ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG

VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA KINH LƯỢC SỚ

Sa-môn Tông Mật chùa Thảo Đường ở núi Chung Nam đời Đường soạn.

Ghi chú: Bộ Kinh lược sớ này nguyên bản Hán có 4 quyển, chia thành hai phần, Thượng và Hạ, mỗi phần có 2 quyển. Ở đây chúng tôi chia  thành hai Quyển (Thượng và Hạ).

BÀI TỰA KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA LƯỢC SỚ

Kim Tử Quang Lục Đại Phu Thủ Trung Thư Thị Lang Thượng Thư Môn hạ Bình Chương Sự Sung tập Hiền Điện Đại Hịch sĩ Bùi Hưu soạn.

Loài khí huyết chắc chắn có sự hiểu biết, hễ có thể hiểu biết thì phải đồng thể, cho nên nói chân tịnh minh diệu hư triệt linh thông tuyệt vời mà riêng còn, là bản nguyên của chúng sinh cho nên gọi là tâm địa, là sở đắc của chư Phật, cho nên gọi là Bồ-đề, thấu triệt dung nhiếp lẫn nhau cho nên gọi là pháp giới, thường lạc vắng lặng, cho nên nói Niết-bàn, không nhơ không lọt rớt, cho nên nói thanh tịnh, không dối không đổi, cho nên nói chân như, xa quấy lìa lỗi cho nên nói Phật tánh, giữ lành ngừa xấu cho nên nói tổng trì, ngầm kín ẩn chứa, cho nên nói Như Lai tạng, siêu vượt huyền bí, cho nên mật nghiêm quốc, bao gồm các đức mà đầy đủ, soi chiếu các tối tăm mà riêng sáng, cho nên nói Viên giác, kỳ thực điều là nhất tâm. Trái là phàm phu, thuận là bậc Thánh, mê thì sinh tử bắt đầu, ngộ thì luân hồi chấm dứt, tự cầu thì chỉ quán định tuệ, suy rộng thì sáu độ muôn hạnh, dẫn ra là trí, sau đó là chánh trí, nương đó làm nhân, sau là chánh nhân, kỳ thực đều là một pháp. Trọn ngày Viên giác, mà chưa từng Viên giác là phàm phu, muốn chứng giác nhưng chưa cùng tột viên giác là Bồ-tát. Viên giác đầy đủ mà giữ gìn viên giác là Như Lai. Lìa Viên giác không có sáu đường, bỏ viên giác không có ba thừa, không viên giác chẳng có Như Lai, mất đi viên giác không có chân pháp, kỳ thật đều là nhất đạo. Sở chứng của chư Phật ba đời, đều chứng ở đây. Như Lai vì một việc lớn mà ra đời. Tất cả kinh điển, mười hai bộ kinh trong ba tạng. Nhưng thừa giáo của Như Lai, tông chỉ pháp có hiển mật, lập nghĩa có rộng lược, thừa thì có trước sau, đương cơ có sâu cạn, chẳng phải thượng căn viên trí, người nào có thể đại thông? cho nên Như Lai đối với Quang Minh tạng cùng mười hai đại sĩ ngầm nói mà diễn bày rõ ràng, tiềm ẩn thông suốt mà rộng rãi, để ấn định pháp kia, là tông chỉ của tất cả kinh. Thiền sư Khuê Phong đắc pháp với Hà Trạch, là cháu đích tôn của nam ấn thượng túc Hòa thượng Đạo Viên, một ngày kia theo chúng tăng ở Châu Thị tại nhậm quán gia phó trai, ngồi ở dưới theo thứ lớp nhận kinh, tình cờ được viên giác liễu nghĩa, quyển cuối, cảm ngộ rơi nước mắt, quay về đem chỗ ngộ thưa với thầy, thầy vỗ về nói: Ông sẽ mở rộng giáo pháp viên đốn, kinh này chư Phật trao cho ông. Thiền sư khâm phục nam tông mật ấn, được viên giác huyền ký, bấy giờ xem Đại tạng kinh luật, duy thức, luận khởi tín… sau đó đốn ngộ pháp giới Hoa Nghiêm, ngồi yên nơi viên giác diệu tràng, nghiên cứu chỗ thấm của giọt mưa, cùng tột sự khác nhau của năm giáo, chính là sớ giải. Phàm đại sớ ba quyển, đại sao mười ba quyển, lược sớ hai quyển, tiểu sao sáu quyển, đạo tràng tu chứng nghi mười tám quyển đều truyền bá ở đời. Giáo ấy là viên, kia thấy pháp cũng triệt, giải thích nghĩa cũng như chẻ củi, nhập quán cũng rõ như cầm đuốc, từ ngữ cũng cùng cực nơi lý mà thôi, không luống dối, văn đó cũng nâng đỡ giáo mà thôi, không tùy tiện, không vì sở trường của người bệnh kia cho nên không bài bác, không vì chưa được đến chỗ bao trùm người, cho nên không bàn luận đến hoài bão, rõ ràng là mắt của mười hai bộ kinh, cốt tủy của ba mươi lăm vị tổ, đại bổn của sinh linh, đạt đạo của ba đời. Đời sau tuy có người làm, nhưng cũng không thể hơn, là một trong bốn chỗ nương, hoặc đích thân nghe ở cõi tịnh độ ư! Làm sao cùng tận nghĩa lý như thế.

Có người nói:

– Đạo không hình tướng, người nhìn chẳng thể thấy; đạo không nơi chốn, người đi chẳng đến; huống chi văn tự ư! Ở nơi tánh mà thôi! Đâu dùng mấy muôn lời mà nói được ư!

Đáp: Than ôi! Không đáng nói, trước không nói hay sao! Gom chung các đức mà đầy đủ soi chiếu chỗ tối tăm mà riêng sáng là Viên giác. Bởi Viên giác có công năng lưu xuất ra tất cả pháp. Tất cả pháp không hề rời Viên giác. Nay văn ba tạng kinh, luật, luận truyền đến Trung Quốc hơn năm ngàn quyển, giải thích những gì? Chỉ là giới, định, tuệ mà thôi! Tu giới, định, tuệ cầu cái gì? Chỉ là cầu Viên giác mà thôi.

Mở ra muôn hạnh mà cầu cái gì? Căn khí của chúng sinh khác nhau, nhưng Đại tạng đều là kinh Viên giác, sớ này là sớ của Đại tạng. Văn khắp năm ngàn quyển dùng sớ vài quyển mà thông hiểu, đâu không đơn giản ư! Sao nói là phiền toái, và sự phiền toái ấy làm mất đường nói năng, dứt tâm suy nghĩ, quên năng sở, diệt ảnh tượng, sau mới đạt được. Cố nhiên không giải thích bên ngoài, than ôi! Chỗ qua lại của sinh linh là sáu đường, quỷ thần chìm trong khổ u sầu, chim thú ôm ấp lo buồn của khỉ, Tu-la mới tức giận, các trời ưa vui, hãy sửa tâm suy nghĩ Bồ-đề, chỉ loài người là có khả năng mà thôi, thân người mà không làm, thì cuối cùng thế nào? Nghỉ ngơi thường dạo chơi ở cõi Thiền sư, được nghe sự giảng nói của Thiền sư, không nhờ tự mình so sánh, chắc chắn là khen ngợi pháp ấy, mà bày tỏ khắp đại chúng, thật ra họ có đủ bài tựa gốc.

 

 

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA

Sa-môn Tông Mật chùa Thảo Đường ở núi Chung Nam đời Đường soạn.

Nguyên hanh lợi ích cho Đức của Trinh càn, bắt đầu một hơi thở, thường, lạc, ngã, tịnh là đức của Phật, vốn ở nhất tâm, chuyên một hơi mà đến cùng, tu nhất tâm mà thành đạo tâm, dựa vào hư không thuần túy sáng suốt linh minh không đi không đến, ngầm thông ba cõi, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài thấu suốt mười phương; không diệt không sinh, đâu thể bị bốn núi làm hại? Lìa tánh lìa tướng, đâu thể bị năm màu làm mù? Trong lòng sống chết, hạt châu ngựa ô chiếu rọi nơi biển xanh, ngồi bờ Niết-bàn, mặt trăng chiếu sáng trên trời xanh thật lớn thay! Muôn pháp luống dối duyên hội mà sinh, pháp sinh vốn không, tất cả Duy thức, thức như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm. Tâm vắng lặng mà biết, soi thấy viên giác, đầy khắp thanh tịnh, trong đó không dung vật khác, cho nên dụng của đức vô biên, đều cùng một tánh, tánh khởi là tướng, cảnh trí rõ ràng, tướng được tánh dung, thân tâm rộng rãi, ấn chứng khắp nơi, vượt qua thái hư kia, lồng lộng, chói chang! Ra ngoài sự nghĩ bàn. Phật của ta chứng đây, thương xót loài mê tình, lại khen ngợi lạ thay! Ba lần suy nghĩ việc lớn, đã đầy đủ mười lực, có thể hàng phục ma quân dưới cội cây, thương mến khởi tứ tâm, muốn chỉ bày kho báu trong nó, nhưng mê đầu bỏ cha, ngộ có khó dễ, vườn lộc dã là đạo tràng giác ngộ, giáo khởi đốn tiệm, tiệm lập năm thời khác nhau, không hữu nhiều lần rõ ràng, đốn không có sự khác nhau của hai đế, bặt dứt đối đãi linh hồn, nay kinh này thuộc loại đốn, cho nên Như Lai vào cõi Tịch quang, Phàm Thánh một nguồn hiện thân thọ dụng, chủ bạn đồng hội, đại sĩ

Văn-thù mở đầu hỏi lý do của bổn khởi, Bạc-già Chí tôn, ban đầu nêu lên quả rốt ráo, chiếu chân thể này, dứt mộng mị kia, biết không nhân ngã, ai chịu trôi lăn, các thứ huyễn hóa sinh trong tâm giác, hết huyễn thì giác viên, tâm không pháp biến, tâm vốn là Phật, do niệm khởi mà chìm đắm, bờ thực không dời do thuyền đi mà thấy bở chạy, mau dứt bỏ vọng tưởng, hư không không sinh hoa đốm, dần dần hết nguồn ái, vàng không có quặng. Lý bặt dứt tu chứng, trí như bực thềm khác nhau, giác trước thì trước quấy, gọi là vị sau này, huống gì là vọng tưởng sinh diệt, các đức tròn sáng ư! Nhưng ngựa giỏi ra khỏi chuồng, đã xa thấy bóng roi, chôn báu lớn dưới bụi đất, mới lập ra cách chữa trị.

