ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG

VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA KINH LƯỢC SỚ

Sa-môn Tông Mật chùa Thảo Đường ở núi Chung Nam đời Đường soạn.

 

Thứ đến nghiên cứu sâu, cội gốc luân hồi, nghĩa là cùng tột xoay vần cội nguồn. Suy ra chủng tánh khác nhau của nó, trong đó văn có bốn: ban đầu có ba, đây là phần đầu:

1. Bồ-tát Di lặc đảnh lễ Phật, thưa hỏi pháp:

– Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: giống như trên.

2. Chính thức trình bày cú văn có hai:

  1. Chúc mừng trước:

Đại bi Thế Tôn, xin rộng vì Bồ-tát mở bày mở kho bí mật, giúp các đại chúng ngộ sâu luân hồi, nhờ các ví dụ như thuyền đi mà thấy bờ chạy… mà ngộ được chân theo vọng chuyển, phân biệt tà chính, có thể bố thí cho tất cả chúng sinh đời mạt pháp không sợ quyết định đạo nhãn tuệ nhãn, đủ cả chân tục, đối đại Niết-bàn sinh tâm quyết định tin, không bao giờ tin khác. Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Diệu tín thường trú tất cả vọng tưởng dứt hết không còn.

Không còn tùy cảnh giới luân chuyển, khởi kiến chấp tuần hoàn, không chấp thuyền đi thấy bờ chạy…

  1. Thỉnh sau văn có hai:
    1. Nêu pháp hỏi.
    2. Kết thúc lợi ích thưa thỉnh.

– Trong phần đầu có hai:

+ Hỏi về cắt dứt luân hồi.

+ Muốn được Niết-bàn làm sao cắt đứt gốc luân hồi:

Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, muốn đến chỗ đại vắng lặng của Như lai đại Bát-Niết-bàn. Biển: đầy đủ ba đức, lập ra nghĩa lớn, thể sâu dụng rộng cho nên như biển.

Làm sao để cắt đứt cội gốc luân hồi, nhân chương trước nói: Trước là cắt dứt cội gốc luân hồi từ vô thỉ, cho nên nay hỏi phương pháp cắt đứt.

Đối với các luân hồi, trước nói các thứ lấy bỏ đều là luân hồi, cho nên ở đây nói các.

Có bao nhiêu chủng tánh, tất cả đều là sự luân hồi, chưa xét kỹ có bao nhiêu chủng tánh.

– Hỏi về tu bi trí:

3. Tu pháp Phật có bao nhiêu thứ?

Tu pháp Bồ-đề của Phật có bao nhiêu thứ khác nhau, pháp môn vô biên thệ nguyện học, tức là từ giã không vào thành đại trí, trở lại trần lao, sẽ lập ra bao nhiêu phương tiện giáo hóa độ các chúng sinh. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, tức là từ không vào giả, thành đại bi, hoặc bệnh đã nhiều, thuốc hay chẳng phải một. Nếu không có phương tiện ít nước nóng thêm băng, sợ rơi vào ái kiến đại bi cho nên phải hỏi.

– Kết thúc lợi ích thưa thỉnh.

4. Thỉnh Phật thương xót cứu giúp:

Cúi mong đại bi không bỏ cứu, giúp thế gian, những người tu hành, tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, mắt trí tuệ có khả năng soi chiếu.

Yên tĩnh lặng trong duyên trần không lẫn lộn, chiếu sáng gương tâm tức là sở chiếu. Lòng sạch như gương, bài kệ của Lục Tổ nói: tâm như gương sáng sạch, thân như đài gương sáng, viên ngộ tri kiến vô thượng, không năng không sở, tự tại tròn sáng của Như lai, tức là đồng với Pháp Hoa, cả hai mở bày Bồ-đề Niết-bàn là nghĩa vô thượng. Sau đây xướng ba lần phỏng theo trước. Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp mà thưa hỏi Như lai nghĩa mầu nhiệm, bí mật sâu kín, luân hồi vốn thanh tịnh, không có chủng loại khác nhau, khiến các Bồ-tát mắt trí tuệ trong sáng và khiến tất cả các chúng sinh đời mạt pháp, dứt hẳn luân hồi, tâm ngộ thật tướng, có vô sinh nhẫn, chân tánh không sinh, xưa nay thanh tịnh. Chúng sinh chưa ngộ, tâm vọng thấy sinh, sinh thì phải diệt, cho nên luân hồi. Nay ngộ thật tướng, rõ tâm vô sinh, tâm đã không sinh luân hồi dứt hẳn, nhẫn như thế gọi vô sinh nhẫn, trên đều khen ngợi.

5. Phật hứa khả nói pháp:

Bây giờ, ông hãy lắng nghe, sẽ nói cho ông. Lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc vâng lời dạy vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Dưới đây chính thức nói Văn xuôi, trong đó có hai:

  1. Trả lời cắt dứt luân hồi.
  2. Trả lời tu bi trí, trong phần trước có hai:
  3. Tìm gốc ngọn dạy chặt bỏ.
  4. Nói về chủng tánh cho biết, trong phần đầu có hai:

– Chỉ bày sở đoạn.

– Khuyên dạy dứt bỏ. Trong phần đầu có bốn:

+ Chỉ ra ái là gốc.

+ Muốn giúp thành nhân.

+ Xoay vần nương nhau.

+ Khởi các nghiệp báo, trong phần đầu có hai:

– Y theo tham dục để nêu lên, chỉ ra:

6. Do có ân ái tham nên chúng sanh bị luân hồi:

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh từ đời vô thỉ, do có các ân ái tham dục nên có luân hồi, nghĩa là đối năm dục sở tham, nêu chỉ ra ái của năng tham là gốc luân hồi. Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: ái chảy thành hạt giống lãnh nạp tưởng thành thai, giao cấu phát sinh hấp dẫn đồng nghiệp, do nhân duyên ấy nên có sinh tử. Lại kinh Niết-bàn chép: do ái sinh lo, do ái sinh sợ, nếu lìa tham ái, lo gì sợ gì? Lại nữa, kinh Phật Danh chép: có ái thời sinh, ái hết thời diệt, cho nên biết sinh tử tham ái là gốc. Trước dạy dứt bỏ: như cây chặt gốc… là do năm dục dẫn khởi tâm ái, làm cho chúng sinh sinh tử không dứt. Nói chủng chủng: hoặc ân thuộc trời như cha mẹ…, hoặc ân cảm của việc như được ân huệ nho nhỏ… hoặc nhậm vận sinh ái, tức là tự thân và danh, lợi, sắc, vị, lục thân… hoặc do cung kính thành ái, do ân thành ái, hoặc do ái hết ân, ân và ái ứng thành bốn câu. nghĩa là ân chẳng phải ái… Lại nữa, cảnh sở tham các thứ rất nhiều, nên ái (yêu) của năng tham không phải một, nhưng tham và ái cũng có bốn câu. Nghĩa là tham chẳng phải ái… nếu đối trị phân biệt với cảnh thì có thuận có trái, nếu y theo tâm phân biệt luống dối thì đều là lỗi lầm. Lại nữa, chỉ y theo ái lại có ba.

  1. Thích cái xấu, nghĩa là cầm hoang, sắc hoang và danh lợi…
  2. Yêu cái đẹp: nghĩa là tham dẫn đến quả báo thực hành thí, giữ giới,…
  3. Pháp ái: Ưa thích danh nghĩa và tham quả Thánh mà tu hành… nên sau đây nói: pháp ái không còn trong lòng, lần lần có thể thành tựu, thân ta vốn không có, yêu ghét từ đâu sinh. Sau y theo thọ sinh để kết định.

7. Nói về bốn cách sanh:

Nếu tất cả chủng tánh ở các thế giới: sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh chỗ ẩm ướt, hóa sinh đều do dâm dục mà có tánh mạng, nên biết luân hồi thì ái là gốc, bốn loại sinh như noãn sinh… thọ sinh khác nhau. Vì thế Du-già giải thích chúng sinh rằng: tư nghiệp là nhân, vỏ, thai, thấp nhiễm làm duyên, năm uẩn mới khởi là sinh, nếu phối hợp bốn sinh với sáu đường thì trời và địa ngục là hóa sinh, quỷ có thai có hóa, nghĩa là quỷ con và địa hành la-sát là thai, ngoài ra đều hóa sinh, người và súc sinh mỗi đường có bốn, người đủ bốn là mẹ Tỳ-xá-khư sinh trứng ba mươi hai con, thai là người thường, thấp là nại nữ, hóa là kiếp sợ. Súc đủ bốn thứ: Kim-sí điểu (chim cánh vàng) và rồng, thú khác đều có thai, các loài chim đều sinh bằng trứng. Nhưng đi trên đất bay trên không hoặc đường thủy, hoặc đường bộ, các loài nhỏ nhiệm hoặc noãn thai (bằng trứng, bằng thai), hoặc loài ẩm ướt, hoặc hóa sinh.

Không thể đủ phần phẩm loại, đều do dâm dục mà có tánh mạng.

8. Nguyên nhân luân hồi của chúng sanh:

1. Dâm: nghĩa là đắm nhiễm ái trước, nhưng là tình nhiễm đều được gọi là dâm. Dù cho hóa sinh cũng nương vào nhiễm nghiệp, chỉ y theo nặng nhẹ của cõi Dục: Luận Câu-xá chép: sáu thọ dục là giao hợp, ôm nhau, cầm tay, cười, nhìn nhau là dâm, người ở bốn châu cùng thế giới của Tứ vương. Ngoài ra các loại khác noãn thấp thai hình, nhiễm tâm khí truyền khó phân tích đủ, được tánh bẩm mạng, đều có lý do? tánh mạng đã do dâm, dâm lại do ái, nên nói ái là cội gốc.

2. Dục giúp thành nhân, do có các ham muốn nên giúp sinh tánh ái, tâm tức là hạt giống của ái, cho nên làm cho sinh tử nối nhau, do ham muốn ngoại trần dẫn ra tâm ái, cũng do tâm ái tham đắm nơi ham muốn, tham muốn nên gây ra nghiệp, gây ra nghiệp nên chịu báo, do sinh tử này không dứt, nên Triệu luận chép: chúng sinh sở dĩ bị trôi lăn lâu dài: đều do tham dục. Nếu ham muốn dừng ở tâm, thì không còn sinh tử, tiềm thần huyền mặc hợp với đức của hư không, ấy gọi Niết-bàn.

3. Xoay vần nương tựa.

Dục do ái sinh, mạng do dục mà có, chúng sinh ái mạng, lại nương dục làm gốc. Ái dục là nhân, ái mạng là quả, dục nghĩa là tham dục, mạng nghĩa là thân mạng, không có ái dục thì không sinh, không ham muốn thân thì không có, nên biết dục do ái mà có, thân do dục mà sinh, đã có thân này thì lại sinh ra ái, do ái thân nên lại làm nhân của Dục, lại cảm quả báo sinh tử đời vị lai, lần lượt như thế, nối nhau không cùng.

4. Khởi các nghiệp báo trong văn có hai. a) Giải thích riêng.

b) Kết thúc chung,

– Trong phần giải thích riêng có ba.

– Khổ báo của nghiệp ác.

9. Cảnh thuận và không thuận đối với tâm dục:

Do cảnh dục mà sinh khởi các trái ý không vừa lòng, thuận cảnh vừa ý, trái với tâm ưa thích mà sinh chán ghét, tạo ra các nghiệp, do cảnh kia, cảnh không thuận với tâm sinh phiền não, chửi mắng rủa nộp, các thứ nghiệp ác từ đây liền nổi lên, cũng có thể cảnh vừa ý sinh ra mê đắm, dâm, đạo, ăn uống, lấn cướp, lời nói thêu dệt, các thứ nghiệp ác, văn lược bỏ. Nói chủng chủng: mười bất thiện… cho nên lại đọa vào địa ngục, ngạ quỷ: ba ác báo. Không có súc sinh, lấy văn kia nhuận thành câu, do hai ví dụ rất dễ hiểu, cũng có thể do phiên dịch, truyền chép bỏ sót, nghĩa phải hợp với có. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: mười nghiệp đạo bất thiện, bậc Thượng là nhân địa ngục, bậc trung là nhân súc sinh, bậc hạ là nhân ngạ quỷ. Hai là nghiệp lành thì quả báo vui.

10. Biết tâm ái dục là nhân đường ác:

Biết dục đáng nhàm chán, biết tâm ái dục là nhân đường ác, đối với cảnh dục kia rất sinh nhàm chán xa lìa. Yêu chán nghiệp đạo, sợ đường ác kia không gây nhân ác, lìa pháp môn ác, rất sinh yêu thích, bỏ ác ưa thiện, do ưa muốn nên làm ác, nay biết ham muốn đáng nhàm chán, bỏ mười điều ác ưa mười việc lành.

Lại hiện trời người: Quả báo vui. Kinh Hoa Nghiêm chép: mười nghiệp lành là nhân thọ sinh trời người, xếp vào quả báo vui, là nói tướng thô. Nếu luận về tám khổ nhân gian, năm suy cõi trời ở địa cư chặt đứt tàn hại xua đuổi, đâu thể khỏi khổ? Khổ ở trong trời, ngạ quỷ, súc sinh, chia ra Tu-la thì thành sáu đường. Ba là nghiệp báo bất động.

Lại biết các ái đáng nhàm chán, nên bỏ ái lạc trở lại làm tươi nhuần gốc ái, biết ưa xấu ưa tốt đều không khỏi khổ, bỏ đi tâm ái ưa tu pháp xả. Pháp xả tức là bốn thiền tám định, mà không biết tâm ưa xả lại đồng với ái kia, cho nên nói trở lại làm tươi nhuần gốc ái.

Liền hiện có làm quả lành tăng thượng, hai cõi trên tốt đẹp là Y báo, Chánh báo, do ở cõi Dục tu được định này, mỗi thứ tùy theo địa của mình mà sinh lên cõi trời.

11. Kết thúc chung:

– Kết thúc chung: Đều là luân hồi, ái là cội gốc cho nên đều luân hồi.

Không thành Thánh đạo, trước chỉ cho vô minh, ở đây nêu lên tham ái phát sinh đầy đủ. Nhưng mười nghiệp ác xưa nay phải dứt, mười điều lành, tám định thì chỉ trừ bệnh ấy thứ hai khuyên dứt bỏ, văn có ba:

1. Chính khuyên.

Cho nên chúng sinh muốn thoát vòng sinh tử, khỏi các luân hồi thì trước phải thoát khỏi các luân hồi và dứt bỏ khát ái, đã biết sinh tử đều do tham ái thì muốn thoát khỏi sinh tử trước phải dứt hai thứ này. Luận Viễn Công Báo Ứng chép: Các việc phát ra đều do tâm kia, báo ứng phải do ở việc cho nên tự chịu báo, phải xét việc mà việc có thể thay đổi, nêu việc để trách tâm mà tâm có thể ngược lại. Khát: là dụ cho chỗ chí thiết của nó.

2. Đề phòng chung, sợ có hỏi vặn rằng: nếu như vậy thì vì sao Bồtát cũng có tham ái nên thọ sinh, cho nên ở dưới nói chung.

12. Bồ-tát hóa hiện ở thế gian chẳng phải ái là gốc:

Này người thiện nam! Bồ-tát biến hóa thị hiện ở thế gian, chẳng phải ái là gốc, chỉ vì thương xót khiến kia bỏ ái, mượn các ham muốn mà vào sinh tử, Bồ-tát thị hiện thọ sinh, cội gốc chẳng phải ái, chỉ vì từ bi, làm lợi ích cho người, muốn thực hành giáo hóa, phải hiện thọ sinh, thị hiện đồng với phàm phu, cùng làm việc lợi ích chúng sinh. Nên kinh Tịnh Danh chép: Chúng sinh bệnh thì Bồ-tát bệnh, thị hiện… thương xót sâu sắc, người chẳng có ái thì trí sâu xa.

3. Hiển bày rõ lợi ích.

Nếu tất cả chúng sinh đời mạt pháp, xả bỏ các ham muốn và dứt bỏ yêu ghét, dứt hẳn luân hồi, siêng cầu cảnh giới Viên giác của Như lai, với tâm thanh tịnh liền được khai ngộ, trước dứt bỏ được mới siêng cầu được, có ra vàng từ quặng mới làm đồ dùng, vì thế kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Tham dục như thế gọi là quỷ luân, không gọi là đường trời, tướng hữu vô làm sinh khởi tánh luân hồi, hữu và vô cả hai đều không, không hai cũng diệt, đối với Bồ-đề Phật mới có thể mong được.

13. Hỏi đáp về tham ái:

Hỏi: Ở trước chỉ nói tham ái, vì sao đây nói cho đến trừ yêu ghét?

Đáp: Yêu thân yêu cảnh, cảnh trái với tình hoặc thân bị phiền não, nên sinh chán ghét. Chính là biết chán ghét chỉ nói yêu. Cũng do ái vì thế tuy bao gồm ý ghét chỉ nói ưa. Hai là: Làm rõ chủng tánh cho biết, nghĩa là do ở trước nói, đầu cuối động tĩnh, cho đến so lường cảnh Phật đều là luân hồi, vì thế Di-lặc hỏi về chủng tánh ấy, ý nói: Nghe các giáo chỉ nói luân hồi năm đường, vì sao ở đây hành nhân ba thừa cũng chưa thể tránh khỏi, cho nên Phật nói cho nghe, do vốn do tham đắm hiển ra năm tánh, nên thuộc luân hồi, không do ngộ viên giác thanh tịnh làm bổn nhân. Nhưng hành tướng tu chứng trong tánh Bồ-tát, chỉ trừ bệnh ấy không bỏ pháp kia, ngoài ra như sớ có nói rộng, trong văn có hai:

– Nêu chung nhân nương tựa.

14. Chúng sanh gốc do tham dục:

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh gốc do tham dục mà, phát huy vô minh, hiển ra năm tánh khác nhau, chán xấu ưa tốt, huân tập giáo pháp ba thừa, chứa nhóm đã sâu nên thành tánh riêng. Kinh Lăngnghiêm chép: tùy nói kia mà thành, đều gọi giáo huân khởi.

Nương: hai thứ chướng mà hiện cạn sâu, nếu gặp lời dạy của thầy tà, thì đối với ng ngã chấp và pháp ngã rất chấp chặt gọi là sâu. Nếu gặp hàng Nhị thừa người nói lý nhân không, đối pháp tuy chưa lìa ngu, với người đã không chấp chặt, đối trước là cạn, nếu gặp Bồ-tát và Phật thì tướng sâu cạn đối nhau sẽ biết được.

– Giải thích riêng khác nhau… văn có hai:

  1. Sở y.
  2. Chướng.

Thế nào là hai chướng? Y theo luận Khởi Tín giải thích.

Lý chướng ngại chánh tri kiến, là cội gốc vô minh, không thông đạt tánh tướng pháp giới, chính là ngại nghĩa chánh tri kiến, vì thế luận ấy chép: tâm ấy từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, vì không thông đạt nhất pháp giới, tâm không tương ưng, bỗng nhiên niệm khởi gọi là vô minh.

15. Chướng sanh tử nối nhau:

– Sự chướng nối nhau các sinh tử, là sáu thứ nhiễm tâm. Ba tế cho đến khởi nghiệp thọ báo, là nghĩa sinh tử nối nhau, nên luận ấy chép: tâm thanh tịnh này bị vô minh làm nhiễm, có nhiễm tâm ấy, nghĩa của nhiễm tâm gọi là phiền não ngại… rộng như luận ấy nói.

– Năng y năm tánh, văn có hai:

1. Nêu ra: năm tánh gồm những gì: đây đều mới huân, không đồng thuyết của bản hữu của tông pháp tướng, nghĩa hai tông năm tánh thấy nói cao xa, nay đây lại cùng chỗ dẫn kinh Lăng-già… phần lớn giống nhau, chỉ khác chút ít, như văn có nói.

2. Giải thích trong văn có hai:

a) Nói chung chưa huân.

16. Hai chướng chưa dứt thì chưa thành Phật:

Này người thiện nam! Nếu hai tướng này chưa được dứt bỏ gọi là chưa thành Phật, vốn để phát tâm tu chứng thì y theo dứt bỏ hai chướng nên thành năm tánh, ở đây đều không dứt nên chẳng phải năm số, cũng chưa phát tâm được sự chỉ dạy, nên nói chưa huân, nếu y theo kinh Lăng-già, thì tương đương với vô tính thứ năm.

b) Huân thành năm tánh, văn có bốn: tánh Nhị thừa hợp lại phân biệt, có hai:

Nêu các chúng sinh bỏ hẳn tham dục, trước dứt bỏ sự chướng, lý chướng, biết khổ sinh tử, dứt bỏ phan duyên, nên nói trừ sự. Thật ra chưa thể dứt trừ ba tế. Ý trách không trước ngộ lý, nhưng trước trừ sự, cho nên có nói trước trừ chưa dứt.

17. Bốn chủng tánh:

1. Chỉ có thể ngộ nhập Thanh văn Duyên giác, chướng có sự lý, chấp có người pháp, nay chỉ dứt ở trước, nên nói chỉ có thể. Chưa thể hiển rõ an trú cảnh giới Bồ-tát, tuy đến nhà Trưởng giả nhưng vẫn còn ở vườn sau hót phẩn, ngủ lại am trành chưa dám lên nhà trên, nên nói như thế.

2. Tánh Bồ-tát.

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh đời mạt pháp, muốn hiện ra biển viên giác lớn của Như lai thì trước phải phát nguyện siêng năng dứt trừ hai chướng, hai chướng đã hàng phục, thì sẽ ngộ nhập cảnh giới Bồ-tát, đây y theo địa trước để làm rõ tướng kia, nên nói đã hàng phục.

Nếu sự chướng, lý chướng đã dứt bỏ hẳn thì liền vào viên giác mầu nhiệm của Như lai, đầy đủ Bồ-đề và đại Niết-bàn, đây là y theo nhập địa cho đến quả vị để phân biệt tướng kia, nên nói dứt hẳn và Bồ đề…

3. Tánh bất định.

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh đều chứng Viên giác, chắc chắn biết tự tâm xưa nay sẵn có, vì đã chứng biết tất cả hữu tình đều là giác, người dịch kinh lầm. Lẽ ra phải nói chứng các chúng sinh đều có viên giác.

Gặp Thiện tri thức, nương vào nhân địa pháp hạnh đã làm ấy, lúc bấy giờ tu tập liền có đốn tiệm, tánh giác tuy viên gặp giáo khác nhau, nên ưa thích có khác nhau.

Nếu gặp con đường tu hành chân chánh Vô thượng Bồ-đề của Như lai, căn không lớn nhỏ, đều thành quả Phật, gặp được thắng giáo đều thành, tức là nói không có định tánh riêng. Trái lại nói không gặp duyên tốt thì tùy theo chỗ nghe thành tiểu, văn không có là lược bỏ. Do đó gọi là bất định tánh, vì thế chỉ nêu đốn tiệm.

4. Ngoại đạo tánh.

Nếu các chúng sinh tuy cầu bạn tốt, nhưng gặp người tà kiến nên chưa được chánh ngộ, đó gọi là chủng tánh ngoại đạo. Trong tâm tuy thù thắng nhưng đời trước gặp thầy tà đã huân tâm của họ, chứa nhóm thành hạt giống, vì thế Thánh đạo khó sinh tín tâm.

18. Nói về lỗi của thầy tà:

Trên là nói về hạt giống tà, sau đây là nói lỗi của thầy: lỗi của thầy tà chẳng phải lỗi của chúng sinh. Ý hiển bày tánh này chắc chắn mới huân, chẳng phải tự sẵn có, nên nói chẳng phải lỗi của chúng sinh, các chủng tánh ở trước cũng nêu ra đây để biết, nhưng văn lược bỏ. Cho nên biết chúng sinh vốn đồng tánh giác, chỉ gặp sự chỉ dạy thành khác có Đại, có tiểu, có tà, có chánh, nên biết người phát tâm, phải khéo phân biệt tông đồ. Nhưng các kinh luận khác gọi tánh thứ năm nói vô tánh, chỉ nói xưa nay nhiễm tâm bất giác nối nhau, chưa được tà sư, chánh sư, dạy bảo huân tập, không có hạt giống ba thừa, nên mở ra cũng không tin, do đây lạm vào bổn hữu, ở đây nói tánh ngoại đạo là quyết làm rõ nghĩa mới huân, ba là kết thúc. Đó gọi là chúng sinh năm tánh khác nhau.

– Trả lời tu bi, trí, đã biết bệnh dụng tâm của luân hồi, khỏi rơi vào tông khác, thì phải nương hiểu biết tu hành mau cầu chứng nhập. Nhưng Bồ-tát tu hành không ra ngoài hai việc lợi ích bi, trí cho nên phải nói. Trong lời hỏi trước thì trí trước bi sau, nay trả lời thì bi trước trí sau. Ý tiêu biểu là bi của trí, tức là trí của bi, không trước không sau, nên làm rõ lẫn nhau, trong văn có hai:

– Bi:

19. Bồ-tát chẳng nhiễm thế gian:

Này người thiện nam! Bồ-tát chỉ dùng đại bi phương tiện, nhập vào các thế gian, lời hỏi ở trước nói: nên lập bao nhiêu phương tiện giáo hóa? Nay đáp ý nói: chỉ dùng đại bi phương tiện thị hiện các thứ hình tướng, thuận nghịch tùy lúc, không định số thứ, nói chỉ dùng đại bi phương tiện là tuy gặp căn cơ các loại, chỉ dùng hai thứ này mỗi thứ tùy theo kia mà xứng hóa. Chỉ có đại bi mới có công năng giáo hóa khắp, chỉ có phương tiện chắc chắn xứng với căn cơ, thích hợp không có lỗi, nên kinh Tư Ích chép: Chúng sinh thực hành ở thế gian mà không biết thế gian, Bồ-tát hành ở thế gian hiểu rõ tướng thế gian, tướng hư không thế gian, hư không cũng vô tướng, Bồ-tát biết như vậy, chẳng nhiễm đối với thế gian.

Khai phát cho người chưa ngộ, khiến biết pháp vọng vốn không, pháp chân vốn tịnh, cho đến thị hiện các thứ hình tướng, như Quán Âm có ba mươi hai thứ thân mà ứng hiện thân.

Cảnh giới nghịch thuận, luận chép: hoặc là quyến thuộc, bạn thân, hoặc là kẻ thù, giúp cho chúng sinh thêm lớn gốc lành, hoặc thấy hoặc nghe, được lợi ích.

Cùng với đồng sự là một trong bốn pháp nhiếp, ý bao gồm ba thứ khác, ba thứ ấy: bố thí, ái ngữ và lợi hành.

20. Giáo hóa chúng sanh thành Phật:

Giáo hóa cho thành Phật, không trụ ở các thừa khác, nên kinh Pháp Hoa chép: Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến tất cả chúng, bằng như ta không khác. Đều nương nguyện lực thanh tịnh từ vô thỉ, khi nhân thì của Bồ-tát đã quyết phát nguyện độ sinh, nương nguyện lực đã sinh này, giữ vững không lui sụt, nếu tâm mệt mỏi liền nhớ nguyện lực xưa, để tự thúc đẩy việc làm, không phải theo tình nên nói đều nương nguyện lực. Lại chẳng hy vọng báo ân, cũng chẳng phải là ái kiến, nên nói là thanh tịnh. Nói vô thỉ: đại bi đồng thể xứng tánh đại nguyện tánh vốn đầy đủ, chẳng phải mới được, chỉ do mê ngộ, có phát không phát, phát tức là hai trí vô thỉ.

Nếu tất cả chúng sinh đời mạt pháp đối với đại viên giác, sau đây nói bậc đại trí trên cầu Bồ-đề, đối với đại bi ở trước, sau đó giáo hóa chúng sinh.

Khởi tâm tăng thượng, quyết định hướng về.

Nên phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ-tát, lẽ thường các hạnh mau đến quả Phật, nếu không có nguyện lực thì thường lui sụt.

21. Điều nên cầu nguyện:

Nên nói như vầy: ta nguyện ngày nay trú viên giác Phật, cầu Thiện tri thức, chẳng gặp ngoại đạo và Nhị thừa, quyết định không hướng về các thừa khác, không giống như trước theo năm tánh, nên nói chẳng gặp…

Nương nguyện tu hành, cũng là chỗ làm không chạy theo tình niệm, chỉ nương nguyện lực mà tự đốc thúc, như trong bi trước đã nói. Nguyện là tướng chung, cả bi cả trí, cho nên trong hai đoạn đều nói nguyện lực, đầy đủ bi trí tức là đốn ngộ tâm Bồ-đề.

Lần lần dứt bỏ các chướng, lý tuy đốn ngộ không nhưng sự là trừ bỏ lần lần mới hết. Chướng hết, liền giải thoát, nguyện mãn: tức chứng đại Viên giác. Liền lên pháp điện giải thoát thanh tịnh, chướng hết thì đi, đứng, nằm, ngồi bất cứ lúc nào cũng chỉ hướng về giải thoát cho nên dùng mầu nhiệm pháp thanh tịnh để ví dụ. Chứng cõi đại viên giác diệu trang nghiêm, nguyện mãn thì đối cảnh chạm mắt, tất cả các pháp đều là viên giác, vì thế ví dụ là cõi mầu nhiệm trang nghiêm. Cõi nghĩa là chỗ hai nước giáp nhau. Trong kệ khen ngợi có hai, hoàn toàn đồng với Văn xuôi.

22. Đức Phật nói kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:

Di-lặc ông nên biết!

Tất cả các chúng sinh

Không được đại giải thoát

Đều là do tham dục

Đọa lạc vào sinh tử.

Chỉ bày chỗ bỏ, Văn xuôi lìa mà rộng, ở đây hợp mà sơ lược:

Nếu dứt được yêu ghét,

Cùng với tham, sân, si.

Không vì tánh khác nhau,

Đều được thành Phật đạo.

Hai chướng tiêu trừ hẳn,

Cầu thầy được chánh ngộ.

Thuận theo nguyện Bồ-tát,

Nương ở đại Niết-bàn.

Khuyên khiến dứt bỏ, ở đây và nói về chủng tánh cũng lìa hẳn, ở đây hợp.

Các Bồ-tát mười phương,

Đều dùng nguyện đại Bi,

Thị hiện vào sinh tử,

Hiện tại người tu hành

Và chúng sinh đời mạt,

Khuyên dứt các ái kiến,

Trở về đại viên giác.

23. Lược phân vị tu chứng:

Trên đâylà nghiên cứu cội gốc của luân hồi đã xong. Dưới đây là phần thứ tư, lược phân vị của tu chứng, đã nói về nguồn gốc của giác trí, lại nghiên cứu cội gốc của luân hồi, đã biết viên giác phàm Thánh không khác, nhưng chưa phân biệt tâm thuận theo viên giác từ phàm đến Thánh khác nhau như thế nào? Nên kế lại nói. Ý nói lược phân: là ba Hiền chung thành một vị, Thập địa Đẳng giác hợp thành một môn, tu thì tu viên giác, chứng thì chứng viên giác, viên giác không khác nhau, tùy theo tu trí để rõ vị địa, văn có bốn:

– Phần đầu trong ba phần:

24. Bồ-tát Thanh tịnh tuệ trình bày về từ cú:

Bấy giờ, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Đồng như trên.

