp 10 phương. Có thể nói phương sở, là có thể nói ở nơi đây ở nơi kia. Phương xứ sở hành, là tính duyên của tùy chỗ trụ phương sở. Hai đồng sở hành, là tính duyên của 2 hữu tình cùng chỗ. Không phải như pháp vô sắc, như cái gì mình thụ người khác không thể nhận lấy. Thuộc vào nhau, là nhãn thức v.v… cũng gọi là hữu sắc hệ, vì thuộc hữu sắc căn. Đuổi theo, là dị sinh sinh ở Vô sắc giới chủng tử các sắc đuổi theo. Hiển rõ, là các tầm tư do có thể hiển rõ cảnh sở duyên. Biến hoại, là 5 uẩn do tay v.v… chạm xúc, thụ v.v…phối hợp, tùy chỗ thích ứng liền biến hoại, vì biến hoại là nghĩa của sắc. Hiển thị, là các ngôn thuyết hiển thị nghĩa. Tích tập kiến lập, là các sắc cực vi trở lên, vì có phần cực vi có thể kiến lập. Ngoại môn, là sắc của Dục giới, do diệu dục ái sinh. Nội môn, là sắc của Sắc giới, do ái của định tâm sinh. Do đạo lý này nói các sắc kia là ý sinh thân. Xa tắp, nghĩa là sắc của dị sinh không thể kiến lập, vì 2 ranh giới trước sau có biên lượng. Phần hạn, nghĩa là sắc của hữu học, vì đã làm phần hạn của sinh tử. Tạm thời, là sắc của vô học, vì ngoài ra hiện tại có một thân. Thị hiện, là các sắc của Như Lai hiện ra, vì chỉ thị hiện này là phi chân thật. Tất cả đều là hữu sắc, hoặc tùy chỗ thích ứng. Nói tất cả là hữu sắc, nghĩa là sắc biến hoại. Tùy chỗ thích ứng, nghĩa là các sắc ngoại môn v.v…6 sắc sai biệt, phải biết cùng chung với thụ v.v… Để xả bỏ chấp trước cái ngã hữu sắc, nên quán sát hữu sắc.

Thế nào là vô sắc? Bao nhiêu là vô sắc ? Vì nghĩa gì nên quán vô sắc? Trái với hữu sắc là nghĩa của vô sắc. Tất cả đều là vô sắc, hoặc tùy chỗ thích ứng. Để xả bỏ chấp trước cái ngã vô sắc, nên quán sát vô sắc. Tất cả là vô sắc, là vì cùng hệ thuộc với vô sắc.

Thế nào là hữu kiến? Bao nhiêu là hữu kiến? Vì nghĩa gì nên quán hữu kiến? Cảnh sở hành của mắt là nghĩa của hữu kiến. Ngoài ra các sai biệt như đã nói ở hữu sắc. Nghĩa là như trước nói, tự tính của sắc v.v… cho đến thị hiện, gọi là hữu sắc. Như vậy tự tính của hữu kiến v.v… cho đến thị hiện, gọi là hữu kiến. Tất cả đều là hữu kiến, tùy theo chỗ thích ứng. Nói tất cả là hữu kiến, nghĩa là tương thuộc với hữu kiến v.v… Sở dĩ vì sao? Vì các pháp vô sắc tương thuộc với sắc hữu kiến nên cũng gọi là hữu kiến. Để xả bỏ chấp trước cái ngã của nhãn cảnh, nên quán sát hữu kiến.

Thế nào là vô kiến? Bao nhiêu là vô kiến? Vì nghĩa gì nên quán vô kiến? Trái với hữu kiến là nghĩa của vô kiến. Tất cả đều là vô kiến, hoặc tùy chỗ thích hợp. Để xả bỏ chấp trước ngã không phải nhãn cảnh, nên quán sát vô kiến.