Cho nên ba quán trong suốt, chân giả đều nhập vào, các luân tốt đẹp, đơn kép tròn tu, bốn tướng ẩn trong tâm, chẳng giác chống trái, bốn bệnh sinh ra, hoa lòng nở tươi, lại khiến thời gian dài nhớ niệm nhiếp niệm mà gia hạnh, huân tập riêng lẫn nhau nghiệp chướng mê hoặc, chướng mới tiêu mất thành tựu tuệ thân, yên tĩnh giác khắp, trăm ngàn thế giới cảnh Phật hiện ra, chính là do nghe năm thứ danh, vượt cõi báu thí phước, nói nghĩa nửa bài kệ, hơn cả Tiểu thừa hà sa, thật là do chẳng pháp nào không giữ, không có căn cơ nào không trùm! Than ôi! Ba ca hòa chúng, giống như tâm vượn rong ruổi, tuyết khúc là ít, liễu rõ nghĩa ẩn ở long tạng, đều chìm trong nôm lưới, chỉ vị cám gạo, may ở trên sông bồi hợp nhau thì gặp nhau, thiền gặp nam tông, giáo gặp kinh này, một lời nói tâm địa mở mang, trong sách vở, nghĩa trời soi sáng, khoảnh khắc đạo chẳng phải đạo thường, các hành pháp là vô thường, nay biết tâm là tâm Phật, chắc chắn sẽ thành Phật, nhưng Phật gọi là chủng trí, tu nhờ học rộng, cho nên lại đi đến trăm thành, ngồi thăm dò sách vở, giảng tuy rộng khắp, học khởi lại ân sư, được tắm gội nạp thọ như ta, lầm làm con dấu của chân tử, lại gặp bạn thân, càng cảm ơn Phật, giây lâu than thở cô đơn nghèo khổ, trình bày pháp thí, thu thập Bát-nhã, xâu suốt Hoa Nghiêm, nắm dắt Tỳ-ni, phát minh Duy thức, nhưng thuốc chữa muôn bệnh, nên chọn đối trị, báu biển ngàn thứ, trước tìm như ý, quán xét văn dồi dào nghĩa rộng khắp, thật nhường tạp hoa chỉ thể gieo cơ, không phải đều là viên giác, cho nên tham khảo các luận rõ ràng, các nhà hiểu biết cẩn thận kỹ càng, để lợi ích chúng sinh mới soạn sớ giải, suy nghĩ Thánh chỉ, nghiên cứu đến cùng, nghĩa đủ tánh tướng, thiền gồm đốn tiệm, gom thành ba quyển, để truyền gắng học, nhưng phẩm thượng trung hạ, căn cơ tánh dục khác nhau, nay đem pháp đó thành cong, theo sự dễ dàng, càng tìm tòi chỗ tinh yếu, chú thích thẳng kinh này, ngõ hầu ngay nơi sự là tâm, ngày càng lợi ích, ngày càng tổn giảm.

 

LƯỢC SỚ CHÚ KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU-ĐA-LA LIỄU NGHĨA

Sa-môn Tông Mật chùa Thảo Đường núi Chung Nam đời Đường soạn.

QUYỂN THƯỢNG

1. Mười môn để giải thích kinh này:

Để giải thích kinh này, có chia làm mười môn.

  1. Nhân duyên có kinh này.
  2. Thuộc về tạng thừa nào.
  3. Phân biệt quyền thật..
  4. Bờ mé sâu xa.
  5. Trùm khắp cơ nghi.
  6. Thể tánh Năng thuyên.
  7. Tông thú chung riêng.
  8. Tu chứng thềm bậc khác nhau.
  9. Giải thích chung tựa đề.
  10. Giải thích riêng nghĩa văn.

Môn thứ nhất: Ban đầu có chung riêng, chung nghĩa là nhân đáp trả, do đáp trả nên thỉnh cầu nói về lý độ sinh, giáo pháp một đời hưng thịnh đều nhờ đó. Bản ý của Phật chỉ vì một lý do lớn. Riêng thì có mười việc làm cho nên nói kinh này.

1/ Nói lên nhân hạnh có nguồn gốc, chiếu soi tròn đầy tịnh giác, hiểu rõ vô minh là không, phát tâm thanh tịnh mới tu muôn hạnh.

2/ Dứt bặt quả tướng thành viên, vốn không có Bồ-đề, Niết-bàn, chỉ là giác tánh thanh tịnh, cho nên không có trước, sau, thêm, bớt, mới là quả rốt ráo.

3/ Quyết định lựa chọn ngộ lý nên tu. Ý Phổ Hiền hỏi rằng: giác tánh vốn tròn đầy, tất cả như huyễn, huyễn không vô thể, ai là người tu hành? Nếu như không tu thì nhờ đâu chứng giác! Phật nói do khởi huyễn trí để dứt các huyễn, huyễn hết trí mất, giác tâm tròn sáng. Nhưng nay chỉ nói không huyễn, chìm trong vô tu, những người tu tập bị ràng buộc bởi hữu đắc, do ngộ ý tu, dường như trái mà lại phù hợp. Cho nên rất khó rõ, lý phải lựa chọn.

4/ Cùng tận sâu sa niệm nghi ngờ, Bồ-tát vặn hỏi ý rằng: Chúng sinh vốn là Phật, nay đã là vô minh, Như Lai trong mười phương sau ứng với phiền não, Phật đáp ý rằng: ngay nơi phân biệt này chính là vô minh, cho nên thấy được viên giác cũng đồng trôi lăn, như do mây trôi mà thấy mặt trăng đi, chỉ một niệm bất sinh, thì mé trước, sau dứt, như mắt lành bệnh thì hoa đốm biến mất… chúng sinh tức là Phật, ít người có khả năng biết được, biết mà ít tin, tin mà ít hiểu, hiểu cũng khó đạt đến cảnh giới này, nay kinh giải quyết rõ, nói thật cùng nguồn, nếu tinh thông được thì các nghi ngờ tự cởi mở.

5/ Dứt trừ cội gốc luân hồi, phát nghiệp thành chủng vô minh là gốc, thấm nhuần nghiệp thọ sinh, tham ái là gốc, nếu không biết tướng thì liền thành kẻ giặc. Nếu chẳng đạt được “không” thì không bao giờ dứt trừ, cho nên trả lời với ngài Văn-thù, Di-lặc, nghiên cứu cùng tột cội nguồn của nó.

6/ Tìm tòi Bồ-đề ẩn chướng, nói ngã nhân chúng sinh thọ mạng, tuy gọi đồng các giáo, mà hành tướng sâu kín từ thô đến tế xoay vần khó dứt, cho nên một chương tịnh nghiệp tìm kiếm nhiều lớp.

7/ Văn ít mà có khả năng thâu nhiếp nhiều môn, văn chỉ có hai mươi tám tờ, nghĩa đầy đủ đốn tiệm không hữu ngộ tu tánh tướng.

8/ Trong mỗi pháp, mỗi văn chỗ nào cũng nêu y viên giác kiết vào viên giác, khéo trùm ba căn, môn phổ nhãn quán bao trùm thượng căn, các luân ba quán bao trùm trung căn, đạo tràng gia hạnh bao trùm hạ căn.

9/ Dạy tu xứng tánh đi sâu vào thiền, ba pháp quán đều dùng ngộ tịnh viên giác làm gốc.

10/ Khuyến khích việc lìa tướng, rõ minh sư, “Phật vốn là” mà lại khuyên tu, hoặc vốn không mà phải dứt, không có khuôn phép để bắt chước, không dấu vết để nương theo, quyết phải lìa tướng, minh sư dẫn dụ, cho nên dạy gần gũi, suốt đời quên thân.

Môn thứ hai. Thuộc về tạng thừa nào: Trong ba tạng thuộc về tạng kinh. Trong hai tạng thuộc về Bồ-tát tạng, trong các thừa thuộc về Nhất thừa, trong mười hai phần:

  1. Khế kinh.
  2. Ứng tụng.
  3. Thọ ký
  4. Phúng tụng.
  5. Nhân duyên.
  6. Tự thuyết.
  7. Bổn sự.
  8. Bổn sinh.
  9. Phương quảng.
  10. Vị tằng hữu.
  11. Thí dụ.
  12. Luận nghị.

Khế kinh, Phương quảng thuộc về hai phần.

Môn thứ ba. Phân biệt quyền thật: Nhưng Tây Vực và phương Đông (Ấn độ, Trung quốc) các bậc tôn đức xưa nay lập tông phán giáo đều ly, hiệp khác nhau. Hoặc nhất vị không phân, hoặc khai tông phân biệt, nay sẽ nói lược, lại chia ra hai môn, ban đầu thì không phân, sau nói rõ phần giáo.

Ý không phân chia có năm:

  1. Lý vốn một vị khác nhau đồng quay về.
  2. Một âm ứng khắp, một giọt mưa thấm cùng.
  3. Vốn bản ý của Phật là một việc
  4. Tùy theo mỗi văn mà mọi người hiểu khác nhau.

5. Nhiều cách nói pháp thành dòng nhánh cho nên không thể phân, tức là Lưu-chi đời hậu Nguỵ, La-thập Diêu Tần, lập một âm giáo, chính là ý này. Phân chia giáo có tám ý, ban đầu là năm phiên, trước sau có ba thuyết khác nhau.

  1. Lý tuy một vị, giải thích có cạn sâu.
  2. Phật tuy một âm giáo nhưng tùy căn cơ khác nhau.
  3. Bổn ý chưa nói, tùy theo ý ngữ của người nghi.
  1. Nói có chung riêng thì nói theo hiển.
  2. Do phân biệt quyền thật, không trụ ở dòng nhánh.
  3. Mật ngữ của vua, lời tuy đồng mà việc khác.
  4. Không biết ơn Phật, cho sâu là cạn, mất lợi ích lớn, cho cạn là sâu, luống mất công đức.
  5. Chư Phật, Bồ-tát cũng tự phân chia, do các ý này, khai thì được nhiều mà mất thì ít, hiệp thì được ít mất nhiều, chỉ có thể luống mình cầu đồng phần, cũng đâu trái với ý chính, cho nên nay phân.

Nhân phân giáo, lại các đức khác nhau, ở đây theo Đại sư Hiền Thủ, gom chung làm năm:

  1. Tiểu thừa giáo.
  2. Đại thừa thỉ giáo.
  3. Chung giáo.
  4. Nhất thừa đốn giáo.
  5. Viên giáo.

1. Ban đầu tùy theo căn cơ, tùy theo tiếng nói của họ mà nói các pháp số hoàn toàn khác nhau, vì để phân biệt tà chánh, phân biệt phàm Thánh, phân biệt ham thích nhàm chán, nói về nhân quả, nhưng pháp số sở thuyết có bảy mươi lăm, chỉ nói người không, chẳng nói pháp không, chỉ nương vào sáu thức ba độc, lập ra nhiễm tịnh căn bản, chưa cùng tận cội nguồn các pháp, cho nên có nhiều tranh luận.