– Kế là trình bày về từ cú, trong văn có hai: Trước là chúc mừng. Đại Bi Thế Tôn vì chúng ta nói rộng việc không thể suy nghĩ bàn luận như vậy. Đối tịnh giác nhất vị, nói gốc ngọn luân hồi, chủng tánh khác nhau các pháp tạp nhiễm, mà không trái mất cho nên không thể suy nghĩ bàn luận.

Vốn không thấy, vốn không nghe, chỉ dạy lập tướng nhiễm tịnh rõ ràng, tông phá tướng nhiễm tịnh đều bặt dứt, nay nói lên tánh giác nhiễm tịnh dung thông, cho nên trước đây chưa hề nghe thấy.

Nay chúng ta nhờ Phật khéo chỉ dạy thân tâm thoải mái được lợi ích lớn, dứt sạch các hoặc nhỏ nhiệm, hai là thỉnh trong văn sau có hai: a. Chính hỏi.

25. Nêu sở chứng của bậc chánh giác:

Xin vì tất cả pháp chúng đến dự hội, nói lại tánh giác tròn đầy của Pháp Vương, tất cả chúng sinh và các Bồ-tát, sở chứng sở đắc của Như lai Thế Tôn khác nhau như thế nào? Nêu chánh giác sở chứng, hỏi: có thể chứng vị địa, tâm giác hoàn toàn nhân quả khác nhau, hai nghĩa thường trái nên phải nêu câu hỏi.

b. Kết thúc lợi ích.

Khiến chúng sinh đời mạt pháp nghe được Thánh giáo này, thuận theo khai ngộ thứ lớp nhập vào.

Sau đây là ba lần xướng phỏng theo như trước.

26. Đức Thế tôn khen ngợi hứa nói:

Nói lời ấy rồi năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì chúng sinh đời mạt pháp mà thưa hỏi, Như lai thứ lớp khác nhau, nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ vâng lời chỉ dạy vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe, trong phần chính nói, văn xuôi có hai:

  1. Nói về viên giác vô chứng.
  2. Nói về đối cơ nói chứng, trong phần đầu có hai là:

– Pháp và dụ. Pháp có hai: a. Nói về vô chứng.

b. Nêu lên giải thích lý do. Ở đây là mở đầu:

27. Tự tánh viên giác là phi tánh:

Này người thiện nam! Tự tánh viên giác là phi tánh, chẳng phải năm tánh trước và các tánh luân hồi khác nhau như tham, ái…

Tánh hữu: tánh khác nhau ở trước đều có viên giác.

Theo các tánh khởi, viên giác không giữ tự tánh, tùy duyên biến các tánh khác nhau, khi các tánh khởi thì hoàn toàn từ tánh giác khởi cho nên pháp thân không thêm không bớt.

Kinh chép: pháp thân trôi lăn trong năm đường, gọi là chúng sinh.

Không thủ, không chứng, chẳng phải cảnh của đương tình. Đối với thật tướng, thật không có Bồ-tát và các chúng sinh, kế sau là tự nêu lên giải thích lý do rằng. Vì sao? Vì sao không có Bồ-tát và chúng sinh? Bồtát, chúng sinh đều là huyễn hóa, huyễn hóa diệt nên không thủ chứng, y theo có huyễn cấu gọi là chúng sinh: Người xa lìa huyễn cấu gọi là Bồ-tát, cho nên cả hai đều không. Nhưng luân hồi ở trước và tu chứng ở đây đều nói là không, vì trước dường như bở chạy, ở đây như bóng trong gương, là hai dụ: Thí như mắt không tự thấy mắt, tánh tự bình đẳng. Vô bình đẳng là nói mắt có khả năng thấy tất cả, chỉ không thể tự thấy mắt, lại như ánh mắt khi nhìn ngắm cảnh vật thì muôn ngàn khác nhau nhưng thấy chỉ là một, nên nói là bình đẳng, chỉ đối với tâm không phân biệt phàm Thánh hơn kém, nói nghĩa bình đẳng, cũng không có người thực hành bình đẳng.

– Đối với căn cơ nói chứng, văn có hai:

  1. Nêu chung đại ý.
  2. Chứng vị đẳng cấp khác nhau.

Trong phần trước có hai: Ở đây trước nói công dụng có khác nhau.

28. Chúng sanh mê mờ điên đảo:

Chúng sinh mê mờ điên đảo, nếu chúng sinh không mê hoặc điên đảo, thì không có nghĩa khác nhau, nên trước nêu đây y theo đó để nói chứng giác khác nhau, mê theo thể điên đảo tức là vô minh căn bản và ba tế sáu thô. Trong luận cũng y theo cách dịch này, để nói về giai vị thỉ giác.

Chưa thể dứt hết tất cả huyễn hóa, chấp cho là thật, đối với diệt chưa diệt, tức là nói trong bốn vị thì ba thứ trước lại giác ở trước, không giác ở sau, nghĩa là chướng tập lần lần hết như một phần bụi trần hết thì một phần gương sáng.

29. Thất địa trở xuống là tu đạo trong mộng:

Trong công dụng luống dối, Thất địa trở xuống đều là tu đạo trong mộng, nên kinh Hoa Nghiêm có dụ trong mộng vượt qua biển lớn. Chứng ngộ tròn sáng mới biết phiền não vốn không, thì thấy công dụng của trí tuệ năng đoạn cũng là luống dối, như trong mộng lấy thuốc trị bệnh được lành, sau khi tỉnh thì thuốc, bệnh đều không, nên nói công dụng luống dối.

Liền hiển bày khác nhau, chính là nêu chung giai vị. Hai công dụng cùng cực chẳng khác. Nếu được sự vắng lặng của Như lai, thì chư Phật đồng chứng lý này.

Tùy là tương ưng với gốc.

Thuận là không trái, chẳng phải khởi tâm cầu vắng lặng riêng.

30. Không có pháp vắng lặng và người vắng lặng:

Thật không có vắng lặng và người vắng lặng, không có năng sở, ý rõ tâm niệm, không sinh không thấy có pháp vắng lặng.

– Chứng vị từng bậc khác nhau, trong văn có hai:

  1. Nói nương vị từ từ tu chứng.
  2. Nói vọng tâm đốn chứng, trong phần đầu có bốn: Một là Tín vị; Hai là Hiền vị; Ba là Thánh vị; Bốn là Quả vị.

Bốn thứ này trong luận thứ lớp trái nhau, y theo dứt trừ bốn tướng thô tế sinh, trụ, dị, diệt, nương nhờ hiển rõ ngược lại bốn vị để làm sáng tỏ bờ mé thỉ giác. Nhưng tâm tánh lìa niệm vốn không sinh diệt, vì do vô minh quên chân thể của mình, cổ động khởi niệm, có thể khiến tâm thể sinh, trụ, dị, diệt từ tế đến thô nhỏ nhiệm khác nhau trước sau khác nhau, bờ mé trước nhỏ nhất gọi là sinh tướng, hai và ba ở giữa gọi trú tướng, dị tướng, mé sau thô nhất gọi là diệt tướng. Ở đây vì bổn giác có năng lực huân tập không thể suy nghĩ bàn luận, khởi tâm nhàm chán mong cầu, lại vì chân như sở lưu huân nghe giáo pháp huân nơi bổn giác, tánh lợi ích năng lực hiểu biết, mất đi vô minh có thể lần lần hướng về nguồn tâm.

Ban đầu là dứt tướng diệt, cuối cùng dứt tướng sinh, hóat nhiên đại ngộ hiểu rõ nguồn tâm, vốn không lay động nay sự vắng lặng vô thỉ, bình đẳng, bình đẳng không khác với thỉ giác, đại ý như thế, nay dùng ý luận để giải thích, ban đầu là tín vị: nói về nương nhờ dứt tướng diệt, văn kinh chia làm ba:

1. Nêu lên đầy đủ phàm phu.

31. Thể của ngã vốn không, chúng sanh vọng tưởng là có:

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay: đoạn đầu này chưa vào tín vị. Cho nên có văn này: không y theo phàm phu mê muội thì không có giai vị, nên trước nêu lên, ở đây dịch làm rõ tín, tức là văn luận dịch bốn tướng thành bốn vị.

Do vọng tưởng ngã, thể của ngã vốn không, vọng tưởng là có, bốn sinh chín loại đều như vậy. Và ái ngã vì chấp là ngã nên sinh yêu đắm, câu trên thể của ngã tức là sở chấp. Câu này ngã kiến tức là năng chấp, nói về nghĩa ngã, dưới đây có văn.

Không hề tự biết niệm niệm sinh diệt, thể ngã vốn không, duy tâm nên có. Tâm đã niệm niệm vô thường, ngã cũng niệm niệm sinh diệt, nên kinh Tịnh Danh chép: Thân này như điện chớp, niệm niệm không dừng trụ. Luận chép: Tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ vô thỉ đến nay niệm niệm nối nhau, nên nói vô minh từ vô thỉ. Vì thế khởi yêu ghét, mê đắm năm dục: là lỗi mê chấp do chấp ngã nên thuận theo ngã thì yêu, trái với ngã thì ghét, cho nên mê đắm năm dục.

2. Nói về nghe pháp giác ngộ.

Nếu gặp bạn lành, chỉ dạy cho khai ngộ, tức văn huân (nghe huân tập).

32. Nói về nghe huân tập:

Tánh viên giác thanh tịnh tức là huân bên trong. Phát minh khởi diệt, tuệ soi sáng suốt, rõ phát tâm tánh. Vọng huân tập từ vô thỉ trong nhất thời ngộ hiện, như khi thức thì biết là mộng nhưng khi mê thì là sinh diệt. Vọng niệm là ta, cho nên vọng niệm không tự thấy vọng niệm. Như mắt không tự thấy. Nay đã khai ngộ tâm thầm hợp với chân giác, không cho vọng niệm là ngã, nên thầm hợp với tuệ của chân soi vào niệm khởi diệt. Khởi và diệt niệm niệm đều biết, trước không tự biết niệm niệm sinh diệt. Liền biết đời này tánh tự mệt nhọc, tức là tâm sinh diệt này, khi tánh mê tánh liền khởi diệt, vọng niệm trở lại mình, tâm suy nghĩ mệt nhọc, ngàn muôn mưu kế niệm niệm không dừng.

3. Nói về dứt vọng theo chân.

33. Phàm phu thuận theo tánh giác, kết thành tín vị:

Nếu lại có người dứt hẳn mệt nhọc: dứt trừ hẳn, tâm cầu làm, được pháp giới thanh tịnh, hoặc lý pháp giới, thì trong thể pháp giới bặt dứt các suy nghĩ mệt nhọc, trần cảnh không sinh, gọi là tịnh. Nếu sự pháp giới, thì tâm nhớ nghĩ phân biệt, pháp của trần cảnh khác nhau, mười tám giới… đương thể không sinh, gọi là Tịnh. Vì sao? Vì pháp giới tịnh uế đều do tự tâm, tâm uế thì uế, tâm tịnh thì tịnh. Liền hiểu tịnh kia là tự chướng ngại: niệm thô đã hết được chút nhẹ nhàng, khi đối tịnh kia tâm sinh yêu đắm, đối với tịnh khởi hiểu gọi là tịnh giải, tâm bị ràng buộc đối với tịnh nên thành chướng ngại, chẳng phải trần bên ngoài quấy nhiễu gọi là tự ngại, cho nên viên giác mà không tự tại, kết thành tướng chứng giác trong tín, tác ý đối với giác nên không tự tại.

Đây gọi là phàm phu thuận theo tánh giác, kết thành tín vị. Hai là Hiền vị: nói về nhờ dứt mà thành tướng khác. Văn nói: giác đối với niệm khác, niệm không tướng khác…

34. Tất cả Bồ-tát giác ở niệm khác:

Này người thiện nam! Tất cả Bồ-tát bị kiến giải làm ngại, thấy tịnh giải ở trước bị ngại. Chính là giác ở niệm khác.

Tuy dứt bỏ giải ngại, là vượt quá vị trước. Nói tuy là trước rõ sau kém, niệm không có tướng khác… do trú kiến giác chính là ở giai vị này.

Giác ngại là ngại không được tự tại, kết thành tướng chứng giác Địa tiền kém hơn Đăng địa. Sở giác là ngại nên năng giác cũng ngại, đây là dùng ngại trừ ngại, nên chẳng tự tại.

Đây gọi là Bồ-tát chưa nhập địa, thuận theo tánh giác. Kết thành hiền vị.

– Thánh vị: nói nhờ dứt mà trụ tướng, văn nói giác ở niệm trú niệm không trụ tướng, nay văn chia làm ba:

  1. Ngộ trước kia là sai.
  2. Nói về chứng tướng.
  3. Kết thành vị. Đây là phần đầu. Này người thiện nam! Có soi chiếu: là tịnh giải trong tín. Có giác: giác của giác ngại trong hiền vị.

35. Nói về giác ở niệm trụ:

Đều gọi chướng ngại, chính là nói lên ở trước là chẳng đúng, chính là nói về giác ở niệm trú.

– Nói về chứng tướng, nghĩa là dùng trí chứng lý, lý trí hợp nhau, như mặt trời hợp với hư không, như hạt châu tự soi chiếu, chỉ là hiển hiện bản giác, chẳng có năng sở. Trong văn có hai:

  1. Không trú chứng.
  2. Không trụ giáo, trong đó có ba: nghĩa là pháp dụ và hợp. Đây là phần đầu.

– Cho nên Bồ-tát thường giác, không an trú nơi chiếu và người chiếu, đồng thời vắng lặng. Năng sở khế hợp, vậy nên bài kệ thấy đạo của Duy Thức chép: hoặc khi đối sở duyên, trí đều không sở đắc. Lúc bấy giờ, an trụ duy thức lìa hai tướng chấp, trí không sở đắc, thời nay thường giác không trú, thường giác tức là trí không phân biệt, không trú trú thì không chấp các tướng nói suông. Lìa hai chấp tướng, tức là chiếu này và người chiếu vắng lặng, trí và chân như bình đẳng bình đẳng, đều xa lìa tướng năng thủ, sở thủ. Văn kia tuy hạn cuộc ở thấy đạo, mà nghĩa của chứng lý thập địa không khác, cũng có thể không đồng với phàm phu, nên nói thường giác, không đồng với địa trước, nên nói không trú, ở đây thì niệm không trú tướng, giác trú tướng là không nên không trú.

Thứ hai là Dụ.

36. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ:

Thí như có người tự chặt đầu mình, đầu đã đứt rồi nên không thể chặt, như cầm dao kiếm tự chặt đầu, khi đầu chưa lìa thì không thể có nghĩa chặt đứt, nếu đầu đã rơi, thì không còn có người năng đoạn, sau là hợp, vì tâm ngại, là giác của giác ngại. Tự diệt các ngại, là ngại của sở giác.

Ngại đã đoạn diệt không còn diệt ngại, như lửa phát ra từ gỗ trở lại cháy gỗ thành tro bay đi.

– Không trụ giáo, nghĩa là địa trước chưa chứng nhân lý khó quên ngôn giáo, chứng lý đăng địa, không trụ lời nói, không trụ nên gọi chân giải giáo. Vì thế văn nói về Sơ địa trong kinh Hoa Nghiêm chép: được trí kinh luận. trong văn có hai:

1. Nêu lên để ví dụ giải thích.

37. Kinh giáo là phương tiện:

Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu lại thấy mặt trăng thì biết rõ chỗ nêu rốt ráo chẳng phải mặt trăng. Dù cho lời nói giống như đắc ý, không nói giống mà mê hoặc điên đảo, chấp lời nói giống mà mê chân, cho nên dùng ngón tay chỉ mặt trăng mà dụ cho ngôn giáo, là nghĩa thấy mặt trăng thì phải nhờ đầu ngón tay, tâm ngộ phải nhờ giáo của Phật, nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng, thấy mặt trăng, thì quên ngón tay, nhờ nơm giáo mà tâm ngộ, tâm ngộ thì quên giáo, nếu chấp ngón tay thì mất mặt trăng thật, chấp giáo thì mất bổn tâm, ý khiến chứng thật quên nêu, nên nói chẳng hề có mặt trăng.

2. Đủ để hợp pháp.

38. Phật cũng dùng lời nói để hiển rõ lý:

Tất cả Như lai dùng các lời nói để chỉ bày cho Bồ-tát cũng giống như thế: ở đây nói các Đức Phật cùng dùng lời nói để hiển rõ lý, vì thế Văn-thù Bát-nhã chép: Tổng trì không có văn tự, văn tự nói lên tổng trì.

– Kết thúc thành vị: ở đây gọi Bồ-tát đã nhập địa thuận theo tánh giác luận cũng kết rằng: gọi là thuận theo giác.

– Quả vị: luận nhờ dứt tướng sinh. Văn nói: Như Bồ-tát Địa tận đầy đủ phương tiện, một niệm tương ưng tâm giác mới khởi, tâm không có tướng ban đầu, để xa lìa niệm nhỏ nhiệm, được thấy tâm tánh, tâm tức thường trú gọi rốt là ráo giác, nay văn chia làm ba:

1. Nói về cảnh: Này người thiện nam! Tất cả chướng ngại tức là rốt ráo giác: nêu chung, nghĩa là trí rõ viên giác không có tâm phân biệt. Nêu mười đối pháp đều đồng chân thật, tức là trong luận thấy tánh thường trụ… lại nữa, nếu thấy có chướng ngại để dứt, dứt rồi gọi là giác, giác chẳng phải rốt ráo nên chướng ngại, tức là giác mới rốt ráo. Chướng ngại: nêu mỗi cặp trong câu trên, rốt ráo giác tức là nêu câu dưới. Mười cặp: đắc niệm, thất niệm đều là giải thoát.

39. Nói về mười cặp:

1. Cặp thức và trí: không niệm thì được chánh niệm, đó là trí. Hữu niệm thì là thất niệm, là thức. Nên trong luận nói: giác thì lìa niệm, niệm thì bất giác… Nay rõ niệm vốn tự là không, vốn là vô niệm, nên đều giải thoát.

Thành pháp phá pháp đều gọi Niết-bàn.

2. Cặp thành và phá: các duyên hội nhau gọi là thành, duyên lìa gọi là phá, lại tiến tu gọi là thành, chê bai là phá, duyên vô tự tánh, thành và phá như một, nên đều là Niết-bàn.

Trí tuệ, ngu si đều là Bát-nhã.

3. Cặp ngu và trí: Kinh Đại Bảo Tích chép: si từ phân biệt sinh, phân biệt cũng chẳng có, tánh si và tánh Phật si tánh và Phật tánh bình đẳng không khác nhau, pháp mà Bồ-tát ngoại đạo thành tựu đều là Bồđề.

4. Cặp tà và chính: kinh Tư Ích chép: an trú chánh đạo, không phân biệt là tà là chánh, cảnh giới vô minh chân như không khác nhau.

5. Cặp chân và vọng: kinh Niết-bàn chép: Bản tế vô minh tánh vốn giải thoát. Người xưa nói: mê thì chân như là vọng tưởng, ngộ thì vọng tưởng là chân như. Các giới, định, tuệ và dâm, nộ, si, đều là phạm hạnh.

6. Cặp nhiễm và tịnh: giới, định, tuệ ngược lại với ba độc, ba độc vốn không, vốn là phạm hạnh, kinh Chư Pháp Vô Hành chép: tham dục tức là đạo, nhuế si cũng giống như vậy. Trong ba việc như thế, có vô lượng Phật đạo. Chúng sinh, cõi nước đồng một pháp tánh.

7. Cặp y và chính: kinh Niết-bàn chép: ta dùng mắt Phật xem

khắp ba cõi hữu tình vô tình, tất cả người pháp thảy đều rốt ráo. Rốt ráo: tức là pháp tánh. Địa ngục, cõi trời đều là tịnh độ.

8. Cặp khổ và vui: Nghiệp cực ác thành thì thấy cõi trời là địa ngục; nghiệp cực thiện chín muồi thì thấy địa ngục là cõi trời. Ý nghĩa của hai nghiệp do tâm, địa ngục cõi trời đâu chắc chắn. Tâm đã vốn không, tất cả thanh tịnh, cho nên kinh Bảo Tích có Tam-muội địa ngục Tam-muội thiên cung, nhưng các pháp đều như vậy, chẳng phải chỉ cõi trời và địa ngục. Nay lại y theo pháp thích thể trái nhau để lệ cho những trường hợp nhau.

Hữu tánh, vô tánh đều thành Phật đạo.

9. Cặp hữu tánh và vô tánh:

Hữu tánh: là tánh ba thừa.

10. Vô tánh: là tánh Xiển-đề, chẳng phải chỉ ngày khác hồi tâm, hiện tại đã thành Phật đạo. Tất cả phiền não rốt ráo giải thoát.

1. Cặp trói buộc và giải thoát: Kinh Phật Đảnh chép: căn trần đồng nguồn, gốc trói buộc giải thoát không hai, thức tánh luống dối giống như hoa đốm trong hư không. Nhưng phiền não nương thức, thức tánh đã không thì phiền não trói buộc chỗ nào? Mười cặp trên đây danh tướng tuy khác mà ý không khác, nhưng vì Phật chứng tâm giác, tâm không lấy bỏ, nên được các pháp khắp đều tròn mầu. Nên nay chỉ mỗi mỗi dẫn ví dụ mà thôi, chứ không mỗi mỗi tìm cầu tướng tức là nguyên do vô ngại.

2. Nói về tâm.

40. Nói về biển trí tuệ pháp giới:

Pháp giới biển tuệ: pháp giới sâu rộng nên giống như biển, còn tuệ là dụng, vì xứng với pháp giới nên gọi là pháp giới tuệ. Chiếu rõ các tướng giống như hư không, lý lượng xem ngang bằng, chánh trí không điên đảo, do tâm phân biệt các tướng khác nhau, nay biển tuệ lìa niệm nên các tướng như hư không. Lại tuệ của năng chiếu lìa niệm nên các tướng như không, tức không giống với tuệ vô ngại của kinh Tịnh Danh bao nhiêu. Như gương chiếu vật, gương tự vô tâm. Trên đây đều là trong luận, phương tiện đầy đủ, một niệm tương ưng, tâm giác mới khởi, tâm không có tướng ban đầu.

3. Kết vị:

41. Bình đẳng trong khác nhau:

Đây gọi Như lai thuận theo tánh giác: Hai là vọng tâm đốn chứng, trước do khắp chỉ bày giáo môn, y theo căn cơ nói có sâu cạn, nay sợ còn phân biệt thì không có lúc ngộ nhập, nên chỉ bày viên đốn an tâm, đối với giác thành chân thật thuận theo, trước là theo tướng, đây nên lìa tướng, cũng như Hoa nghiêm trước nói vị địa nhân quả khác nhau, sau dung thông bình đẳng nhân quả, tức là bình đẳng trong khác nhau, khác nhau trong bình đẳng. Trong đây, ý thú đồng với kia, văn có ba:

  1. Quên tâm vào giác.
  2. Nghiệm quả biết nhân.
  3. Ấn thành trí Phật.

Trong phần đầu có hai:

1. Chỉ bày an tâm.

42. Không để sanh khởi vọng niệm:

Này người thiện nam! Vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, là chỉ bày pháp an tâm đời mạt pháp, văn có bốn tiết mỗi tiết có hai câu, bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm, vọng niệm là phan duyên chấp đắm pháp bên ngoài, nghĩ thời trái giác, nên không để khởi.

Đối với các vọng tâm cũng không dứt diệt, nếu cầu chân xả vọng như bỏ bóng theo hình, nếu dứt vọng còn chân, thì giống như phát ra âm thanh mà dứt tiếng vang, trụ trong cảnh vọng tưởng không thêm hiểu biết, cảnh từ tâm hiện vốn là tự tâm. Nếu thêm hiểu biết tức là mê hiện lượng, nên kinh nói chẳng huyễn thành huyễn.

Luận chép: tâm không thấy tâm, chỉ không sinh tình tự nhiên như gương soi chiếu vật thể. Vả lại, tâm thể vốn tự hiểu biết, đâu cần phải gia thêm hiểu biết, trên biết khởi biết gọi là thêm.

Với không hiểu biết không phân biệt chân thật, rất dễ hiểu đã vắng lặng tức là biết chân thật, chân thật liền biết, ai biết chân thật như mắt không tự thấy mắt…

2. Nương pháp đốn nhập:

43. Chúng sanh nghe pháp môn này không sinh sợ:

Các chúng sinh kia nghe pháp môn này, tin hiểu thọ trì không sinh kinh sợ. Chính gọi là thuận theo tánh giác. Chúng đương căn kia, nếu nghe phương tiện này tâm không nghi ngờ, thể đạt rõ ràng lãnh thọ giữ gìn, thời thản nhiên hợp đạo, cũng giống như đối với kinh Kim cương không kinh, không sợ, không hãi, thật là ít có.

– Nghiệm quả biết nhân:

Này người thiện nam! Các ông nên biết, chúng sinh đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư Phật và Đại Bồ-tát như thế, gieo trồng các gốc đức, thành thật nói: nghiệm nay nghe ngộ mau hợp tâm Phật, mới rõ nhân đời trước, trước kia nhờ huân tập, nếu chỉ y theo đời hiện tại chính là đốn cơ (căn cơ nhanh) nếu suy tìm nhân đó đã là chứa nhóm, kinh Kim cương cũng chép: không đối một, hai Đức Phật…

– Ấn thành trí Phật.

44. Nhờ pháp môn này được nhất thiết chủng trí:

Phật nói người này gọi là thành tựu Nhất thiết chủng trí, nghĩa là Nhất thiết chủng trí do đây mà được, nhân quả dung nhiếp lẫn nhau, chắc chắn không nghi. Cho nên Như lai ấn ngôn thành tựu. Lại nữa, tông phần của kinh này đồng với Hoa Nghiêm, nhân trùm biển quả, quả suốt nguồn nhân, xứng tánh thâu nhiếp lẫn nhau, trước sau không khác. Kia nói: nếu các Bồ-tát có thể cùng quán hạnh tương ưng như thế, đối với các pháp không sinh hiểu hai, tức là đồng với văn nói về an tâm này. Liền được vô thượng Bồ-đề, đồng với Nhất thiết chủng trí này, trong kệ tán có ba: ban đầu hai, hoàn toàn đồng với văn xuôi, hai câu thứ ba tổng kết văn xuôi không.

45. Đức Phật nói kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:

Thanh Tịnh Tuệ nên biết,

Tánh Bồ-đề tròn đầy,

Không thủ cũng không chứng,

Không Bồ-tát chúng sinh.

Viên giác trên không chứng,

Đối cơ dưới nói chứng.

Khi giác và chưa giác, thứ lớp có khác nhau trên nêu chung đại ý, dưới chứng vị tầng bậc khác nhau, chúng sinh là giải ngại (tín vị), Bồ-tát chưa lìa giác (hiền vị) nhập địa mãi vắng lặng, không trú tất cả tướng (Thánh vị).

Đại giác đều tròn đầy,

Gọi là thuận theo khắp.

(Quả vị) các chúng sinh đời mạt pháp, tâm không sinh luống dối, vong tâm đốn chứng.

Phật nói người như thế,

Đời này là Bồ-tát,

Cúng dường số cát sông hằng Phật,

Công đức đã tròn đầy.

Ấn thành trí Phật.

46. Nói về trung căn tu chứng:

Dù có nhiều phương tiện, đều gọi trí thuận theo. Vì tổng kết đốn tiệm nên nói là nhiều phương tiện, trên đây bốn đoạn nói chung quán hạnh xong, kế là bốn câu hỏi đáp nói riêng về quán hạnh. Trung căn tu chứng là nói riêng: gồm có hai ý:

1/ Do một hạng người nương vào môn trước chứng nhập không cần tu đây, nên đây gọi là riêng.

2/ Môn này mỗi môn khác nhau, như ba quán có khi một người đủ cả ba, có khi một hoặc hai đơn kép xen nhau, thành hai mươi lăm thứ, mỗi thứ đều ứng với một căn cơ nên nói là khác. Chỗ lìa chướng kia cũng đều khác nhau, lại như bốn tướng, có khi một người đủ bốn, có khi ba, hai, một. Bốn bệnh mỗi người đều nhất định không gồm khác, vì trái nhau, nên đây hai-bốn đều là tướng riêng, không đồng với vô minh và ái ở trước hễ là phàm phu đều có. Trước là chung ở đây là riêng. Nhưng trong quán hạnh chung riêng, đều đồng khoa đoạn với hoặc chướng: do vậy hoặc chướng quán hạnh, hoặc được dứt trừ thì thành quán hạnh, văn có hai:

Hai câu đầu là hỏi đáp tu hành ba quán, hai câu sau là hỏi đáp hai lần trừ chướng.

Ban đầu trong đó có hai:

– Chỉ bày hành tướng ba quán, sau nói về đơn kép tu tập, ban đầu trong văn có bốn: Phần đầu của ba phần đầu:

47. Thỉnh Phật phân biệt rộng thuận theo tánh giác:

Bấy giờ, Bồ-tát Oai Đức Tự Tại ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: giống như trên, kế lại trình bày từ cú, có hai:

  1. Chúc mừng trước.

Đại bi Thế Tôn! Xin rộng vì chúng con phân biệt thuận theo tánh giác như thế: Thọ lãnh y vị, trước dần dần chứng đắc.

Khiến các Bồ-tát tâm giác sáng rõ, nương viên âm của Phật, không nhờ tu tập mà được thiện lợi, thọ lãnh tâm vọng ở trước mà đốn chứng, tạm nghe rồi được thiện lợi, huống chi siêng năng thực hành.

2. Thỉnh văn sau có hai:

  1. Hỏi chỗ tu.
  2. Nói về việc phải làm, trong phần đầu có hai.

1. Lập lý.

48. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ:

Bạch Đức Thế Tôn! Ví như ngôi thành lớn, ngoài có bốn cửa, tùy theo người ở các nơi đến, chẳng dừng dọc đường, như từ phía Đông đến không thể vào cửa phía Tây.

Tất cả Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật và thành Bồ-đề chẳng phải một phương tiện, hợp pháp rất dễ hiểu. Nghĩa là trước nói quán hạnh lý thú rõ ràng, nay lại thưa hỏi, sợ liên quan không phân, nên trước lập lý thỉnh mời lại hợp cơ.

2. Chính thức thưa hỏi.

49. Thỉnh Phật giảng nói tất cả phương tiện thứ lớp:

Cúi mong Thế Tôn, giảng nói rộng cho chúng con nghe tất cả phương tiện thứ lớp: là hạnh sở tu.

Và người tu hành gồm có mấy thứ, người năng tu, hai là nói việc phải làm, khiến Bồ-tát trong hội này và chúng sinh đời mạt pháp, người cầu Đại thừa mau được khai ngộ, dạo chơi trong biển lớn vắng lặng của Như lai. Sau đây là ba lần tuyên bố mô phỏng theo trước. Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu, lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Oai Đức Tự Tại rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp mà thưa hỏi Như lai phương tiện như thế, nay ông lắng nghe! Ta sẽ nói cho. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Oai Đức Tự Tại vui mừng vâng lời chỉ dạy và các đại chúng im lặng lắng nghe.