Thế nào là hữu đối? Bao nhiêu là hữu đối? Vì nghĩa gì nên quán hữu đối? Các hữu kiến đều là hữu đối. Lại nữa vì 3 nhân nên gọi hữu đối, đó là chủng loại, tích tập, và không tu trị. Chủng loại, là có thể chướng ngại các sắc pháp và cũng bị sắc pháp chướng ngại. Có thể chướng ngại sự đi, đến, là nghĩa của hữu đối. Đây chỉ nên nói là năng ngại. Sở dĩ lại nói là sở ngại vì kiến lập sắc sáng sủa là hữu đối, bởi chúng chỉ là sở ngại chẳng phải tính năng ngại. Tính tự nó như vậy, nên chủng loại là nghĩa của tự tính. Tích tập, là cực vi trở lên, vì 1 cực vi không có đối ngại. Không tu trị, là không phải Tam-ma-địa, sắc tự tại chuyển, vì sức của định tự tại chuyển các sắc không đối ngại, như bình đẳng tâm. Các sắc lại tổn hại chỗ sở y, là nghĩa của hữu đối. Nghĩa là hoặc y, hoặc duyên, có thể sinh sân giận, gọi là hữu đối. Tức là vì nghĩa hữu đối như vậy, nên tất cả đều là hữu đối. Hoặc tùy chỗ thích ứng, nghĩa là các nghĩa khác. Để xả bỏ chấp trước ngã không biến hành, nên quán sát hữu đối.

Thế nào là vô đối? Bao nhiêu là vô đối? Vì nghĩa gì nên quán vô đối? Trái với hữu đối là nghĩa của vô đối. Tất cả đều là vô đối, hoặc tùy chỗ thích ứng. Để xả bỏ chấp trước ngã biến hành, nên quán sát vô đối.

Thế nào là hữu lậu? Bao nhiêu là hữu lậu? Vì nghĩa gì nên quán hữu lậu? Vì tự tính lậu, vì thuộc vào lậu, vị bị lậu trói buộc, vì lậu đi theo, vì lậu tùy thuận, vì chủng loại của lậu. Đó là nghĩa của hữu lậu. Tự tính lậu , là các tự tính của lậu hợp với tính lậu, nên gọi là hữu lậu. Thuộc về lậu, nghĩa là có chung tâm tâm pháp với lậu, và nhãn v.v… lậu tương ưng, sở y của lậu, nên theo thứ tự của nó gọi là hữu lậu. Bị lậu trói buộc, nghĩa là nói thiện pháp hữu lậu, vì do thế lực của lậu chiêu cảm hậu hữu. Lậu tùy theo, nghĩa là pháp của các địa khác cũng bị các lậu thô trọng của các địa khác theo đuổi. Lậu tùy thuận, nghĩa là thuận quyết trạch phần, tuy bị phiền não thô trọng theo đuổi nhưng được kiến lập là tính vô lậu vì nghịch lại tất cả những gì có thuận với đối trị chúng. Chủng loại của lậu, nghĩa là các uẩn hữu lậu của A-la-hán, vì phiền não đời trước khởi. Năm thủ uẩn, 15 giới, toàn 10 xứ, và một phần ít của 2 xứ trong 3 cõi là hữu lậu, nghĩa là trừ một phần ít Thánh đạo quyến thuộc và các vô vi sau cùng của 2 xứ trong 3 cõi không phải hữu lậu. Để xả bỏ chấp trước ngã hợp với lậu, nên quán sát hữu lậu.

Thế nào là vô lậu? Bao nhiêu là vô lậu? Vì nghĩa gì nên quán vô lậu? Trái với hữu lậu là nghĩa của vô lậu. Toàn 5 vô thủ uẩn, và một phần ít của 2 xứ trong 3 cõi, là vô lậu. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa lậu nên quán sát vô lậu.