2. Thỉ giáo: cũng gọi là phần giáo, vì thâm mật thứ hai, thứ ba, thời giáo cùng cho là định tánh, vô tánh đều không thành Phật, nay hợp chung lại thành một giáo, đây đã chưa rõ pháp lý Đại thừa cho nên lập làm ban đầu có người không thành Phật, nên gọi là phân, nói rộng pháp tướng, lược bỏ chỗ rườm rà ghi số còn một trăm, ít nói pháp tánh, pháp tánh đã nói tức là pháp tướng số, lựa chọn rõ ràng cho nên ít tranh luận.

3. Chung giáo: cũng gọi Thật giáo, chủ trương Nhị thừa định tánh, Xiển-đề vô tánh, đều sẽ thành Phật, mới nói thuyết cùng tột Đại thừa, cho nên lập thành Chung, vì xứng với thật lý cho nên gọi là thật, ít nói pháp tướng phần nhiều nói pháp tánh, đã nói pháp tướng cũng sẽ quy về tánh, cho nên không tranh luận. Hai giáo trên đều y theo địa vị thứ lớp tu thành, chung gọi là tiệm. Nhưng Đại thừa giáo gồm có ba tông, cho rằng pháp tướng bác bỏ tướng, cả hai đều là bắt đầu của Tiệm giáo, tức là hai vị Luận sư Giới Hiền và Trí Quang, mỗi vị y theo một kinh lập ba thời giáo, bác bỏ lẫn nhau, mà người truyền bá tu tập đều theo kinh pháp tánh, thành lập nghĩa của tông mình.

Pháp tánh có cả đốn tiệm, Tiệm tức Chung giáo, Chung với Thỉ, đốn ở sau sẽ nói.

Nay pháp tánh là phân biệt với hai tông, tức là hai môn: Một là đối pháp tướng; hai là đối phá tướng. Trong phần đầu, hai tông tánh tướng có nhiều khác nhau, ở đây tùy theo loại thúc lược mà trình bày mười điều.

1/ Ba thừa, tánh có năm, trước là tiểu, kế là một bất liễu, sau đủ ba thừa là liễu, Thâm mật…

Nhất thừa: Tánh là một, trước là Tiểu, kế là hai bất liễu, sau chỉ có nhất thừa là liễu, như Pháp Hoa…

2/ Năm tánh: trong kinh Lăng-già… đều nói năm tánh.

Nhất tánh: kinh Pháp Hoa, Lăng-già, Niết-bàn đều chỉ nhất tánh. Thanh văn thú tịch các cõi Phật khác, Bồ-tát được thọ ký cũng sẽ thành Phật. Xiển-đề có Phật tánh, Nhiếp luận lập pháp, một ở ba sau cho nên Pháp Hoa bác bỏ ba, thường oán trách ganh ghét.

3/ Duy tâm vọng: tám thức từ hoặc nghiệp sinh ra. Chân: tám thức có cả Như Lai tạng.

4/ Chân như bất động: tám thức sinh diệt, cho nên chẳng phải tùy duyên.

Tùy duyên: tám thức nương vào tạng tánh, cho nên chỉ là chân như tùy duyên thành lập.

5/  Ba tánh không hữu lìa, biến kế không nương vào viên hữu, tức là vô tánh tức viên.

6/ Chúng sinh và Phật không thêm không bớt, định tánh, vô tánh chắc chắn không thành Phật. Thế giới chúng sinh không diệt, một lý đều ngang nhau, không thêm không bớt.

7/ Hai đế không hữu lìa, chân-tục rõ ràng, tức là không Đệ nhất nghĩa, bao gồm chân vọng.

8/ Bốn tướng trước sau, diệt biểu, sau vô. Đồng thời thể tánh liền diệt.

9/ Năng sở đoạn chứng lìa, sau căn thì duyên cảnh dứt hoặc, dùng trí hữu vi chứng lý vô vi, nghĩa là hoặc tức Bồ-đề, kiến là chân như.

10/ Thân Phật hữu vi, bốn trí nương thức chủng sinh diệt. Báo thân hữu vi.

Vô vi: Trí nương Như Lai tạng, hóa thân Phật tức thường, tức pháp, không rơi vào các số, huống chi là báo thể!

Nếu biết quyền giáo thật giáo thì hai tông cũng không trái nhau. Nghĩa là theo căn cơ thì có ba, nói về pháp thì một, mới huân thì năm, sẵn có thì không hai… hai là đối phá tướng, lược có năm thứ khác nhau:

1/ Vô tánh vì các pháp vô tánh là bổn tánh chân như, chân tâm thường trú là chân như.

2/ Chân trí: có công năng hiểu rõ vô tánh. Chân tri: nhất tâm chân thật vốn tự có thể biết, có cả lý và trí, thấu suốt nhiễm tịnh, như phẩm Vấn Minh trong kinh Hoa Nghiêm nói.

Hai thứ hai đế sắc… là tục, không tức là chân.

3/ Đế: Thêm Đệ nhất nghĩa đế, nghĩa là nhất chân tâm tánh chẳng phải không, chẳng phải sắc, có thể là không, có thể sắc, như sự trong sáng của gương.

4/ Ba tánh không hữu, không có không hữu nghĩa là y chế, không nghĩa là viên thành tánh tông, tức biến kế (chấp) tình thì có, lý thì không, y tha thì tướng có, tánh vô, viên thành tình không lý có, tướng không tánh có.

5/ Năm đức của Phật là không, mặc dù nói thân Phật năm cầu không được, đắc thì luống dối, vô đắc mới chân, lìa tất cả tướng gọi là công đức của Phật.

Hữu: Chư Phật đều có thường, lạc, ngã, tịnh công đức chân thật, thân trí thông quang mỗi đứa vô tận, tánh tự vốn có, không đợi cơ duyên. Phân biệt sơ lược năm thứ này, còn lại so sánh mà biết, nhưng được ý thì cũng không trái nhau, nghĩa là tất cả pháp đã đều là chân tâm duyên khởi, duyên khởi vô tánh lại tức là chân tâm. Thỉ không khác bổn, ngoài biết chẳng có trí, các đế tánh… lệ theo có thể rõ. Nhưng pháp môn này khác với trước sau, nhưng giáo có sự khác nhau giữa đốn tiệm, thỉ chung, pháp chẳng khác nhau về sâu cạn.

4. Đốn giáo: chỉ một niệm không sinh thì gọi là Phật. Không nói theo địa vị thứ lớp cho nên lập ra đốn. Kinh Tư Ích chép: Được chánh tánh các pháp không từ một địa đến một địa. Kinh Lăng-già chép: Sơ địa tức là Địa thứ tám, cho đến không thật có, làm sao có thứ lớp?

Nói chung không nói pháp tánh, chỉ nói chân tánh, tất cả sở hữu chỉ là vọng tưởng. Tất cả pháp giới chỉ là bặt lời, năm pháp, ba tự tánh đều không, tám thức, hai vô ngã đều bỏ đi. Trách giáo khuyên lìa, hủy tướng mất tâm, tâm sinh tức là vọng, không sinh tức là Phật, bặt dứt dấu vết mới hiển bày chân tánh.

5. Viên giáo: Nói một vị tức là tất cả vị, tất cả vị tức là một vị. Vì vậy tâm tràn đầy mười điều tin, liền nhiếp năm vị thành chánh giác… chủ bạn đầy đủ cho nên gọi viên giáo, tức là kinh Hoa Nghiêm. Chỗ nói chỉ là pháp giới vô tận, biển tánh viên dung, duyên khởi vô ngại, như cái lưới bằng hạt châu của trời Đế Thích nhiều lớp vô tận. Đã biết năm giáo thấu suốt ở chỗ những lời giải thích, chẳng hay kinh này và kia thuộc về giáo nào? Ở đây hiển rõ nghĩa này chia làm ba môn.

  1. Kia hoàn toàn thuộc về đây, phần này nhiếp kia, nghĩa là Viên giáo.
  2. Phần đây thuộc về kia, kia không thuộc đây, nghĩa là hai thứ đầu.
  3. Kia đây khắc thể, hoàn toàn thuộc vào nhau, tức chung đốn. Phân biệt quyền thật xong.

Môn thứ tư: Bờ mé sâu xa, y theo luận Khởi Tín nói về các pháp nhiễm bổn mạt năm lớp, để nói sở thuyên của các tông bờ mé sâu cạn, trong luận:

  1. Ban đầu chỉ lấy nhất tâm làm cội nguồn.
  2. Hai y vào nhất tâm chia ra hai môn:
  • Tâm chân như môn: tâm tánh không sinh không diệt.
  • Tâm sinh diệt môn: nương vào Như Lai tạng hợp với sinh diệt, gọi là thức A-lại-da.

c) Ba là nương vào thức này nói hai nghĩa:

  • Nghĩa giác: (bổn giác, thỉ giác), là tâm thể lìa niệm…
  • Nghĩa bất giác: nghĩa là không biết pháp như thật chân như là một, bất giác tâm khởi…

d) Bốn là nương vào nghĩa sau mà sinh ba thứ nhỏ nhiệm:

  • Nương vào bất giác cho nên tâm động, gọi là nghiệp tướng.
  • Y theo động cho nên có thể thấy, gọi là chuyển tướng.- Y theo thấy cho nên vọng hiện cảnh giới gọi hiện tướng. e) Năm: y theo sau cùng sinh ra sáu thô.
  • Một là: trí tướng, nương cảnh phân biệt, tức là pháp chấp đều sinh.
  • Hai là: Tương tục tướng: nương vào trí khởi niệm không dứt, tức phân biệt pháp chấp.
  • Ba là Chấp thủ tướng: tâm khởi mê đắm, tức ngã chấp đều sinh.
  • Bốn là: kế danh tự tướng: ngã kiến phân biệt, bốn việc trên đều mê hoặc.
  • Năm là: khởi nghiệp tướng, chính là nghiệp.
  • Sáu là: nghiệp hệ khổ tướng là báo, nói bờ mé sở thuyên của các tông, nghĩa là nhân thừa thiên thừa chỉ đều là nghiệp báo. Tiểu thừa chỉ có bốn thô sau. Pháp tướng cùng tột đối với ba nhỏ nhiệm. Chung giáo, đốn giáo đều giải thích bổn mạt mới cùng tận, ban đầu là nguồn nhất tâm, ban đầu là nguồn nhất tâm tức kinh này là viên giác diệu tâm. Kinh nêu viên giác làm tông bổn, nói pháp tịnh nhiễm đều từ giác tâm hiện khởi là lớp thứ nhất.