Kế là chánh nói, trong Văn xuôi có bốn.

  1. Nêu gốc nêu số.
  2. Chỉ bày quan môn.
  3. Dẫn ví dụ làm rõ viên.

. So sánh nói lên sự tốt đẹp, đầu tiên có hai:

– Y theo xứng tánh để nêu gốc.

50. Diệu giác có ra Như lai mười phương:

Này người thiện nam! Diệu giác vô thượng trùm khắp mười phương, xuất ra Như lai, chư Phật mười phương đồng chứng đồng tu, nghĩa chứng như trước, ở đây là hỏi tu.

Đồng thể bình đẳng với tất cả pháp,đều cùng bình đẳng. Luận Trí Độ chép: Ở trong số chúng sinh gọi là Phật tánh, ở trong số không phải chúng sinh gọi là pháp tánh, trên đều là tánh sở xứng.

Đối với các hạnh tu hành thật không có hai, hạnh năng xứng tức là như môn hai quán không ở trước, căn trần sạch hết, tham ái đều vắng lặng, bi trí song hành, lìa tướng lìa tâm, thường không sở đắc. Tất cả Bồ-tát đều như thế, tùy việc tuy khác, ý này không hai. Hai là y theo hạnh tùy cơ để nêu số.

51. Có vô lượng phương tiện thuận theo:

Phương tiện thuận theo số ấy vô lượng, nhưng căn tánh của chúng sinh lợi độn khác nhau, phiền não dầy mỏng nặng nhẹ đều khác nhau, theo căn tánh kia nói giáo nhiều mối, nếu không như vậy thật khó hướng về. Nên kinh Lăng-nghiêm chép: Sở thuyết chẳng phải sở ưng, đối kia là chẳng nói, những người bệnh kia, thầy thuốc là nơi chốn, Như lai vì chúng sinh, tùy tâm ứng tượng nói.

52. Quán môn có ba:

Viên nhiếp chỗ về, theo tánh có khác, nên có ba thứ: căn tánh chúng sinh tuy có muôn vàn khác nhau, nhưng ba môn này thâu nhiếp hết tất cả, phải có ba nghĩa như ở dưới giải thích. Hai chính là chỉ bày môn quán, có ba:

  1. Quán tướng mất lắng thần.
  2. Quán khởi huyễn tiêu trần.
  3. Quán linh tâm dứt đối đãi.

Nhưng cương lãnh của thiền quán đã nói đầy đủ. Tu tập Bồ-đề chẳng phải đây không chứng, nhưng vì chỉ dạy tùy theo căn cơ khác xoay vần có các đường, tà chánh, phàm Thánh, đại tiểu, quyền thật, sự lý, tiệm đốn, có chung, không chung. Nay nương pháp này tấn tu, để thành quán hạnh viên đốn, tức sự lý định tuệ đều không trở ngại, cùng với tu tập Tam-muội chân như trong luận, thể tướng về đại thể thì đồng về chi tiết thì khác, khác chi tiết là kia không chia thành ba. Nay ban đầu bặt tướng, văn tự có ba.

– Nêu gốc.

53. Nói về hạnh mầu nhiệm:

Này người thiện nam! Nếu các Bồ-tát ngộ viên giác, thanh tịnh là phát tâm tu hành muốn thẳng đến quả Phật, trước phải hiểu rõ trong thân, làm thanh tịnh tánh viên giác lấy đó làm gốc, gốc tức là hiểu, nương vào hiểu mà tu mới là hạnh mầu nhiệm.

Nên dưới đây nêu gốc… đều đồng ở đây.

– Giải thích, có ba:

1. Khởi hạnh:

Để thanh tịnh tâm giác, y theo chỗ ngộ kia mà khởi hạnh. Phàm phu dùng vọng, Bồ-tát dùng giác, mê ngộ khác nhau.

Lấy yên tĩnh làm hạnh, tuy ngộ ngay nơi động là tĩnh, vì muốn đối trị thói quen loạn động, trước nay dùng cảnh yên tĩnh an tâm, từ từ tu hành mới được thành tựu. Không chấp pháp mà chấp tĩnh. Thành thật nói rằng: do tâm giác ban đầu năng lực thành lập còn nhỏ nhoi, lý nên giữ yên tĩnh khoan thai mới soi chiếu từ từ. Luận chép: nếu tu chỉ, trụ ở chỗ yên tĩnh ngồi thẳng chánh ý, không nương hơi thở, hình sắc, hư không, đất, nước, gió, lửa, thấy, nghe, hiểu, biết, cho đến nên biết duy tâm không có cảnh giới bên ngoài, chính là tâm này không có tự tướng…

Do lắng động các niệm, giác biết phiền động, do trước nhờ yên tĩnh lắng lòng, các niệm không khởi, tâm được yên tĩnh, thể chẳng phân biệt, nên thấy thức phân biệt, phiền lao nhiễu động. Khổ tự là biết thì không thể thấy biết, như mắt không tự thấy, nay do ý niệm sâu lắng, trí tuệ hiển rõ cho nên hiểu biết.

2. Công thành.

Trí tuệ yên tĩnh phát sinh, do ý nghĩa hiểu biết sâu lắng ở trước, tuệ tánh mở sáng, do tĩnh sinh tuệ nên gọi là tĩnh tuệ, so sánh kín đáo nay hiển rõ nên nói phát sinh. Thân tâm khách trần từ đây diệt hẳn, do tuệ phát sinh thân tâm đều hết, trần vọng không khởi, gọi là diệt hẳn, khách chẳng phải bổn tánh, bụi trần làm nhơ tự thể.

Lại có thể bên trong phát ra yên tĩnh nhẹ nhàng, do xa lìa căn cảnh trong tâm tự khép. Vắng lặng trong sạch nhẹ nhàng thông suốt, ồn ào dứt hẳn, loại bỏ thô xấu.

3.Cảm ứng.

Nhờ vắng lặng nên các Đức Như lai ở các thế giới trong mười phương hiển hiện trong tâm, thể tánh tròn sáng của chúng sinh không khác với Phật, chỉ vì vọng tình nên phàm Thánh dường như ngăn cách, nói theo lý thật thì ta biết thân tâm cũng hiện khắp trong mười phương, cho nên người xưa nói: hoàng hôn vắng lặng thân tâm rộng rãi vẫn không có vật, số cát sông hằng chư Phật vào thân ta, thân ta thường vào hằng sa Phật, nay chỉ nói về nhập quán làm chính, nên nói chư Phật hiển hiện trong đó.

Như bóng trong gương, như các gương vào trong một gương, các gương liền thành cảnh tượng, tâm chư Phật vào quán tâm hành nhân, như hình bóng. Nhưng tánh của gương bụi vốn sáng.

54. Tâm chúng sanh vắng lặng liền hiện Như lai:

Tự tâm chúng sinh cũng giống như vậy, tâm vắng lặng liền hiện Như lai, nên luận hỏi rằng: nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên, có thể hiện tất cả mọi nơi làm lợi ích chúng sinh. Vì sao thế gian phần nhiều không thể thấy? Đáp rằng: Chư Phật Như lai pháp thân bình đẳng khắp tất cả mọi nơi, không có cố ý nên nói tự nhiên chỉ nương vào tâm chúng sinh mà hiện. Tâm chúng sinh: giống như chiếc gương, nếu gương có bụi thì cảnh tượng không hiện, tâm chúng sinh cũng giống như thế, nếu có nhơ bẩn thì pháp thân cũng không hiện. Kinh nói tâm Phật, luận nói pháp thân, thân tâm là một, đều y theo gốc của năng hiện, nếu y theo sở hiện thì nên nói ứng hóa, đây là nói về tâm yên tĩnh, cho nên biết tâm Phật cũng giống như vậy, nên gọi là hiện, chẳng nói tâm Phật có sở hiện, đây chính là gương sáng thì ảnh tượng rõ ràng, trí rõ thì tâm tâm soi chiếu nhau, nên kinh Tịnh Danh chép: Như tự quán tướng thật của thân, quán Phật cũng giống như vậy. Ba là kết danh.

55. Phương tiện tu chỉ:

Phương tiện này, gọi là Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ, là tên khác của định, nghĩa là vắng lặng. Tức đối với cảnh nhiễm tịnh… tâm không vọng duyên, nếu theo sự giải thích của kinh Niết-bàn thì gọi là năng diệt năng điều tịch tĩnh viễn ly và năng thanh… Kết thúc nói: do nghĩa ấy nên gọi là tướng định. Hai khởi huyễn quán tiêu trần.

– Ban đầu nêu gốc.

Này người thiện nam! Nếu các Bồ-tát ngộ tịnh viên giác: giống như trên.

– Hai là chính giải thích, trong đó có năm:

1. Khởi hạnh.

56. Ba thứ: Thức căn, trần hòa hợp không có tự tánh:

Do tâm giác thanh tịnh mà biết được tâm tánh và căn trần đều là nhân. Huyễn hóa: y theo trước nêu giải thích thì tâm tánh là thức, thức và căn, trần cả ba thứ hòa hợp mà có, mỗi thứ không có tự tánh, chỉ là vô minh mê chân mà khởi, nên gọi là huyễn hóa, liền khởi các huyễn hóa để trừ huyễn ấy, chính nói về khởi hạnh. Các huyễn tức là huyễn trí. Huyễn: chính là vô minh căn bổn, là người năng huyễn; trừ huyễn: nương năng lực thỉ giác như huyễn, phần giác căn bản bất giác, ban đầu dứt tướng diệt, cuối cùng dứt tướng sinh, tức là trừ huyễn.

Biến hóa các huyễn mà mở bày các huyễn, tùy theo căn cơ ứng hóa nói pháp chỉ bày chúng sinh như huyễn. Nếu quán tâm để giải thích thì, trí huyễn biến khởi khác nhau, quán khắp tất cả tám muôn trần lao, mỗi mỗi xứng chân, thanh tịnh không che không chướng, tức là khai mở.

2. Công thành.

Do khởi huyễn, nên có thể bên trong phát ra đại bi, căn trần đã tiêu, tự tha không hai, cho nên bên trong phát đại bi đồng thể.

Nhẹ nhàng: Do bi từ định khởi, chẳng phải ái kiến kia, nhẹ nhàng khoan khoái.

3. Kết thúc chung.

Tất cả Bồ-tát khởi hạnh từ đây, từ từ thêm lớn, nói các Bồ-tát từ môn quán này mới khởi được bi trí cho đến quả Phật.

4. Phân biệt quá lạm.

Quán huyễn kia: chẳng đồng với huyễn, nên phủi bỏ pháp huyễn, phân biệt thức khác với trí, năng, sở, hơn, kém khác nhau.

Chẳng đồng huyễn quán đều là huyễn, phủi bỏ trí huyễn. tướng huyễn lìa hẳn.

5. Tổng kết.

Các Bồ-tát này hạnh nhiệm mầu đã viên mãn, là kết thúc thành tựu hạnh xứng chân chẳng huyễn, như đất nuôi dưỡng mầm như các thứ, ngũ cốc nương đất nuôi dưỡng mầm mống khi thu hoạch thì mầm, đất đều bỏ. Hạt giống dụ cho tâm giác, đất dụ cho pháp huyễn, mầm dụ cho trí huyễn, nghĩa là ngộ viên giác thanh tịnh, nương pháp huyễn mà khởi trí huyễn, từ trí huyễn mà quên tâm vào giác, nhập giác thì hai thứ trước đều trừ bỏ.

– Kết danh:

57. Tam-ma-bát-đề, Hán dịch là Quán:

Phương tiện này: gọi là Tam-ma-bát-đề, cũng gọi Tam-ma-bátđể, Hán dịch là Đẳng chí, trong đẳng trì có khả năng đến địa vị cao quý. Lại “đẳng” nghĩa là ngang bằng… lìa sự chìm đắm. Chí nghĩa là đến, đến thắng định, nên trước có Tam-muội như huyễn. Ba quán linh tâm dứt đối đãi, văn có ba:

1. Nêu gốc.

Này người thiện nam! Nếu các Bồ-tát ngộ viên giác thanh tịnh: như trên. Trong chính giải thích có hai:

– Khởi hạnh.

Do tâm giác thanh tịnh: thuộc về sở y.

Không chấp lấy huyễn hóa: lìa quán thứ hai, và các tướng tịnh: lìa quán thứ nhất.

Biết rõ thân tâm đều là quái ngại, có thân có tâm, thảy đều là vọng, biết rõ là năng, thân tâm là sở, nương sở khởi năng cho nên cả hai đều ngại. Sau đây là nói sở dụng, trong đó lại có ba, đó là pháp dụ và hợp.

Không hiểu biết: tức là trên biết rõ thân tâm. Nghĩa là thân xúc chạm là giác, tâm duyên gọi là tri, do phân biệt này nên chướng ngại chánh tri kiến.

58. Nói về hình tướng của linh tâm:

Nói là hiển bày thể của linh diệu, nhưng trên linh tâm này không có đỉnh, dưới không có đáy, bên cạnh không bờ mé, chặng giữa không

có chỗ, đã trong vô thường thì đâu có Đông, Tây, Trên, Dưới? Muốn nói vắng lặng thì không giống như hư không, muốn nói tướng dụng thì không từ duyên khởi, muốn nói thấy biết thì khác với phân biệt, muốn nói cố chấp ngu si thì khác với gỗ đá, muốn nói giác kia thì khác với mới tỉnh ngộ, muốn nói ánh sáng thì khác với mặt trăng, mặt trời. Cho nên các kinh giáo đối với vắng lặng không vô thì quở trách là tà tiểu. Đối với sự hiểu biết sáng rõ cùng diệt mất nhau cùng tồn tại lẫn nhau, đều có ý sâu sắc, nay đây muốn nhập quán môn, sợ biết chữ dẫn ý phân biệt, vì cho nên chỉ nói là sáng.

Không nương các trở ngại, các ngại là thân, tâm, năng, sở; không nương là thẳng làm; linh minh được hẳn, rốt ráo thường nhiên; vượt quá: khác hẳn đối đãi. Ngại: trước quán huyễn liên quan đến phiền não. Không ngại cảnh: trước giữa lấy yên tĩnh, đồng với Niết-bàn, thọ dụng:

thuộc duyên riêng của mình.

Thế giới: làng nước cùng ở chung. Và thân: Hình chất rõ ràng. Tâm: lại có thấy nghe. Tồn tại lẫn nhau: chẳng khác tầm thường.

Cõi trần không lìa chỗ cũ, đây là do chấp nhận không có tự thể, đồng với tha nay không sinh tình, đâu bị vướng mắc linh chiếu. Như trong khí cụ gõ tiếng phát ra ngoài, chữ hoàng không chắc chắn, sợ ngườì dịch lầm, có ba nhà dịch.

59. Nói về chiết tự âm huấn:

– Y chữ hoàng âm hoành, theo thiết vận huấn và huấn lạc không phải là tiếng trong khí cụ. Ở đây ngu không xem rõ, lấy thế tiếng, không lấy chữ huấn, đây lẽ ra là tướng âm thanh trong vàng, đá… nay lại hiện nghe loại tiếng của chuông khánh, tiếng chuông kia như vậy. Cho nên biết chuông là tướng trạng của loại tiếng này, người dịch nhuận văn hơi vụng, nên nói như nay tiếng chuông phát ra ngoài. Hai là chữ hoàng âm đồng, tức là cái chuông lớn. Là một số trong các khí cụ, nên nói như chuông trong khí cụ, y theo đây thì thuận theo văn kinh này, nhuận văn không lỗi. Nhưng ghi lại hoặc viết chép, sai lầm dùng hoàng làm chữ hoàng như thế. Ba là đều hoàng âm hoàng, tức là loại sênh hoàng, vì các dụng cụ về hoàng chẳng phải một, không hạn cuộc nói hoàng trong sênh, chính nói hoàng trong đồ dùng, cũng như thuộc loại ống sáo, đều có thể phát ra tiếng ở bên ngoài, y theo theo đây thì người dịch không giỏi về văn tự thanh vận của Trung Quốc, nên chữ và âm đều lầm như vậy. Sau chính làc giải thích ví dụ, ba thứ trước tuy khác hợp pháp đều thông, đều lấy dụng cụ thí dụ cho thế giới thân tâm, tiếng dụ cho quán trí linh minh, nghĩa là tiếng từ dụng cụ phát ra, dụng cụ không thể hạn chế, nên tiếng nghe xa bốn phương, dụng cụ hạn cuộc bổn xứ. Đem ví dụ quán trí y theo thân tâm tu đắc, thân tâm không thể hạn cuộc, quán trí rộng rãi như thế không bờ mé, thân tâm lìa chỗ cũ, nhưng thí dụ tương đương với cái gì, đâu phải dụ cho vật sở y. Nói thành thực: như tiếng chuông lớn của lầu dung tinh bị ngại, cái chày đánh một tiếng thì âm thanh vang cả khu vực lớn, tự thể gồm tha không thể trở ngại, đâu vì lầu hạn cuộc tướng chuông, khiến tiếng vang không thông? hình ngại tiếng sáo khiến cho âm thanh không thấu suốt, xem thế văn này chưa tránh khỏi hoài nghi. Lại không thể quyết thông, chần chừ xa vời vợi mà thôi. Ý cũng đồng với trước, nhưng pháp hợp rất đủ, nghĩa là thêm lầu dụ thế giới, còn lại y theo trên rất dễ hiểu.

60. Phiền não và Niết-bàn chẳng chướng ngại nhau:

Phiền não, Niết-bàn (như dụng cụ) chẳng chướng ngại nhau, như chuông. Hai là công thành.

Liền ở trong đó phát ra sự vắng lặng, không chấp huyễn hóa, huyễn hóa liền vắng lặng, không chấp tướng yên tĩnh, tướng yên tĩnh liền mất, chẳng phải cố làm mất mà làm mất nó được, lại chỉ là chân tâm thật lý chẳng đối với tĩnh huyễn. Nên kinh Lăng-già chép: vắng lặng gọi là nhất tâm, đây chẳng phải sự vắng lặng của dứt tiếng động, sinh rồi mà diệt, nên nói trong phát ra sự nhẹ nhàng (giống với ở trên) Diệu giác thuận theo cảnh giới vắng lặng, khi quán thì dụng tâm đồng với Phật cho nên thuận theo sự vắng lặng của Diệu giác. Thân tâm Tự tha không thể bằng, chỉ riêng tự biết rõ các việc khác, việc mà người không thấy, nên tha không bằng, lượng tâm thức của mình cũng không thể tạo ra. Như đom đóm thiêu đốt núi Tu-di, chắc chắn phải lìa tình mới khế hợp, nên tự mình không bằng. Lại, nương thể khởi trí là tự, y theo trần phát thức gọi là tha, không thể thức thức trí trí, nên đều không bằng.

Chúng sinh, tuổi thọ đều là ý tưởng thô phù, tuổi thọ của tất cả chúng sinh, chỉ vì nhậm trì ý tưởng thô phù, vốn không thật thể, nên kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả chúng sinh chỉ do tưởng giữ gìn, như mây giữa hư không là không, tuổi thọ của chúng sinh là ý tưởng thô phù của chân. Rõ chân vắng lặng, liền biết chúng sinh chẳng bao giờ là nhân.

61. Kết thúc đặt tên:

– Kết danh.

Phương tiện này gọi là Thiền-na, Hán dịch là Tĩnh lự, tức là suy nghĩ mà yên tĩnh, tức là yên tĩnh mà suy nghĩ, nên chẳng tán động, tức là nghĩa đang định, tức là yên tĩnh mà suy nghĩ cho nên chẳng phải vô ký, tức là nghĩa đương tuệ, nên bốn thứ tĩnh, lự, định, tuệ bình đẳng.

62. Hỏi đáp về định tuệ: Đã là định tuệ bình đẳng, vì sao khoa nói linh tâm dứt bặt đối đãi?

Đáp: Chính vì không mắc kẹt hai thứ này thẳng tạo nguồn tâm, nên định tuệ… là giải thích tướng ý nghĩa của dứt bặt đối đãi trong văn là rất sáng, chắc chắn không nghi. Nhưng giải thích trong tướng chỉ tu hành thì vọng tình dụng tâm, nên hiển rõ, cả hai đều mất, dứt bặt đối đãi, sau chỉ y theo nghĩa để kết thúc, cho nên lấy cả hai là đều dung thông, đều dung thông dứt bặt đối đãi, song là cả hai đều mất, đều là trung đạo nên giải thích tướng và kết danh, rõ ba quán văn ban đầu đều nêu ngộ là nhờ nghe kinh trước. Nghĩa là ban đầu yên tĩnh quán tu giải trong Văn-thù. Kế lại huyễn quán tu Phổ Nhãn hoàn toàn giải của nửa trước Phổ Nhãn, sau linh tâm quán tu nửa sau của Phổ Nhãn giải toàn chương của Kim cương tạng, phối hợp với kinh trước rất rõ ràng dễ thấy, nhưng ba môn này và kinh Niết-bàn ba tướng về đại thể giống nhau nhưng chi tiết khác nhau, cùng ba quán của Thiên Thai thì nghĩa lý đồng mà ý thú khác. Về đồng:

  1. Mất tướng tức quán không.
  2. Khởi huyễn tức quán giả.
  3. Dứt đối đãi tức Trung quán.

Về khác thì ở đây nói hành nhân phương tiện dụng tâm, kia thì suy cùng các pháp tánh tướng, ở đây thường y theo tâm thành hạnh, nên không lập cảnh sở quán, kia phần nhiều y theo nghĩa sinh hiểu, cho nên đối với ba đế sở quán.

– Dẫn ví dụ làm rõ viên.

63. Ba pháp môn này đều hướng về Viên giác:

Này người thiện nam! Ba pháp môn này đều là viên giác, gần gũi thuận theo Như lai trong mười phương, do đây thành Phật, Bồ-tát mười phương các thứ phương tiện, tất cả đồng khác đều nương ba thứ sự nghiệp như thế. Ba môn này đều nương ngộ viên giác thanh tịnh mà khởi quán hạnh, quán hạnh cũng đều hướng về nhập vào viên giác, trước sau không lìa. Nói gần gũi thuận theo, Phật và Bồ-tát đồng chứng đồng tu, tùy căn cơ, tùy việc làm, hành tướng đều khác nhau. Hoặc nhiều người đồng tu một môn, hoặc một người tu đủ nhiều hạnh, hoặc ba, năm, hoặc trăm ngàn, đồng và khác tùy loại khó có tiêu chuẩn, nhưng phải đều nương ba nghiệp này. Trong ba nghiệp, hoặc nương đủ ba, hoặc một, hoặc hai, đồng thời trước sau đơn kép nương tựa lẫn nhau, đủ như hai mươi lăm luân đã nói, đây là sự nghiệp của người tu hành.

Nếu được viên chứng tức là viên giác của ta, thú nhập tuy từ một môn công thành thì cả ba đều viên chứng. Nếu tu riêng một hạnh chỉ gọi gần gũi, ba việc viên thông gọi là chứng viên giác.

Bốn là so sánh hiển rõ thù thắng.

64. Công đức tu tập pháp môn Viên giác:

Này người thiện nam! Nếu có người tu hành Thánh đạo, giáo hóa thành tựu trăm ngàn muôn ức vị A-la-hán, Bích-chi-phật, không bằng có người nghe, pháp môn viên giác vô ngại này trong một sát-na thuận theo tu tập, ban đầu nêu thấp kém, sau không bằng ở dưới là nói về cao quý. Lại như khuyên được một người, hai người giữ năm giới, mười giới, y theo theo các giáo nói: phước đã rất nhiều, huống chi giúp ức người như thế thành tựu quả Bích-chi, La-hán, đủ sáu thần thông, tám giải thoát, thoát hẳn mười triền trong ba cõi, nhưng không bằng có người tam thời tu tập Viên giác trong thời gian rất ngắn chỉ một sát-na, huống chi viên tu diệu quán trong thời gian lâu dài? Thành thật nói: dấu chân trâu đâu thể so sánh với biển lớn? Nghe văn tuệ, thuận theo tư tuệ, tu tập tu tuệ, trong kệ chỉ có ba, thiếu sự so sánh, các điều khác hoàn toàn đồng với Văn xuôi.

65. Đức Phật nói kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên Ngài liền nói kệ rằng:

Oai đức ông nên biết

Tâm Đại giác vô thượng.

Bổn tế không hai tướng

Tùy theo ở các phương tiện.

Số kia tức vô lượng

Như lai đều chỉ bày.

Tất cả gồm có ba thứ

Xa-ma-tha vắng lặng.

Như gương soi hình ảnh

Tam-ma-đề như huyễn.

Như mầm lần lần lớn

Thiền-na chỉ vắng lặng.

Như chuông trong vật kia

Ba pháp môn mầu nhiệm.

Đều thuận theo Viên giác

Các Như lai mười phương.

Và các Đại Bồ-tát

Nhờ đây được thành đạo.

Vì ba việc viên chứng

Gọi Niết-bàn rốt ráo.

Trên đây ba quán xong.

Dưới đây là thứ hai nói về đơn kép tu tập, văn có bốn: Trước là phần đầu trong ba phần.

66. Bồ-tát Biện Âm đảng lễ Phật:

Bấy giờ, Bồ-tát Biện Âm ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: giống như trên. Sau trình bày từ cú, trong đó có hai:

Trước là chúc mừng.

Đại bi Thế Tôn! Pháp môn như thế thật là ít có, rất dễ hiểu.

Hai là thỉnh, sau có hai.

1. Hỏi pháp tu.

67. Thưa hỏi pháp tu tập:

Bạch Đức Thế Tôn! Các phương tiện này: chỉ cho ba quán ở trước.

Tất cả Bồ-tát đối với pháp môn Viên giác, là chỉ cho bản hạnh sở y ở trước, có bao nhiêu pháp tu tập, trước nói ba quán, tuy hành tướng rõ ràng, nhưng chưa xét pháp tu của các Bồ-tát, lại là một người đủ ba, là ba người đều có một, là trước sau, là đồng thời, là y theo thứ lớp, là vượt thứ lớp?

2. Nói về việc đã làm.

Xin vì đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp, chỉ bày phương tiện khiến ngộ thật tướng, rất dễ hiểu, dưới đây là ba lần tuyên bố mô phỏng theo trước.

68. Đức Phật hứa nói:

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Biện Âm rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì các đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp thưa hỏi Như lai pháp tu tập như thế, nay ông lắng nghe ta sẽ nói cho. Lúc đó, Bồ-tát Biện Âm vui mừng vâng lời cùng các đại chúng im lặng lắng nghe. Chính thức nói, trong Văn xuôi có bốn:

  1. Nêu ý nêu số.
  2. Quán mành lưới đen xen.
  3. Kết thành chánh nhân.
  4. Chỉ bày chung về tu tập.

– Đây là phần đầu:

69. Trong pháp Viên giác không có tu tập và người tu tập:

Này người thiện nam! Viên giác thanh tịnh của tất cả Như lai, vốn không có tu tập và người tu tập, nói về gốc sở y.

Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, nương vào huyễn lực chưa giác mà tu tập, chính là nói đại ý các luân, tu mà vô tu, nghĩa đồng với đoạn trước.

Lúc bấy giờ, liền có hai mươi lăm định luân thanh tịnh, luân: là bẻ gãy nghiền nát, có khả năng bẽ gãy hoặc chướng, làm cho chánh trí xoay chuyển, nên gọi là luân.

– Hai quán mành lưới đan xen, trong đó có ba: a. Có ba luân đơn tu ba quán.

  1. Có hai mươi mốt luân, xen nhau ba quán.
  2. Một luân viên tu ba quán.

Xét sớ đối với hai mươi lăm quán này y theo dụ đều đặt một tên, nay sử dụng hoàn toàn, trong phần đầu có ba:

– Quán lắng đục, dứt dụng.

70. Nói về hai mươi lăm luân:

Nếu các Bồ-tát, hai mươi lăm luân này đều có nêu ra kết thúc riêng, cũng nên nêu nói từng luân ngộ viên giác thanh tịnh để làm sở y khởi hạnh, vì trước có. sợ văn kinh rườm rà, nên lược bỏ không chép. Lại, hành tướng ba quán, đầu này trước đã giải thích đủ, ở đây chia thành số hai mươi lăm, nên lược nói để hiển bày tướng đơn kép. Vì thế ba quán đều nêu chỉ nói, kết thúc nói đơn, ý hiển rõ không gồm hai thứ khác. Khả năng chưa bao gồm, chẳng coi thường các hạnh khác, chỉ lấy cực tĩnh (yên tĩnh cùng tột), không gồm việc khác.

Nhờ năng lực yên tĩnh, dứt hẳn phiền não, rốt ráo thành tựu. Do năng lực của tâm yên tĩnh nên biết thân tâm là không, thoáng nghĩ còn không, thì phiền não đâu có chỗ y cứ? Phiền não không khởi tức là tâm giác, cho nên nói rốt ráo thành tựu.

Chưa rời khởi chỗ ngồi liền nhập vào Niết-bàn: không rời khỏi chỗ ngồi pháp không, liền vào Niết-bàn vắng lặng.

Bồ-tát này gọi là đơn tu Xa-ma-tha, kết thúc gọi cả hai bao Đinh tứ đao quán.

71. Bồ-tát đơn tu Tam-ma-bát-đề:

Nếu các Bồ-tát chỉ quán như huyễn là do năng lực Phật, thế giới biến hóa tác dụng các thứ, thực hành đầy đủ hạnh nhiệm mầu thanh tịnh của Bồ-tát, đối với Đà-la-ni không mất ý niệm vắng lặng, và các tĩnh tuệ. Bồ-tát này gọi là đơn tu Tam-ma-bát-đề. Bao đinh là người làm nghề giết súc vật thời Tấn, mười chín năm dùng một cái dao mổ trâu mũi nhọn dao không mòn, dụ cho Bồ-tát lợi ích chúng sinh tu ứng muôn hạnh, nhân duyên vào đời, trí tự không tổn thương, nghĩa khác như trước đã giải thích.

– Quán trình âm xuất ngại: Nghĩa là chất lượng đồ dùng âm thanh dung thông, hễ gõ thì có tiếng vang.

Nếu các Bồ-tát chỉ diệt các huyễn, không giữ tác dụng, dùng các cảnh huyễn không ranh giới khó có thể nghiên cứu cùng tận, nên nói thẳng là diệt, diệt là, dứt ý nghĩ. Tác dụng, làm việc lại ngại thiền tịch, nên nói không thủ, kinh Nhập Phật Cảnh Giới chép: các pháp giống như huyễn, như huyễn không thật có, lìa các pháp huyễn nên kính lễ Vô sở quán.

Riêng dứt phiền não: riêng là không nhờ các hạnh, chính là nghĩa dứt bặt đối đãi.

Phiền não dứt hết liền chứng thật tướng, chỉ tương ưng với tâm linh, phiền não tự không thật có, không thật có chỗ tức là chứng.