Thế nào là hữu tránh? Bao nhiêu là hữu tránh? Vì nghĩa gì nên quán hữu tránh? Dựa vào tham sân si nên cầm dao gậy phát khởi đấu tranh. Cầm dao gậy v.v… là nhân của đấu tranh, tham v.v… là tự tính của đấu tranh. Như vậy tự tính của nó, nó tương thuộc, nó trói buộc, nó đi theo, nó tùy thuận, chủng loại của nó, cho nên đó là nghĩa của hữu tránh. Cho đến hữu lậu, hữu nhĩ sở lượng, hữu tránh cũng vậy, vì nó tùy theo nghĩa. Để xả bỏ chấp trước ngã hợp với tránh, nên quán sát hữu tránh.

Thế nào là vô tránh? Bao nhiêu là vô tránh? Vì nghĩa gì nên quán vô tránh? Trái với hữu tránh là nghĩa của vô tránh. Cho đến vô lậu hữu nhĩ sở lượng vô tránh cũng vậy. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa tránh, nên quán sát vô tránh.

Thế nào là hữu nhiễm? Bao nhiêu là hữu nhiễm? Vì nghĩa gì nên quán hữu nhiễm? Là y vào tham sâm si như vậy nên nhiễm trước tự thân hậu hữu, tự tính của nó, nó tương thuộc, nó trói buộc, nó theo đuổi, nó tùy thuận, chủng loại của nó, đó là nghĩa của hữu nhiễm. Nhiễm trước hậu hữu, nghĩa là tham sân si là nhiễm trước hậu hữu nhân, nên gọi là nhiễm. Thế nào là sân nhuế là nhiễm trước hậu hữu nhân? Nghĩa là do tắng tật các pháp thanh tịnh nhiễm trước hậu hữu. Như vậy cho đến hữu tránh hữu nhĩ sở lượng hữu nhiễm cũng vậy. Để xả bỏ chấp trước ngã hợp nhiễm, nên quán sát hữu nhiễm.

Thế nào là vô nhiễm? Bao nhiêu là vô nhiễm? Vì nghĩa gì nên quán vô nhiễm? Trái với hữu nhiễm là nghĩa của vô nhiễm. Cho đến vô tránh hữu nhĩ sở lượng vô nhiễm cũng vậy. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa nhiễm, nên quán sát vô nhiễm.

Thế nào là dựa vào đam thị? Bao nhiêu là dựa vào đam thị? Vì nghĩa gì nên quán dựa vào đam thị? Là dựa vào tham sân si như vậy nên nhiễm trước 5 dục, tự tính của nó, nó tương thuộc, nó trói buộc, nó theo đuổi, nó tùy thuận, chủng loại của nó, đó là nghĩa của đam thị. Những sân nhuế nào có thể khởi nhiễm trước? Nghĩa là tắng, tật, xuất ly, như vậy cho đến hữu nhiễm hữu nhĩ sở lượng, dựa vào đam thị cũng vậy. Để xả bỏ chấp trước ngã hợp đam thị nên quán sát dựa vào đam thị.

Thế nào là dựa vào xuất ly? Bao nhiêu là dựa vào xuất ly? Vì nghĩa gì nên quán dựa vào xuất ly? Là trái với dựa vào đam thị là nghĩa của y vào xuất ly. Cho đến vô nhiễm hữu nhĩ sở lượng xuất ly cũng vậy. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa đam thị, nên quán sát xuất ly.

Thế nào là hữu vi? Bao nhiêu là hữu vi? Vì nghĩa gì nên quán hữu vi? Là nếu pháp có thể biết có sinh diệt trụ dị, đó là nghĩa của hữu vi. Tất cả đều là hữu vi, chỉ trừ một phần của pháp giới pháp xứ. Để xả bỏ chấp trước ngã vô thường, nên quán sát hữu vi.

Thế nào là vô vi? Bao nhiêu là vô vi? Vì nghĩa gì nên quán vô vi? Nghĩa là trái với hữu vi là nghĩa của vô vi. Một phần của pháp giới pháp xứ là vô vi. Để xả bỏ chấp trước ngã thường trụ nên quán sát vô vi.