Cuối chương Văn-thù tức môn chân như, kinh gọi là Như Lai tạng khác nhau, tức sinh diệt môn. Đây là lớp thứ hai. Chương Phổ Nhãn: ngay nơi thỉ là bổn giác, nêu lên giải thích vô minh, tức là bất giác. Đây là lớp thứ ba.

Chương Tịnh nghiệp tức là ba tế hai thô. Đây là lớp thứ tư.

Chương Di-lặc: trước là nói về nhân quả luân hồi, tức bốn thô sau. Đây là lớp thứ năm.

Môn thứ năm: Cho nên biết Viên giác cùng tột năm lớp. Nêu rằng: sâu xa là ở tại đây. Năm thứ bao trùm các ăn cơ, lược có hai thứ: ban đầu chọn lựa, sau nhiếp khắp, ban đầu nói đắm ưa danh tướng dùng văn giải thích. Là vướng mắc hạnh vị, cao suy Thánh vị tình còn nơi không, lời nói chạm đến người khác, tự cây thiên chân nhàm chán tiến lên tu tập. Như trên trên chẳng phải là khí (tài năng), trái với trên tức là khí sau thu, khắp là: tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, chỉ được nghe đều được lợi ích, nghĩa là người căn cơ sâu xa ở đời trước thì ngộ nhập, người căn cơ cạn cợt thì tin hiểu, người đời trước không có hạt giống, cũng đều huân thành chủng tánh viên đốn, như kinh ví dụ ăn Kim cương trong Hoa Nghiêm.

Môn thứ sáu: năng thuyên thể tánh, lược làm bốn môn:

1. Tùy tướng môn: có hai thứ:

a) Thanh danh cú văn thể: thể dụng giả thật giúp nhau, cho nên kinh Thập Địa dụ vẽ gió trong hư không…

b) Thông nhiếp sở thuyên nghĩa, nếu không giải thích văn nghĩa thì chẳng phải giáo.

2. Duy thức môn: hai thứ trước không lìa thức, nhưng có sự khác nhau giữa gốc và bóng.

3. Quy tánh môn: thức này vô thể, chỉ là chân như.

4. Vô ngại môn: tâm cảnh lý sự thấu suốt dung nhiếp lẫn nhau. Vì pháp nhất tâm có hai môn, bảy tông, là chỗ y cứ của bộ, sở quy của tông.

Môn thứ bảy: Chung riêng: chung: là nói về Phật giáo lấy nhân duyên là tông, trong đó có Tiểu thừa không tông, pháp tướng, pháp tánh viên dung khác nhau, ở đây là pháp tánh.

– Riêng: nói kinh này lại có chung riêng, chung do tâm cảnh vắng lặng. Biến kế như rắn quỷ… dưới đây nói: chẳng làm cho nên vô…

* Tịch: y tha như cảnh tượng… ở dưới nói: bốn đại không động…

Giác tánh tròn đầy: do vắng lặng cho nên tròn đầy thành thật.

Phàm Thánh bình đẳng làm tông, ở dưới nói: giác tròn đầy, cho đến căn trần trùm khắp pháp giới. Khiến người tu hành quên tình, do ngộ tông liền cởi bỏ sự trói buộc của tám bất đẳng, Phật là do tình mất.

Quán hạnh mau thành làm thú hướng, lại lấy thú hướng trước làm tông, làm cho hoặc nghiệp tiêu diệt, dứt hẳn luân hồi, khởi thần dụng rộng lớn, an vui tự tại làm thú hướng.

Về riêng: có năm cặp:

  1. Cặp Giáo nghĩa: Giáo thuyết làm tông, ý nghĩa làm thú hướng.
  2. Cặp Lý sự: nêu sự làm tông, hiển lý làm thú hướng.
  3. Cặp Cảnh hạnh: lý cảnh làm tông, quán hạnh làm thú hướng.
  4. Cặp Hạnh tịch: quán hạnh làm tông, tuyệt quán làm thú hướng
  5. Cặp Tịch dụng: dứt quán tâm vắng lặng làm tông, khởi thần dụng rộng lớn làm thú hướng.

Năm cặp này cũng là từ trước khởi sau dần dần nương nhau. Tám thềm bậc tu chứng khác nhau là y theo văn giáo chỉ sinh hiểu nghĩa, quên thuyên tu chứng lại có pháp môn kia, cho nên dùng tâm truyền tâm nhiều đời không dứt. Từ Phật thuộc Ca-diếp xoay vần đến nay, đèn sáng nương nhau rõ ràng không dứt, nhưng nương pháp sở truyền không ngoài định, tuệ, ngộ, tu, đốn, tiệm. Vô định vô tuệ là cuồng là ngu, tu riêng một môn là vô minh tà kiến, hai pháp này nương nhau vận hành thành đấng Lưỡng túc (phước đức, trí tuệ) cho nên sự tu hành của tông Thiên Thai ở chỉ quán, đốn, tiệm, ngộ, tu của chỉ quán ấy.

Môn thứ tám: Đốn ngộ: mặt trời mọc trẻ em sinh, tiệm tu: sương tan trẻ lớn. Vì hiểu rõ tiệm tu đốn ngộ: chặt gỗ đem về kinh đô.

Đốn tu tiệm ngộ: chùi gương học bắn. Tiệm tu tiệm ngộ: như lên đài chín tầng, chân bước dần lên cao thì thấy dần dần xa, đồng thời chứng ngộ, hoặc đốn ngộ đốn tu, dứt sợi tơ nhiễm. Cho nên có cả ba nghĩa là ngộ ở trước, rõ ràng là đến hiểu. Sau tu, không đắm, không chứng, thênh thang hợp đạo, vì hiểu ngộ trước tu (uống thuốc) ngộ sau (lành bệnh) là tu chứng ngộ, vô tâm quên chiếu ngộ, nhậm vận biết vắng lặng. Cùng lúc liền thông hiểu chứng ngộ, hoặc nói sẵn có tất cả đức của Phật là ngộ như uống nước biển.

Nhất niệm muôn hạnh là tu, được vị trăm sông, cũng thông hiểu chứng, kinh Viên giác này đủ các thuyết trước. Chương Văn-thù chính là đốn giải ngộ, phổ nhãn quán thành là đốn chứng ngộ. Tam quán các luân là chứng ngộ tiệm.

Lại, ba quán mỗi quán nêu nêu ngộ tịnh viên giác, kế là nói hành tướng, sau hiển rõ công thành. Trong cặp đối đầu là đốn ngộ tiệm tu, chặng giữa và sau là đối chính là tiệm tu đốn ngộ, các đốn tiệm này đều nói dụng tâm, không đồng môn trước, chỉ là phán giáo. Nếu được ý kia đều thành định tuệ, như kia mất tôn chỉ vọng tưởng vô ký, mong các người học hiểu rõ mà tu, thứ chín, thứ mười hai môn kia, tùy theo bản văn chú giải, cho nên không có khoa đoạn.

Môn thứ chín giải thích tên kinh:

Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-đa-la Liễu Nghĩa, năm chữ Đại phương Quảng Viên Giác là sở thuyên, nói viên giác là pháp, Đại phương quảng là nghĩa, cho nên trong văn nêu kiết thúc, ý chỉ được trình bày, mỗi lần chỉ nói Viên giác không nói đại… sáu chữ dưới thuộc về năng thuyên, nói kinh là giáo pháp, Tu-đa-la liễu nghĩa là khen ngợi giáo có công năng thù thắng. Kinh có năm tên: đầu đề chỉ có hai, vì tông bổn thể dụng là cương yếu rộng lớn của pháp nghĩa, thuyên chỉ công năng là gương sáng của lời nói và cảnh tượng. Sự cùng nghĩa tận, nên lập năm tên, tiêu đề giản đơn còn giữ hai hiệu, ba chữ đại… là thể tướng dụng, mỗi chữ có hai nghĩa. Đại do đương thể mà được tên, thường khắp là nghĩa. Đương thể: Không đồng với tông pháp tướng, lựa chọn chữ đại của tiểu, ngoài “đại” có “tiểu” để chọn vẫn còn là phần hạn, đâu phải là chí đại! Nay do thể viên giác không bờ mé, dứt các phần lượng, gắng gượng gọi là đại. Thường khắp: thường thì dọc suốt ba đời, khắp thì ngang khắp mười phương. Thụ là quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung. Không có một pháp nào trước, chỉ trước với các phước đây, cho nên gọi là Đại. Kinh Niết-bàn chép: đại gọi là thường. Hoành là mười phương cùng tột không có bờ mé. Niết-bàn lại chép: nói đại là tánh nó rộng lớn giống như hư không. Phương theo pháp đặt tên, giữ gìn khuôn phép là nghĩa, liền sinh hiểu biết, nhậm trì tự tánh. Trì tự tánh là tất cả chúng sinh đều có bổn giác, mặt dù trôi dạt trong sáu đường thọ nhiều thân nhưng giác tánh này không hề mất đi. Sinh hiểu nghĩa là chúng sinh ngộ nhập tri kiến, tuy nhờ bạn lành chỉ bày: nhưng trí giải kia từ giác tánh sinh ra, như nước thấm vào đất sinh ra mầm, mầm từ giống sinh không từ nước đất, cho nên văn nói: Viên giác lưu xuất từ Bồ-đề, Niết-bàn và Ba-la-mật, chỉ dạy Bồ-tát. Quảng là từ dụng đặt tên, rộng rãi to lớn là nghĩa. Rộng lớn là tánh viên giác này: vốn có diệu dụng hơn bụi nhỏ, ngầm hưng thịnh, bí mật tương ứng không có ngơi nghỉ, không có cùng tận. Rộng lớn là dụng của vô tận, mỗi mỗi đồng với giác tánh, không có bờ mé, không có giới hạn.