72. Bồ-tát đơn tu thiền na:

Bồ-tát này gọi là đơn tu Thiền-na, kết thúc gọi tên.

Sau đan xen ba quán, mỗi quán dùng một quán làm đầu, gồm hai quán còn lại, đan xen thành bảy, ba bảy nên có hai mươi mốt luân, gồm trước ba đơn và sau một viên, đủ hai mươi lăm nhưng mỗi quán làm đầu, trong bảy đoạn đều có bốn tiết. Ban đầu hai đoạn, hai hai cộng hợp. kế lại hai đoạn, ba hành thứ lớp, kế có một đoạn trước một sau bằng. Sau có hai đoạn, trước bằng sau một. Nay mỗi quán là trong phần đầu, nhưng khoa dài bảy đoạn, lại duyên mỗi luân để nói về trước sau, mỗi mỗi phải nhắc lại tên quán, nay sợ văn rườm rà nên, mỗi quán chỉ nêu một chữ để nói thứ lớp của nó, nghĩa là trước là tĩnh, kế là huyễn, sau là tịch, Tịch và tĩnh khác nhau, tĩnh là cảnh của Nhị thừa, tịch là cảnh của Phật, lại tĩnh là thiền định, tịch là Niết-bàn, trong văn có ba:

  1. Bảy luân đầu thì tĩnh quán làm đầu, gồm cả huyễn tịch.
  2. Bảy luân kế thì huyễn quán làm đầu, gồm cả tĩnh tịch3. Bảy luân sau thì tịch quán làm đầu, gồm cả tĩnh huyễn. Bảy quán trong phần đầu:
  3. Quán vận chu kiêm tế, Bồ-tát tu định để xuất trần là vận chu, phát tuệ để giáo hóa chúng sinh là kiêm tế.

Nếu các Bồ-tát trước chọn chí tĩnh: nêu tĩnh quán làm đầu, dùng tâm tĩnh tuệ, từ tĩnh theo dấu vết mà khởi.

Soi chiếu các huyễn, liền ở trong đó khởi hạnh Bồ-tát, gồm tu quán huyễn, nếu không tĩnh tuệ thì tự nơi huyễn hóa, đâu thể chiếu huyễn.

Bồ-tát này tên là trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề. Kết thúc gọi tên.

73. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề:

2. Quán Trạm hải trừng không: biểu sâu thì sóng không lay động, trước tĩnh quán để trở lại dòng, trừng không (hư không trong veo) thì tánh nước trong sáng.

Sau tịch quán để hiển rõ tánh.

74. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, sau tu thiền-ma.

Nếu các Bồ-tát nhờ tĩnh tuệ nên chứng đến tĩnh tánh, tịch là theo đuổi yên tĩnh gồm cả tu tịch, liền dứt phiền não thoát hẳn sinh tử.

3. Công dụng hai quán là dứt bỏ phiền não là nhân mất, thoát khỏi sinh tử là quả táng (nhân mất quả tan).

Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na, là kết thúc gọi tên.

4. Thủ la tam mục quán: ba quán đều tu, như ba mắt trên mặt trời Ma-hê-thủ-la.

75. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bát-đề sau tu Thiền-na:

Nếu các Bồ-tát dùng tịch tĩnh tuệ tĩnh, lại hiện năng lực huyễn các thứ biến hóa, độ các chúng sinh, sau dứt phiền não mà nhập vào vắng lặng (sau vắng lặng). Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na, kết thúc tên gọi.

5. Quán Tam điểm tề tu: ba điểm là chữ y của tiếng Phạm. Thành thật ý nói: một người tu cả ba quán, tức gọi là đều, chẳng nói cùng lúc.

76. Bồ-tát trước Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bát-đề:

Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực, dứt bỏ phiền não, sau khởi diệu hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, độ các chúng sinh là huyễn, phiền não đã hết, ái kiến đã không, nên chỗ khởi hạnh không chỗ nào không tịnh diệu, có thể cởi mở sự trói buộc ấy.

77. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, tu Tam-ma-bát-đề thiền na:

Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề. Kết thúc gọi năm phẩm chữ đơn song quán, đơn tĩnh quán ở trên như một cái miệng như trên. Sau nói cả hai tịch và huyễn, như hai cái miệng ở dưới, nên nói là đơn song. Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực, tâm dứt phiền não, lại độ chúng sinh, tạo ra thế giới, đều gồm huyễn tịch, câu đầu là tịch, hai câu sau là huyễn, trong dứt phiền não, ngoài độ chúng sinh.

Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, tu cả Tam-ma-bát-đề, Thiềnna, kết thúc gọi tên.

6. Quán Độc túc song đầu: trong hình vẽ của Bạch Trạch có Sơn tinh dầu như cái trống có hai mặt, trước sau đều thấy, đây dụ cho tĩnh huyễn song chiếu, hai lợi ích đều chuyên chở giống như hai đầu. Đơn tịch quán giống như độc túc (một chân).

78. Tổng kết:

Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực, giúp phát khởi biến hóa, nêu cả tĩnh và huyễn, dùng chí tĩnh lực giúp sức của sự đốc thúc phát sinh biến hóa, để độ chúng sinh. Sau dứt bỏ phiền não, gồm vắng lặng, đủ hai lợi ích trước nên vào trung khác với trước. Trước thì yên tĩnh độc là đầu, sau mới gồm tịch huyễn, ở đây thì tĩnh và huyễn đều là đầu, sau mới đơn kiêm với tịch. Bồ-tát này gọi là tu cả Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na. Kết thúc gọi tên.

7. Quán Quả lạc hoa phu: tức là dùng cây tĩnh định, kết quả trung đạo vắng lặng. Sau nở hoa là lại dùng huyễn quán vào cõi hữu tình, độ các chúng sinh, đều giúp được quả Niết-bàn.

Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực giúp cho vắng lặng (đều diệt) sau khởi tác dụng biến hóa thế giới (gồm huyễn). Bồ-tát này gọi là tu cả Xa-ma-tha, Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề. Kế là bảy luân mỗi luân nêu huyễn làm đầu, kế bao gồm hai thứ kia: Một là quán Tiên vũ hậu văn: Sau khi vua Vũ phạt Trụ, đúc các mâu kích làm nông khí (dụng cụ nhà nông). Dụ cho Bồ-tát này trước biến hóa các thứ rồi sau vào tĩnh quán, nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, thuận theo các thứ (nêu huyễn) mà nhận lấy chí tĩnh (rất yên tĩnh) thì Bồ-tát này gọi trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha; Hai là quán công thành thoái chức, Bồ-tát phát tuệ lợi vật tức là công thành, thực tập vắng lặng trong tu gọi là thối chức.

79. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na:

Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa các cảnh giới (huyễn) mà nhận lấy vắng lặng thì Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na; Ba là quán huyễn sư giải thuật.

Trước khởi biến hóa làm pháp thuật, sau trở về thể yên tĩnh vắng lặng cho nên hiểu phép thuật.

80. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na:

Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa mà làm Phật (huyễn) sự an trú vắng lặng (tĩnh) mà dứt phiền não. Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-mabát-đề, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na. Bốn là thần long ẩn hải quán: Khởi huyễn hóa sinh như rồng thần tuôn mây mưa, trở về thể, nhập yên tĩnh, như ẩn ở biển.

81. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu thiền sau tu Xa-matha:

Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, vô ngại tác dụng, dứt các phiền não, an trú chí tĩnh. Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha.

Quán năm là Long Thọ thông chân: trước khởi huyễn, sau trở về yên tĩnh vắng lặng, như ngài Long Thọ ban đầu làm huyễn thuật, rộng giáo hóa người tà, sau tu tập chân thừa tự bước lên quả Thánh.

Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, tác dụng phương tiện cho đến yên tĩnh vắng lặng, cả hai đều thuận theo đều kiêm tĩnh tịch.

82. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu cả Xa-ma-tha Thiềnna:

Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, tu cả Xa-ma-tha, Thiền-na.

Quán sáu là Thương-na thị tướng: Thương-na-hòa-tu tức là thầy của Ưu-ba-cúc-đa, trước dùng thần lực thị hiện tướng hàng phục đệ tử có tâm kiêu mạn là Cúc-đa, sau đó nhập định quy tịch

83. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na:

Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa khởi các công dụng giúp cho chí tĩnh, sau dứt bỏ phiền não (gồm vắng lặng) Bồ-tát này gọi là tu cả Tam-ma-bát-đề, Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na.

Bảy là quán Đại thông yến mặc: Đại thông Như lai trước hóa dụng lợi ích chúng sinh, sau trở về vắng lặng.

Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, giúp cho vắng lặng, sau trú thanh tịnh, vô tác tịnh lự, Bồ-tát này gọi là tu cả Tam-ma-bát-đề, Thiềnna, sau tu Xa-ma-tha.

Bảy Luân sau, mỗi luân nêu ra tịch làm đầu.

Kế là gồm hai thứ còn lại:

1. Quán Bảo minh không hải: kinh Phật Đảnh chép: đồng vào biển không bảo minh của Như lai, ở đây linh tâm quán, tức là bổn giác minh như bảo minh. Sau tĩnh quán như biển không.

84. Bồ-tát trước tu thiền, sau tu Xa-ma-tha:

Nếu các Bồ-tát dùng sức vắng lặng (tịch) mà khởi chí tĩnh, trụ trong thanh tịnh (gồm tĩnh) thì Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha.

85. Trước tu thiền sau tu Tam-ma-bát-đề:

2. Quán Hư không diệu minh: Linh tâm thể như hư không, khởi hóa tức diệu dụng, nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng mà khởi tác dụng thì đối với tất cả cảnh tịch dụng thuận theo, Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề.

3. Quán Thuấn-nhã trình thiền: Thuấn-nhã là thần hư không, gặp ánh sáng của mặt trời thì tạm thời hiện như đây trước vắng lặng kế lại yên tĩnh, sau huyễn.

86. Bồ-tát trước tu thiền giữa tu Xa-ma-tha sau tu Tam-ma-bát-đề:

Nếu các Bồ-tát dùng sức vắng lặng, các thứ tự tánh, an trụ trong tĩnh lự mà khởi biến hóa thì Bồ-tát này, gọi là trước tu Thiền-na, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề.

4. Quán Ẩm quang quy định: Đại Ca-diếp trước chứng thể, kế khởi thần thông, sau mới trở về định.

87. Trước tu thiền giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha:

Nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng, tự tánh vô tác (vắng lặng) khởi các tác dụng cảnh giới thanh tịnh (huyễn) trở về tĩnh lự (yên tĩnh) thì Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha.

5.  Đa Bảo trình thông quán: Phật Đa Bảo trước thành đạo chứng như thể (thể như) sau ở trong tháp phát khởi Pháp Hoa, như tĩnh huyễn vô ngại.

88. Trước tu thiền tu cả Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề:

Nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng, các thứ thanh tịnh mà trụ tĩnh lự, khởi các biến hóa, gồm cả tĩnh huyễn. Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, tu cả Xa-ma-tha Tam-ma-bát-đề.

6. Quán Hạ phương đằng hóa: tức là sáu muôn số cát sông hằng Bồ-tát trong kinh Pháp Hoa từ phương dưới hiện.

89. Tu cả thiền na Xa-ma-tha sau tu Tam-ma-bát-đề:

Nếu các Bồ-tát dùng sức vắng lặng giúp cho chí tĩnh mà khởi biến hóa thì Bồ-tát này gọi là tu cả Thiền-na, Xa-ma-tha, sau tu Tam-mabát-đề.

7. Đế tâm hàm biến quán: Báu này bao gồm các vật tượng, đối tức

là biến ứng, ứng trở về không. Như quán Linh tâm thành thì bao gồm đức dụng, ứng duyên khởi huyễn mà lại yên tĩnh.

90. Tu cả thiền na Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha:

Nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng, giúp cho biến hóa mà khởi chí tĩnh trong sáng cảnh tuệ, Bồ-tát này gọi là tu cả Thiền-na, Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha, sau có một luân viên tu ba quán, đây gọi là như ý viên tu ba quán. Bảo châu như ý chiếu khắp bốn phương, đại trí đốn giác ba quán đều tu.

91. Nói về viên hợp:

Nếu các Bồ-tát dùng tuệ Viên giác, xứng viên giác mà phát tuệ. Viên hợp tất cả, viên dung hòa hợp tất cả các thứ sự, lý, tánh, tướng, chân, vọng, sắc, không, nếu thể tương ưng, ấy là viên hợp. Nghĩa là do viên giác hợp lý, lý tức chẳng phải lý, cho nên hoàn toàn tức sự, lại do hợp giác với sự, sự tức chẳng phải sự, cho nên hoàn toàn tức lý, các tánh tướng… đều đồng với thuyết này. Nghĩa đế Trung đạo bấy giờ hiện ra? Chẳng phải lý chẳng phải sự, cả hai ở trong ngăn hiển, tức lý tức sự, cả hai chiếu rõ trong hiển, ngăn chiếu đồng thời, ấy là viên giác.

Đối với các tánh, nương đây tu tĩnh quán.

Tướng nương đây tu huyễn quán.

Không lìa tánh giác, nương đây tu tịch quán.

Khoa chép: Ba quán viên tu. Lại do viên giác hợp với tất cả nên từ thể khởi dụng, tánh tướng không khác tánh giác. Chính là gom dụng về thể. Thể dụng không ngại tịch chiếu đồng thời, chính là tròn đầy Diệu giác vô thượng. Bồ-tát này gọi là viên tu ba thứ lớp tánh thuận theo thanh tịnh. Ba là kết thành chánh nhân.

92. Tất cả Bồ-tát nên tu hành hai mươi lăm huân:

Này người thiện nam! Đó gọi là hai mươi lăm luân của Bồ-tát, tất cả Bồ-tát tu hành như thế, có thể thấy, bốn là chỉ chung về tu tập: Nếu các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, nương theo luân này, chỉ bày tu tập thì khi tu hai mươi lăm luân này, ở trong các việc oai nghi phép tắc và phương tiện dụng tâm ba nghiệp sự lý, đầy đủ ý của sự tu tập.

Nên giữ gìn phạm hạnh (giới), vắng lặng (định), suy nghĩ (tuệ), đủ giới, định, tuệ, tâm ở môn quán, tu hành như thế chắc chắn thành Phật.

Cầu xin sám hối trải qua hai mươi mốt ngày, nghiệp lụy nhiều đời sợ chướng ngại tâm tịnh, sám hối cầu xin phát lộ tội trước, nếu số ngày ít, suy nghĩ không tinh thành, trong hai mươi mốt ngày đã rõ ràng cầu nguyện, nghĩa của sám hối ở dưới đạo tràng thêm phần thực hành trong đó sẽ giải thích. Trong hai mươi lăm luân, mỗi luân đều có nêu ký hiệu, viết danh tự văn cú hai mươi lăm luân này, đặt vào trong đạo tràng, lễ niệm chí thành tinh ròng một hạnh. Dốc lòng cầu xin tiện tay kết lấy, nếu tự ưa thích một môn thì tùy theo sự chứa nhóm. Nếu hơn kém khó phân không thể tự quyết định thì nhờ năng lực bậc Thánh bốc thăm xem pháp nào nên tu, phải tiện tay bốc lấy không nên lựa chọn.

Y vào kết thúc chỉ bày liền biết đốn tiệm, nương vào thăm bắt được mà kết luận, mở ra xem đốn tiệm tự biết, không tham pháp quán khác.

Một niệm nghi ngờ hối hận thì liền không thành tựu, lòng hoài nghi ngăn cản thì mất công đức trước, dẫu cho tu lại cũng hơi khó thành tựu. Y theo gốc mà nghiệm lý, quyết ở tại đây. Chẳng phải lơ là, coi thường sự tướng. Trong kệ cũng có bốn, hoàn toàn đồng với Văn xuôi.

93. Đức Thế tôn nói kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này ngài liền nói kệ rằng:

Biện Âm ông nên biết

Tất cả các Bồ-tát.

Tuệ vô ngại thanh tịnh

Đều nương thiền định sinh.

Dạy người tu quán, trước dùng thể sở y làm gốc mà khởi quán hạnh. Văn xuôi nói viên giác thanh tịnh, không năng tu sở tu, tâm nên dùng lý này, tức là nghĩa thiền định.

Cái gọi Xa-ma-tha, Tam-ma-đề, Thiền-na, tu ba pháp đốn tiệm, có hai mươi lăm thứ. Văn xuôi rộng, kệ lược:

Các Như lai mười phương,

Người tu hành ba đời.

Thảy đầu nhờ pháp này,

Mà được thành Bồ-đề.

Chính thức kết thúc những việc phải làm.

Chỉ trừ người đốn giác, không thuận theo pháp này.

Để phân biệt những việc chẳng nên làm. Văn xuôi không, kệ có, nay có hai giải thích.

1. Hai câu đều giải thích thượng căn, nghĩa là chỉ trừ người ngộ giải viên đốn thượng căn, và người không thuận theo tất cả pháp định tướng thì không cần phải nương hai mươi lăm luân và đạo tràng chọn lấy kết thúc… không thuận theo pháp là không chấp tướng, đã không theo tướng tức là theo chân giác, đây là đốn nhập tròn sáng, mọi việc nhìn thấy đều hợp đạo, không thể thêm thắt làm tổn thương lở loét. Cho nên trước biết huyễn liền xa lìa, không thực hành các phương tiện, cho nên trừ.

2. Câu dưới là giải thích tín bất tín hạ càn: nghĩa là không tin gì cả, không nghe mà không thuận theo, như thế thì thượng trí và hạ ngu không thể dời đổi. Trước giải thích không theo, không theo pháp điên đảo, ở đây giải thích không theo, không theo chánh pháp.

Tất cả các Bồ-tát

Và chúng sinh đời mạt pháp,

Thường nên giữ luân này,

Thuận theo siêng tu tập,

Nương sức đại Bi Phật,

Không lâu chứng Niết-bàn.

 

 

*******

Kế sau có hai câu hỏi đáp, hai lớp dứt trừ tướng.

Ban đầu chương Tịnh Nghiệp trừ ngã nhập giác, sau chương Phổ giác nương thầy lìa bệnh, đó đều là chướng ngại trong quán hạnh, cho nên đồng với khoa lớn. Trong phần đầu tuy y theo chấp đắm cạn sâu nói có bốn tướng khác nhau nhưng tuy là ngã kiến, nhưng văn kinh ngoài bốn tên nêu riêng, mỗi tiết đều có chữ “ngã”, nếu trừ chấp này liền thành viên giác, nên nói nhập giác, văn có bốn: đây là phần đầu của ba phần đầu.

1. Bồ-tát Tịnh Chư nghiệp lễ Phật, thưa hỏi:

Bấy giờ, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng, giống như trên, trình bày từ cú, trong đó có hai:

– Trước chúc mừng.

1. Xin Phật nói rộng việc không thể suy nghĩ bàn luận:

Đại bi Thế Tôn cho chúng rộng việc con nghe nói không thể suy nghĩ bàn luận như thế, trước là nói chung về quán hạnh, một bề xứng lý mà tu, nếu có thể hiểu rõ thì nay trong một về, rộng mở các luân vòng vo khác nhau, khác nhau nhưng không trái một vị, rất là khó thấy, cho nên không thể suy nghĩ bàn luận. Nhân địa hành tướng của tất cả Như lai, xa thành lời đáp cho câu hỏi của Văn-thù, khiến các đại chúng được điều chưa từng có. Nhìn thấy đấng Điều Ngự trải qua cảnh giới siêng khổ số cát sông hằng kiếp, tất cả công dụng giống như một niệm, Bồtát chúng con rất tự vui mừng an ủi, ngộ được nhân hạnh, quả đức xứng chân, y theo lý có thể chiếu, nhân hạnh trị nhiễm, hiểu được là khó, nay một niệm đủ biết sáng rõ đều hiện, như bình lưu ly đựng đầy hạt cải,

nên rất vui mừng. Hai là hỏi, văn sau có ba:

2. Bản tánh thanh tịnh, vì sao nhiễm ô:

2. Chính hỏi: Bạch Thế Tôn! Nếu tâm giác này bản tánh thanh tịnh, vì sao nhiễm ô? Khiến các chúng sinh mê muội không nhập vào? Ý hỏi trong đây không nói xưa nay đều mê. Ý nói đã biết tánh giác tròn sáng các pháp thanh tịnh, đâu thể nào vào tâm phàm mà không hợp với nguồn, giác làm được việc gì lòng vẫn còn yêu, ghét. Mình, người hoàn toàn khác nhau khó tự nhiên dung hòa, đối với quả nhân cách xa như trời và đất. Tâm giác vốn thanh tịnh ngộ liền ứng đồng, lại có pháp gì nhiễm ô? Khiến ta dụng tâm khác Phật, nên nói vì sao mê muội không nhập vào? Hai là thỉnh sau.

3. Xin Phật giảng nói:

Cúi xin Như lai rộng cho chúng con khai ngộ pháp tánh nghe.

Pháp tánh: là tánh các pháp, nếu nói thẳng bổn thể thì gọi là tánh giác, nếu suy cùng pháp khác nhau, đều không có tự thể, đồng với nhất tánh, tức gọi là pháp tánh, nay phá bốn tướng, mở rộng dung thông các pháp, hoàn toàn đồng tánh giác, cho nên nói khai ngộ pháp tánh. Từ trước văn kinh chỉ nói tánh giác, chỉ có đoạn này nói pháp tánh, ý là ở đây.

3. Tổng kết.

4. Giúp chúng sanh đời mạt pháp:

Làm mắt sáng tương lai ở cho đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp này cho, dưới ba lần tuyên bố, mô phỏng theo trước.

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có thể vì các đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp, thưa hỏi Như lai phương tiện như thế, nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho: Lúc đó, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng vui mừng vâng lời và các đại chúng im lặng lắng nghe, là chính nói, trong Văn xuôi có bốn:

  1. Nói chung về lý do lỗi lầm.
  2. Giải thích riêng bốn tướng.
  3. Còn ngã mất đạo.
  4. Dứt hoặc thành nhân.

Nói chung bốn tướng, là nguyên do lỗi lầm.

Văn chia hai:

  1. Nói về bổn khởi lỗi lầm.
  2. Do chúng sanh chấp ngang trái:

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, chưa hề chứng ngộ, nên ở dưới có ví dụ người mù bẩm sinh, vọng tưởng chấp hữu: đối với vô chấp một cách ngang trái.

Ngã, nhân, chúng sinh và tuổi thọ, là chỉ chung ngã tướng chỉ do xoay vần y theo nghĩa, nên có bốn tên gọi, bốn tên gọi lại có hai tướng:

  1. Mê thức cảnh.
  2. Mê trí cảnh.

Ban đầu nói nhận lấy tự thể làm ngã, chấp ngã xoay vần thẳng vào các đường làm người. Chấp ngã thạnh suy, các thứ khổ vui, thay đổi nối nhau làm chúng sinh, chấp ngã báo thân, mạng căn không dứt mà trú làm thọ: như hai luận Kim cương đã nói. Mê trí cảnh tức là kinh này nói, đến văn sẽ biết.

  1. Cho rằng bốn điên đảo là nhân chân thật:

Cho rằng bốn điên đảo là ngã thể chân thật, chân ngã vốn có, mê nói là không, vọng ngã vốn không, chấp cho là có, cả bốn thứ đều chấp ngang trái, nên nói như vậy.

Hai là nói lỗi lầm, ở đây rất nhiều, văn có bốn:

  1. Xoay vần sinh ra vọng.
  2. Trái với tâm giác.
  3. Động, dứt đều mê.
  4. Kết thành chướng đạo.

Ở đây là mới xoay vần: bốn câu đầu do mê khởi hoặc, kế là hai câu, từ hoặc gây ra nghiệp, kế lại hai câu từ nghiệp vời lấy quả báo, sau một câu lại ở trang năm đường rơi vào Nhị thừa.

Từ đây liền sinh hai cảnh yêu ghét, nghĩa là do chấp bốn tướng là thật thể của ngã, vì thế với mình sinh yêu, với người sinh ghét, thuận với mình thì yêu, trái với mình thì ghét, yêu ghét như thế đều do chấp ngã, nên nói do đây.Với thể luống dối lại chấp luống dối, bốn đại, năm uẩn mê tánh nên vọng sinh, các duyên giả hợp đã là luống dối, lại đối với đó chấp ngã nhân, nên nói như thế.

4. Hai vọng tưởng nương nhau:

Hai vọng nương nhau sinh nghiệp đạo luống dối, do hai vọng trước, sinh khởi tạo tác các nghiệp luống dối. Nghiệp có công năng dẫn đến quả khổ vui, nên gọi là đạo, vì có vọng nghiệp nên vọng thấy trôi lăn, nghiệp thành liền chịu sinh tử trôi lăn, sinh tử trôi lăn là quả của chỗ đến.

Nhàm chán trôi lăn: nhàm chán ba cõi không an, đều như nhà lửa, dứt duyên đoạn hoặc.

5. Thanh văn nguội thân bặt trí:

Vọng thấy Niết-bàn, hướng đến vắng lặng, đắm mê chấp không, mục đích là nguội thân bặt trí, nhưng mười câu trên đều là bốn đế sinh diệt trong tông Nhị thừa. Nghĩa là ban đầu sáu câu tập đế, kế là hai câu khổ đế, kế là một câu đạo đế, sau một câu diệt đế. Hai là trái với tâm giác.

Do đây không thể nhập vào thanh tịnh giác, chính là kết thúc trả lời câu hỏi trước, câu hỏi trước nói vì sao mê muội không nhập vào? Nay trả lời: do nhận bốn tướng xoay vần sinh lỗi, dù lìa sáu đường lại rơi vào Nhị thừa, cho nên không nhập vào.

Chẳng phải giác chống lại những người năng nhập, trước hỏi nói nhân nào khiến các chúng sinh không nhập vào. Cho nên ở đây trả lời: chẳng phải giác chống lại không cho vào mà chỉ do nhân ngã nên không nhập vào được. Như nằm mộng thân chưa quên không thể hợp bổn thân, chẳng phải bản thân chống trái.

6. Có khi năng nhập chẳng phải giác nhập:

Có các năng nhập chẳng phải giác nhập. Giải thích thành chẳng phải giác chống trái, ý nói: khi nhập như là giác nhập, không nhập tức là giác chống trái, đã nhập tự là tín, giải, hạnh… giác thể vốn không ra vào, vào và không vào đâu trách gì giác được? Ba là động dứt đều mê, văn có hai: Chính nói: cho nên động niệm: tức là tám câu khổ, tập ở trước và dứt niệm: tức là hai câu diệt, đạo ở trước.

Đều trở về mê muội: kết thành không nhập, hai là nêu giải thích, văn có hai. ban đầu nêu ra: Vì sao? Động niệm đã là trái giác, dứt niệm liền hợp với chân, vì sao đều gọi là mê muội. Hai là phần giải thích, mỗi điều giải thích thẳng. Do có bổn khởi vô minh từ vô thỉ, từ cội gốc đầu tiên mà khởi lại từ bổn nguyên mà khởi.

Vì mình chủ tể do tướng vô thỉ trụ địa vô minh làm của ngã, động là ta động, dứt là (ngã) ta dứt, tướng ngã đã ở tại động dứt đều mê, hai là chuyển thích, trước là giải thích đối trưng, ở đây lại giải thích nghĩa của bổn khởi văn ở trước.

7. Chúng sanh không có mắt tuệ:

Tất cả chúng sinh không có con mắt trí tuệ, chưa hề giác ngộ. Như người hoặc mười tuổi hoặc hai mươi tuổi mới bị mù, trước mắt tuy không thấy vật, nhưng nói thì liền biết rõ, hoặc trong thai không có mắt, sinh ra đã bị mù, thì khi đối với các thứ sắc dù nói cho họ nghe cũng không hề có lợi ích, trước phải cạo bỏ màng che mắt, sau chỉ bày phải trái. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Như người mù không thấy màu sữa, người khác nói cho nghe, lần lượt thí dụ vật báu, gạo, tuyết, hạc, cũng không bao giờ biết được màu trắng kia, tánh của thân tâm… đều là vô minh, trước được nhân địa bổn khởi, thời sở tu đều là nhân thành Phật.

Dụng này là bổn khởi vô minh, tất cả đều là nghiệp ma, lại trước do giác tròn sáng nên căn trần đều thanh tịnh. Kết thúc nói: tất cả đều là giác. Nay lấy vô minh làm gốc, nên nói đều là vô minh, trước như vàng làm ngàn thứ đồ dùng, mỗi đồ dùng đều bằng vàng, ở đây như đất làm ngàn thứ đồ dùng, mỗi đồ dùng đều bằng ngói gạch.

8. Ví dụ như người cắt đứt mạng sống:

Thí như có người không tự cắt đứt mạng sống, do ái nên có thân, nếu cắt đứt thân tức trái với ái. Như thân người dù xấu xa bệnh khổ cũng tự bảo vệ tánh mạng mình không bao giờ cắt đứt. Cắt đứt mạng sống người khác thì có thể còn tự cắt đứt mạng sống mình thì khó, nhận ngã cũng giống như vậy. Dứt bỏ tất cả nghiệp ác phiền não, thì có thể được, muốn dứt ngã thì khó thể được ư? Vì sao? Vì ngã không bao giờ lại cắt đứt ngã, lại có ngã nên chắc không giác ngã, như mắt không tự thấy, dứt tình quên tưởng thì đều một thể với giác. Giác là chân ngã thì vọng ngã vốn không, mới gọi là dứt. Như nằm mộng thân dù khiến yếu kém cho đến khổ, khi mộng cũng không boa giờ chịu cắt đứt, quyết phải giác đến hợp với bổn thân mới nhàm chán mộng khổ, lại không thể cắt đứt.

9. Kết thúc để thành chướng đạo:

Kết thành chướng đạo:

Vì cho nên biết: chỉ do thế của ý trước, từ khi ngã thể sanh yêu ghét đến nay, cho đến không cắt đứt mạng sống… đây đều kết thúc để thành chướng đạo, vì thế chép:

Có ái ngã thì ngã cùng thuận theo, với thuận sinh ái để làm rõ ngã, nếu chẳng thuận theo liền sinh oán ghét, đối trái sinh ghét để rõ ngã. Vì tâm yêu ghét nuôi dưỡng vô minh, trên chỉ cho cả hai thứ trên chỉ làm tươi nhuận.

Vô minh, vì thế biết rằng tâm mê tu đạo, dù cho siêng khổ các hạnh môn, chỉ giúp cho vô minh đâu thành quả Phật?

Nối nhau cầu đạo đều không thành tựu, chính là nói về chướng đạo. Nói nối nhau: vốn từ vô minh mà sinh yêu ghét, yêu ghét lại huân tập vô minh, hạt giống hiện hành, nối nhau không dứt, dùng đây cầu đạo thì không bao giờ thành, nên kinh Bảo Tích chép: đối với thân sinh yêu quý, không lìa ngã nhân, kia tu hành như thế, do đó mà đọa vào đường ác.