Hỏi: Vô thủ 5 uẩn nên nói là hữu vi hay nên nói là vô vi?

Đáp: Không nên nói nó là hữu vi hay vô vi.. Bởi vì sao? Vì các nghiệp phiền não không làm cho nên không nên nói hữu vi. Vì tùy dục hạn tiền không hạn tiền, cho nên không nên nói vô vi. Sở dĩ vì sao? Các uẩn vô thủ tùy chỗ dục lạc hoặc hiện tiền hoặc không hiện tiền, vô vi không như vậy vì nó thường trụ.

Hỏi: Như Bạc-già-phạm nói: Tất cả pháp có 2 thứ là hữu vi và vô vi. Vì sao nay nói pháp này chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi?

Đáp: Vì đây cũng không lìa 2 thứ. Sở dĩ vì sao? Nếu do nghĩa này nói là hữu vi thì không dùng nghĩa này nói là vô vi. Nếu do nghĩa này nói là vô vi thì không dùng nghĩa này nói là hữu vi. Dựa vào đạo lý này chỉ nói 2 thứ. Bởi vì sao? Vì nghĩa tùy dục hiện tiền hay không hiện tiền mà nói là hữu vi. Vì nghĩa các nghiệp phiền não không làm nên nói là vô vi. Cho nên đây cũng không tách rời 2 thứ.

Thế nào là thế gian? Bao nhiêu là thế gian? Vì nghĩa gì nên quán thế gian? Nghĩa là bao gồm 3 cõi, và xuất thế trí hậu sở đắc tựa như kia hiển hiện, là nghĩa của thế gian. Nói tựa như kia hiển hiện, nghĩa là tựa như 3 cõi bao gồm các tướng hiển hiện. Tựa như chân như v.v.. hiển hiện các tướng mạo, là xuất thế gian vì chưa từng được. Như vậy một phần các uẩn, toàn 15 giới, 10 xứ, và một phần 2 xứ của 3 cõi, là thế gian. Nói một phần, là trừ bao gồm trong chính trí, và hậu sở đắc tựa như xuất thế gian tướng hiển hiện đều là vô vi pháp. Để xả bỏ chấp trước ngã y vào thế gian, nên quán sát thế gian.

Thế nào là xuất thế? Bao nhiêu là xuất thế? Vì nghĩa gì nên quán xuất thế? Nghĩa là có thể đối trị 3 cõi. Không điên đảo, không hý luận, không phân biệt cho nên là vô phân biệt xuất thế gian. Có thể đối trị 3 cõi, là các Thánh đạo này lại có 2 thứ: 1. Thanh Văn, Độc giác sở đắc đối trị thường v.v… các điên đảo, vì không điên đảo phân biệt nên gọi là vô phân biệt. 2. Bồ-tát sở đắc đối trị tất cả sắc v.v… các pháp hý luận, không hý luận phân biệt nên gọi là vô phân biệt. Vì các pháp vô vi không phải chỗ sở y của tất cả phân biệt, nên là vô phân biệt. Lại nữa, xuất thế hậu sở đắc cũng gọi là xuất thế vì y chỉ vào xuất thế. Như vậy một phần của các uẩn và một phần 2 xứ của 3 cõi là xuất thế. Đế xả bỏ chấp trước ngã độc lập tồn tại nên quán sát xuất thế.

