ĐẠI THÁNH VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
TÁN PHẬT PHÁP THÂN LỄ

(Kèm theo LỜI TỰA)

Lễ này được trích ra trong Kinh Nhất Thiết Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_ Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

Hoàng Đế dùng lòng lòng nhân từ thâm sâu thống trị khắp bốn phương, như mặt trời sáng tỏ sự vật, rưới vảy khắp Cam Lộ tưới rửa sạch muôn người.

(Bất Không) chịu ân Thánh Từ rất nhiều, nên phiên dịch. Đặc biệt phụng An Mệnh, khiếp tập họp nhóm Thượng Đô Nghĩa Học Sa Môn LƯƠNG BÍ gồm 16 người, ở Nội Đạo Trường phiên dịch Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã với Đại Thừa Mật Nghiêm ….xong. Nguyện tán dương, tiếp theo ở Chí Giác Ký Giới Phước nơi cung Thánh, riêng thấy Kinh Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Tán Phật Pháp Thân

+Căn cứ bản Phạn ấy, có 41 Lễ. Đường lối trước kia đã Hành chỉ có 10 Lễ, đối với văn chẳng đủ, khen ngợi Đức chưa tròn, sợ trái nghịch với sự chân thành của bậc Thánh, lại thiếu Thắng lợi của quần sinh.
Bất Không (Amogha-vajra) trước kia có bản Phạn đã trì, thảy đều đầy đủ. Nay dịch lưu truyền, mong giúp cho lợi ích lớn lao.
Ngoài ra, nhóm Sám Hối Nghi Quỹ đều như bản xưa (cựu bản). Nơi đây chẳng nói lại.
Thời Đại Đường, Vĩnh Thái năm đầu tiên, đúng vào tháng tư của mùa Hạ.

Kinh ghi rằng:
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật trụ trong núi Thứu Phong (Gṛdhra-kuṭa) thuộc thành Vương Xá (Rāja-gṛha) cùng với chúng Đại Tỳ Khưu (Mahā-bhikṣu) gồm hai vạn năm ngàn người đến dự đều là bậc A La Hán (Arhat), với bảy mươi hai na dữu đa câu chi Đại Bồ Tát Ma Ha Tát mà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Maṃjuśrī-bodhisatva) là bậc Thượng Thủ (Pramukha).

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh sửa quần áo, trật áo hở vai phải, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, chắp tay cung kính, khen ngợi Đức Như Lai, rồi nói Già Tha (Gāthā: Kệ) là:

1_ Không sắc (rūpa), không hình tướng (Lakṣaṇa)
Không rễ (Mūla), không nơi trụ (vô trụ xứ)
Chẳng sinh, chẳng diệt, nên
Kính lễ Vô Sở Quán (Lý quán niệm các Pháp không có chỗ được)

2_ Chẳng đi cũng chẳng trụ
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ
Xa lìa sáu Nhập (sáu căn của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) nên
Kính lễ Vô Sở Quán

3_ Chẳng trụ ở các Pháp (Dharma)
Do lìa có (hữu), lìa không (vô)
Hành ở bình đẳng (Sama) nên
Kính lễ Vô Sở Quán

4_ Ra khỏi nơi Tam Giới (Sắc Giới, Dục Giới, Vô Sắc Giới)
Ngang đồng với hư không
Các dục chẳng nhiễm, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

5_ Ở trong các uy nghi
Đi, đứng với ngủ, thức
Thường ở vắng lặng nên
Kính lễ Vô Sở Quán

6_ Đi, đến đều bình đẳng
Đã trụ ở bình đẳng
Chẳng hoại bình đẳng, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

7_Vào các Vô Tướng Định
Thấy các Pháp vắng lặng
Thường ở Tam Muội (Samādhi) nên
Kính lễ Vô Sở Quán

8_ Không trụ, không chỗ quán
Ở Pháp, được tự tại
Tuệ dùng thường định, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

9_ Chẳng trụ ở sáu Căn
Chẳng dính vào sáu Cảnh
Thường ở một Tướng nên
Kính lễ Vô Sở Quán

10_ Vào ở trong Vô Tướng (Animitta)
Hay chặt đứt các Nhiễm
Xa lìa Danh (Nāma) Sắc (Rūpa) nên
Kính lễ Vô Sở Quán

11_ Chẳng trụ ở tướng có (Hữu Tướng)
Cũng lìa nơi các Tướng
Vào Tướng, ở trong không (vô)
Kính lễ Vô Sở Quán

12_ Không phân biệt suy nghĩ
Tâm trụ không chỗ trụ (Vô sở trụ)
Các Niệm chẳng khởi, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

13_ Không Tàng Thức (Ālaya-vijñāna) như rỗng (Śūnya:không)
Không nhiễm, không hý luận
Xa lìa ba đời, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