10. Giải thích riêng bốn tướng: Hai: giải thích riêng bốn tướng.

Nhưng hành tướng của chúng ta đây là khác với thường, thường là chỉ y theo mê chấp, sơ quả đã dứt được chấp này, đây mới thẳng đến thành tựu tu chứng. La-hán chưa hiểu, trong văn chia làm bốn đoạn:

  1. Y theo sự mà nghiệm xét ngã.
  2. Ngộ ngã thì thành nhân.
  3. Rõ tích thì tích sinh.
  4. Ngầm nối tiếp như mạng.

– Ban đầu nghiệm xét sự nhậm vận chia ra tự tha chính là ngã tướng kia. Trong văn có hai:

  1. Nêu giải thích tướng thô
  2. Kết thúc ý chỉ tướng tế.

Trong phần đầu có hai:

  1. Nêu ra chỉ bày:

Này người thiện nam! Vì sao tướng ngã nói tâm các chúng sinh chứng được, ngã khó tự thấy, y theo sự mà chứng biết, chỉ nghiệm mình người đều khác, tức là trong chứng tự có ngã. Nếu khiến cho tu đạo xả vọng chứng chân, chỉ biết có tâm, vẫn gọi là tướng ngã.

2. Y theo dụ để giải thích.

11. Ví dụ để làm sáng tỏ:

Này người thiện nam! Thí như có người thân thể điều hòa thích hợp, bỗng quên thân ta, tay chân như dây cung nhanh chậm, không vội vàng đều là chi thể, không điều thì tay chân mất nhịp độ, bảo dưỡng khác thường, thêm việc châm cứu thì biết có ngã, vì thế chứng lấy mới hiện ngã thể, đây là so sánh với đạo: ở yên trong thất vắng hoặc ẩn trong núi sâu, tâm dứt kinh doanh, cảnh không trái thuận, huân tập thành tánh tạm được quên tình, không biết mình người, cho là chứng vô ngã, nếu bị trái thuận ép ngặt thì rõ ràng tâm, sinh tâm, đã chưa ổn định thì biết ngã còn, ở dưới nói: nếu lại có người khen ngợi, chê bai pháp ấy thì tức là mừng, giận…

Kết thúc ý chỉ tướng tế.

12. Kết thúc về tướng tế:

Này người thiện nam! Tâm kia cho đến chứng là trên năng dưới sở, Như lai rốt ráo biết rõ, đối với sở chứng lại trên là năng liễu tri. Niếtbàn thanh tịnh là sở liễu tri.

Đều là ngã tướng, nghĩa là chẳng phải chỉ hiểu biết Niết-bàn của Nhị thừa là ngã tướng mà dù cho biết rõ Niết-bàn của Như lai cũng là  ngã tướng, nhưng Niết-bàn chỉ là giác thể, chẳng riêng có thể chứng! Nay đã chứng được Niết-bàn không quên năng sở tức là ngã tướng.

Ngộ ngã thành nhân: ngộ trước là sai ấy là tướng này. Văn có hai:

– Tướng thô:

1. Tướng người: Này người thiện nam! Thế nào là tướng người? Nghĩa là các chúng sinh tâm ngộ chứng, biết trước là sai, chữ Giả chính là tướng người.

2. Tướng ngã: Này người thiện nam! Ngộ có ngã: thì không còn chấp ngã, không có tâm chứng, chỗ ngộ chẳng phải ngã ngộ cũng giống như thế, đồng với trước là sai.

Ngộ đã vượt quá tất cả chứng, bặt dứt lỗi sở chứng, trừ lỗi năng ngộ, đều là tướng người: kết thúc thành tựu.

– Tướng tế.

Này người thiện nam! Tâm đó cho đến viên ngộ Niết-bàn, không chấp năng -sở, đều là ngã, tâm còn ít ngộ. Trí đây không bỏ là còn ngộ, chẳng có các khác nhau nên nói là ít.

Đầy đủ chứng lý, đều cùng tận nên nói là đủ, là hết cả. Đều gọi là tướng người, kết thành tướng tế.

– Rõ dấu vết thì dấu vết sinh.

Nghĩa là hai tướng ở trước đều là dấu vết của tâm, đều không chấp nên tránh khỏi lỗi ngã nhân. Nhưng rõ tâm này lại cũng là dấu vết, nên nói rõ dấu vết thì dấu vết sinh. Văn có ba:

1. Nêu ra chỉ bày.

3) Tướng chúng sanh: Này người thiện nam! Thế nào là tướng chúng sinh? nghĩa là các chúng sinh tâm tự chứng ngộ chỗ không bằng, biết năng ngộ ở trước, ngộ là sở giác, ngộ đã thành sở giác lại gọi là năng, lần lượt không cùng, đều thành năng sở, năng sở và xứ (chỗ) đều là tướng đối đãi, rõ đây (đối đãi) là không chắc chắn, nên lìa lỗi trước, chấp sở không bằng, nghĩa là tánh khỏi các lỗi, không biết chấp này thì lại là chúng sinh, chúng sinh không chắc chắn chấp một.

2. Nêu ví dụ giải thích:

13. Mượn lời nói của người để làm nghĩa thế:

Này người thiện nam! Thí như có người nói như thế, mượn lời nói người đời để làm nghĩa thế, hiển rõ tướng chúng sinh.

Ngã là chúng sinh thì biết người kia nói chúng sinh chẳng phải ngã, chẳng phải kia, nêu cả hai đều sai. Dưới đây tự giải thích rằng:

Thế nào là chẳng phải ngã? Ngã là chúng sinh thì chẳng phải ngã,

vì tự là chúng sinh nên chẳng phải ngã.

Thế nào là chẳng phải kia? Ngã là chúng sinh, vì nói ta là chúng sinh không nói kia là chúng sinh, nên chẳng phải kia, vì chẳng phải ngã của kia là chẳng phải ngã của người kia, lại nói mình đối với người kia không chấp ngã nhân, nên chẳng phải ngã kia.

3. Chỉ cho đối biện ở trước.

Này người thiện nam! Nhưng các chúng sinh liễu chứng (ngã tướng) liễu ngộ (tướng người) đều là ngã nhân: Chỉ cho hai tướng ở trước, sau đây trả lời để phân biệt tướng của chúng sinh rằng: tướng ngã nhân không bằng, liễu chứng là không thì ngã không bằng. Liễu ngộ là không thì người không bằng, không chấp thủ tể nên lìa ngã nhân. Còn có sở liễu gọi là tướng chúng sinh, vì tâm không quên cho nên tức chữ tứ, tiềm ẩn nối nhau như mạng sống, đều không sở chấp, chỉ nghĩ tu hành, do không khởi tâm nên tránh ba lỗi trước, tức là nghiệp trí vô chấp này nối nhau chưa quên. Chẳng phải cố sinh tâm nên nói tiếp tục tiềm ẩn nối nhau, văn có hai:

1/ Tướng thọ mạng:

2/ Nêu ra chỉ bày: Này người thiện nam! Thế nào là tướng tuổi thọ? Nghĩa là chúng sinh tâm chiếu soi thanh tịnh, tức là sự chiếu sáng của tâm nên nói thanh tịnh, tức là tự giác.

Giác sở liễu: biết ba tướng trước tức là giác tha. Chứng ngộ… thấu suốt nguồn chân, không có năng giác riêng, cho nên ở trên nói tâm soi chiếu. Tất cả nghiệp trí: định đem trí này tu tập tất cả nghiệp vô lậu. Chỗ không tự thấy giống như mạng căn, tuy dứt được vọng mà vọng không tự trừ, nên chẳng tự thấy, không tự thấy nên giống như mạng căn, như mạng căn là gồm chấp lấy nghĩa nối tiếp không dứt.

Lần lượt giải thích tỉ mỉ, có ba:

1- Dùng nghĩa để giải thích:

14. Giải thích lý do lỗi lầm:

Này người thiện nam! Nếu tâm soi thấy là tướng của môn này. Tất cả giác là ba tướng trước.

Đều là bụi nhơ: Cả hai chỉ cho lỗi lầm, dưới đây giải thích lý do lỗi lầm.

Giác, sở giác, không lìa trần, do dùng tâm này thấy các giác trước nên không lìa trần, vì tâm chưa quên.

2-  Dùng dụ giải thích ngược lại.

15. Ví dụ nước sôi làm tan băng:

Như nước sôi làm tan băng: không có riêng băng biết băng tan: nước sôi làm tan hết băng thành chung một thứ nước. Lại không thể biết hết là nói: ngược lại nghiệp trí này đã soi chiếu ba tướng trước đều cùng tận, thì là bệnh ngã chưa hết. Nếu Như nói ta hết, tức là ở đây nói băng hết thì không hết, nếu phối hợp kỹ thì nước dụ cho chân tánh, băng dụ bốn tướng, nước sôi dụ cho trí tuệ, nước nấu gọi là nước sôi, tâm ngộ gọi là trí, nên nói nước đóng thành băng, trở lại nấu nước để nung chảy, băng nước sôi đều hết, riêng tánh ướt còn, do dụ tâm mê thành ngã, trở lại ngộ tâm, để tiêu ngã trí đều hết, chiếu thể độc lập.

3- Phối hợp với Pháp.

Còn ngã biết ngã cũng giống như vậy. Hoặc dùng đồng dụ để phối hợp ngược lại, nên nói không có ngã riêng biết là ngã hết. Nay lại dụ thế, thuận theo trước mà giải thích, nên nói chánh hợp.

Còn ngã mất đạo văn, có hai:

1. Nêu chung mất đạo.

16. Tu hành còn năng sở thì không thành quả Thánh:

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp, không rõ bốn tướng. Tuy trải qua nhiều kiếp khổ công tu đạo, chỉ gọi là hữu vi, do bốn tướng trước đều có thủ chứng, không bao giờ thành tựu tất cả Thánh quả, đã đem tâm này tu hành, thì mỗi hạnh đều có năng sở, cho nên không thành Thánh, chính đồng với kinh Hoa nghiêm nói nhiều kiếp tu sáu độ mà không gọi là Bồ-tát.

Cho nên gọi là chánh pháp đời mạt: chánh tông thời mạt pháp của Phật pháp. Thời chánh pháp tu thì đều chứng, thời Mạt pháp người thường chấp tướng. Nay đã thủ chứng tướng, thì chánh pháp cũng đồng đời mạt pháp, nếu gặp giáo này, hiểu rõ nguồn gốc bệnh, thì tuy với đời mạt pháp nhưng lại đồng chánh pháp. Sau xoay vần giải thích rộng, văn có bốn:

  1. Cho ngã là chân.
  2. Nói bệnh là pháp3. Dùng phàm lạm Thánh.
  3. Chấp quả mê chân.

Một có hai:

  1. Nêu giải thích lỗi.
  2. Kết thúc thành chướng giác.

Trong phần đầu có sáu:

  1. Tu lâu vì sao không chứng.
  2. Chấp ngã thủ chứng chẳng phải giải thích đúng đắn.
  3. Thủ chứng vì sao ngại đạo.
  4. Ưa vắng lặng, ghét ồn ào, chẳng phải giải thoát.
  5. Vì sao biết chứng pháp chẳng giải thoát
  6. Khen ngợi, vui mừng, chê bai, sân giận, nghiệm ngã giải thích nay 1: Vì sao? Kiếp số đã nhiều thực hành lại vất vả, vì sao lại không chứng quả Thánh? Trong giải thích có hai:

1. Pháp:

17. Chấp ngã là Niết-bàn nên tu hành không lợi ích:

Cho rằng tất cả ngã là Niết-bàn, có chứng có ngộ gọi là thành tựu. Bởi chấp ngã là Niết-bàn nên mặc dù nhiều kiếp siêng năng tu hành mà không được lợi ích. Như chấp thân trong mộng cho là chính mình, mệt nhọc dưới mọi hình thức vì gia nghiệp, cuối cùng không một việc lợi ích với tư sản.

2. Dụ:

Thí như có người nhận kẻ cướp làm con, tài bảo nhà kia không bao giờ có được, nếu giặc ở ngoài còn có thể đề phòng, nuôi dưỡng làm con làm sao đề phòng được? Lại biết cướp là cướp, cướp không thể làm, nhận cướp làm con đâu tránh khỏi phá hoại, đem dụ sáu căn chấp lấy cảnh còn có thể chế ngự tàng thức vọng ngã khó có thể làm rõ, cho nên của báu của công đức trong Như lai tàng niệm niệm suy hao, do tham lam này khó chứa nhóm phước trí.

1. Chứng vì sao trở ngại đạo?

Vì sao? Vì dù chấp ngã thủ chứng, sao lại gây trở ngại cho đạo.

2. Ghét yêu chẳng phải giải thoát.

Có ngã ái thì cũng ái Niết-bàn, hàng phục gốc ngã ái là tướng Niết-bàn. Có ghét ngã thì cũng ghét sinh tử. Luân hồi sinh tử vốn từ yêu ghét, muốn cầu giải thoát phải dứt hết hai nguồn gốc. Nay yêu Niếtbàn lại là gốc ái, nay ghét sinh tử cũng là gốc ghét. Bỏ khổ ham vui tuy khác nhau, nhưng ghét yêu vốn là do huân tập. Chấp vào yêu ghét mà tu hành thì quả Phật làm sao thành? Nhổ sạch gốc ngã ái là Niết-bàn, do hàng phục nên yêu ghét không khởi, tướng không khởi giống tướng Niết-bàn, vì giống là chân nên nói như thế.

18. Ái chính là chân sinh tử:

Không biết ái là chân sinh tử. Riêng ghét sinh tử gọi là không giải thoát. Vốn ái Niết-bàn, quyết dứt sinh tử, tâm ái đã có tức là gốc sinh tử, gốc ái mầm ghét đâu thể gọi là giải thoát?

3. Vì sao biết chứng pháp chẳng giải thoát.

Thế nào là biết pháp mà không giải thoát? Pháp là Niết-bàn. Vì ở trước giải thích: ái Niết-bàn gọi là không giải thoát, cho nên ở đây nêu rằng: nếu ưa có sinh tử thì chính là ràng buộc, nay ngộ Niết-bàn là pháp vắng lặng, dùng tướng gì để biết là không giải thoát?

4. Khen ngợi chê bai nghiệm ngã giải thích.

Nghĩa là thật chứng thì quyết vô ngã, vì vô ngã nên không có sân giận, vui vẻ. Nay vì pháp có tức giận vui vẻ, nên biết pháp chứng chẳng thật, Ngã chưa hết, trong căn có hai:

1) Nêu ngã chưa hết.

19. Ngoài thì biết căn trần giả hợp, trong thì giác tánh thể vắng lặng:

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp kia huân tập Bồđề vì đã nói chứng là tự thanh tịnh, ngoài thì biết căn trần giả hợp, trong thì tánh giác thể vắng lặng.

Vì chưa thể hết cội gốc ngã tướng, chính là nói chưa hết.

2) Do cảnh nghiệm biết.

Nếu lại có người khen ngợi pháp kia, thì sinh vui mừng liền muốn cứu độ. Nếu lại chê bai sở đắc kia thì liền sinh tức giận, nhưng cảnh đời trái thuận thô trọng thì dễ rõ. Chỉ y theo pháp môn rất khó xem xét, chỉ nói là pháp giận kia độ đây, không biết tâm này vốn là ngã tướng.

Cho nên biết ngã tướng chấp chặt bền chắc, nhân đối cảnh ngoài mà nghiệm được bên trong, ngã không xen hở. Ngầm chứa tạng thức: là hạt giống.

Các căn dạo chơi, không hề xen hở: là hiện hạnh. Gặp cảnh thì phát trôi lăn nối nhau, nói chung, thì do đối cảnh ngoài mà nghiệm được bên trong, ngã chấp còn vững chắc, nối nhau tiềm tàng. Tuy tuệ quân thường nêu mà ma chúng thường xô ngã. Vả lại thành A-lại-da khó tấn công chủ tể, mạt-na thường giữ gìn ngăn ngừa vững chắc mạnh mẽ, ý thức tính toán mưu làm công việc trong ngoài, tướng năm thức xem xét bên ngoài để giữ gìn cửa sáu thức, do đó giặc chủ nhiều lần dạo chơi thường cướp đoạt, mê hoặc Pháp vương của ta.

Thường xâm lấn quấy nhiễu cảnh quán của ta, tuy bên ngoài sợ Bát-nhã, ngày ẩn đêm đi, mà trong ôm vô minh ngày đêm không ngừng.

Hai là kết thành chướng giác.

20. Không trừ tướng ngã thì không thể nhập thanh tịnh giáo:

Này người thiện nam! Người tu đạo ấy không trừ ngã tướng, cho nên không thể nhập thanh tịnh giác. Hai nói bệnh là pháp, văn có hai:

  1. Giải thích kia là sai.
  2. Kết thúc thành chướng giác.Trong phần đầu có hai:
  3. Che đậy khước từ, theo đuổi trước là pháp tức giận, vui vẻ.
  4. Suy cùng, để thành nói bệnh là lỗi của pháp.

Này người thiện nam! Nếu biết ngã không mà chẳng chê bai ngã: sợ nghe tức giận, vui mừng là ngã liền muốn nhẫn chịu không tức giận để làm vô ngã, nên từ chối rằng: nếu thấy kia chê bai nhân ngã, bị kia chê bai mà không tức giận thì đây cũng là ngã, nên nói: nếu biết ngã không mà không chê bai ngã, đã thấy có huỷ báng ngã báng ngã thì chưa được ngã không. Cũng nên nói: Nếu biết ngã không, vô ngã nói pháp, cho nên kế nói có ngã nói pháp thì ngã chưa dứt. Nhưng người chê bai là kia, người nói là ngã. Văn kinh với người chê bai nói không, là ngược nói lỗi. Nhưng người nói pháp thì nói có là thuận nói lỗi, khước trừ lỗi ấy, sau đây muốn quyết đoán là bệnh, chúng sinh tuổi thọ, là về tướng người, lấy văn kia để chải chuốt thành câu.

21. Nếu bốn tướng còn thì gọi chung là bịnh:

Cũng giống như thế: là ví dụ về ngã.

1) Quyết đoán.

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp nói bệnh là pháp, chỉ lỗi của sự từ chối ở trước. Tức là bốn tướng, nếu bốn tướng còn thì gọi chung là bệnh.

Nên gọi là đáng thương xót: lấy bệnh làm pháp thật đáng thương xót, mặc dù siêng năng tinh tấn lợi ích các bệnh, nhưng vì mang bệnh tu hành nên thêm các bệnh, nói trái với đây thì xứng thật tu hành chỉ có ích cho thật đức. Như các vị thuốc… giống có ngọt đắng, đất nước tươi nhuần, đều thêm lợi ích. Đắng dụ cho ngã tướng làm gốc, ngọt dụ cho tịnh giác làm gốc, đất nước thì dụ cho muôn hạnh.

22. Kết luận thành chướng giác:

2) Kết thúc thành chướng giác.

Cho nên không thể nhập thanh tịnh giác,

3) Đem phàm lạm Thánh, văn có hai:

a)Nói về tướng lạm.

  1. Kết thúc thành chướng giác. Trong phần đầu có hai:

b.1) Hoặc Thánh đồng.

23. Không rõ bốn tướng thì tu hành không thành tựu:

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp không rõ bốn tướng, y theo Như lai giải và chỗ sở hành để tự tu hành, thì không bao giờ thành tựu, Phật nói pháp môn liễu nghĩa xứng lý, đều nói tâm cảnh vốn không, hoặc nghiệp vốn tịnh, phàm Thánh không khác, nhân quả đều tròn, y theo lý mà Phật thấy thì thật như thế, hơn nữa chúng sinh mê lầm điên đảo đã lâu, gốc huân tập sâu dày, cho dù khiến tin hiểu pháp môn, nhưng hiện dụng xưa nay tùy niệm. Chỉ do tâm thức phân biệt, hiểu thụ vô ngại nói giáo là nói ý Phật cũng chỉ như thế, tâm đã là niệm cho nên bất giác niệm, không biết ngầm thông, chứng nhập khác với tùy tướng tín tâm, chấp nhận Phật bình đẳng, không thể dứt hoặc cầu chứng, nên kinh nói cuối cùng không thành tựu. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: như kẻ nghèo đếm của báu cho người.

24. So sánh với bậc Thánh:

b.2) Sánh mình bằng Thánh.

Trước thì sánh cao bằng đức, đây thì sánh dưới bằng cao, văn có hai:

4. Nhận Thánh trí kia.

Nếu có chúng sinh chưa được cho là được: là lý, cho đến công đức mà bậc Thánh có.

Chưa chứng cho là chứng là trí. Trí thân mà bậc Thánh thầm chứng nay nói được nói chứng là người tăng thượng mạn. Nếu tự biết không chứng mà nói chứng, thì thuộc về giới nói dối nghiêm trọng trong bốn giới căn bổn. Chẳng phải ý văn ở đây.

5. Nghiệm ra khỏi phàm tình.

Thấy người tốt tinh tấn lòng sinh ghen ghét. Nhưng các bậc Thánh hình loại không chắc chắn, đắc và không đắc nội chứng ở tâm. Đâu cần phải làm rõ tha chưa đắc chưa chứng, cho nên quán sát tâm hạnh để nghiệm chân hư. Bậc Thánh dụng tâm thấy người, mình không hai. Thấy người tốt tinh tiến hoặc giáo pháp lưu hành, niệm niệm vui mừng quyết sẽ thuận theo, tự nghiệm trong tâm như thế, hoặc liền chứng ngộ không luống dối. Hoặc tự biết mình kém, người kia hơn thì ghen ghét, mình hơn kia kém thì vui mừng. Cho dù khiến hiểu sâu cảnh mầu nhiệm cũng chỉ là sở duyên của tâm, chớ lầm cho là được, cho là chứng.

25. Kết luận thành chướng giác:

Kết thúc thành chướng giác.

Do chúng sinh kia chỉ cho cả hai hạng người ở trước, chưa dứt ngã ái, ở trước nói cuối cùng không thành tựu, vì Phật không ngã ái, hễ có ngã ái nên nói… thấy thắng tấn thì ghen ghét, cũng do ngã ái, do ngã ái nên ở dưới nói:

Cho nên không thể nhập thanh tịnh giác. Bốn hướng đến quả mê nhân.

26. Mục đích tu hành của chúng sanh đời mạt pháp:

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp hy vọng thành

đạo hướng đến quả không phải để cầu ngộ, chỉ thêm nghe nhiều là nhân mê. Liền biết trước phải ngộ đạo, sau nghe nhiều thêm trí tuệ. Người đời mạt pháp thường lầm ý này, chỉ y theo danh số không cốt để rõ tâm, tâm đã không thông, thì hiểu nghĩa chỉ nhiều, ngã kiến chỉ lớn, nên sau đây nói:

Thêm lớn ngã kiến, Kinh Hoa nghiêm cũng chép: không thể rõ tự tâm thì thêm lớn tất cả điều ác. Lại, luận Trí Độ chép: nghe nhiều không có trí tuệ là không biết thật tướng. Thí như trong căn nhà tối lớn có đèn mà không có mắt…

Dứt hoặc thành chân, có hai:

Giải thích thuận:

27. Những điều nên tu:

Chỉ nên tinh tấn: lời khuyên nhủ.

Hàng phục phiền não: nêu riêng cái phải dứt bỏ.

Khởi tâm mạnh mẽ: khuyên chung tu đoạn.

Chưa được làm cho được: là tu, nghĩa là tất cả công đức diệu dụng trong cảnh chân thật.

Chưa dứt thì dứt: là dứt bỏ, là tất cả pháp chướng ngại trong cảnh điên đảo, tức là sau đây sẽ nêu ra rằng: tham, sân, ái, mạn ba thứ trong các phiền não căn bản, ái không có tánh riêng thuộc về tâm sở tham.

Dục nịnh ganh ghét: Là tiểu tùy phiền não.

Đối cảnh không sinh kia (tha) ta (tự) tất cả ân ái vắng lặng. Lại nêu đây là gốc rễ sinh tử khó nhổ nhất, niệm hết thì tự, tha đều vắng lặng.

28. Kết quả nếu tu như trên:

Phật nói người này lần lần thành tựu: kết thúc thành nhân.

Do trước nói dứt ngã dụng tâm, lúc đó tuy ngộ vẫn suy nghĩ thời gian dài khó lìa được sự huân tập của ngã, cho nên Phật răn rằng: chỉ được đốn ngộ ngã không, siêng năng dứt bỏ phiền não, thói quen chấp ngã lần lần hết sạch, quả Phật vô thượng tự nhiên dần dần thành.

Cầu Thiện tri thức, không rơi vào tà kiến, người buôn ra biển phải nhờ người thuyền trưởng, người học tu hành phải giúp bạn lành. Hai là giải thích ngược lại.

Nếu với sở cầu sinh yêu ghét, riêng thì không thể vào biển giác thanh tịnh, ngược lại nói không sinh yêu ghét thì vào biển giác. Trong kệ khen ngợi có bốn. Thứ lớp như trước, hoàn toàn giống với Văn xuôi, nên không nhọc chép lại.

29. Đức Phật nói kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:

Tịnh Nghiệp ông nên biết

Tất cả các chúng sinh.

Đều do chấp ngã ái

Vô thỉ vọng trôi lăn.

Chưa dứt bốn thứ tướng

Không được thành Bồ-đề

Yêu ghét sinh trong tâm

Siểm khúc còn các niệm.

Cho nên thường mê muội, không thể vào giác thành. Thành dụ cho giác, pháp dụ mỗi thứ có ba nghĩa.

– Một là rõ tâm tánh không, không vào các hoặc, như đề phòng kẻ địch bên ngoài.

– Hai là thấy đức số cát sông hằng thì muôn hạnh tròn đủ, như nuôi dưỡng mọi người.

– Ba là đạo đều thông suốt, như mở cửa dần vào.

30. Nêu hai trường hợp trái nhau:

Nếu trở về cõi ngộ.

Cõi là thế giới, như đến nước Trung Quốc, cõi ấy thuộc nhà Đường, nên biết nếu đến cảnh ngộ thì pháp pháp thuộc ngộ, cảnh mê cũng giống như vậy. Trước bỏ tham, sân, si: si văn xuôi không, kệ có, mạn thì Văn xuôi có, kệ không, văn rõ ràng lược bỏ.

Pháp ái: ái Niết-bàn. Không có tâm, dần dần có thể thành tựu.

Ngã thân là gốc của yêu ghét, vốn không có, yêu ghét từ đâu sinh.

Sở y đã không, năng y làm sao có?

31. Kết quả của hai trường hợp trái nhau:

Người này cầu bạn lành, không rơi vào tà kiến. Sở cầu riêng sinh tâm, rốt ráo không thành tựu.

Cõi Ngộ, ngã thân thì Văn xuôi không, kệ có. Từ đó về sau nương thầy lìa bệnh, nghĩa là rộng khuyên nương Thiện tri thức, trừ bỏ bốn bệnh và các hoặc nhỏ nhiệm, văn có bốn. Phần đầu của ba phần đầu thứ ba.

32. Bồ-tát Phổ giác lễ Phật thưa hỏi:

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ giác ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Trong phần trình bày có hai:

1/ Trước chúc mừng.

Đại bi Thế Tôn! Xin nói về bệnh thiền (bốn tướng) giúp cho các đại chúng được điều chưa từng có. Tâm ý sảng khoái, được yên ổn hoàn toàn.

2/ Sau thỉnh mời, lý do có ba:

Thế Tôn! Chúng sinh đời mạt pháp cách Phật quá xa, Hiền Thánh ẩn tránh, tà pháp tăng mạnh.

Nói ý của thưa hỏi: Như người có con bị bệnh rất lo buồn, Bồ-tát đại bi trước thương xót đời mạt pháp, hiền Thánh ẩn tránh, chánh pháp sắp chìm đắm, muốn khiến rộng lợi ích đời đương lai. Cho nên nêu lên lời hỏi này. Kế chính là thưa hỏi, trước đều có ngã tướng, chưa thể thi công, nay đã trừ chướng mới có thể tu tập, vận dụng theo đây lại có đúng sai, nên phải nương thầy, khỏi chìm đắm bốn bệnh.

33. Chúng sanh phải cầu người nào, nương vào pháp nào?

Khiến các chúng sinh phải cầu người nào: do trước nói cầu Thiện tri thức không rơi vào tà kiến, cho nên ở đây xin hỏi cầu người như thế nào là Thiện tri thức? Trong câu trả lời có đủ ý chỉ.

Nương vào pháp nào? Làm những hạnh gì? Trừ bỏ bệnh gì? Nói phát tâm như thế nào, văn đều hiển rõ.

Giúp cho những người mù kia không rơi vào tà kiến.

33/ Nói về những việc phải làm: Sau đây là tuyên bố ba lần mô phỏng theo trước. Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trả lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ giác rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có khả năng thưa hỏi Như lai pháp tu hành như vậy, sẽ đen đến cho tất cả chúng sinh đời mạt pháp mắt đạo vô uý. Khiến chúng sinh kia được thành Thánh đạo, nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho. Lúc đó, Bồ-tát Phổ giác vui vẻ vâng lời chỉ dạy, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Chính thức nói, trong văn xuôi có năm:

  1. Chỉ bày minh sư lãnh sự.
  2. Phân biệt bốn bệnh dạy trừ.
  3. Phân biệt tâm thờ thầy.
  4. Nói về hạnh trừ bệnh.
  5. Hiển rõ phát tâm rộng lớn.

Như thứ lớp trả lời năm câu hỏi trước, nhưng lại có ít tướng lạm dụng, nên lại làm rõ văn kinh. Nay trước là trả lời câu hỏi thứ nhất, văn có ba: 1. Khiến biết, 2. Lãnh sự, 3. Hiển bày lợi ích.

34. Phật trả lời Bồ-tát Phổ Giác:

Đây là phần đầu: Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp nên phát tâm rộng lớn: Để phân biệt với các thừa khác, là nhân chính. Cầu Thiện tri thức: là duyên chánh. Khéo rất dễ hiểu chân, biết vọng, biết bệnh, biết thuốc, cho nên tâm đầu tiên khiến cầu. Văn-thù bảo Thiện Tài rằng: Gần gũi cúng dường các Thiện tri thức, đầy đủ Nhất thiết trí, là nhân duyên đầu tiên. Nên kinh Quang Tán Bát-nhã chép: Muốn học sáu pháp Ba-la-mật, nên theo chân Thiện tri thức, thường nên kính thờ.

Muốn tu hành: là hạnh cầu giải thoát.

Nên cầu tất cả người thấy biết chân chánh: nêu ý chỉ. Khéo thông suốt giác tính không nhờ tu mà sinh, quyết giải thích không nghi ngờ, gọi là Chánh tri kiến. Kinh Pháp Cú chép: Khéo hiểu sâu pháp không, không tướng, không tác, không sinh, không diệt, liễu đạt các pháp từ xưa đến nay rốt ráo bình đẳng, không nghiệp, không báo, không nhân, không quả, tánh tướng như như trú vào thật tế. Trong rốt ráo không lại rõ ràng kiến lập, ấy gọi là chân Thiện tri thức. Kinh Hoa Thủ chép: có bốn pháp, nên biết là Thiện tri thức, nghĩa là khéo biết giáo hóa tu đạo và các lỗi lầm.