Thế nào là đã sinh? Bao nhiêu là đã sinh? Vì nghĩa gì nên quán đã sinh? Nghĩa là quá khứ hiện tại là nghĩa đã sinh. Tất cả, một phần là đã sinh. Để xả bỏ chấp trước ngã chẳng phải thường, nên quán sát đã sinh. Lại nữa có 24 thứ đã sinh là đầu tiên đã sinh, liên tục đã sinh, nuôi lớn đã sinh, y chỉ đã sinh, chuyển biến đã sinh, thành thục đã sinh, thoái đọa đã sinh, thắng tiến đã sinh, thanh tịnh đã sinh, không thanh tịnh đã sinh, vận chuyển đã sinh, hữu chủng đã sinh, vô chủng đã sinh, ảnh tượng tự tại thị hiện đã sinh, lần lượt đã sinh, sátna hoại đã sinh, ly hội đã sinh, dị vị đã sinh, sinh tử đã sinh, thành hoại đã sinh, tiên thời đã sinh, tử thời đã sinh, trung thời đã sinh, thời gian liên tục đã sinh. Đầu tiên đã sinh, là khi đầu tiên tiếp tục sinh. Liên tục đã sinh, là tiếp tục sinh trở về sau. Nuôi lớn đã sinh, là do ngủ chiêm bao, ăn uống, Phạm hạnh, định làm nhân 4 thứ nuôi lớn. Y chỉ đã sinh, là các căn bên trong. Chuyển biến đã sinh, là có thể tùy thuận sinh lạc thụ v.v… các căn biến đổi khác. Thành thục đã sinh, là ở trong suy lão vị. Thoái đọa đã sinh, là xả bỏ thiện thú sinh trong ác thú. Thắng tiến đã sinh, là trái với kia. Thanh tịnh đã sinh, là du hý, vong niệm, ý tương phẫn oán, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên, Sắc , Vô sắc giới chư thiên phần nhiều phóng dật cho nên tùy chỗ thích ứng đối với cảnh thụ dụng và ở trong định mà tự tại chuyển. Không thanh tịnh đã sinh, là ngoài những cái kia. Vận chuyển đã sinh, là vãng lai vị. Hữu chủng đã sinh, là trừ uẩn cuối cùng của A-la-hán. Vô chủng đã sinh, là uẩn cuối cùng. Ảnh tượng tự tại thị hiện đã sinh, là sở tri sự đồng phần sắc, giải thoát sở sinh sắc, và Như Lai v.v…sắc theo như thứ tự. Lần lượt đã sinh, là trước sau sinh liên tục. Sát-na hoại đã sinh, là các hành tướng của mỗi một sát-na. Ly hội đã sinh, là ái, bất ái trong hội ly vị, và tâm trong các vị có tham lìa tham v.v… Khác vị đã sinh, là trong vị yết-la-lam v.v… Sinh tử đã sinh, là hữu tình thế gian. Thành hại đã sinh, là khí thế gian. Tiên thời đã sinh, là hữu của thời trước. Tử thời đã sinh, là tử hữu. Trung thời đã sinh, là trung hữu.Tục thời đã sinh, là sinh hữu.

Thế nào là chẳng phải đã sinh? Bao nhiêu là chẳng phải đã sinh? Vì nghĩa gì nên quán chẳng phải đã sinh? Nghĩa là vị lai và vô vi pháp là nghĩa của chẳng phải đã sinh. Tất cả, một phần, là chẳng phải đã sinh. Để xả bỏ chấp trước ngã thường trụ, nên quán sát chẳng phải đã sinh.. Lại nữa, trái với đã sinh là nghĩa của chẳng phải đã sinh.