Văn chép: giác tánh cùng khắp tròn đầy không giới hạn, nên biết sáu căn trùm khắp pháp giới. Viên giác là: chỉ thẳng pháp thể, nếu không khắc thể nêu chỉ, thì không biết hướng đến nói pháp nào lớn, pháp nào rộng. Viên là đầy đủ cùng khắp, ngoài ra không còn pháp nào khác. Giác là vắng lặng sáng rõ soi chiếu, không có niệm tưởng phân biệt, cho nên luận chép: nói nghĩa giác là nói tâm thể lìa niệm, tướng lìa niệm bằng thế giới hư không, tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai, nương vào pháp thân, gọi là bổn giác. Giải thích: đây là giải thích văn của bản giác trong Như Lai tạng tâm sinh diệt môn, cho nên biết giác đây chẳng lìa phàm mà hạn cuộc Thánh, chẳng lìa cảnh mà hạn cuộc nơi tâm, tâm cảnh phàm Thánh vốn không, chỉ là linh giác, cho nên nói là viên.

Văn sau chép: Niết-bàn như giấc mộng, thế giới như hoa đốm trong hư không, chúng sinh vốn thành Phật đạo. Lại chép: nhất thiết giác. Lại nói: huyễn diệt, giác tròn đầy, hoặc chỉ một chữ giác là pháp, bốn thứ khác đều là nghĩa. Ý nói: giác này có nghĩa rộng lớn, có nghĩa vuông tròn, nghĩa là thể lớn và dụng rộng, lý vuông và nghĩa tròn, vuông là ngay thẳng không nghiêng, không tà, tròn là đầy đủ không thiếu không khuyết, cũng có thể là lớn. Vuông là thể rộng, viên là dụng, nghĩa là thể lớn mà vuông, chính là không nghiêng, dụng rộng mà tròn đủ không thiếu, cho nên lại dùng vuông liền với lớn, dùng tròn liền với rộng. Lại ba chữ trên là riêng, chữ viên là chung, ý rõ ràng, giác này có đủ đức của ba đại, môn của pháp nghĩa chỉ cho cả hai nên gọi là Đại phương quảng Viên giác, sau là năng thuyên ba chữ “Tu-đa-la” chỉ chung các kinh, hai chữ Liễu Nghĩa khen ngợi một bộ này là nghĩa quyết yếu của các kinh. Cho nên văn sau nói: chính là mắt thanh tịnh của mười hai bộ kinh.

Chữ kinh chính là bộ kinh này. Tu-đa-la, Hán dịch là Khế kinh. Khế: nghĩa là khế lý khế cơ, kinh nghĩa là nhiếp hóa xuyên suốt, nghĩa là xuyên suốt nghĩa nên biết, che chở chúng sinh được hóa độ. Liễu nghĩa là quyết lựa chọn rốt ráo nói hiển rõ, chẳng che đậy tướng rộng lớn của mật ý hàm ẩn, nhưng trong các kinh thì kinh nào là liễu nghĩa? Kinh nào không liễu nghĩa?

Đại sư Thanh Lương đáp: Thuận Tông Hoàng Đế Vấn Chư Kinh Liễu Nghĩa chép: giáo pháp một đời của Phật, nếu y theo việc gốc thì tám muôn độ môn đều là liễu nghĩa, nếu viên khí thọ pháp thì pháp nào cũng viên, được do người cũng đều là liễu nghĩa, hai điều này không đủ để phân biệt. Nay y theo pháp môn phương tiện chỉ bày tính chân thật, thì có liễu, bất liễu. Cho nên các kinh: Tịnh Danh, Niết-bàn, Bảo Tích đều chép: y vào kinh liễu nghĩa, không nương vào kinh bất liễu nghĩa. Kinh bất liễu nghĩa là nói Tiểu thừa giáo, Kinh liễu nghĩa gọi là giới Đại thừa. Đại thừa lại có liễu, không liễu, nghĩa là Đại thừa tuy sáu Độ, bi, trí, gồm tu, mà định nói tam thừa chẳng phải một, cũng chẳng liễu nghĩa, nếu có hội quy nhất cực. Vì Huyền Lô Đào đối với các tượng. Biển trí chung ở muôn dòng! Không hai, không ba không phải không thành Phật, lý quán trung đạo không chung với Nhị thừa, mới là liễu nghĩa. Lại, trong kinh Đại Bảo Tích chép: Xá-lợi-phất! Đối với kinh nào gọi là liễu nghĩa? Đối với kinh nào gọi là bất liễu nghĩa?

Xá-lợi-phất! Nếu các kinh nói về thế tục gọi là bất liễu nghĩa, nói thắng nghĩa gọi là liễu nghĩa, nói về tạo nghiệp gọi là bất liễu nghĩa, nói nghiệp phiền não hết gọi là liễu nghĩa, nói nhàm chán xa lìa sinh tử, thẳng cầu Niết-bàn gọi bất liễu nghĩa. Nói: sinh tử và Niết-bàn không hai không khác gọi là liễu nghĩa, nói các văn cú khác nhau gọi là bất liễu nghĩa, nói sâu sa khó thấy khó biết gọi là liễu nghĩa.

Giải thích rằng: y theo trên nói thì hành tướng liễu nghĩa, đều tương đương với Viên giác. Ngay nơi Phật tự chọn lựa cho nên lẽ ra không có hoặc. Kinh là Khế kinh, cũng như trên giải thích, liền theo sự đơn giản, lại lược bỏ chữ Khế.

Hỏi: Tu-đa-la và kinh chỉ là văn khác nhau của tiếng Phạm đời Đường, nay cả hai để vào đề mục, đâu chẳng phải rườm rà ư?

Đáp: Trên thì chỉ chung các bộ, ở đây thì chỉ kinh này, đối chung khen riêng, cho nên chẳng phải rườm rà. Cũng như kinh Đại Phương Đẳng Tu-đa-la vương, đâu chẳng phải cũng bốn chữ Tu-đa-la vương là chỉ chung các bộ để khen ngợi kinh ấy ư!

6. Nói về người dịch kinh:

Sa-môn nước Kế Tân là Phật-đà-đa-la dịch. Trong Khai Nguyên Thích Giáo Mục Lục chép: Phật-đà-đa-la đời Đường dịch là Giác cứu, người nước Kế Tân bắc Ấn Độ, ở đông đô chùa Bạch Mã, dịch bộ Kinh viên giác, không ghi năm tháng, Tục Cổ Kim dịch kinh đồ kỷ, và trinh nguyên mục lục cũng giống nhau. Bản sớ của Pháp sư Đạo Thuyên chùa Tạng Hải ở bắc đô lại chép: Tam tạng Pháp sư Phật-đà-đa-la người Yết thấp di la, vào năm Quý Tỵ thuộc niên hiệu Trường Thọ thứ 2 đem bản tiếng Phạm đến thần độ, ở chùa Bạch Mã truyền dịch hai quyển, tổng cộng hai mươi tám tờ. Trong đó sự ghi chép, chứng nghĩa, nhuận văn, các đức đủ như lục khác. Dưới đây chính thức giải thích văn kinh, chia làm ba phần, đó là phần tựa, phần chính, và phần lưu thông. Trong bài tựa thì chứng tín là phát khởi, nói Phật nhập đại quang minh tạng, cùng tất cả Phật đồng trú trong giác địa thanh tịnh của chúng sinh, hiện khắp các cõi, Bồ-tát chủ bạn đều vào chánh định, cùng một cảnh Phật để nói lên nhân quả không khác, phàm Thánh cùng nguồn, hiển phát chỉ thú kinh này như thế. Nhưng bài tựa chứng tín các kinh đều giống nhau, là A-nan thưa thỉnh, Phật dạy để nhập, cũng là dứt sự nghi ngờ, tranh chấp và các điều tà vạy khác. Nhưng tuy có sáu thứ thành tựu, nhưng ở đây tùy theo văn đều chia ra rộng-lược, có ba phần:

7. Nói về sáu thứ thành tựu:

  1. Tín văn thời chủ.
  2. Thuyết xứ y chân.
  3. Pháp chúng đồng thể.

1) Trước là tín văn thời chủ.

1- Tín thành tựu: Như vầy: lại gồm cả tôi nghe hợp lại giải thích, tức là từ chỉ pháp. Pháp như vầy tôi nghe Đức Phật nói. Luận Phật Địa chép: nghĩa là khi kiết tập các chúng Bồ-tát đều thỉnh nói, như điều ông đã nghe sẽ nói như thế, Bồ-tát truyền pháp liền cho phép kia nói, như vậy sẽ nói: Như điều ta đã nghe, giải thích rằng vì kinh Phật Địa được nói ở tịnh độ, luận giải thích người kiết tập nói là Bồ-tát

Lại, Toản linh ký chép: Tạng Đại thừa, Văn-thù-sư-lợi và A-nanhải kiết tập ở giữa núi Thiết vi. Ly thích như thế là tín thành tựu. Trí luận chép: Phật pháp như biển lớn, tin thì vào được, có trí thì qua được. Tín, ý nói việc này như vậy, không tin ý nói việc này không như vậy, cho nên tăng Triệu nói: Từ ngữ tin thuận, tin cho nên lý nói ra là thuận, thuận thì đạo thầy trò được thành.

Lại nữa, bậc Thánh nói pháp chỉ vì nói lên chân như, chỉ như là thế, cho nên gọi là như thế, lại nữa chân không trái tục, gọi như, tục thuận theo chân là thị, lại như: là nói theo lý, thị là chẳng phải vô.

2- Văn thành tựu: Lại nữa “hữu vô“ không hai là như, như chẳng phải hữu vô là thị, nếu chỉ y theo kinh này thì Phàm Thánh, nhân, quả không khác viên giác gọi là như, chỉ có nhân quả này mới lìa lỗi lầm là thị. Tôi nghe là nghe thành tựu, tôi tức là Văn-thù và A-nan-hải, Năm Uẩn giả vì sao nói tôi? Ngã có bốn thứ:

3- Biến kế của phàm phu.

4- Chấp tông của ngoại đạo.

5- Các bậc Thánh tùy theo thế tục nên giả chia ra chủ khách.. Pháp thân chân ngã.

Ở đây chính là hai thứ sau, cho nên không lỗi. Nghe nghĩa là nhĩ

căn phát thức, tuy nhân chỗ tai, bỏ riêng theo chung nên gọi là tôi nghe, chẳng phải tâm tà mạn mà có sở thuyết, nếu là tông vô tướng thì tôi đã không, tôi nghe cũng không nghe, từ duyên không cho nên không hoại giả danh tức không nghe mà nghe như vậy, nếu y theo pháp tánh thì chỉ thú kinh này là Bồ-tát truyền pháp, do sự nhiệm mầu chân ngã của ngã, vô ngã không hai, căn cảnh chẳng phải một, chẳng phải khác nên tai nghe pháp môn chân tục không ngại. Môn thứ mười là đi vào chánh văn:

1/ Thời thành tựu: Một thuở nọ là thời thành tựu, thầy trò hội họp nói nghe rốt ráo, nói chung là một thuở nọ. Một thuở nọ để phân biệt với các thuở khác, thuở là tùy theo thế tục giả lập, Như Lai nói kinh có vô lượng thuở, không thể nêu riêng, một lời nói sơ lược mà cũng khắp nên chỉ nói một thuở nọ. Như kinh Niết-bàn chép: “Một thuở nọ, Phật ngự bên bờ sông Hằng…”. Lại, các nơi chia thuở ra dài ngắn khác nhau, cho nên chỉ nói một thuở nọ, nếu y theo đương tông, tức là thuở nọ của nghe, tâm cảnh bị mất nơi lý, trí dung cả phàm Thánh, như bổn giác thỉ giác hội lại, các thứ hai pháp này đều là thuở nọ của một.