Tâm không trú tướng, lìa cảnh giới phiền não của phàm phu, nghĩa là không nên trú sắc sinh tâm…

Không đắm cảnh giới Thanh văn, Duyên giác, lìa cảnh giới mắc kẹt vào sự vắng lặng của Nhị thừa. Kinh Xưng Tán Đại Thừa chép: Thà ở địa ngục suốt trăm ngàn kiếp, chứ không bao giờ phát tâm Nhị thừa, cũng có thể Chánh tri kiến là phân biệt với ngoại đạo, không trú tướng phân biệt với phàm phu, không mê đắm… phân biệt với Nhị thừa, như trên là thuận hạnh, sau đây nghịch hạnh:

Tuy hiện trần lao: tức là tham…

Tâm thường thanh tịnh: Hiện ở trong nhiễm mà không nhiễm. Như kinh Tịnh Danh chép: tuy có vợ con nhưng thường tu phạm hạnh… kinh Hoa Nghiêm chép: Bồ-tát tại gia ở chung với vợ con, chưa hề xa lìa tâm Bồ-đề.

Thị hiện có các lỗi: muốn độ chúng sinh có lỗi, trước dùng đồng sự để nhiếp hóa tâm đã gần gũi mới có thể nhận lời chỉ dạy. Như kinh Tịnh Danh chép: vào các phòng dâm chỉ lỗi của tham dục… cũng đồng với Thiện Tài thiện hữu, Bà-tu-mật nữ trong kinh Hoa Nghiêm… khen ngợi phạm hạnh, không để chúng sinh rơi vào bất luật nghi, hoặc vì lợi ích, hoặc có duyên riêng, nên việc làm không đúng khuôn phép, tạm thời trái với chân giáo, thì phải chê bai đó là sai, không được ngụy biện lỗi lầm, nói lý để làm lầm kẻ phàm phu, ở đây không đồng với người tà kiến tự gây ra các lỗi lầm. Lại nói những việc chẳng phải phạm hạnh là chân thật, khiến cho vô lượng người rơi vào đường hiểm, chỉ vì đồng sự nhiếp, tuy hiện các lỗi lầm thường phải khen ngợi phạm hạnh chân thật, nên luận nói: người phá kiến tuy không phá phạm hạnh, nhưng không thể làm đạo nhãn cho các chúng sinh. Tuy phá phạm hạnh mà không phá chánh kiến, chính là ruộng phước chân thật cao quý của người trời.

Cầu người như thế, thì được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Kết thúc thành lợi ích lớn. Hai là lãnh sự, văn có hai:

  1. Nêu cái khó của được thân mạng.
  2. Ví dụ cái dễ ở ngoài thân. Trong phần đầu có hai:

a) Chánh nêu.

35. Đối với người và pháp ấy:

Chúng sinh đời mạt pháp thấy người như cho nên phải cúng dường không tiếc thân mạng, như Tuyết Sơn bỏ thân, ở hương thành chẻ xương. Sách Nho còn khiến hết sức phụng dưỡng cha mẹ hết lòng nhờ vua, huống chi là chánh pháp? Cho nên kinh Đại Thừa Tứ Pháp chép: các Bí-sô suốt đời cho đến gặp nhân duyên mất mạng cũng chắc chắn không được bỏ Thiện tri thức. Hai là ngăn ngừa nghi ngờ.

Thiện tri thức kia trong bốn oai nghi thường hiện sự thanh tịnh: chỉ cho thuận hạnh ở trước, cho đến thị hiện các lỗi lầm: chỉ cho nghịch hạnh ở trước.

Tâm không kiêu mạn: nói về không nghi. Bồ-tát hóa hiện quyền đạo khó lường, chỉ nương pháp môn chẳng nghi dấu vết, không dùng thuận hạnh bắt chước cung kính, hoặc thấy nghịch hạnh liền sinh kiêu mạn. Cho nên luận Trí Độ chép: Đối với các thầy tôn kính tưởng như Thế Tôn, nếu có thể mở bày giải thích nghĩa sâu xa cởi mỡ nghi kết, với ta có lợi ích thì hết lòng cung kính, không nghĩ các việc ác khác, như túi xấu đựng đầy vật báu kia. Lại như đi đêm, đường nguy hiểm, người xấu cầm đuốc, không phải vì người xấu mà không nhận sự chiếu sáng của họ. Bồ-tát cũng giống như thế, ở thầy được trí tuệ sáng suốt, không chấp cái xấu của thầy, nhưng cái khó của thầy, làm đồ đệ không thay đổi, chớ vì sự răn dạy này mà làm lầm người thô kệch, muốn xét thật hư thì như trước mà phân biệt. Đã am hiểu đạo thì như thế mà vâng thờ. Lại, thuốc trị học trò này, thầy chớ lầm uống, uống vào thêm bệnh, không có thuốc để trị, mà dùng ràng buộc để cởi mở ràng buộc thì không có việc ấy!

Hai là ví dụ về sự dễ ở ngoài thân.

Huống chi lại cầm lấy: cầm lấy thức ăn, người dịch nhầm lược bỏ, nên nói đoàn thực.

Của cải (vải tiền) vợ con (thân nhất) quyến thuộc: người hầu đối trước cái khó của thân mạng, nên nói huống lại. Hai là nói về lợi ích.

Nếu thiện nam với bạn tốt kia không khởi niệm xấu, do trước không kiêu mạn. Nếu khởi kiêu mạn thì niệm ác liền sinh, chướng ngại che lấp tự tâm thì pháp nào được vào?

Liền rốt ráo thành tựu chánh giác, đã không che lấp niệm ác, liền được thành tựu chánh giác.

Hoa Tâm phát sáng, chiếu khắp các cõi mười phương, tâm giác đã sáng chính là ánh sáng trí tuệ phát ra, tiếp xúc không nhiễm, nên gọi là hoa tâm, xứng thể vô biên, chiếu các cõi mười phương. Hai là phân biệt bốn bệnh khiến dứt trừ. Trả lời câu hỏi thứ hai nêu ra pháp mầu nhiệm, giải thích nương viên giác. Viên giác là pháp sở y, pháp này xa lìa bốn bệnh mới đáng nương, hỏi về trừ bốn bệnh ở dưới tự có trả lời. Nhưng văn dường như lạm dụng, nên bao gồm mà chia khoa mục, văn có ba:

b) Nêu chung về sinh khởi.

36. Nói về bốn bịnh:

Này người thiện nam! Pháp mầu mà Thiện tri thức kia chứng được nên xa lìa bốn bệnh, thế nào là bốn bệnh? Tâm bệnh vô biên quan trọng chỉ có bốn bệnh này, hễ có một trong bốn bệnh ấy thì không thể làm thầy.

Giải thích riêng hành tướng: đều gọi là bệnh: duyên chung là không lấy lời dạy làm dây mực, không đem thầy làm kim chỉ nam, chỉ tự nêu tâm tác ý như thế. Nên văn kinh đều nói: nếu lại có người nói như vầy: Nói là ý nói. Văn có bốn:

Bệnh tác: nếu lại có người nói rằng: Ta đối với bổn tâm làm các thứ việc, muốn cầu viên giác, là nói về tướng. Suy nghĩ, ước đoán, tính toán so lường, dấy tâm vận động làm các hành tướng, tạo tháp xây chùa, cúng Phật, trai tăng, trì chú tụng kinh, tăng giảng tục giảng, điềm nhiên ngồi thẳng, lập bày các thứ, dừng dứt nơi núi sâu, du lịch thế giới, siêng lo cơm áo cho là đạo duyên nên chịu đói lạnh, cho là công đức, quán không, quán hữu, yêu thân, ghét thân, đối với nhiều hạnh môn hễ chấp một trong các hạnh môn, nương vào một hạnh này mà muốn khế hợp với tâm giác, thì đã là tạo tác sinh tình, đâu hợp với vô vi tịch chiếu? Bệnh này từ trong quán huyễn ở trước sinh ra. Kia nói: Tất cả Bồ-tát khởi hạnh từ đây, cho đến trong các luận đều nói độ sinh, khởi hạnh khởi dụng, mất ý văn kia, thành bệnh tác này.

Tánh viên giác kia chẳng phải làm mà được, dựa vào thể để phá, tánh viên giác chẳng phải tạo tác, tạo tác thì làm sao khế hợp? Nếu rõ tánh giác vốn viên, không dấy tâm cầu lợi ích, không chỗ dấy tâm liền hợp với tâm giác, khi hợp với tâm giác tự không có các vọng, không có các vọng thì chỗ làm tương ưng, dồn đất nhóm cát đều thành Phật đạo, tức các hạnh trên đây, gặp sức duyên mà tiện làm, hễ bệnh nào thì chữa bệnh ấy không thuận theo vọng niệm, chỉ phải hết vọng tánh tự mở sáng, hết tức là Bồ-đề đâu từ ngoài được? Nói bệnh là kết thúc gọi tên, bốn tiết trên đây, ba thứ dưới đây cũng đồng. Hai là mặc ý chìm nổi.

Hai bệnh nhậm: nếu lại có người nói rằng: nay chúng ta không dứt sinh tử, không cầu Niết-bàn, Niết-bàn sinh tử không có niệm khởi diệt, ý nói: sinh tử là không, thì còn có gì để dứt? Niết-bàn vốn vắng lặng, thì còn gì để tu cầu, không nhàm chán không ưa thích, không có niệm sanh diệt.

Nhậm vận tất cả kia tùy theo các pháp tánh, như các loại lửa nóng, nước ướt các tánh đều khác nhau. Thời nay thấy có một hạng người nói vọng từ tha vọng, chân thì nhậm vận tha mà chân, đều xứng với tâm, cần gì sửa đổi? Làm cũng mặc làm, thích rỗi thì rỗi, gặp đói liền ăn, thấy áo liền mặc, việc tốt, việc xấu tất cả không biết, nhậm vận mà làm, tin duyên mà sống, muốn ngủ liền nằm, ngồi dậy liền đi, Đông, Tây, Nam, Bắc đâu chắc chắn đi hay ở? Bệnh này do trước nói viên giác thanh tịnh, vốn không tu tập nương theo chưa giác sức huyễn tu tập, mất ý văn kia, tự cho đã giác cần gì làm huyễn, nên thành bệnh nhậm.

Muốn cầu viên giác: nghĩa là cho rằng nhàn rỗi hợp với đạo. Tánh Viên giác kia chẳng phải do nhậm mà có, trước thì rong ruổi tìm Phật, đây là thân tâm buông lung, nếu thiện ác không trói buộc, thì gọi là tánh vô ký. Bảy hiền chẳng lẽ là đại đạo, tứ hạo đâu phải bậc Thánh, còn mê muội đối với các tầng trời cõi Dục, làm sao thầm hợp với giác thể.

Hành chân đến đây, nước chìm đắm thuyền, phải tự cảnh giác, chớ để mắc phải bệnh này, nên ở trước nói: nếu không tu hành, thường ở huyễn hóa, làm sao giải thoát được? Ba là ngừng dứt vọng tình.

Ba bệnh chỉ: Nếu lại có người nói rằng: Nay tự tâm ta dứt hẳn các niệm, sinh tâm thì sợ sai, theo tình thì lo mất, một bề chỉ dứt đâu hợp với nhậm vận? Nhưng dừng vọng tức chân, đâu cần riêng chiếu?

Được nhất thiết tánh: dứt niệm nên lìa tướng, lìa tướng nên được tánh, là tánh vô tánh của các pháp, chẳng phải là tánh giác.

Bình đẳng vắng lặng: Ý nói do ngã tâm sinh vọng tưởng, vời lấy

khổ vui khác nhau, nay chỉ ngừng dứt vọng tâm, vọng hết thì tự nhiên bình đẳng, bệnh này từ trước trong tĩnh quán, ở trước sinh ra, mê kia lấy yên tĩnh làm hạnh, và lắng đọng lời nói của các niệm, do đó thành bệnh này.

Muốn cầu viên giác: Nghĩa là nói dứt vọng tức chân. Tánh viên giác kia không chỉ hợp, giác vốn vô niệm, thấy niệm đã trái, tánh vốn sáng suốt, mê chiếu cũng mất. Niệm vô mà có, đã dừng dứt khiến không, chiếu có mà ẩn, sao không quán sát để cho hiển rõ. Lại, chân vốn vô niệm, niệm đã trái chân, tánh vốn chẳng có chỉ, chỉ cũng trái tánh, nên nói không dừng hợp. Nên trước nói: đối với các vọng tâm cũng không dứt diệt.

Gọi là bệnh: bốn là dứt trừ tâm cảnh.

Bệnh diệt: trước chỉ ngừng dứt tâm niệm cho vắng lặng, ở đây thì chấp thân tâm căn trần xưa nay vắng lặng. Lại, trước không ngại thấy có căn trần, chỉ không tùy niệm ái nhiễm, nên nói ngừng dứt, ở đây thì với căn trần cũng không, giữ gìn tướng vắng lặng, do thấy không vô nên nói trừ diệt.

37. Hình thức khác của bịnh:

Nếu lại có người nói như vầy: Nay ta dứt hẳn tất cả phiền ão, thân tâm rốt ráo là không, không thật có, huống chi là căn trần cảnh giới luống dối, ý nói: gốc phiền não chính là thân tâm, nếu chấp thân tâm thì phiền não làm sao dứt? Cho nên nêu dứt phiền não, giải thích thân là không, lại dứt hết phiền não không ngược với thân tâm, thân tâm còn không, căn trần làm sao có?

Tất cả hoàn toàn vắng lặng, muốn cầu viên giác, thân…vốn không nên gọi hoàn toàn vắng lặng, các tướng đã mất hẳn thì tướng vắng lặng hiện tiền, muốn đem tâm này cầu chứng viên giác, bệnh này từ trong quán tịch mà có ra. Trong các luân kia đều nói: vắng lặng và dứt phiền não, mê kia thành bệnh này.

Tánh viên giác kia chẳng phải sự vắng lặng, bởi giác thể sáng suốt không chỉ vắng lặng. Nay diệt hoặc, trụ tịch, đâu được tương ưng? Huống chi viên giác chẳng động chẳng tĩnh, vừa động vừa tĩnh, số cát sông hằng diệu dụng vô ngại khó nghĩ, trụ trong tâm vắng lặng đâu thể khế hợp? Nói thì dường như gần, lý thì là hoàn toàn xa, vì trái với lý nên nói chẳng phải.

Gọi là bệnh, là ba kết thúc nói về chân ngụy.

38. Lìa bốn bịnh thì biết thanh tịnh:

Lìa bốn bệnh thì biết thanh tịnh, dùng bốn hạnh trước tự nghiệm

tâm mình, hễ rơi vào bất cứ một môn nào thì biết là bệnh, nên nói lìa thì biết thanh tịnh, nhưng bốn môn trên đều được các kinh khuyến khích khen ngợi, huống chi ba quán trước đầu có văn này. Nay ở đây cho là bệnh là có hai ý.

  1. Trong bốn bệnh đều không có quán tuệ.
  2. Chỉ hướng tâm riêng trụ một hạnh.

Không tìm bạn lành ý tốt, không nghiên cứu Phật giáo văn hay, vừa mới ngộ nghĩa của một môn, thì không thể thờ phụng minh sư lâu dài, mới thấy văn mầu nhiệm một kinh, liền không thể rộng nghiên cứu Thánh ý, chỉ tham lam riêng xét, chấp một làm viên, cho nên văn kinh đều trách là bệnh. Nếu có thể cả bốn đều thông suốt, không mắc kẹt vào một môn, chính là trong bốn môn này cùng ngang nhau đều nhập đạo, tuy nhiên thực hành các hạnh, xưa nay nhậm vận thanh nhàn, mặc dù đốn giác thân tâm vốn không, nhưng tập khởi cần phải dứt bỏ, lại phải thường thầm hợp với giác thể, không được nhận bốn làm tâm, thời tự nhiên lúc nghỉ chẳng phảinghỉ, khi làm chẳng phải làm, nên kinh Tịnh Danh chép: Chỉ trừ bệnh mà không trừ pháp.

39. Thực hành quán này gọi là chánh quán, quán khác là tà quán:

Thực hành quái này gọi là chánh quán, tức trên đã giải thích trừ bệnh pháp còn, chính là chánh quán, mặc dù không nhận bốn bệnh, mà tuệ giải chiếu rõ, nhưng không lo rơi vào trong bốn, liền không “kiến chí lập tiết”.

Nếu quán khác gọi là tà quán, lại có khi nghe đây bốn lỗi lìa bốn. Lại sinh tìn,h liền tin vào lòng dạ làm kiến giải riêng, nên nói tà quán, lại người thực hành quán ấy, thì lìa bốn, người quán khác là nhận bốn, khi hỏi vì nói, để phân biệt với khi thầy cầu lìa bệnh ấy, vì nói người học tự lìa bốn bệnh, nếu nói bệnh của thầy thì đâu cần nêu riêng mục lục trong câu hỏi. Lại kết thúc nói thực hành quán ấy…

Nếu nói người học bệnh thì vì sao nêu pháp mầu của Thiện tri thức sở chứng lẽ ra lìa bốn bệnh?

Trả lời: Cả hai đều không khác, đã nghe kinh biết bệnh, phải cầu thầy lìa bệnh, đã thờ thầy này, tức là tu hành lìa bệnh, nhưng trong giải thích riêng, hoặc thầy hoặc trò bệnh không có tướng riêng, tuy hợp hai ý mà không hai đường. Trong văn giải thích kết thì phải phân biệt, nếu kết thúc hành nhân thì nương giải thích trước, hoặc kết thúc phân biệt với, thầy thì không có bốn bệnh, liền phải trở về nương, gọi là chánh quán, hoặc dù chí riêng cầu, gọi là tà quán, nên giới Bồ-tát nói: Pháp sư kia hoặc dòng họ thấp kém, tuổi nhỏ nghèo hèn, mà thật có đức, vì thế không được xem dòng họ của pháp sư, ý nói: Chỉ cần quán trong bệnh lìa và không lìa, chẳng quán chủng tánh sang hèn.

40. Nói về tâm thờ thầy:

Phân biệt tâm thờ thầy.

Ở đây sẽ trả lời câu hỏi thứ ba làm những hạnh gì? cho nên nói rằng: Muốn tu hành, kết thúc nói tu hành như thế, nhưng vả lại chỉ nói thờ thầy, không có hạnh khác, cho nên chỉ soạn khoa này chia ra để phải tu hành, nghĩa là hạnh môn Bồ-tát vốn không chắc chắn dấu vết cũ, tùy theo việc đương thời theo căn sơ khác nhau, chỉ khiến khéo kính thờ minh sư, minh sư sẽ tự gặp việc mà chỉ bảo, cũng giống như Thiện Tài với Văn-thù đối đãi phát tâm Bồ-đề rồi hỏi hạnh Bồ-tát, Văn-thù không nói đủ, chỉ dạy là gần gũi Thiện tri thức.

41. Cúng dường bạn lành, kính thờ thiện tri thức:

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp muốn tu hành nên phải hết sức cúng dường bạn lành, kính thờ Thiện tri thức. Như Thiện Tài ở phía Nam đã qua Phổ Hiền ở phía Tây. Kinh Niết-bàn chép: Chính là đầy đủ nhân duyên, cho nên kinh Pháp Cú chép: Thiện tri thức như cha mẹ, mặt, mũi, tay, chân, bậc thềm, cơm áo, áo giáp, dao, thuốc… Cho đến nói: Này người thiện nam! Thiện tri thức có vô lượng công đức như thế, cho nên nay ta bảo người gần gũi, đại chúng nghe rồi cất tiếng than khóc…

Thiện tri thức kia muốn đến gần gũi, nên dứt kiêu mạn, thiện hữu độ người bằng nhiều phương tiện, thầy trò tâm khế hợp ý mới truyền pháp, vì thế y theo căn cơ chúng sinh, gần gũi lẫn nhau, người ngu không biết, liền sinh kiêu mạn, mạn đã che tâm thì không thể nhập đạo, vì thế nói nên dứt bỏ.

42. Cách tu để nhập vào Viên giác:

Nếu lại xa lìa nên dứt bỏ sân hận: hoặc muốn dứt trừ kiêu mạn, hoặc gặp duyên khác, cùng xa lìa nhau liền sinh tức giận, rằng sợ ta thân kia, nói yêu nói ghét đã một niệm sân thì trăm ngàn chướng khởi. Chẳng những mất đạo, mà còn rơi vào ba đường, nên ở đây dạy dứt bỏ. Luận ngữ nói: Chỉ có nữ giới (con gái) và Tiểu nhân là khó nuôi dưỡng, gần thì không khiêm nhường, xa lại oán trách, oán thì tức giận, không nhường thì kiêu mạn.

Hiện cảnh nghịch thuận, xa lìa gọi là nghịch, gần gũi gọi là thuận. Lại trái với tình gọi là nghịch, theo tình gọi là thuận, nên kinh Thắngman chép: Người đáng nhiếp thọ thì nên nhiếp thọ.

Người đáng chiết phục thì nên chiết phục, Phật pháp tồn tại lâu dài giống như hư không, tâm không thay đổi.

Biết rõ thân tâm rốt ráo bình đẳng cùng các chúng sinh đồng thể không khác. Kết thúc chỉ bày bi trí đồng thể, sở dĩ như vậy. Vì nếu không hiểu thiện hữu và các chúng sinh và mình đồng thể thì tuy biết Bồ-đề có thể tiến, mà không thể khuất phục để thờ thầy, tuy biết Tátđỏa đáng thương, mà không thể quên thân mở đạo, nên ở đây chỉ bày.

Tu hành như vậy mới nhập vào viên giác, kết nhân thành quả, bốn gọi là hạnh trừ bệnh. Chính là trả lời câu hỏi thứ tư trừ bỏ bệnh gì, văn có hai: trước là nói chữa trị.

43. Lý do không được nhập vào Viên giác:

Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp không được thành đạo, do có (tự tha) mình, người, yêu, ghét, tất cả các hạt giống từ vô thỉ, chưa giải thoát, mình, người, yêu, ghét trước đã nhiều lần nói rõ nay lại nói nữa, do các hạt giống này là bệnh vi tế vào đạo, do các hạt giống này khó khế hợp tròn sáng, tùy theo pháp môn sở văn (đã nghe) liền sinh tâm tác ý, bỏ đây nhận kia, ghét vọng yêu chân, khó quên năng sở, nên sau có thể chữa trị, nói liền trừ các bệnh, hiện hạnh thô nên dễ biết, hạt giống nhỏ nhiệm nên khó rõ, vì thế chỉ riêng. Sau nói có thể trị, văn có hai:

44. Quán bình đẳng:

1/ Đẳng tâm quán nhân (quán người và tâm bình đẳng) nếu lại có người quán kẻ thù kia, như cha mẹ mình tâm không có hai, liền dứt trừ các bệnh. Trong bảy phẩm hành từ, đây là kẻ thù bậc thượng, đồng với thân ở trước. Quán đã đồng nên cùng vui trên.

2/ Quán pháp và tâm bình đẳng.

Đối với các pháp mình, người, yêu, ghét cũng giống như thế, trước đã nói kẻ thù và cha mẹ không hai. Đây dụ cho quán pháp nên nói Niếtbàn, sinh tử không khác, không khác thì không tự, tha, yêu, ghét. Nên biết các bệnh chỉ do yêu chân ghét vọng, thấy mình, thấy người, không thể thờ thầy lâu dài, chỉ tự sinh tình khởi hạnh, nay đã dứt bỏ hạt giống này thì các bệnh tự trừ. Vì thế trong quán người tức trừ các bệnh, ở đây nói cũng giống như thế. Lại, trong các pháp này nói tự, tha, yêu, ghét rất khác ở đoạn trước, đoạn trước không nói pháp.

– Nói về phát tâm rộng lớn, là trả lời câu hỏi thứ năm, văn có ba:

  1. Nêu chung phát tâm.
  2. Nói riêng về tướng của tâm.
  3. Kết thúc chung về lìa tà.

45. Muốn cầu Viên giác thì nên phát tâm:

1/ Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp muốn cầu viên giác, nên phải phát tâm nói như vầy: Nhân địa của chư Phật đều phát tâm này, nương đây nguyện tu mới thành chánh giác. Nếu không có tâm nguyện hướng dẫn, thì sự tu hành cũng không thành.

2/ Nói riêng về tướng của tâm: Ở đây đồng với trong kinh Kim cương đủ bốn tâm, bốn tâm ấy: bài tụng của Ngài Di-lặc nói trong kinh ấy: rộng lớn bậc nhất, tâm kia thường không điên đảo, ở đây văn có hai, hai văn hợp.

3/ Rộng lớn bậc nhất.

Tất cả chúng sinh Khắp cả hư không, tâm là rộng lớn. Kia nói bốn sinh chín loài.

Ta đều khiến nhập viên giác rốt ráo, tâm bậc nhất. Kinh ấy nói nhập Vô dư Niết-bàn, đều tùy theo tông. Nhưng Bồ-tát phát tâm đều không chia cắt. Bình đẳng với thế giới chúng sinh, không phân biệt oán thân, khắp khiến tu hành đồng trở về viên giác, hư không chúng sinh không có bờ mé. Bi nguyện Bồ-tát cũng giống như thế. Do phát nguyện này tự huân thành hạt giống, nương nguyện lực này nhậm vận hóa độ, không cần khởi tâm. Chư Phật ba đời đều đồng với ở đây, nếu không như thế, thì không khác Nhị thừa.

4/ Thường không điên đảo.

Đối với viên giác không chấp giác, tâm là thường. Khi ngã nhập giác, ngã tức viên giác, chúng sinh cũng giống như thế, làm sao có thủ? Cho nên ngài Thiên Thân nói: Tự thân diệt độ không khác chúng sinh, nên gọi là thường tâm. Nếu có chúng sinh nhờ ngã nhập giác, thì chẳng phải thường.

Trừ tất cả các tướng ngã nhân kia, tâm không điên đảo, cho nên ngài Thiên Thân nói: xa lìa chỗ nương, đích thân thấy tướng chúng sinh… nên ngài Vô Trước nói: đã dứt ngã kiến, được tự hành ý tưởng bình đẳng, nên tin hiểu tự, tha bình đẳng. Trên đây đều là ý kinh thật không có chúng sinh nào được diệt độ. Nếu có các tướng ngã nhân… thì không phải Bồ-tát.

5/ ết luận chung về lìa tà.

Phát tâm như thế không rơi tà kiến: Rất dễ hiểu, trong văn kệ có năm: Hoàn toàn giống với Văn xuôi.

46. Phật nói bài kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng: Lại nêu lên.

Phổ giác ông nên biết

Chúng sinh đời mạt pháp

Muốn cầu Thiện tri thức

Nên phải cầu chánh kiến.

Tâm xa lìa Nhị thừa.

Trong pháp trừ bốn bệnh, là tác, chỉ, nhậm, diệt.

Gần người không kiêu mạn, xa lìa không tức giận, thấy các thứ cảnh giới.Tâm nên sinh ít có, giống như Phật ra đời, là ba.

Văn xuôi thông suốt đã đồng phàm phu, đây là kính thầy như Phật.

Không phạm chẳng luật nghi, giới căn mãi thanh tịnh, là bốn chỉ tụng năng tri trước, vì sở trị yêu ghét là nhân phạm giới, nói rằng chưa giải thoát cũng trái với giới đức, ở đây nói không phạm và mãi thanh tịnh.

Độ tất cả chúng sinh, vào viên giác rốt ráo.

Không tướng ngã nhân kia, phải nương chánh trí tuệ liền thoát khỏi tà kiến, chứng giác nhập Niết-bàn, là năm, câu này văn xuôi không, ở đây có, nghĩa của bát Niết-bàn, để đối với Phật xuất hiện ở văn dưới, văn sẽ giải thích.

47. Hỏi đáp về gia hạnh:

Sau một câu hỏi đáp, đạo tràng gia hạnh, hạ căn tu chứng, chỗ đắc đạo gọi là đạo tràng, nghĩa là ở chỗ này ý chí thệ nguyện hạn kỳ, gia công dụng hạnh để cầu chứng nhập, nên gọi là gia hạnh. Hạ căn tu chứng: Nghĩa là tuy tin hiểu pháp trước, mà chướng nặng, tâm thô phù, phải vào đạo tràng tự theo khuôn phép, duyên mạnh cảnh tốt thì công dụng có lúc đạt được, ở đây hỏi vào đạo tràng chỉ là tu ba quán trước, đâu được làm khoa lớn riêng?

Trả lời: Pháp môn quán hạnh tuy giống nhau, nhưng phương tiện tu khác nhau, tùy căn cơ lập bày, cho nên văn đây hết trước nói không. Hoặc ở trong Già-lam (chùa) sắp đặt đồ chúng ở yên, tùy phần suy nghĩ quán sát, như ta đã nói, kết thúc rồi sau nói nghi thức đạo tràng, cho nên biết là một đoạn riêng. Bấy giờ, Bồ-tát Viên giác: Nghĩa như trước đã giải thích, văn có bốn: Phần đầu của ba phần đầu.

48. Bồ-tát Viên giác lễ Phật, thưa hỏi:

Ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: là phần chính nói trong đó có hai:

1. Trước chúc mừng.

49. Xin Phật nói rộng phương tiện tịnh giác:

Xin Đức Đại Bi Thế Tôn vì chúng con nói rộng các thứ phương tiện của tịnh giác, khiến chúng sinh được lợi ích lớn, giải thích rất dễ hiểu.

2. Thỉnh mời sau.

Bạch Đức Thế Tôn! Nay chúng con đã được khai ngộ, theo văn chúc mừng trước.

Nếu sau khi Phật diệt độ chúng sinh đời mạt pháp những người chưa được ngộ: Nêu việc phải làm. Dưới đây chính thức thỉnh rằng: Vì sao an cư tu cảnh giới thanh tịnh viên giác này: Hỏi về đạo tràng.

Ba thứ tịnh quán trong viên giác này lấy gì làm đầu? Hỏi về gia hạnh. Cúi mong đại Bi vì các đại chúng và các chúng sinh đời mạt pháp làm lợi ích lớn, kết lời thỉnh mời, dưới đây xướng ba lần mô phỏng theo trước.

50. Phật trả lời Bồ-tát Viên giác:

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Viên Giác rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có khả năng hỏi Như lai phương tiện như thế, làm lợi ích lớn cho các chúng sinh. Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Viên giác vui mừng vâng lời chỉ dạy, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Chính thức nói, trong văn xuôi có hai:

  1. Trả lời đạo tràng.
  2. Trả lời gia hạnh.

Trong phần đầu có hai:

a) Kết thúc trước.

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh, hoặc Phật trụ thế, hoặc

Phật diệt độ: Chánh pháp, tượng pháp.

Nếu khi mạt pháp có các chúng sinh có tánh Đại thừa, đời trước có nghe huân tập hạt giống. Không đồng với duy thức phân biệt với các tánh khác, tin Phật bí mật đại viên tâm giác văn tuệ mới mở.