Thế nào là năng thủ? Bao nhiêu là năng thủ? Vì nghĩa gì nên quán năng thủ? Nghĩa là các sắc căn và tâm tâm pháp là nghĩa của năng thủ. Toàn 3 uẩn, một phần của sắc uẩn, hành uẩn, căn tướng, tương ưng tướng theo thứ tự 12 giới, toàn 6 xứ và một phần của pháp giới pháp xứ. Tương ưng tự thể, là năng thủ. Để xả bỏ chấp trước ngã năng thụ dụng, nên quán sát năng thủ. Ngã thụ dụng, nghĩa là chấp ngã có khả năng được cảnh ái bất ái. Lại nữa năng thủ có 4 thứ , là bất chí năng thủ, chí năng thủ, tự tướng hiện tại năng thủ cảnh giới riêng biệt, và tự tướng cộng tướng trong mọi thời năng thủ tất cả cảnh giới. Bất chí năng thủ, là nhãn căn, nhĩ căn, và ý căn. Chí năng thủ, là các căn khác. Tự tướng hiện tại năng thủ cảnh giới riêng biệt, là 5 căn sinh. Tự tướng cộng tướng trong mọi thời năng thủ tất cả cảnh giới, là căn thứ 6 sinh. Lại nữa do các thức hòa hợp sinh cho nên giả lập tính năng thủ. Sở dĩ vì sao? Bởi dựa vào các duyên hòa hợp sinh thức v.v… giả nói là năng thủ vì các pháp không tác dụng, không phải do nghĩa chân thật.

Thế nào là sở thủ? Bao nhiêu là sở thủ? Vì nghĩa gì nên quán sở thủ? Nghĩa là các năng thủ cũng là sở thủ. Bởi nhãn căn v.v… là sở thủ của ý thức. Hoặc cũng có sở thủ không phải năng thủ, nghĩa là chỉ có hành nghĩa của sở thủ. Nói chỉ, là nói nghĩa quyết định. Đây là nói riêng về tâm sở hữu pháp, tất cả đều là sở thủ. Để xả bỏ chấp trước cảnh giới của ngã nên quán sát sở thủ.

Thế nào là ngoại môn? Bao nhiêu là ngoại môn? Vì nghĩa gì nên quán ngoại môn? Nghĩa là các pháp hệ thuộc Dục giới là nghĩa của ngoại môn, trừ y vào Phật dạy phát sinh văn tuệ tư tuệ và các tâm tâm pháp trong tùy pháp hành v.v…

Hỏi: Vì sao các văn tuệ tư tuệ được phát sinh và các tâm tâm pháp trong tùy pháp hành không phải là ngoại môn?

Đáp: Vì pháp đẳng lưu là nhân, do thế lực này duyên Niết-bàn v.v… Pháp đẳng lưu là các chủng loại giáo pháp chân chứng của chư Phật. Tỹ thức, thiệt thức, hương, vị 4 giới, toàn hương, vị 2 xứ, và một phần các thứ khác gồm trong Dục giới là ngoại môn. Để xả bỏ chấp trước ngã không lìa dục, nên quán sát ngoại môn.

Thế nào là nội môn? Bao nhiêu là nội môn? Vì nghĩa gì nên quán nội môn? Nghĩa là trái với ngoại môn là nghĩa của nội môn. Trừ 4 giới toàn 2 xứ và một phần các thứ khác là nội môn. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa dục, nên quán nội môn.

Thế nào là nhiễm ô? Bao nhiêu là nhiễm ô? Vì nghĩa gì nên quán nhiễm ô? Là pháp bất thiện và hữu phú vô ký là nghĩa của nhiễm ô. Hữu phú vô ký, nghĩa là các phiền não tương ưng biến hành ý, và các phiền não thuộc Sắc giới, Vô sắc giới. Các uẩn, 10 giới, một phần của 4 xứ là nhiễm ô. Mười giới là 7 thức, sắc giới, thanh giới và pháp giới. Bốn xứ là sắc xứ, thanh xứ, ý xứ và pháp xứ. Để xả bỏ chấp trước ngã hợp với phiền não, nên quán nhiễm ô.

Thế nào là không nhiễm ô? Bao nhiêu là không nhiễm ô? Vì nghĩa gì nên quán không nhiễm ô? Là pháp thiện và vô phú vô ký là nghĩa của không nhiễm ô. Toàn 8 giới, 8 xứ, các uẩn và một phần của các giới, xứ khác là không nhiễm ô. Để xả bỏ chấp trước ngã lìa phiền não, nên quán sát không nhiễm ô.