2/ Chủ thành tựu: Bà-già-bà là chủ thành tựu. Kinh Niết-bàn chép: có khả năng dứt bỏ phiền não gọi là Bà-già-bà, tức là đức dứt, để hiển bày pháp thân, các kinh nói về Tịnh độ thì không chia pháp thân, báo thân, chẳng phải ứng thân hóa thân.

Cho nên kinh Phật Địa chép: “Bạc-già-phạm này là tịnh giác thanh tịnh bậc nhất”, cùng tột pháp giới, cùng tận hư không, cùng tận vị lai, nếu theo các kinh, thì chữ Phật này, thường dịch là giác giả. Nghĩa là tâm thể lìa niệm vì hiểu rõ chân vọng tánh tướng. Giác có ba nghĩa: tự giác, giác tha, giác mãn.

Nếu y theo luận Phật Địa thì có mười nghĩa, nghĩa là có hai trí lìa hai chướng, đối với tất cả tánh tướng có khả năng tự khai giác, cũng có khả năng khai giác cho tất cả hữu tình, như ngủ thức giấc, như hoa sen nở, nên gọi là Phật. Nếu theo Hoa nghiêm thì nói mười loại Phật, nghĩa là thành chánh giác Phật, nguyện Phật, nghiệp báo Phật, trú trì Phật, Niết-bàn Phật, pháp giới Phật, tâm Phật, Tam-muội Phật, bổn tánh Phật và tùy nhạo Phật, nếu ra khỏi thể ấy tức là viên giác. Như trong đề giải thích hai thuyết trong tựa đề. Nương chân là xứ thành tựu, nghĩa là Phật nhập nguồn pháp tánh, hiện vô biên vô ngại cõi, cũng không định phân tự tha thọ dụng, cho nên nói nương chân. Nhưng các kinh Đại thừa nói trong tịnh độ, nay lược nêu mười kinh để làm ví dụ: kinh Thâm mật, kinh Pháp tập, kinh Xưng tán Đại thừa, kinh Mật nghiêm, kinh Tâm ấn, kinh Hưng hiển, kinh Đại Tỳ-lô, kinh Nhập ấn pháp môn, kinh Hư không tạng, kinh Phật địa. Nói: Tôi nghe như vậy, một thuở nọ Bạc-giàphạm, trụ trong ánh sánh rực rỡ nhất, phát ra ánh sáng soi chiếu khắp vô biên thế giới, trùm khắp không có bờ mé, vượt qua ba cõi, chỗ đã đi qua, luận ấy giải thích rằng: cõi này thuộc về cõi thọ dụng, Phật nói kinh này là thân thọ dụng, tịnh độ này bờ mé vô biên tế cho nên như vậy. Là cõi lẽ ra Bồ-tát Địa thượng phải thấy nghe, vì sao ở trong cõi hóa này kiết tập truyền bá?

Luận tự đáp rằng: Phật nói cho các Bồ-tát Địa thượng nghe, dạy truyền pháp là kiết tập lưu thông, lại nói: khi Phật nói kinh này thì đại chúng Địa tiền, thấy thân biến hóa ở cõi uế này nói pháp cho họ nghe. Đại chúng Địa thượng thì thấy thân thọ dụng ở tịnh độ của Phật nói pháp cho họ nghe. Chỗ nghe tuy đồng, nhưng chỗ thấy đều khác, vì khiến cho chúng sinh nghe nguyện cao siêu chứng đắc công đức của Phật, cho nên y theo sự cao siêu ấy mà được kiết tập, nói Bà-già-phạm trụ trong tối thắng… Trong văn có hai: – Trước là nhiếp tướng về chân – Sau là xứng chân hiện cõi.

Trong phần đầu có ba:

  1. Nêu nhập vào nguồn trí dụng.
  2. Nói đồng thể với Phàm Thánh.
  3. Nói chung về xứng thể trùm khắp.

– Ở đây trước nêu nhập vào nguồn trí dụng, vào trong thần thông đại quang minh tạng, tạng: là kho tàng bảo tánh pháp giới, khởi tín tâm chân như, là cội nguồn của chư Phật và chúng sinh tánh thể thần thông quang minh, đức dụng như cát bụi đều chứa đựng trong đó. Trăm ngàn ánh sáng đều từ đây sinh ra, cho nên nói Tạng, cũng gọi pháp tánh, độ cũng gọi cõi Thường tịch quang, dứt các phân biệt, trí và lý thầm hợp, gọi là nhập. Nhưng chư Phật có thường quang, phóng quang nếu nói về thường quang thì quang tức là Tạng, nghĩa là tâm tánh vốn sáng suốt vì mê nên dường như tối tăm, vọng tưởng đã trí tuệ ánh sáng rực rỡ chiếu khắp pháp giới, nếu nói theo phóng quang và khởi thần thông thì tức là kho thần thông quang minh.

Tam-muội chánh thọ: là nêu cả Hán và Phạm, chánh thọ là An trú trong tạng không nhận các thọ. Lại Tam-muội, Hán dịch chánh tư, nghĩa là khi ở trong định đối với cảnh sở duyên suy nghĩ quán sát chân chính.

– Nói về Phàm Thánh đồng thể: đã vào nguồn ấy thì tức là đồng

với thể ấy, cho nên luận chép: vô lậu vô minh bao nhiêu nghiệp huyễn đều đồng tánh tướng chân như, Hoa Nghiêm cũng chép: Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ không khác nhau, trong văn có hai: Trước nói Thánh đồng. Tất cả Như Lai mười phương ba đời. bổn giác gọi Như, Thỉ giác gọi Lai, Thỉ, bổn không hai gọi là Như Lai, cho nên chúng sinh có bổn không thỉ, như này không lai. Quang Nghiêm là lớp lớp ánh sáng xen nhau chiếu soi rực rỡ. Trú là an trú dứt hẳn phan duyên. Trì là giữ gìn không mất không hoại, sau nói về phàm đồng.

Các chúng sinh này thanh tịnh giác địa, quên chân khởi vọng, vọng thấy chúng sinh, thể vọng vốn không, toàn là bản giác, tâm địa vọng không bị nhiễm nên nói thanh tịnh. Luận chép: tất cả chúng sinh xưa nay thường trụ Niết-bàn, nhưng Thánh chứng cảnh này, nói thẳng là trú trì. Phàm phu không biết đồng, chỉ cho giác địa.

– Nêu chung về xứng thể trùm khắp: Thân tâm vắng lặng bình đẳng bổn tế, phàm Thánh thân tâm chấp tướng nên dường như khác, tướng đều luống dối, đương thể vắng lặng, vắng lặng cho nên bình đẳng đều đồng. Một bản tức mé gốc viên giác. Đầy khắp mười phương, đã không khác thể giác, theo thể tròn đầy trùm khắp pháp giới.

Không hai thuận theo là thuận theo không hai, là từ ngữ nói ngược của Tây Vực, người dịch đảo văn không hết. Sinh tử, Niết-bàn là hai, phàm phu thuận theo sinh tử, Nhị thừa hướng Niết-bàn, nay đều không trụ cho nên nói thuận theo. Lại nữa, y báo thì tịnh và uế không hai, chánh báo thì chúng sinh và Phật không hai, khắc thể thì thân tâm không hai, gồm chung thì tự tha không hai, tương ưng với ở đây là thuận theo.

3. Xứ thành tựu: Hai: xứng chân hiện cõi: đối với cảnh không hai, Phật không có ý niệm hiện cõi, như gương sáng vô tâm.

Hiện các tịnh độ: vô niệm, mà ứng duyên, như gương sáng vô tâm mà hiện hình ảnh. Cho nên Tăng Triệu nói: cõi tịnh hay cõi uế là tùy theo sở thích của chúng sinh. Tịnh là dùng ngọc báu hiển bày, uế: dùng ngói gạch để hiển bày. Tốt xấu tự kia với ta bất định. Cõi bất định mới gọi là tịnh độ, tùy loại ứng khắp nên nói là các. Nhưng cõi tuy nhiều thứ nhưng không ngoài ba thứ sau:

  1. Pháp tánh
  2. Thọ dụng3. Biến hóa.

Nếu chia ra thọ dụng tự tha thì thành bốn cõi. Chung lại chỉ có hai thứ: là tịnh và uế, hoặc tánh và tướng. Nhưng hai thứ này:

– Chất không thành tịnh uế, đầy vơi, khác chất không thành một,

lý là bình đẳng, có chất không thành, tìm nguồn thì mờ tối, không có chất thì bất thành, duyên khởi muôn hình, hình đoạt viên dung không có chướng ngại. Phàm Thánh một thể là từ tự thọ dụng nhập vào cõi pháp tánh. Ở đây lẽ ra các Bồ-tát từ pháp tánh hiện tha thọ dụng. Cho nên lại nói: cùng đại Bồ-tát cho đến đồng trú trong pháp hội bình đẳng của Như Lai, ba pháp chúng đồng thể. Văn có ba:

– Nêu chung: Cùng với Đại là cùng các vị đăng địa trở lên.

– Bồ là Bồ-đề, Hán dịch là Giác, tức quả Phật sở cầu.

– Tát là Tát-đỏa, Hán dịch là Hữu tình, tức chúng sinh được hóa độ, lại nữa người này có sự hiểu biết của liễu ngộ, các tình duyên lự khác. Lại nữa, đây là hữu tình cầu Bồ-đề.

– Ma-ha-tát: Ma-ha là Đại, nghĩa là hữu tình nầy tin pháp Đại thừa, hiểu nghĩa Đại thừa, phát tâm Đại thừa, hướng quả Đại thừa, tu hành Đại thừa, chứng đạo Đại thừa. Cho nên, trong Hoa nghiêm phần địa tiền nói Ma-ha-tát, nhưng nay nêu lên chỉ là địa thượng, đủ mười muôn người (nêu số lượng) một thời gian, một nơi chốn, một nêu riêng.