14_ Hư Không không giữa, mé
Tâm chư Phật cũng thế
Tâm đồng Hư Không, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

15_ Chư Phật, tướng hư không
Hư không cũng không Tướng
Lìa các Nhân (Hetu) Quả (Phāla) nên
Kính lễ Vô Sở Quán

16_ Chẳng dính ở các Pháp
Như trăng nước (ṃặt trăng dưới nước), không lấy
Xa lìa nơi Ngã Tướng
Kính lễ Vô Sở Quán

17_ Chẳng trụ ở các Uẩn (skandha)
Chẳng dính vào Xứ (Āyatana), Giới (Dhātu)
Xa lìa điên đảo, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

18_ Thường ngang bằng Pháp Giới (Dharma-dhātu)
Ngã Kiến đều chặt đứt
Xa lìa hai bên, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

19_ Chẳng trụ ở các Sắc
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ
Xa lìa Phi Pháp, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

20_ Chứng Pháp không chướng ngại
Thông đạt nơi các Pháp
Xa lìa Ma Pháp, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

21_ Chẳng có cũng chẳng không
Có, không chẳng thể được
Lìa các ngôn thuyết, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

22_ Bẻ gãy ngu Ngã Mạn
Chẳng một cũng chẳng hai
Xa lìa mot, hai nên
Kính lễ Vô Sở Quán

23_ Thân, miệng, ý không mất
Ba Nghiệp thường vắng lặng
Xa lìa thí dụ, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

24_ Nhất Thiết Trí (Sarva-jñā) thường trụ
Ứng hiện không công dụng
Xa lìa các lỗi, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

25_ Vi diệu vô lậu niệm
Không hạn, không phân biệt
Nhóm Tình, Phi Tình nên
Kính lễ Vô Sở Quán

26_ Dùng Tâm không ngại, nên
Đều biết tất cả Tâm
Chẳng trụ Ta Người (tự tha), nên
Kính lễ Vô Sở Quán

27_ Không ngại, không chỗ quán
Thường trụ Pháp không ngại

Xa lìa các Tâm, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

28_ Tâm thường không chỗ Duyên
Tự Tính chẳng thể được
Bình đẳng khó lường, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

29_ Dùng Tâm không chỗ dựa (vô sở y)
Đều thấy các cõi nước
Biết các hữu tình, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

30_ Các Pháp, Tát Bà Nhã (Sarva-jñā: Nhất Thiết Trí)
Rốt ráo không chỗ có
Tâm Phật khó đo lường
Kính lễ Vô Sở Quán

31_ Các Pháp giống Như Huyễn
Như Huyễn chẳng thể được
Lìa các Pháp Huyễn, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

32_ Phật thường ở Thế Gian
Nhưng chẳng nhiễm Thế Pháp
Chẳng nhiễm Thế Gian, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

33_ Nhất Thiết Trí thường trụ
Tính rỗng (Śūnyatā: Không Tính), cảnh giới rỗng
Nói năng cũng rỗng, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

34_ Chứng Vô Phân Biệt Định
Được Như Huyễn Tam Muội
Du hý Thần Thông, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

35_ Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng gần cũng chẳng xa
Ở Pháp chẳng động, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

36_ Một niệm Kim Cương Định
Sát Na thành Chính Giác
Chứng không ảnh tượng, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

37_ Nơi các Pháp ba đời
Thành tựu các phương tiện
Chẳng động Niết Bàn, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

38_ Niết Bàn thường chẳng động
Không bờ này, bờ kia
Thông đạt phương tiện, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

39_ Không tướng, không chỗ có
Không hoạn, không hý luận
Chẳng trụ có, không nên
Kính lễ Vô Sở Quán

40_ Trí Xứ đều bình đẳng
Vắng lặng không phân biệt
Ta Người (tự tha) một Tướng, nên
Kính lễ Vô Sở Quán

41_ Tất cả bình đẳng lễ
Không lễ, không chẳng lễ
Một lễ khắp Hàm Thức
Đồng về Thể Thật Tướng

Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Nay ông khéo nói Công Đức của Như Lai, tất cả các Pháp xưa nay vốn thanh tịnh. Này Văn Thù Sư Lợi! Giả sử có người giáo hoá tất cả hữu tình trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới đều thành Bích Chi Phật (Pratyeka-buddha) cũng chẳng bằng có người nghe Công Đức này, một niệm tin hiểu, liền vượt qua người gấp trăm ngàn vạn lần. Như vậy triển chuyển, không có thể khen ngợi, ví dụ, so sánh được”. Đầy đủ như Bản Kinh (Kinh gốc) đã nói

ĐẠI THÁNH VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT TÁN PHẬT PHÁP THÂN LỄ
_Hết_

22/05/2011