51. Phải phát tâm Bồ đề:

Người muốn tu hành phát tâm Bồ-đề: Trên đều nói về đương cơ. Hoặc tại già-lam, xếp đặt đồ chúng ở yên, có duyên sự nên tùy phân suy xét như ta đã nói, nghĩa là Bồ-tát Viên cơ, không đắm nhàn rỗi, lập bày các việc lợi ích, rộng độ chúng sanh, pháp môn tu học, tùy theo trong phần nhàn rỗi kia, thì liền suy nghĩ quán sát ba quán, nên nói là tùy phần, chẳng gọi kiến giải chưa đủ, gọi là tùy phần.

b) Chính thức nói, văn có ba:

  1. Kỳ hạn đạo tràng.
  2. Thời gian tu hành.
  3. Khuyên răn về tà chánh.

– Nếu lại không có nhân duyên việc khác, Bồ-tát gặp lợi ích liền làm, gặp duyên liền đến, như những việc làm quan trọng trong kinh Pháp Hoa, liền lập đạo tràng, nên lập kỳ hạn nếu lập kỳ hạn dài một trăm hai mươi ngày, kỳ hạn vừa một trăm ngày, kỳ hạn ngắn là tám mươi ngày, nếu không thắng lợi, thì phải lập đạo tràng khắc phục ý chí gia công để đợi chờ Thánh quả, ba kỳ đều là tự lợi, vì để phân biệt với lợi tha cho nên gọi là không có việc khác. Cũng có thể vua, giặc, mạng nạn gọi là là việc khác. Hạn định là ba kỳ, nếu quá thì sinh tâm mệt mỏi, thiếu thì công hạnh chưa đủ nên lượng khắc ba kỳ cũng không có nghĩa khác, nhưng y theo phối với ba căn, kia có hai ý.

1- Nói về chướng hết khó dễ, phối với hạ căn thời kỳ dài, trung căn thời kỳ vừa, thượng căn thời kỳ ngắn.

2- Nói về phối hợp tinh tấn biếng nhác: tức là trái với ở đây, căn có lợi căn, độn căn, kỳ có xa gần, tùy bệnh cho thuốc chính là nghĩa ở đây?

52. Sắp đặt chỗ ở riêng:

Bố trí chỗ ở yên muốn cho trong ngoài thanh tịnh, thân tâm trong sạch, sự lý xứng hợp.

– Trong giới hạn tu hành, văn có hai:

  1. Nói về hành tướng đạo tràng.
  2. Nói về gặp hạ an cư.

– Trước văn có hai:

1. Nói về tùy tướng dụng tâm.

Hoặc Phật hiện tại, đối với chúng Bồ-tát trong hội đương thời.

Nên chính suy nghĩ: Nói về không cần thiết tượng… nên biết duy tâm, không có cảnh giới bên ngoài.

Hoặc Phật diệt độ, đối chúng sinh thời mạt pháp lập bày hình tượng, tâm giữ mắt tưởng, sinh nhớ nghĩ chân chính, lại đồng với khi Như lai thường trụ, nói về ý nghĩa lập tượng, nghĩa là Đại sư qua đời, không thấy chân nghi, lập tượng đế quán dẫn tâm vào pháp, tướng tức vô tướng liền thấy Như lai, cũng có thể tưởng chân thân Phật thường còn không diệt. Nếu nói xứng lý là quán hạnh không dứt quãng chính là Phật hiện tại, khi dứt quãng là Phật diệt độ, sau khi dứt quãng lại thực hành quán là thực hành suy nghĩ. Là thiết tượng tồn tưởng, nay lại nương việc làm để giải thích.

2. Dưới đây là nói về nghi thức sám hối.

53. Cách lập đàn tràng:

Treo các phướn đẹp, sửa soạn đàn tràng, đầy đủ như kinh Phương đẳng nói. Trải qua hai mươi mốt ngày, cách thời gian lâu mau, kinh Phương đẳng ít nhất là bảy ngày, lâu thì không ngại. Kế lại sau đây nói về pháp sự, y theo kinh Ly Cấu Tuệ Bồ-tát Sở Vấn Lễ Phật Pháp thì gồm có tám điều quan trọng:

54. Kinh nói có tám điều quan trọng:

  1. Cúng dường.
  2. Tán Phật.
  3. Lễ Phật.
  4. Sám hối.
  5. Khuyến thỉnh.
  6. ùy hỷ.
  7. Hồi tướng.
  8. Phát nguyện.

55. Nói về sám hối và lễ Phật:

Ở đây lược bớt chỉ còn hai:

Là sám hối và lễ Phật. Nhưng văn tuy lược pháp phải đủ hạnh. Trong luận cũng nói: nên phải siêng năng lễ Phật, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, thường không dừng nghỉ, được khỏi các chướng, thêm lớn gốc lành. Kinh Hoa nghiêm cũng dạy lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám hối…

Đảnh lễ danh hiệu chư Phật mười phương là lễ Phật, dùng danh hiệu xướng lễ quán sát đảnh lễ. Theo lễ Phật quán môn của Tam tạng Lặc-na, thì có bảy thứ hơn kém.

  1. Ngã mạn lễ.
  2. Xướng họa lễ (hai cách này chẳng đúng).
  3. Cung kính lễ: Kính từ trong tâm phát ra ở thân, miệng, năm luân gieo sát đất.
  4. Vô tướng lễ: Vào sâu pháp tánh, lìa tướng năng sở.
  5. Khởi dụng lễ: Quán thân và Phật đều từ duyên khởi, như huyễn như bóng, vận khắp thân tâm lễ khắp tất cả.
  6. Nội quán lễ: Chỉ lễ pháp thân chân Phật, không duyên Phật khác.

7. Thật tướng lễ: Hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc phàm, hoặc Phật đồng một tướng, thấy có Phật để lễ cũng là tà kiến, quán thân thật tướng quán Phật cũng giống như vậy, gọi là bình đẳng lễ, cho nên ngài Văn-thù nói: Không sinh không diệt, kính lễ vô sở quán… nhưng bốn phép lễ sau đều thuộc quán hạnh, nghĩa là không quán lễ chân đế Phật thứ tư, là tánh của nhập pháp. Năm là giả quán lễ tục đế Phật, từ lễ khởi dụng. Sáu là trung quán lễ Đệ nhất nghĩa đế Phật: Chẳng chấp không, sắc, thấy thẳng bổn giác chân tánh. Bảy là Tam quán Nhất tâm lễ tam đế Nhất cảnh Phật. Không lấy chân bỏ giả, dứt bặt, không nương lựa. Nay kinh đã là trong môn tùy tướng, lại phải là lễ thứ ba, thứ năm. Các pháp lễ còn lại là lìa tướng nhiếp niệm trung.

56. Lại nói về sám hối:

Cầu xin sám hối, nói đủ là Sám-ma, Hán dịch là Hối quá, nếu nói riêng thì sám nghĩa là trình bày phát lộ tội trước, hối: chừa bỏ lỗi lầm về sau, chỗ sám pháp kia không ra ngoài ba chướng hoặc nghiệp báo… nay muốn sám phải biết nguyên nhân lần lượt phát sinh, do bất giác vô thỉ, khởi tham, sân, si, phát sinh thân, miệng, ý, gây ra tất cả nghiệp, chịu các khổ não, sám có hai ý: Hoặc nói trách tâm, ba chướng đều sám, hoặc y theo sở tác, chỉ sám nghiệp ác. Nghiệp ác lại có tánh tội, già tội. Già tội nương giáo thực hành pháp sám. Tánh tội thì phải khởi hạnh.

Khởi hạnh có hai:

  1. Sự hạnh: như kinh Phương Đẳng Phật Danh…
  2. Lý hạnh: như kinh Tịnh Danh quán tội không ở trong, ngoài… ngoài ra ý như trên.

57. Các tướng lành của việc sám hối:

Gặp cảnh giới tốt là cảm ứng, hoặc thấy tượng Phật, hoặc thấy ánh sáng, không khởi tâm cho là mình chứng Thánh gọi cảnh giới tốt, nếu khởi tâm cho mình chứng Thánh liền rơi vào các tà, nên văn sau nói: chẳng có sở văn ấy, tất cả cảnh giới cuối cùng không nên che lấp, nếu theo ý của Thiên Thai thì liền tương ưng với tín… gọi là cảnh giới tốt.

Tâm được nhẹ nhàng: Được lợi ích. Thân tâm đều hòa thoải mái nhẹ nhàng, lợi ích an hòa. Tinh thần sảng khoái thanh thản (chi thể) nhẹ nhàng tươi mát.

58. Nói về lìa tướng dụng tâm:

Kế là nói về lìa tướng dụng tâm. Được hai mươi mốt ngày (theo ở trước) một bề nhiếp niệm, cũng gọi là hội duyên nhập thật, nghĩa là ban đầu dùng tâm trần thô trọng, để nương tướng tốt làm duyên. Tướng đã vắng lặng nên nhập thật. Về nhiếp niệm:

Luận chép: Nếu tu chỉ thì trú ở chỗ yên, ngồi thẳng chánh ý, cho

đến nếu tâm rong ruổi, liền nên nhiếp về, trụ vào chánh niệm. Chánh niệm: nên biết duy tâm, không có cảnh giới bên ngoài, nhưng luận và kinh đều trước phải lễ sám… để trừ bỏ trược của hoặc nghiệp, kế là dùng chánh niệm thu nhiếp sự tán động rong ruổi vừa không lại vừa lặng, mới có thể hiện tượng Phật. Ba là nói về gặp hạ an cư, văn có ba:

59. Nói về gặp hạ an cư:

1. Nêu khác với Thanh văn: hoặc trải qua ba tháng hạ an cư, nên vì Bồ-tát thanh tịnh chỉ trụ. Song lập đạo tràng, hoặc lập ở chùa, hoặc ở chỗ khác, kỳ hạn chưa đủ đầu hạ đã đến, nhập chúng an cư thì trái thệ ước. Dấy niệm kết hạ thì lộn xộn quán tâm, người trong đạo tràng do đây nghi hoặc, xa nghĩ Như lai cho nên nói rõ, vì thế tục mà trái luật thì sai, vì việc lớn mà bỏ việc nhỏ thì không lỗi, cho nên kinh quyết định Tỳ-ni chép: Giữ giới Thanh văn là phá giới Bồ-tát, giữ giới Bồ-tát là phá giới Thanh văn. Tâm lìa Thanh văn: Đại tiểu khác nhau. Kế là ở dưới nói: Không nhờ đồ chúng không cần sáu hòa, đến ngày an cư liền ở trước Phật nói như vầy: Nói như dưới đây.

2. Chính thức trình bày câu.

Con là Tỳ-kheo: là tiếng Phạm, gồm có ba nghĩa nên giữ tiếng phạm không dịch. 1. Bố ma. 2. Khất sĩ. 3. Tịnh giới.

Tỳ-kheo-ni: ni là nữ, Tỳ-kheo nữ.

Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di: Hán dịch cận sư nam, cận sư nữ, nghĩa là gần gũi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mà giúp đỡ. Tức là người nam và người nữ đã quy y Phật, Pháp, Tăng và thọ trì năm giới cấm. Tiểu thừa hạn cuộc trong hai chúng, Đại thừa đạo tục đều thấm nhuần.

Tên là mỗi vĩ đều tự xưng tên mình.

Y cứ Bồ-tát thừa: Phân biệt với xe trâu, xe dê. Tu hạnh vắng lặng:

Phân biệt với hạnh tứ đế.

60. Thân tâm an cư:

Đồng nhập vào thật tướng thanh tịnh trú trì: Để phân biệt với sự tướng trụ trì. Dùng đại viên giác làm già-lam của con: Hán dịch là chúng viên. Viên (vườn) là chỗ chúng ở, viên giác là sở y (chỗ nương) của muôn đức, do biển tám thức lóng trong chảy vào vắng lặng, thể trùm khắp pháp giới nên được gọi là đại, trong tứ trí thì thuộc về đại viên cảnh trí. Thân tâm an cư, thân là năm thức, nương sắc thức phát ra, tâm tức là ý thức, vì năm thức nhận trần, ý thức phân biệt huân.

Sóng từ đó sinh nên không gọi an. Nay ý không phân biệt, năm không vọng duyên, biết sóng vắng lặng, cùng thể nhất như, nên gọi an, thân an tức là thành sở tác trí, tâm an nên thành diệu quán sát trí.

Bình đẳng tánh trí: Ở đây do bốn hoặc tương ưng, vọng chấp lạida làm ngã trong chính mình, đối với lý bình đẳng, khởi nên cái thấy không bình đẳng, nay sở duyên tánh đã vắng lặng, năng duyên bảy thức tự như, như tánh đều đồng, nên là bình đẳng.

Tự tánh Niết-bàn không bị hệ thuộc: Vì để phân biệt với Nhị thừa chấp đắm nơi chốn, nay thuận theo pháp tánh nên không sở thuộc.

61. Không an cư với Thanh văn, an cư với Phật và Đại Bồ-tát:

Nay con cung kính thưa thỉnh, không nương Thanh văn, nên cùng Như lai mười phương và Đại Bồ-tát an cư ba tháng, vì tu diệu giác vô thượng của Bồ-tát duyên lớn. Không hệ thuộc đồ chúng: Tiểu thừa, Đại thừa an cư, lược có tám dị:

  1. Sở y dị: Biệt giới viên giác.
  2. Giả thật dị: Định thật thị hiện.
  3. Trú trì dị: Sự tướng thật tướng
  4. Kết an dị: Đối thú tác pháp riêng xưng danh hiệu mình
  5. Thành an dị: Thân không ra khỏi giới, tâm không khởi niệm.
  6. Thất an dị: Thân ra khỏi giới, niệm khởi trái gốc.
  7. Hoàn giới dị: Thân không vượt thời và giới, niệm không xen hở nên giác ngộ.
  8. Sở kỳ dị: Quả A-la-hán, Vô thượng Bồ-đề, vì có tám điều dị này, nên nói không nương và làm chỗ tu. Nhân duyên lớn: Ý không chấp tiểu tiết.

Kết thúc chỉ bày kỳ hạn nghỉ.

Này người thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thị hiện an cư.

61. Nói thêm về an cư:

Quá ba kỳ, mỗi ngày trôi qua không ngại: Đạo tràng ba kỳ đã mãn, Tiểu thừa hạn định, mùa Hạ chưa xong, vì gốc không phải Tiểu thừa an cư cho nên không ngại, tùy đi không ngại.

– Răn dè chấp lấy tà chứng.

Này người thiện nam! Nếu chúng sinh tu hành đời mạt pháp kia, cầu đạo Bồ-đề, nhập vào ba kỳ: Chỉ cho hành nhân ở trước. Chẳng phải sở văn kia tất cả cảnh giới không hề đáng chấp lấy: Nêu chung cảnh sở chứng trong gia hạnh, răn nhắc sai lầm kia, nói tín giải hạnh chứng tuy giai cấp khác nhau mà pháp sở tín cho đến sở chứng xưa nay không khác, nghĩa là hiểu thì hiểu sở tín kia, tu thì tu sở giải kia, chứng thì chứng sở tu kia, nay nói chứng được cảnh giới, hoặc chẳng phải các pháp sở tín… thì không nên chấp. Hai là trả lời gia hạnh, văn có ba:

62. Nói về gia hạnh:

  1. Tu riêng ba quán.
  2. Tu cả ba quán.
  3. Tu xen lẫn ba quán.Ban đầu, văn có hai:

– Giải thích riêng

– Kết thúc chung.

Trong phần đầu có ba:

  1. Tĩnh quán.
  2. Huyễn quán.
  3. Tịch quán.

Trong phần đầu lại có ba:

Một là Tu quán thành.

63. Tu-Xa-ma-tha như thế nào?

Này người thiện nam! nếu chúng sinh tu Xa-ma-tha, trước chấp lấy chí tĩnh, không khởi suy nghĩ: nghĩa như trên giải thích. Tĩnh cùng cức liền giác, thoát khỏi tướng động tĩnh, viên giác hiển hiện, như trước từ không nhập trung.

Sơ tĩnh như thế, từ một thân cho đến một thế giới, giải thích tướng tĩnh, ở trên tự tha trùm khắp, tĩnh trùm khắp tuy không trước sau, nhưng y theo hành nhân thú nhập, nên từ hẹp đến rộng.

Giác cũng giống như thế, ví dụ cho tĩnh: lẽ ra nói sơ giác như thế từ nơi một thân đến một thế giới. Tĩnh tức là thể, là định. Giác tức là tuệ, là dụng. Sơ quán thành không thấy tướng của tự thân. Gọi một thân tĩnh, do khi thân tĩnh thì đương thể là giác, gọi là nhất thân giác. Thế giới cũng vậy.

Hai là khởi công dụng.

Này người thiện nam! Nếu giác trùm khắp một thế giới, trong một thế giới có một chúng sinh, dấy một niệm thảy đều biết được, biết niệm chúng sinh, thế giới đã hoàn toàn thành giác, chúng sinh hoàn toàn ở trong giác, nên niệm sở khởi đều thông suốt, như bóng soi vào gương, gương chiếu không sót.

Trăm ngàn thế giới cũng giống như thế, giống như đây có thể hiểu, nói thời dùng một so sánh với cho nhiều, giác phát thì đồng thời đã trùm khắp.

Ba là răn dè tà chứng.

Chẳng phải tất cả cảnh giới sở văn kia đều không nên chấp lấy, văn nghĩa đều giống như trên.

Kế là huyễn quán, văn có hai:

1. Nói về chánh quán:

64. Tu-tam-ma-bắt đề như thế nào?

Này người thiện nam! nếu các chúng sinh tu Tam-ma-bát-đề, thì trước phải nhớ nghĩ Như lai mười phương, tất cả Bồ-tát mười phương thế giới, nương vào các môn, thứ lớp lần lần siêng năng tu hành Tam-muội. Trước đến tĩnh quán không nhờ duyên bên ngoài, trong huyễn môn đại khởi phải nương Thánh cảnh, trong đoạn oai đức ở trước nói viên, cho nên y theo đại bi hóa sinh. Nay trong đại tràng lại tự khắc tu, cho nên y theo đại trí cầu Phật, cũng có thể chư Phật, Bồ-tát sẽ dùng đại bi làm gốc. Nhưng nương vào Phật, Bồ-tát các thứ pháp môn tự nhiên có đủ đại bi. Trong đạo tràng lại học tâm từ bi, hạn đủ đối duyên liền đem ứng dụng giáo hóa. Thứ lớp: chí tĩnh ở trước quay về thể công thì đốn hiện. Nay theo tướng khác nhau cho nên thứ lớp. Cho nên trước có khởi công dụng, nay thì không có văn, chính là ý này.

Rộng phát đại nguyện, tự huân thành hạt giống: nguyện nghĩa là mong cầu ưa muốn, chúng sinh từ vô thỉ đến nay niệm niệm mong muốn cảnh cảnh năm trần, nay đã liễu ngộ, nên phát tâm niệm niệm mong muốn cảnh sáu độ bi trí… huân tâm thành quen, nên nói hạt giống.

2. Răn nhắc tà chứng.

Chẳng phải tất cả cảnh giới sở văn kia đều không nên chấp lấy:

Đồng như trên.

Kế là Tịch quán, văn có ba:

– Tu quán thành.

65. Tu Thiền-na như thế nào?

Này người thiện nam! Nếu các chúng sinh tu Thiền-na, trước chọn số môn, đây có hai ý:

– Trước dùng sổ tức quán môn, trị các giác quán từ từ nhập diệu cảnh, nhưng tu hơi thở ra vào: Có sáu diệu môn:

  1. Sổ.
  2. Tùy.
  3. Chỉ.
  4. Quán.
  5. Hoàn.
  6. Tịnh.

Hoặc y theo thứ lớp, hoặc tùy tiện, như sớ có giải thích rộng.

– Dưới đây tâm niệm sinh diệt sở tri, bèn là sổ môn.

Trong tâm biết rõ giới hạn đầu số của sinh trụ diệt niệm, do tâm trước dứt tướng nương hơi thở điều tâm tịnh, nên biết rõ trong tâm sinh trú, dị, diệt, thô, tế, vọng, niệm, bổn, mạt, giới hạn, đầu mối, số lượng, nghĩa là sinh diệt mỗi thứ đều có một.

Trú: bốn, dị: hai kinh không có chữ “dị”, hoặc thoát nghĩa hoặc sơ lược, nghĩa phải có đủ, y theo luận nói Thập tín, phàm phu biết được tướng diệt, tam hiền biết được tướng dị. Bậc Thập địa biết được tướng trụ, vị mãn biết được tướng sinh. Biết được tướng sinh: Động niệm đều hết, chỉ còn nhất tâm, nên luận nói tâm không sơ tướng, mà nói biết sơ tướng, tức là vô niệm, nếu được vô niệm thì biết tướng tâm. Sinh trú dị diệt cho đến đều không tự lập, xưa nay bình đẳng, đồng một giác. Giải thích rằng đã nói động niệm đều hết, xưa nay bình đẳng, đồng một giác.

Chính ngay môn này quán trong sự dứt đối đãi.

Hỏi: Văn không nói vô niệm, làm sao mà đồng với đây.

Trả lời: Thể dụng của ba quán văn ở chương trước. Văn này chỉ nói phương tiện của tu. Kia có niệm dứt đối đãi, lại có văn vắng lặng, do đó khoa nói linh tâm dứt đối đãi, dứt đối đãi vô niệm nhất giác linh tâm đâu chẳng đồng với tà? Cho nên biết tuệ của dứt niệm, mới có công năng biết rõ sinh trụ diệt niệm. Cho nên ở đây nói về quán.

66. Giải thích thêm về pháp tu:

Trùm khắp như thế, trong bốn oai nghi phân biệt niệm số, đều biết rõ. Ban đầu thì ngồi yên soi thấy, sau thì đi đứng đều biết, biết tức không lo lắng. Thí như yêu mị muốn dựa người, nếu gọi đúng tên chúng thì chúng biến mất. Kinh Niết-bàn chép: Như người biết là cướp thì cướp không thể làm gì được. Thứ hai là khởi công dụng.

Thứ lớp tăng tấn cho đến biết được, một giọt nước mưa trong trăm ngàn thế giới, giống như mắt thấy vật thọ dụng: Tịnh tâm là tự thể viên giác, thế giới vốn ở trong đó, quán hạnh thành tựu, hoàn toàn hợp với linh nguyện, như giọt mưa chẳng phải chỉ giọt mưa, muôn vật đều như vậy. Nêu một dụ nhiều, lại nêu giọt mưa, phàm phu mê chân tâm này, tùy niệm sở tri, nên không có dụng kia.

Kế là Răn nhắc tà chứng:

Chẳng phải tất cả cảnh giới sở văn kia đều không thể chấp lấy, nghĩa văn y theo ở trước.

Kế là tổng kết:

Đó gọi là phương tiện đầu tiên của ba pháp quán, trước hỏi rằng: Ba tịnh quán lấy gì làm đầu? Nên đáp rồi, kết thúc rằng: Đó gọi là đẳng, liền biết đoạn trước ba quán các luân tuy giải thích tướng đầy đủ, phương tiện thú nhập ở đây sẽ nói.

Hai tu cả ba quán:

67. Nếu tu cả ba thứ thì gọi là Như lai xuất hiện ở đời:

Nếu các chúng sinh tu cả ba thứ, siêng năng tinh tấn, thì gọi Như lai xuất hiện ở đời. Như lai vốn thị hiện sinh, chỉ vì lý do khuyên chúng sinh tu tập. Nay ba quán đã tu thì muôn hạnh đã đủ. Cho nên người này được gọi là Phật ra đời. Lại chính người này bổn giác lìa niệm, gọi là Phật ra đời, nhưng trước lìa bốn bệnh, nói rằng chứng giác bát Niết-bàn. Nay tu ba quán gọi Như lai ra đời. Nay đem Niết-bàn xuất thế tương đối mà giải thích, có hai môn.

1. Y theo thật nghĩa.

2. Y theo đối cơ. Thật nghĩa có ba:

a) Chân đế duyên khởi tức không, thì chẳng phải ra đời, chẳng phải Bát-niết-bàn. Nên Đại kinh nói: Như lai không ra đời, cũng không có Niết-bàn.

b) Tục đế chân như duyên khởi: Cho nên niệm niệm, xứ xứ đều xuất hiện, niệm niệm xứ xứ đều Niết-bàn. Đại kinh lại nói: Bồ-tát nên biết, niệm niệm tự tâm thường có Phật thành chánh giác, như tự tâm tất cả tâm chúng sinh cũng giống như thế, tức là niệm niệm. Lại nói: Nên biết không có một chút hư không nào không có thân Phật, tức là xứ xứ. Niết-bàn tức là như trên khắp tất cả nơi thân Phật xuất hiện, đã là tướng của duyên khởi hữu vi, niệm niệm liền sinh liền diệt, bốn tướng đồng thời, nay vì sinh sinh liền diệt, vì niệm niệm xứ xứ đều nhập Niết-bàn.

c) Y theo Đệ nhất nghĩa đế: Chính là thường trụ thế, thường Niết- bàn. Nghĩa là vắng lặng mà thường chiếu là trụ thế, chiếu mà thường vắng lặng là Niết-bàn.

Đối căn cơ: cơ duyên cảm thì xuất hiện dưới cây Bồ-đề, cơ duyên hết thì Niết-bàn giữa song lâm. Nên Đại kinh chép: Này tác Phật tử! Chư Phật, Như lai vì khiến chúng sinh sinh tâm ưa thích nên xuất hiện ra đời, muốn khiến cho chúng sinh sinh tâm luyến mến nên thị hiện Niếtbàn, thí như mặt trời mọc chiếu khắp trong các chậu nước sạch ở thế gian, đúng ý kinh này phối hợp giải thích nên biết. Song ba quán này tuy mỗi quán có tướng chứng, nhưng lý thật khắp tu mới khế hợp viên giác Như văn trước nói:

68. Tu xen lẫn ba quán:

Ba Tu xen lẫn ba quán, văn có ba:

1. Nói về tu quán không thành.

Nếu chúng sinh độn căn ở đời mạt pháp sau này, tâm muốn cầu đạo không được thành tựu, bậc hạ trong bậc hạ năng lực không tùy tâm.

2. Dạy sám hối dứt trừ hoặc nghiệp.

Do nghiệp chướng xưa phải siêng sám hối, thường khởi hy vọng, trước dứt yêu ghét, ganh ghét, dua nịnh, cầu tâm thù thắng cao thượng, lại phát thệ nguyện quyết tâm muốn chứng. Gia công khích lệ, chí cầu sám hối nghiệp chướng, dứt các sai lầm. Trong luận cũng chép: Nếu người tu hành tín tâm, do tội nghiệp từ đời trước quá nhiều làm chướng ngại, nên phải mạnh mẽ lễ bái, sám hối…

3. Dạy tùy tiện tu xen lẫn.

Ba thứ tịnh quán, tùy học một quán, quán này không được, lại tập quán kia, tâm không buông bỏ, thứ lớp cầu chứng. Có người bị sắc tướng làm trở ngại, quán không tĩnh khó thành, trước quán sắc huyễn, huyễn tức hoàn toàn không, tĩnh quán mới thành. Lại có người chấp định là thật sắc, ngại ở tâm thức, khó tu huyễn quán, trước biết thể kia vốn không mà không ngại thấy tướng, mới thành giả huyễn. Lại có người trong tu khó thành dứt đối đãi, trước biết giả hoàn toàn không mà vô giả, không hoàn toàn giả mà chẳng phải không. Không giả đều không, bặt dứt ở đối đãi, mới thành vắng lặng. Lại, có người thấy thẳng nguồn tâm, mới biết các pháp tức tánh nên không, không hoại tướng nên giả, hoặc chỉ từ tánh hiện nên giả, không có sở hiện khác nên không, trước sau nương nhau như các luân nói. Trong kệ khen ngợi có hai, hoàn toàn giống như văn xuôi.

69. Đức Phật nói kệ:

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:

Viên giác ông nên biết

Tất cả các chúng sinh

Muốn cầu đạo Vô thượng

Trước phải kết ba kỳ.

– Kỳ là hạn.

Sám hối nghiệp vô thỉ, trải qua hăm mốt ngày, sau đó chánh suy nghĩ.

Tu hành trong thời hạn.

Chẳng phải cảnh sở văn, cuối cùng không đáng chấp, răn nhắc chấp lấy tà chứng.

Xa-ma-tha chí tĩnh, Tam-ma chính ghi nhớ.

Thiền-na rõ nhiều môn, ấy gọi ba tịnh quán.

Nếu siêng năng tu tập, ấy gọi Phật ra đời.

Độn căn chưa thành thục, thường nên siêng sám hối, tất cả tội vô

thỉ, các chướng nêu tiêu diệt.

Cảnh Phật liền hiện tiền.

Cùng tu kết thúc trước và pháp an cư, Văn xuôi có, kệ không. Cảnh Phật xuất hiện, trước Văn xuôi, sau kệ, ngoài ra chỉ có văn sơ lược.

70. Phần lưu thông:

Đoạn văn lớn thứ ba là phần lưu thông, nghĩa là phần chánh tông pháp nghĩa đã rộng khắp, muốn khiến cho lợi ích rộng lớn nơi khác, thấm nhuần lưu truyền đời vị lai thông thái xoay vần vô cùng, nên có phần này, đều không có người truyền là không lưu truyền, truyền thì không trụ, không trệ. Truyền gặp chướng nạn là không thông. Thông thì không lấp không bít, văn có năm:

  1. Vui mừng nghe pháp sâu xa, thưa hỏi phần lưu thông.
  2. Tỏ ý khen ngợi lắng nghe, giao cảm lưu thông.
  3. Y vào lời hỏi nên nói nội hộ lưu thông.
  4. Bẩm mạng gia vệ, ngoại hộ lưu thông.
  5. Chúng đương thời thọ trì, tổng kết lưu thông.

Ban đầu văn có ba đoạn: giống như trên.

71. Bồ-tát Hiền Thiện Thủ xin Phật khai ngộ pháp không thể suy nghĩ bàn luận:

– Một. Bấy giờ, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: rất dễ hiểu.

– Hai: chính thức trình bày, trong đó có hai:

1. Vui mừng nghe giải thích.

Xin Đức Đại bi Thế Tôn rộng vì chúng con và chúng sinh đời mạt pháp, khai ngộ việc không thể suy nghĩ bàn luận như thế, gần chúc mừng đạo tràng xa trùm một bộ.

2. Thưa hỏi năng thuyên.

Thế Tôn, giáo pháp Đại thừa này, trong phần chánh tông chỉ hỏi pháp nghĩa sở thuyên, pháp nghĩa tuy đã đầy đủ. Phàm tâm khó có thể nhậm trì, khi nghe lãnh hội rõ ràng. Sau đó sợ lại quên lãng, sự phải giữ gìn giáo pháp, đem giáo pháp truyền bá thông suốt. Văn này không mất, theo văn hiển nghĩa, nương nghĩa khởi quán, mới thành tu hành chân chánh, nên đây hỏi về kinh giáo.

Danh tự là gì? Hiểu nghĩa trước phải biết tên, quên tên thì nghĩa không rõ, vâng giữ như thế nào? Trước tuy đã nói trì pháp, nay hỏi trì giáo.