Tên là: bậc Thánh vô danh, được chúng sinh gọi tên, phần nhiều y theo đức hạnh, tùy nghi nêu riêng, lập ra ngàn muôn khác nhau đều có chỗ biểu hiện, ở đây đều dùng luận nói pháp nghĩa để giải thích tên gọi ấy, văn lý rõ ràng, chẳng phải gượng xuyên tạc.

4. Các vị Bồ-tát nghe kinh:

4. Chúng thành tựu: Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Hán dịch là Diệu Thủ, cũng nói Diệu Cát Tường, biểu hiện trí tin hiểu. Cũng dịch là Diệu Đức: tiêu biểu cho chứng trí. Trong văn nói bổn khởi nhân địa, rốt ráo chân vọng để thành chánh giải, thành tựu tín căn, người thưa hỏi lẽ ra là vị Bồ-tát này.

Bồ-tát Phổ Hiền: lược có ba giải thích.

1. Giải thích theo tự thể: thể tánh trùm khắp gọi là Phổ, tùy duyên thành đức gọi là Hiền.

2. Giải thích theo các giai vị: cong ngay không sót gọi là Phổ, gần bậc á Thánh gọi là Hiền.

3. Giải thích theo đương vị: đức đều trùm khắp gọi là Phổ, mềm mại thuận hòa gọi là Hiền, biểu hiện lý hạnh, nay trong môn này y theo viên giác Diệu tâm nêu lên huyễn pháp, mà rõ được chánh hạnh, cho nên Bồ-tát kia hỏi hạnh giải không hai, tức là Tỳ-lô-giá-na, đó là ba vị Thánh, cho nên xếp kế sau Bồ-tát Văn-thù.

Bồ-tát Phổ Nhãn: từ pháp môn này dạy quán thân tâm không có tự thể, căn thức trần cảnh, thế và xuất thế, thân mình thân người, tất cả thanh tịnh trùm khắp pháp giới, khắp đồng chư Phật, quán hạnh thành tựu mau thấy cảnh giới như thế, chính là Phổ Nhãn chân thật. Ở đây bao gồm bi trí, nghĩa là khắp thấy các pháp thanh tịnh là Đại trí Phổ Nhãn, khắp thấy chúng sinh thành Phật, là đại bi Phổ Nhãn.

Bồ-tát Kim cương Tạng: từ dụ mà đặt tên, Kim cương cứng mà lại sắc bén, cứng nên không vật nào phá vỡ được, sắc nên có khả năng phá vỡ tất cả, Trí của Bồ-tát này cũng giống như vậy. Phiền não không thể xâm hại, ma bên ngoài không thể lay động gọi “kiên”, có khả năng phá các chướng, dứt nghi hoặc của người, gọi là “sắc”, cho nên khởi khó khăn sâu xa ba lần để tiêu trừ nghi ngờ của thời mạt pháp. Tâm nghi đã không, thì có công đức vô tận, cho nên lại gọi là “tạng”.

Bồ-tát Di-lặc: Hán dịch là Từ Thị, Từ là họ, tên là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng, đức tốt hơn người. Nay gọi theo họ nên chỉ nói Di-lặc, từ môn này nghiên cứu sâu xa gốc ái, gột trừ hoặc nhỏ nhiệm, cho nên năm tánh tu chứng đều thuộc về luân hồi. Di-lặc là Bồ-tát Đẳng giác Nhất sinh bổ xứ (một đời nữa là Bổ xứ thành Phật) biểu hiện dứt trừ hoặc tập nhỏ nhiệm thì được Chánh giác tròn sáng.

Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ: biểu hiện trong tướng nhân quả địa vị tu chứng ở pháp môn này, trí tuệ không trụ, không đắm, tâm rỗng rang quên tướng, không bị tướng hạnh vị khác nhau làm nhiễm.

Bồ-tát Oai Đức Tự Tại: thành tựu ba quán, công dụng lợi ích mạnh mẽ, tà ma không thể nhiễu loạn, mộng tưởng mê hoặc không thể xâm lấn.

Bồ-tát Biện Âm: Phật nói bằng một âm thanh mà hợp cơ muôn loài tuy môn này nói chung về ba quán mà tùy căn cơ cạn thấp khác nhau, vì thế hai mươi lăm luân mỗi vị đều chứng nhập, Bồ-tát này khéo Biện biệt tùy loại âm thanh tròn đầy, cho nên có câu hỏi ấy.

Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng: Tất cả nghiệp chướng đều hết, nương bốn tướng sinh ra, môn này hỏi đáp trừ hết các nghiệp, tự nhiên thanh tịnh.

Bồ-tát Phổ Giác: Các lỗi lầm trước đây đã lìa, bốn tướng lại trừ hết, nhưng với dụng ý tâm hạnh vẫn trừ bệnh “tác chỉ nhậm diệt”, giác vẫn chưa khắp, đến đây phải chọn bốn bệnh, giác tánh không dấu vết, hiểu khắp các bệnh, cho nên ngay đây hoặc chỉ đủ, hiểu hết gốc ngọn, hiểu khắp thô tế, hiểu rõ cạn sâu.

Bồ-tát Viên Giác: Nhưng các vị Bồ-tát trong phần chánh tông này hỏi đáp với Phật, nêu ra bổn ý, muốn hiển bày viên giác, nhưng vì nhiều lỗi lầm chưa hết, ý nghĩa chưa tròn, thu nạp căn cơ chưa khắp, cho nên bày tỏ pháp của Bồ-tát mà chưa nêu tên viên giác. Ở đây có ba ý được gọi viên giác:

1. Trước tuy bệnh hết lý viên, nhưng sợ căn cơ bậc hạ khó nhập, ở đây lại mở ra phương tiện quanh co ba kỳ đạo tràng, tức là thượng căn, trung căn, hạ căn khắp trở về viên giác.

2. Từ trước thứ mục, hạnh giải đã viên, đến đây gọi là chứng cực, cảnh của chứng cùng cực lại không có thể tách riêng, chỉ là viên giác.

3. Đầu tiên nêu lên ý chỉ viên giác là môn Đà-la-ni: từ gốc sinh ngọn, nay nói lên nghĩa đã cùng khắp trở lại viên giác, nhiếp ngọn về gốc, biểu hiện ba ý ở đây cho nên tương đương với môn này.

Bồ-tát Hiền Thiện Thủ: Điều nhu thiện thuận gọi là Hiền, Hiền và Thiện ý nghĩa không khác nhau, Hiền thì á Thánh, Thiện thì thuận lý, thủ là đứng đầu, muốn cho muôn thiện đều hưng thịnh, đều thuận chân lý thành chánh nhân vị, á là thứ Thánh quả, phải mượn kinh giáo truyền bá, kinh giáo được truyền bá là đứng đầu của Hiền Thiện, trong phần lưu thông thì tương đương với Bồ-tát này. Đẳng: có hai ý:

  1. Đẳng sở liệt
  2. Đẳng sở dư.

Là bậc Thượng thủ, là nêu lên cương lãnh của mười muôn.

1/ Khen ngợi chung.

5. Quyến thuộc của các Bồ-tát:

Cùng các quyến thuộc, chúng xứng tánh, thì phải có chủ bạn. Như kinh Hoa nghiêm chép: Đây y theo tự tha dung nhiếp, nếu chỉ y theo tự tâm, thì trí độ là mẹ… Đều vào chánh định, do vào chánh định nên được trụ cảnh Phật. Đồng an trú trong pháp hội bình đẳng của Như Lai, ngay lúc ấy phàm Thánh đồng thể, nhất tướng nhân quả nên gọi là pháp hội, hội của pháp tánh không ngã không nhân, từ đó trở xuống trong phần chánh tông có mười một lần hỏi đáp. Gom lại làm hai: Ban đầu một lần hỏi đáp, khiến tin hiểu chân chánh thành nhân bổn khởi. Sau mười lần hỏi đáp, khiến y vào hiểu tu hành, tùy căn cơ chứng nhập.

Ban đầu đốn ngộ viên giác diệu tâm sẳn có, vốn không có vô minh, sinh tử mới gọi là tin hiểu chân chánh, không theo vọng niệm, không chấp dị kiến. Thành bổn khởi nhân: là nhân phát khởi đầu tiên, nhưng nhân địa đốn giáo gồm có ba lớp, ban đầu liễu ngộ giác tánh, kế là phát tâm Bồ-đề, sau đó tu hạnh Bồ-tát, nghĩa là nếu không hiểu tự tâm làm sao biết được chánh đạo? cho nên nhiều kiếp tu hành chẳng phải Bồ-tát chân thật. Kế không phát tâm rộng lớn thì không nhờ đâu khởi hạnh, vì thế trước Thiện Tài trình bày đã phát mới hỏi hạnh môn. Trong luận trước cũng chỉ bày hai giác, kế là dạy phát ba tâm, sau mới tu năm hạnh. Nay nhân bổn khởi tức là hai hạnh đầu. Cho đến văn sẽ chỉ bày, trong văn có bốn:

  1. Thân thỉnh.
  2. Khen ngợi, hứa khả.
  3. Lắng nghe.
  4. Chính nói.

Dưới bốn đoạn này có mười phần đều giống nhau. Trong phần đầu có ba:

  1. Hỏi oai nghi
  2. Trình bày từ cú.
  3. Ba lần thành kính.

Mười đoạn sau đây, đều có ba điều này, ở đây:

* Trước hỏi oai nghi, bấy giờ chỉ cho từ chú thích. Bồ-tát Văn-thùsư-lợi: Danh nghĩa đã giải thích như trên, sau đây là nói nghi thức cầu pháp cung kính.

6. Đảnh lễ dưới chân Phật:

Ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cùng tất cả phàm Thánh đồng an trú trong pháp hội bình đẳng, từ thể của pháp không liền khởi dụng thương xót cứu giúp.

Đảnh lễ dưới chân Phật: dùng đảnh tôn quý nhất của mình, lễ dưới chân là chỗ thấp hèn nhất của Phật là rất cung kính. Cung kính là ý nghiệp, ý nghiệp không có hình tướng, do thân miệng biểu hiện, kinh nêu lời rõ ràng và sau đây khen ngợi bi tức là khẩu nghiệp. Hữu nhiễu là nghĩa thuận theo, biểu hiện thuận với giác tánh. Tam táp là ba vòng, nói lên Phật một lễ, ba ngôi báu, ba thân, ba đức, tiêu biểu tự nguyện dứt trừ ba đường,… có số ba bày rõ nghĩa so sánh rất dễ hiểu. Trường quỳ là quỳ thẳng: an ổn nguy khốn không đổi, xoa thủ là chắp tay: Tin hiểu hợp với thể, tâm cảnh xen nhau. Bạch Phật rằng: Ở trên đều là do người dịch kinh thêm vào. Kế đến là Bồ-tát trình bày từ cú, văn chia làm ba.