Thế nào là quá khứ? Bao nhiêu là quá khứ? Vì nghĩa gì nên quán quá khứ? Là tướng đã sinh, đã diệt, nhân quả đã thụ dụng, công dụng nhiễm tịnh đã hết, nhiếp nhân đã hoại, quả và tự tướng hữu phi hữu, tướng ức niệm phân biệt, luyến là tướng tạp nhiễm, xả là tướng thanh tịnh, đó là nghĩa của quá khứ. Nhân quả đã thụ dụng, nghĩa là đã sinh nên đã diệt như thứ tự. Công dụng nhiễm tịnh đã hết, nghĩa là như hiện tại tham v.v…, tín v.v… khiến tâm nhiễm tịnh, vì không công năng. Nhiếp nhân đã hoại, nghĩa là bỏ tập khí rồi mới diệt. Quả và tự tướng hữu phi hữu, nghĩa là ngay hiện nay sở dẫn tập khí là có, nên năng dẫn thật sự là không. Tướng ức niệm phân biệt, nghĩa là chỉ có cảnh tướng sở duyên kia. Tất cả một phần là quá khứ, vì trừ vị lai hiện tại và vô vi. Để xả bỏ chấp trước ngã lưu chuyển, nên quán sát quá khứ.

Thế nào là vị lai? Bao nhiêu là vị lai? Vì nghĩa gì nên quán vị lai? Là có nhân chẳng phải đã sinh, chưa được tự tướng, nhân quả chưa thụ dụng, tính tạp nhiễm thanh tịnh chưa hiện tiền, tự tướng nhân quả hữu phi hữu, mong cầu là tướng của tạp nhiễm, không mong cầu là tướng của thanh tịnh, đó là nghĩa của vị lai. Có nhân chẳng phải đã sinh, là chọn vô vi, vì tuy chẳng phải đã sinh mà không nhân. Chưa được tự tướng, là tự thể chưa sinh. Nhân quả chưa thụ dụng, là các chủng tử của nó chưa làm sở tác vì tính của nó chưa sinh. Tất cả một phần là vị lai. Để xả bỏ chấp trước ngã lưu chuyển, nên quán sát vị lai.

Thế nào là hiện tại? Bao nhiêu là hiện tại? Vì nghĩa gì nên quán hiện tại? Là tự tướng đã sinh chưa diệt, nhân quả thụ dụng chưa thụ dụng, nhiễm tịnh hiện tiền, có thể hiển thị tướng quá khứ vị lai, tác dụng hiện tiền, đó là nghĩa của hiện tại. Nhân quả thụ dụng chưa thụ dụng, nghĩa là nhân đã diệt quả hãy còn. Có thể hiển thị tướng quá khứ vị lai, nghĩa là đời hiện tại có thể thiết tướng của đời quá khứ vị lai. Sở dĩ vì sao? Vì y chỉ hiện tại giả lập quá khứ vị lai. Ước chừng quả vị sẽ được mà giả lập vị lai. Ước chừng quả vị đã từng được mà giả lập quá khứ. Tác dụng hiện tiền, nghĩa là các pháp như nhãn v.v… chính là chỗ sở y của thức v.v… tất cả một phần là hiện tại. Để xả bỏ chấp trước ngã lưu chuyển, nên quán sát hiện tại.

Hỏi: Vì sao quá khứ vị lai hiện tại nói là sự, chẳng phải Niết-bàn?

Đáp: Vì nội tự sở chứng không thể nói. Chỉ đã từng, sẽ, hiện là chỗ sở y của ngôn thuyết. Sở dĩ vì sao? Nhân nói quá khứ các việc mà hiển thị 3 thứ trong kinh nói về sự. Nghĩa là dựa vào kiến lập 3 đời chẳng phải là Niết-bàn, vì đó là nội tự sở chứng, lìa danh ngôn nên không thể tuyên thuyết. Lại nữa, chỉ có quá khứ, vị lai, hiện tại là chỗ sở y ngôn thuyết của kiến văn giác tri.