Chúng sinh tu tập được công đức gì, y theo lý tu hành chứng Thánh, đã biết công đức vô biên, thọ trì danh giáo, sợ không lợi ích nên hỏi.

Vì sao dạy ta che chở người trì kinh? Dạy các Bồ-tát chúng ta… ở đời mạt pháp, hộ vệ người thọ trì kinh này? Truyền bá giáo này đến nơi nào? Mười pháp hạnh. Hoặc người một bề đối với kinh giáo liễu nghĩa này, cúng dường, viết chép, bố thí, thích thọ, chánh thọ, đọc tụng, giảng nói, giải thích, suy nghĩ, tu hành, phân bố, truyền bá như thế, chẳng hay trí tuệ, công đức của người này rốt ráo đến địa vị nào? Dưới đây là ba lần xướng mô phỏng theo trước.

72. Phật hứa khả nói pháp:

Nói lời như thế xong, năm vóc gieo sát đất, ba lần thỉnh như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hiền Thiện Thủ rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có khả năng vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, hỏi Như lai về danh tự, công đức kinh giáo như thế! Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho: bấy giờ, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ vui mừng vâng lời dạy và các đại chúng im lặng lắng nghe.

Kế là Y lời hỏi nên nói, văn có hai:

1. Nêu người năng thuyết, năng hộ.

73. Kinh này được chư Phật ba đời nhiều như số cát sông hằng nói ra và giữ gìn:

Này người thiện nam! Kinh này do trăm ngàn muôn ức chư Phật nhiều như sát sông Hằng nói ra, nói kinh này Phật đã là chân thân, chân thân vô ngại trần sa đồng thể, nên nói một tức là nói nhiều. Kinh Hoa Nghiêm chép: Các Đức Như lai trong mười phương đồng một pháp thân. Nhất tâm nhất trí tuệ, lực vô uý cũng như thế, lại kinh bất liễu nghĩa thì tùy phương có nói, không nói. Giáo pháp liễu nghĩa không Phật thì không nói, như Hoa Nghiêm chép: ta không thấy có cõi nước Phật, chẳng nói kinh này…

Được Như lai trong ba đời giữa gìn, cũng như kinh Hoa Nghiêm chép: Chư Phật của chúng ta hộ trì pháp này, khiến tất cả Bồ-tát đời vị lai chưa từng nghe thảy đều được nghe.

Chỗ quy y của Bồ-tát mười phương, trong nhân hạnh đều từ đây mà thành Phật.

Nhãn mục thanh tịnh của mười hai bộ kinh, vì suy cho cùng thì mê vốn chiếu suốt nguồn giác, là dùng lý xuyên suốt nghĩa các kinh đều cùng tận, như thế nếu hiểu thì các giáo sáng bừng lên, nếu không hiểu thì làm sao biết chánh đạo? Nên nói nhãn mục.

2. Trả lời pháp sở thuyết, sở hộ, văn có năm:

– Trả lời danh tự.

– Trả lời sở chí

– Trả lời vâng giữ

– Trả lời công đức

– Trả lời hộ trì.

1. Kinh này tên là Đại Phương Quảng Viên Giác Đà-la-ni, cũng gọi là Tu-đa-la Liễu Nghĩa. Kinh có năm tên.

2. Tên đã giải thích, cũng gọi Bí mật vương Tam-muội, chẳng phải pháp khí thì không nghe được gọi là bí, tùy theo pháp khí khác nhau mà nghe gọi là mật, tên Tam-muội kia có nhiều vô lượng. Tammuội Viên giác là gốc, nên gọi là vương.

Cũng gọi là Như lai quyết định cảnh giới: Chỗ chứng cùng tột. Cũng gọi là Như lai tạng tự tánh sai biệt, Như lai tạng tức là tên của viên giác tại triền, vọng không thể thay đổi gọi là tự tánh, tùy duyên khởi vọng gọi là khác nhau. Lại, không Như lai tạng, bất không Như lai tạng, tức là khác nhau.

Ông nên vâng theo hành trì: Dạy khiến nương vào danh nghĩa này mà hành trì. Nghĩa là người đã ngộ thì văn tánh lìa mà trì pháp, người chưa ngộ không lìa văn mà trì nghĩa, là tướng của vâng giữ. Nhưng trả lời câu hỏi vâng giữ, hoặc dùng văn hiển bày thì không ngại. Nhân nói tên kinh, nương vào thế văn mà trả lời ở đây, nếu dùng nghĩa để cầu thì ở trong môn đốn tiệm ở sau.

Kế là trả lời chỗ đến, văn có hai: a. Nêu hạnh sở y:

74. Kinh này chỉ bày cảnh giới Như lai:

Này người thiện nam! Kinh này chỉ bày cảnh giới Như lai, chỉ có Phật, Như lai có khả năng nói hết. Trước nói giác địa thanh tịnh của các chúng sinh này. Lại nói vô minh, tham ái, bốn tướng, bốn bệnh. Nay nói chỉ hiển bày cảnh giới Như lai, câu sau tự giải thích. Chỉ có Phật năng thuyết, nên nói vô minh… đều không thật có, chính là cảnh Phật. Cảnh Phật nếu không hiển bày thì chúng sinh đâu thể đều không, nêu chúng sinh chẳng không thì đâu thấu suốt giác địa? Nên tín vị trong Hoa nghiêm tức là cảnh Phật sâu xa. Tuy trí và tri khác nhau, nhưng đều là cảnh giới Phật, là ý này.

b. Nương tu sở chí:

Nếu các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, nương đây tu hành là mười pháp hạnh.

Từ từ tiến đến Phật địa, do kinh chỉ hiển bày cảnh Phật nên tu sẽ đến Phật địa.

Kế là trả lời vâng giữ, văn có hai:

1. Pháp:

75. Kinh này là Đại thừa Đốn giáo:

Này người thiện nam! Kinh này gọi là Đại thừa đốn giáo, chúng sinh đốn cơ nhờ đây khai ngộ, cũng nhiếp tất cả các phẩm tiệm tu. Tông là đốn giáo, sự đủ tiệm môn, đã đốn, tiệm đều thâu, thì chậm mau đều được lợi ích. Nhập và không nhập đều hãy lưu tâm, nên trong phần chánh tông có chia thượng, trung, hạ.

2. Dụ:

76. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ:

Thí như biển lớn không nhường dòng nhỏ, nói tiệm giáo thì trái đốn giáo, đốn môn phải đủ tiệm môn.

Cho đến muỗi mòng: Ở đây dụ cho Nhị thừa, thọ trì, và A-tu-la:

ở đây dụ cho Bồ-tát thọ trì, uống nước ấy đều được đầy đủ, biển lớn có nước vô lượng, uống thì lượng bụng nhiều ít. Viên giác có vô biên pháp môn, lãnh thọ thì tùy căn khí đốn tiệm.

Kế là trả lời công đức: văn có ba:

1- So sánh bố thí tài bảo với nghe kinh cao quý, ý nói phước kia, dùng phước so sánh.

2- Lấy việc độ người so sánh với nói kinh cao quý, ý nói trí kia. Chẳng có trí không thể độ người, lại người nghe giả khiến thể không hiểu, cũng sinh vật ấy. Lại người nghe dù không hiểu nhưng cũng sinh phước. Người nói thì không gì không hiểu, nên chỉ có trí.

3- Dùng nhân đời trước trở lại nghiệm xét, hiển bày tin kinh cao quý đều nói phước trí. Trong phần đầu có hai:

a) Nêu kém.

77. Công đức cao quý được nghe kinh này:

Này người thiện nam! Giả như có người, thuần chất bảy báu đầy tam thiên đại thiên thế giới, để bố thí, chứa phước nhiều như thế nào phải biết.

b) Nói lên sự cao quý.

Không bằng có người nghe tên kinh này và nghĩa một câu, như kinh Kim cương so sánh văn ví dụ. Nghĩa là vật báu ở đời đầy cõi nước có thể giúp cho quả hữu lậu quả, một lời diệu pháp quyết được quả báo Bồ-đề.

– Lấy việc độ người so sánh, nghĩa là trước đem phước kém hiển bày phước thù thắng, ở đây dùng trí kém hiển bày trí thù thắng, văn có hai:

1. Nêu kém:

Này người thiện nam! Nếu có người dạy bảo trăm Hằng hà sa chúng sinh được quả A-la-hán, thì phải biết chứa nhóm công đức nhiều như thế nào.

2. Nói lên sự cao quý.

Không bằng có người giảng nói kinh này, phân biệt nửa bài kệ, hoặc cả bài kệ, đó là bốn câu; Câu có hai thứ, là văn cú và nghĩa cú. Nếu nói về văn cú, tức là hai câu là nửa bài kệ, hoặc nói theo nghĩa cú, tức là nói tất cả pháp xưa nay vắng lặng, là nửa bài kệ. Nói rõ thể “không” là bất “không” mới là cả bài kệ, hoặc vô thường, chân thường làm nửa bài kệ và cả bài kệ.

78. Nói lên ton kinh cao siêu:

– Do nhân đời trước nói lên tin kinh cao siêu.

Cả hai nói về phước trí, văn kinh tự hiển rõ, văn có hai:

  1. Nói về nghe tin: Này người thiện nam! Nếu lại có người, nghe tên kinh này tín tâm, không mê lầm.
  2. Nghiệm xét nhân đời trước, văn có hai:

Trở lại nói rõ:

Nên biết người này, chẳng phải đối với một Đức Phật, hai Đức Phật gieo trồng các phước tuệ.

Thuận nói:

Như thế cho đến đối với tận số cát sông hằng tất cả các Đức Phật, trồng các gốc lành, nghe kinh giáo này, cũng như thế văn Kim cương, nhưng tin tông này thì chắc chắn là tin hiểu. Tín bao trùm biển quả không phải duyên nhỏ, nên nghiệm nhân đời trước, cũng chẳng xem thường người.

Kế là trả lời hộ trì:

79. Phật bảo Bồ-tát nên hộ trì người tu hành đời Mạt pháp:

Thiện nam! Các ông nên hộ trì những người tu hành đời mạt pháp này, vì làm cho ác ma và các ngoại đạo, não loạn thân tâm người ấy làm cho lui sụt. Trước hỏi hộ trì như thế nào? Nay trả lời ý rằng: Không để cho ác ma ngoại đạo làm não loạn thân tâm, tức là hộ trì. Nhưng làm não loạn thân tâm đều chung cho tà ma ngoại đạo, nếu phối hợp nghĩa ấy thì ngoại đạo dùng tà trí mê hoặc người khiến nghi, đó là não loạn tâm. Ma dùng thần lực gây ra nhiều việc không yên, cho đến bệnh… là não thân. Nên kinh nói các ma ấy ưa sinh tử. Ngoại đạo: chấp đắm các kiến… Hai việc đều làm cho tâm ban đầu của người tu hành lui sụt.

Thật nhờ hộ trì.

(Vâng) bẩm mạng ngoại hộ, văn có ba:

1. Chúng lực sĩ:

Lúc bấy giờ, trong hội có Hỏa Thủ: Thủ là đầu, vì trên đầu có ngọn lửa. Kim cương: Vì cầm chày này, nếu lấy tên thì gọi là lộ kiên thần. “Tồi toái Kim cương Ni-lam-bà” không rõ đời Đường dịch là gì.

80. Tám muôn vị Kim cương cũng phát nguyện hộ trì:

Tám muôn vị Kim cương như Kim cương… và quyến thuộc, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sinh đời mạt pháp về sau, có thể thọ trì Đại thừa quyết định này thì chúng con sẽ gìn giữ như giữ gìn tròng mắt, cho đến chỗ đạo tràng tu hành. Chúng con Kim cương tự lãnh đồ chúng, sớm tối che chở không để cho lui sụt: Vị thần này lúc mới phát tâm thường phát đại nguyện, nguyện làm lực sĩ che chở người tu hành.

Nhà kia: là chúng tại gia.

81. Kết quả của việc hộ trì:

Cho đến không bao giờ xảy ra tai nạn, chướng ngại, tật bệnh tiêu diệt: Hễ phát đại tâm thì thường có chướng nạn, chướng nạn nhiều thứ lược nêu tai họa bệnh tật, nên nói cho đến. Nay được thần che chở tất cả đều tiêu trừ.

Tài bảo dồi dào: giúp duyên tu đạo, không cần phải giàu có mới gọi là dồi dào, nên kế chỉ nói: Thường không thiếu thốn, không thiếu hụt. Thẳng đến diệu môn không lui sụt.

82. Các vị khác cũng phát nguyện hộ trì:

2. Chúng Thiên vương.

Lúc bấy giờ, vua Đại Phạm: Chỉ riêng vua cõi Sơ thiền, đứng đầu thế giới Ta-bà.

Vua hai mươi tám tầng trời: Chỉ chung ba cõi.

Và núi chúa Tu-di: Gọi riêng trời Đế Thích.

Hộ quốc Thiên vương… chỉ riêng bốn vua. Nêu riêng ba loại ấy, vì Phạm vương và Đế Thích, khi chư Phật xoay bánh xe pháp đều là thỉnh chủ, che chở thế gian, giữ gìn đất nước, khiến tai hại không sinh, ngoài việc nêu chung còn nói riêng.

Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con cũng che chở người trì kinh này, thường giúp cho an ổn, tâm không lui sụt, là nói về che chở.

3. Chúng quỷ vương.

83. Các quỷ vương cũng phát nguyện hộ trì:

Lúc bấy giờ, có quỷ vương Đại lực, tên là Cát-bàn-trà, cũng gọi là Cưu-bàn-trà, ăn tinh huyết người, quỷ này đi nhanh như gió, biến hóa rất nhiều, trụ trong rừng vắng, cai quản các chúng quỷ, nên hiệu là vương, đi đến đạo tràng làm người đứng đầu.

Cùng mười muôn quỷ vương, có mười muôn vị, nhất nhất như ở đây, dựa vào núi sâu hoặc ở hang sâu, hình dáng quỷ này đáng sợ, thường hay thay đổi, không thuộc trời người, sống trong đường quỷ.

Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, bạch Phật rằng: con cũng giữ gìn là người trì giới kinh, sớm chiều bảo vệ không để lui sụt, không có chướng nạn nên không lui sụt.

Chỗ người kia ở, trong một do-tuần: Một do-tuần là bốn mươi dặm, có chỗ nói mười sáu dặm.

Nếu có quỷ thần nào xâm phạm cảnh giới người ấy, thì con sẽ làm cho họ bị nghiền nát như bụi nhỏ. Nghiền nát cảnh giới quỷ thần là che chở tâm Bồ-đề của Phật.

Kế là Chúng đương thời thọ trì.

84. Đại chúng trong hội thọ trì:

Phật nói kinh này rồi, tất cả Bồ-tát, trời rồng, quỷ thần, tám bộ quyến thuộc, và các Thiên vương, Phạm vương, tất cả đại chúng nghe Phật nói rồi đều rất vui mừng, tin nhận vâng làm. Kinh Văn-thù Sở Vấn chép: Có ba thứ nghĩa vui mừng vâng làm:

  1. Người nói thanh tịnh, không bị chấp đắm danh lợi làm nhiễm.
  2. Những điều nói ra thanh tịnh, vì đúng như thật biết pháp thể.
  3. Được quả thanh tịnh, tức là lợi ích.Kệ:

Tự nhớ vô thỉ mê biển tâm

Nhiều kiếp trôi nổi sóng sinh tử

Chư Phật như Bụi hiện trong người

Cây nổi rùa mù khó gặp được.

May sao thân này gặp giáo pháp

Nghìn lớp nghi trệ đều tiêu tan

Suy nghĩ nhiều đời chứa hiểu biết

Hổ thẹn Thiện tri thức nhiều đời.

Thượng sĩ từ bi thương đời mạt pháp

Đầu cuối thứ lớp hỏi ý kiến

Năng nhân cảm ứng xứng nguồn tâm

Đầu cuối không ngăn liền giảng nói.

Đã nắm các nơm gõ lặng chân

Tùy ý chỉ Thánh giải văn này

Hồi hướng công đức khắp chúng sanh

Đồng nhập kho ánh sáng thần thông.

 

********

KHUÊ PHONG ĐỊNH TUỆ THIỀN SƯ DAO BẨM THANH LƯƠNG QUỐC SƯ THƯ

Tông Mật chúc mừng may mắn, trộm bẩm văn sớ của Hoa nghiêm Hòa thượng, tuy nương lễ mà đủ để hiểu sinh ư. Tông mật hận vị nhiều lần có sự cố, không được sớm đi đến sinh hoạt thường ngày. Tình hình bên dưới thêm nhiều hoảng sợ, đã chưa nhắm mắt, dám tự bày tâm. Nếu không kể bổn duyên ban đầu thì làm sao nói lên bản chất thành thật? Muốn ghi lời thành thật, sợ cõi trần thấy nghe, tiến lùi không thôi. Cúi mong soi xét thứ lỗi?

Tông Mật vốn là một người nghèo ở Ba giang, chí hiếu đạo mà không thích nghệ thuật, dù vui chơi giải trí mà quyết dục căn với đạo. Từ tuổi thay răng sữa cho đến tuổi đôi mươi, mặc dù thi thư là nghiệp, nhưng thường giác không chỗ về, lại một bên cầu giải thích tông, mỏng manh dường như có nương nhờ, phải biết quả báo của nghiệp duyên, như bóng theo hình, vang theo tiếng, liền bỏ ăn mặn, nghiêng cứu kinh luận, gần gũi bậc thiền đức, nương tựa hàng danh tăng, nhà ở thường thiết lập pháp diên, cư sĩ thường đến nghe giảng. Nhưng nhờ may mắn học được giáo pháp cùng tột, ngộ chẳng phải là viên tông, không tạo nguồn tâm vọng, hoặc vẫn còn rõ ràng, sau gặp pháp môn của Viên Hòa thượng, chùa Đại Vân thuộc Toại châu, tức là con cháu của Hà Trạch, ngay lời nói khế hợp, đạo thầy trò hợp nhau. Một lòng sáng như muôn đức, đã biết công việc nghệ thuật ở đời vốn không liên quan nhau, nên cạo tóc xuất gia, siêng năng kính thờ, thói quen càng ngày càng bỏ bớt, giác trí càng luyện càng tinh, nhưng đối nhân quả thân tâm, giống như trong lòng vắng vẻ, lý sắc không, chưa từng ở trong lòng, nhiều lần bàn bạc tham khảo mới được trao cho. Quán môn pháp giới Hoa nghiêm của Đại sư núi Chung Nam là kho báu của Phật pháp, từ đây rõ ràng, bốn người cùng chí đẽo gọt nhiều năm, trong một câu lý luận thì “thông suốt chưa nghỉ”, trong một việc nghĩa thì trần sa chẳng tính toán, biết nước thường ướt đâu nghi sự khác nhau của dáng sóng, ngộ gương thường sáng không sợ hãi sự thay đổi của hình bóng, cõi tịnh cõi uế chẳng hoại chẳng thành, chư Phật chúng sinh đâu có sanh diệt? Vì thế niệm trùm ba đời, đồng thời cùng ứng biến lẫn nhau, trần cùng mười phương toàn thể tức nhau nhập nhau nhiều đời, tính toán sai lầm, luống chịu đắm chìm, ngày nay chánh quán thỉ giác vốn đồng với đại dụng, sau đó mới hiển bày cảnh giới.

Lìa tình thì chỗ nào cũng soi chiếu rõ ràng, có khả năng giải thích đại kinh, phối hợp với văn thì khó thông hiểu. Chương tiết và câu cú rõ ràng thông suốt nhân quả nhiều lớp. Lý tuy một vị, thế thay đổi nhiều mối, nghĩa môn khác nhau, cùng tận huyết mạch, không biết khoa đoạn, ý chẳng liền nhau, dù cho trải qua các trường giảng, không thẹn đã ngộ, danh tướng phức tạp, khó khế hợp tự tâm. Tông Mật nói rằng ví dụ chương sớ chỉ như thế, liền dừng tâm truyền giáo, thỏa thích ý nguyện đi khắp bốn phương, chỉ lấy quán môn chung nam làm trợ duyên, nhờ lìa tình thuận trí làm tự lực soi chiếu dung thông, thông pháp giới mà nương cậy, chỉ sự lý nói xa, vì lợi tha dùng thân tâm mộng huyễn dạo chơi trong thế giới hình bóng. Thần thông cảnh mầu trí rõ nghĩa môn, trèo non lội suối đến Tương Hán, ở chùa Khôi Giác gặp Xà-lê Linh Phong, tức đệ tử của Hòa thượng là một vị có trí tuệ. Ngủ vùi vài tháng dần dần đến chỗ suy yếu, gặp nhau ba ngày mới hiểu lòng họ, nguyện đem phần kinh và sớ sao đã được trao cho, bàn bạc chưa chu đáo bỗng đã qua dời, đây là pháp hội kiếp trước nén chịu chết đợi đến nay, hoặc thấy hoặc nghe đều ngạc nhiên khen ngợi, Tông mật khác nào được uống cam lộ, nghèo mà được ngọc Ma-ni.

Lòng vui mừng cầm tay hớn hở, liền ở núi này chẳng hề trở về, quên ăn mất ngủ, đem trước phi tầm, dùng sớ thông kinh. Dùng sao giải thích sớ, tìm văn mà lìa tánh, chiếu lý mà quên tình, hợp ở tâm, hiểu ở giáo. Nghiên cứu nguồn gốc, tìm tòi ngọn ngành, tông đồ sáng rỡ, các việc nghi ngờ một đời gợi sạch vết bẩn che lấp, đã từng quen nghĩa ở đây thông hiểu. Trong tâm ngoài cảnh thông suốt không ngăn cách, thật nói rằng mặt trời lên mà trời, đất, Đông, Tây, Nam, Bắc chiếu sáng, biển lớn trong xanh, muôn tượng rõ ràng. đức mầu trí sáng lập tức mở bày, hạnh khắp của Phổ Hiền đều hiện, lưới của một bộ bốn phần năm châu ở tại giềng mối, các dòng Sáu tướng, mười huyền, ba thừa đều chảy về biển, nghĩa thì sắc không đồng với trung đạo, giáo thì quyền thật dụng ở viên tông, lý thì thể dụng liền vắng lặng, mà tánh, tướng rõ ràng; trí thì phàm, Thánh coi như nhau mà nhân quả không luống dối, nói lên tùy duyên mà bất biến. Kinh lớn thì nghĩa lý và thú vị vẹn tròn, chỉ huyễn mà biết chân, tu quán thì thiền tâm rộng mở, mênh mông văn kinh chín hội đều hợp với tâm, do đây đáng gọi là Khế kinh. Khiến tâm địa nhất chân đều ấn kinh, do đó đáng gọi là tâm ấn. Chính là biết chấp văn trong ba tạng quả thật là mất đạo, hạn chế nghĩa nhất tánh ấy vẫn chưa viên thông.

Thanh văn mù điếc chẳng lẽ không luống dối ư? Tông mật khi chưa gặp sớ thường xem việc trước thuật xưa nay, đối với lý có lẽ thích hợp. Hận vì không biết hội nghị giảng hòa. Thiên thai, Thiền tông phần nhiều y theo chỉ quán. Đẹp thì đẹp, hơn nữa thế nghĩa lần lượt truyền xa, không chỉ bày thẳng hành tướng tự tâm chúng sinh. Tuy rõ ràng nhập xứ giống như trải qua thứ lớp đâu như hỏi rõ, giải thích kệ Văn-thù ấn linh tri mà tâm thức mau trừ bỏ. Nói mông lung mở chương rõ ràng, hiển bày chân không nên tướng dụng thường khởi, khởi chẳng khác tánh, sự sự dung thông, thông mà thu nhận lẫn nhau, lớp lớp vô tận, ngộ đây thì hoàn toàn đồng quả Phật, mới là nhân đầy đủ, tùy duyên tu tạo, đều xứng với thể, mở bày đốn tiệm thiền yếu, có thể lấy đây làm gương lưu truyền giáo môn quyền thật, có thể lấy đây làm phép tắc, vị thuốc được ở Tuyết Sơn khéo thấy thì các bệnh đều tiêu trừ, được vật báu Ma-ni ở biển xanh, ngàn vật quý báu tùy niệm. Huống chi là văn quyển rưỡi, bao gồm hết các nghĩa, đầy đủ nguồn dòng, khắp cùng danh thể, sau đó dung thông thành bộ này, hoàn toàn lựa chọn, hoàn toàn nhận. Nếu được tinh ròng, đã lãnh hội nghĩa văn của trăm nhà, công ít được nhiều, quan trọng là ở đây? Hễ nói giải thích lưu truyền sao không thể luyện tập? Tông mật đời trước gặp nhiều may mắn, cùng trồng gốc lành, gặp kinh như thế, gặp sớ như vậy. Vừa mới bữa cơm thịnh soạn chưa dám ăn liền, nay được có văn bản rõ ràng ấn quyết. Tâm ý bình tĩnh, thệ nguyện đời đời hy sinh tánh mạng mở rộng, đương thời liền được tăng ni đồ chúng. Do thỉnh mời khen ngợi, mục đích là tự mình ôn tập, khóa hư thuận mạng, chỉ nương văn phối hợp tụng đọc mà thôi, đâu đủ để phát minh ở người? Vì hiển rõ Viên tông, sợ nhiều người vỗ tay, nếu có duyên đời trước gieo trồng chắc chắn cái nghe tức là bẩm thừa. Từ đầu đến cuối có thể đếm được mười người thệ nguyện tu học, vì sớ văn này mầu nhiệm, lưu truyền không luống dối, đâu thể với chút tài mà cảm được như thế. Ở tương dương giảng, tạm đến Đông đô, lễ tháp Tổ sư, liền nghĩ rong ruổi, lại dừng ở chùa Vĩnh Mục, đồ chúng ở Tương dương đến tìm, lại mời lần thứ hai giảng khắp. Lại nghe kinh này bèn bằng lòng cho chúng thưa hỏi. Cuối cùng huyền sớ ngược lại đến Thượng Đô, ngày mồng bảy tháng này mới xong, nghe Đồ Thái Cung liền chặt một cánh tay, nói: Tự vui mừng đã gặp pháp, huyền diệu khó nghĩ bàn liền dùng biểu thành khẩn, thệ nguyện tu học, đây là do Hòa thượng oai đức rộng khắp, dạy phải thực hành, tông chi trong môn hạ có sự tinh khổ này. Anh ta lại chặt đứt tay chân, làm thương tổn gân cốt, đều không đau xót, thần sắc tự tại, từ đầu đến giờ thân tâm vẫn như cũ. Hoặc đạo, hoặc tục đều lấy làm lạ, công năng của quán trí cảm ứng rõ ràng. Bấy giờ, tỉnh Đài Loan có ứng nghiệm, sự tích rõ ràng, tôn kính lưu giữ đại kinh đã nói rõ trong sách của môn hạ, y theo theo bổn ý của nó, đâu phải đều hiển bày, biểu dương? Nhưng môn phát khởi cũng nhờ tinh biểu, theo nó tay loét chưa lành, đến quan đến chùa gởi để nuôi dưỡng, chưa tiện du hành. Dùng lễ này ra mắt, dẫn thầy chậm chạp trái nhau, chịu nhún nhường mà bày tỏ, che đậy thêm lo sợ, cẩn thận chớ nghe theo các học tăng huyền Khuê, Trí Huy, trước trình bày đầy đủ, Tông mật tài năng lời nói khiêm tốn lãnh ngộ, khó trình bày. Cúi xin từ bi đặc biệt nhiếp thọ ban cho, thật là may mắn! Học trò Tông Mật kính sợ lạy trăm lạy.

Hoa nghiêm sớ chủ quốc sư Thanh Lương đại Hòa thượng. Đời Đường ngày mười ba tháng chín năm Tân Mão niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ sáu, tại Đông Đô, thượng Thanh Lương quốc sư trả lời.

Ngày mười hai tháng mười Huyền Khê, Trí Huỵ đến, được thư của ông, kính thầy ở xa, thuật đủ dấu vết hành trì lãnh huyền thú của đại giáo, nói lưu truyền khen ngợi việc thật đau thương cảm động, tâm nhận lãnh. Ta tự truyền bá, hoặc mặt nói, lòng trao cho, hoặc xoay vần phân chiếu đầy đủ ở cõi khác, nhưng Trọng Ni nghiêng về vì Bá Nha mà nối dây đàn, cũng nhờ hình thanh.

Không mặt mà truyền được ý chỉ là hệ biểu, ý vẫn còn trong lòng ta, chưa biết có. Chẳng dựa Thánh lực, phải nhờ nhân đời trước, nên tự an ủi. Chân tử chuyển luân có thể dùng để ví dụ.

Thái cung rất mực trọng pháp chặt cánh tay, thêm sự khẩn cầu nhưng nửa bài kệ quên đuổi một câu ném vào lửa, giáo có văn, ý còn ở ngoài thân, có của báu trọng pháp, nên cảnh cáo người học sau chớ nên bắt chước, nên dứt tình lự của họ, chớ cắt đứt hình hài của họ, nên dứt tâm vọng của họ, không chặt chi phần của họ, thì người hiểu biết cạn cợt dị học đâu thể không kinh sợ khi nhìn thấy. Nếu thế tục không có lời răn đối với tóc da, thời huyền hóa không rộng mà tự thông suốt. Ông nên dốc chí đến chỗ sâu kín. Nếu được một mặt ấn chứng thì được huyền giải, sao lại tán thưởng ư?

Như bỗng nhiên duyên trợ giúp, chỉ phải tâm khế hợp sâu xa cùng cực. Chẳng phải sông, núi, hình thanh mà ngăn cách được, gắng sức không nhiều, nói rằng: Lão tăng Trừng Quán giao cho.

Pháp tử Tông Mật kính nhận.

Ngày hai mươi ba tháng mười học trò Tông Mật vừa ghi lại kính bái.

Vốn giảng Hoa nghiêm sớ chủ, Huyền Khuê, Trí Huy trở về cúi đầu nhận lời chỉ bảo, lãnh nạp sở ngộ sâu xa, hứa khả pháp tịch, lãnh thọ vâng làm không mặc tình vui mừng lo sợ. Thường hổ thẹn tư chất xấu xí, chưa bắt chước sự siêng năng, không có (trong lòng) tấc lòng, ngồi nhờ thâu thể mà tự kinh sợ, may mắn. Mừng quá độ thành buồn rầu, cúi mong từ nguyện rộng lớn giáng xuống đây quá phần. Ấn quyết một kinh liền giác ngộ sáng suốt, hạng người có học thức thêm kính ngưỡng, rất may mắn! Tông mật liền muốn đến cung cấp phục vụ, vì cánh tay Thái Cung lở loét chưa lành, cẩn thận không dám mạo muội, hai ba lần rơi lệ.

Nguyện hầu hạ theo hạnh, nhớ dấu khổ của ông, chẳng nỡ bỏ sót, cúi xin chiếu xét học trò, Tông Mật lại bái tạ bổn giảng Sớ chủ Hoa Nghiêm.

 

Pages: 1 2