Thế nào là thiện? Bao nhiêu là thiện? Vì nghĩa gì nên quán thiện? Là tự tính, là tương thuộc, là tùy trục, là phát khởi, là đệ nhất nghĩa, là sinh đắc, là phương tiện, là hiện tiền cúng dường, là nhiêu ích, là dẫn nhiếp, là đối trị, là tịch tĩnh, là đẳng lưu. Đó là nghĩa của thiện. Năm uẩn, 10 giới, một phần của 4 xứ là thiện. Mười giới là 7 thức, sắc giới, thanh giới, và pháp giới. Bốn xứ, là sắc xứ, thanh xứ, ý xứ, và pháp xứ. Để xả bỏ chấp trước ngã hợp với pháp, nên quán sát thiện. Tự tính thiện, là tín v.v… 11 tâm sở hữu pháp. Tương thuộc thiện, là pháp tương ưng với nó. Tùy trục thiện, là các pháp tập khí của nó. Phát khởi thiện, là nó phát thân nghiệp ngữ nghiệp. Đệ nhất nghĩa thiện, là chân như. Sinh đắc thiện, là các thiện pháp của nó, do trước quán tập nên cảm được báo như vậy. Do tự tính này tức ở nơi đó tự nhiên lạc trụ mà không do tư duy. Nói tức ở nơi này, nghĩa là ở nơi tín v.v… các xứ. Do tự tính này không do tư duy, nghĩa là vô công dụng, không nhờ sức của thiện hữu v.v…. Tự nhiên lạc trụ, nghĩa là không phải chỉ có dục lạc, là sinh đắc và cũng cùng với tín v.v… tự nhiên đồng khởi. Phương tiện thiện, là y chỉ thân cận thiện trượng phu nghe chính pháp, như lý tác ý tu tập tịnh thiện pháp tùy pháp hành. Tu tập tịnh thiện, là ở trong chính pháp tất cả thiện pháp sinh ra do nghe v.v… Hiện tiền cúng dường thiện, là tưởng như đối trước Như Lai xây dựng tháp miếu đắp vẽ tôn nhan, hoặc tưởng đối trước chính pháp sao chép chỉnh sửa pháp tạng cúng dường. Nhiêu ích thiện, là dùng 4 nhiếp sự làm lợi tất cả hữu tình. Dẫn nhiếp thiện, là do thí tính phúc nghiệp sự và giới tính phúc nghiệp sự dẫn nhiếp sinh thiên lạc dị thục, dẫn nhiếp sinh nhà giàu sang, dẫn nhiếp tùy thụan pháp thanh tịnh. Dẫn nhiếp sinh thiên lạc dị thục và sinh nhà giàu sang, là hiển thị được nhân tôn quý. Dẫn nhiếp tùy thuận pháp thanh tịnh, là hiển thị được nhân Niết-bàn. Đối trị thiện, là yếm hoại đối trị, đọan đối trị, trì đối trị, viến phần đối trị, phục đối trị, ly hệ đối trị, phiền não chướng đối trị, sở tri chướng đối trị. Các đối trị này sau sẽ giải thích rộng. Tịch tĩnh thiện, là vĩnh đoạn tham dục, vĩnh đoạn sân nhuế, vĩnh đoạn ngu si, vĩnh đoạn tất cả phiền não, như tưởng thụ diệt, như hữu dư y Niết-bàn giới, như vô dư y Niết-bàn giới, như vô sở trụ Niết-bàn giới, như vậy đều là pháp tịch tĩnh thiện. Đẳng lưu thiện, là người đã được tịch tĩnh, do sức tăng thượng này nên phát khởi thắng phẩm thần thông v.v…thế xuất thế, cộng bất cộng công đức.

HẾT QUYỂN 3