Một là hỏi về tâm bổn khởi:

Đại bi: Thưa hỏi pháp yếu, vốn vì chúng sinh, cho nên nêu riêng đức đại bi. Kinh Lục Ba-la-mật chép: Vì sao đại bi có công năng để xuống gánh nặng, chỉ bày nghĩa cao siêu? Vì thành tựu hữu tình an trú pháp tánh.

Thế Tôn là hiệu thứ mười, đủ chín hiệu trên được người đời tôn kính, nguyện vì hội này là pháp hội bình đẳng. Các chúng đến nghe pháp đều xưng pháp tánh. Nói về là chỉ cho pháp được giảng nói dưới đây.

7. Bồ-tát Văn thù thưa hỏi pháp yếu:

Bổn khởi của Như Lai là pháp đầu tiên do căn bản xưa của Phật khởi lên.

Thanh tịnh là bản thể viên chiếu vốn không có phiền não.

Nhân địa là tâm địa mà nhân hạnh nương vào, văn trên nói: là giác địa thanh tịnh của các chúng sinh .

Pháp hành xứng với hạnh chân pháp, kinh đại tập chép: Nếu có Tỳ-kheo đọc tụng mười hai bộ kinh của Như Lai, ưa vì bốn chúng giảng nói rộng suy nghĩ nghĩa ấy, đó gọi là ưa đọc cho đến đó gọi là suy nghĩ. Không gọi pháp hạnh: Nếu có Tỳ-kheo quán xét thân tâm, cho đến cảnh giới đều dứt, lìa hẳn phiền não, tâm kia vắng lặng thì ta nói gọi đó là pháp hạnh. Nhưng điều Bồ-tát thưa hỏi ý nói muốn cầu quả phải quán nhân nếu nhân chẳng thì quả trở thành vọng, như đúc tượng Phật bằng vàng ròng, trước phải làm được vàng thật, khi thành tượng thì thể không thêm bớt, thỉnh nói nhân địa bổn khởi là chỗ muôn hạnh nương vào. Văn sau Phật trả lời: soi chiếu tịnh giác vốn không vô minh… là thể chân. Tức là liễu ngộ giác tánh bậc nhất ở trước.

Hai là hỏi phát tâm lìa bệnh: Và nói: và có hai nghĩa: 1. Phân biệt với nghĩa trước, nói lên hai lần hỏi. 2. Hợp với nghĩa tập, chẳng những thỉnh nói nhân địa mà cũng đề cập thỉnh nói phát tâm. Bồ-tát đối với Đại thừa, thể của Đại thừa là bổn giác, thỉ giác, nay thỉnh đối với tâm giác ngộ nói là phát tâm.

Ba là Phát tâm thanh tịnh: Tức là phát tâm Bồ-đề thứ hai ở trước. Thẳng tâm chánh niệm chân như cho nên thanh tịnh, vì thế trong kệ nói: tâm Bồ-đề.

8. Dẫn kinh làm sáng tỏ:

Kinh Hoa nghiêm chép: Quên mất tâm Bồ-đề mà tu các gốc lành là bị ma nhiếp giữ, đã bị ma nhiếp giữ tức là rất nhiều lỗi lầm. Cho nên nhân duyên xin phát tâm là khiến được xa lìa hẳn, hơn nữa bên trong quên mất gốc lành còn bị bị ma nhiếp giữ huống gì đều chưa phát tâm các hạnh, đâu lìa được nghiệp kia. Xa lìa các bệnh, sau khi phát thì không bao giờ quên mất, không quên mất cho nên ma hoặc không quấy nhiễu, dưới đây Phật trả lời: hữu vô (có không) đều xa lìa giác chiếu cũng dứt, năng sở bặt dứt tức lìa các bệnh. Đây là không phát tất cả tâm, gọi là chân phát tâm thanh tịnh. Ba là nói xa trùm đương lai. Có công năng khiến chúng sinh thời mạt pháp ở đời vị lai, sau Phật diệt độ, chánh pháp, tượng pháp mỗi thời kỳ một ngàn năm, mạt pháp mười ngàn năm. Mạt pháp tức là thời cuối cùng, cách Thánh rất xa lo nghĩ sâu xa, cho nên nói lên trong lợi ích riêng kiết thúc chỉ bày. Lại, trước nêu hội này, sau kiết thúc đương lai, sơ lược mà nói, hiện tại, vị lai đều lợi ích. Trong kinh Kim cương Tam-muội, Bồ-tát Giải Thoát cũng là chúng sinh cõi đời có năm thứ uẩn đục thời Mạt kiếp, thỉnh nói một vị quyết định chân thật giúp cùng nhau giải thoát.

Cầu Đại thừa: không rơi vào tà kiến, nghĩa là trong thời mạt pháp chánh giải khó được, bị vọng hoặc mê tâm năm dục, hoặc huân tập đạo khác, hoặc mắc kẹt Nhị thừa, đặt ngoài lời nói, dù có phát ý cầu Đại thừa, nếu không nghe pháp môn này thì cũng rơi vào tà kiến, lìa ngoài bổn tâm có sở cầu riêng, thấy vọng thấy chân đều là tà kiến, sau ba lần thành kính.

Nói lời ấy rồi: Nói lời chân chánh mà đảnh lễ, chẳng có nghi thức. Năm thể tức hai tay, hai chân và đầu. Gieo xuống đất: không chỉ tay vái mà thôi.

Như thế ba lần xin, cuối cùng trở lại đầu. Nếu chỉ một lượt thì chưa cung kính thành thật, hoặc quá ba lần lễ phiền phức thì lộn xộn, cho nên đầu cuối ba vòng, hiển bày chân tâm, Phật tuy đã biết, làm khuôn phép như thế. Hai là khen ngợi, hứa khả.

Lúc bấy giờ: là lúc Văn-thù lễ xong.

9. Phật đáp lời ngài Văn thù:

Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: Trước khen ngợi sau hứa khả. Lành thay! Lành thay. Luận Trí Độ giải thích: Lời nói lại rất tốt. Liễu nghĩa Đại thừa lý hợp tuyên dương, hạt cải trên đầu kim chưa hợp nhau lại im lặng pháp yếu. Đã mở pháp hội căn cơ thuần thục đều đến, sẽ giảng nói diệu môn hẳn là giúp nêu câu hỏi lời thỉnh hiện nay sự thật bắt đầu ở ta, lợi lạc thật nhiều lại khen là tốt.

Thiện nam các ông, các vị Bồ-tát tuy lời của một người mà nói ý của nhiều người. Vì các vị Bồ-tát thưa hỏi nhân địa pháp hạnh của Như Lai và ví tất cả chúng sinh đời mạt pháp cầu Đại thừa dưới đây cho đến không rơi vào tà kiến. Là từ ngữ nhắc lại lời thưa hỏi là nói về lý do của điều lành.

Được chánh: chẳng trụ vào pháp. Trụ: Là an tâm vào biển giác, dứt hẳn phan duyên. Trì: Là giữ gìn muôn hạnh không lọt không mất. Không rơi vào tà kiến, là giải thích thành chữ chính. Nay các ông hãy lắng nghe, sẽ giảng nói cho các ông: là hứa khả, bảo hay suy nghĩa kỹ chớ xen lẫn các duyên, không dùng tâm hạnh sinh diệt nghe pháp thật tướng. Luận Trí Độ: Có bài kệ rằng: Người nghe nhìn thẳng như khát cần uống nước, nhất tâm vào trong ngữ nghĩa, hớn hở nghe pháp tâm vừa vui vừa buồn, người như vậy mới nói cho nghe, ba là lắng nghe:

Bấy giờ, là lúc Phật khen ngợi, hứa khả.

10. Đại chúng vui mừng lắng nghe:

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vâng lời dạy vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe, đã hứa nói nguyện xin muốn nghe, trong sạch tâm rỗng rang lắng nghe, là văn khen ngợi hứa khả lắng nghe, mười một đoạn dưới đây đều cùng giải thích điều này. Bốn là chánh thuyết, văn mười đoạn dưới đây đều có hai: Trước là văn xuôi kế là kệ tụng. Nay trước chia làm bốn.

  1. Nêu bày chân tông.
  2. Suy cứu tận cùng nguồn gốc của vọng.
  3. Giải thích thành nhân địa.
  4. Kiết thúc nhắc lại lời thưa hỏi.

Trong phần một lại có hai:

  1. Trước là nói tâm giác sẵn có.
  2. Sau nói ngộ thì thành Phật.

Trong phần đầu lại có hai:

–  Chỉ ra bản thể

11. Chúng sanh nào cũng có Viên giác:

Này thiện nam: Vô thượng Pháp vương là Phật, đối với các pháp được tự tại lại không có người nào trên. Nhưng mặc dù không có một chúng sinh nào không đủ có viên giác, hơn nữa bụi trần chưa ra khỏi, kho báu còn âm u, vì không tự biết nên luống chịu nghèo khổ, chỉ Phật hoàn toàn được dụng kia, nên chỉ nói đấng Đại giác là có.

Hữu đại: đương thể là vô biên.

Đà-la-ni: Hán dịch là Tổng trì, nghĩa là trong thể Viên giác có đức dụng nhiều như cát, từ xưa đến nay giữ gìn không mất, nhưng Tổng trì không mất, Tổng trì có ba: thứ là chữ đa, chữ nhất, chữ vô, ở đây chính là chữ vô. Cho nên phẩm Đà-la-ni trong kinh Bảo Tích chép: Trí của Như Lai gồm nhiếp các sự khéo léo, lời nói ra đều thanh tịnh không có chút pháp sở đắc, đều trở về “không”, cho đến các vị Bồ-tát này nhập vào môn Đà-la-ni. Nếu theo luận Trí Độ thì tiếng Phạm Đà-la-ni hơi khác một chút luận này tự dịch là Năng trì, cũng dịch là Năng già, nghĩa là các pháp lành giữ gìn không để mất, tâm ác bất thiện ngăn ngừa không cho sinh. Đã nói giữ lành ngăn ác, tức là gốc của muôn hạnh, nên ở đây nêu lên.

Môn: nghĩa là ra vào, Xuất: tất cả các pháp nhiễm tịnh đều từ trong đó lưu xuất ra, kế nữa văn nói: lưu xuất ra tất cả… dưới đây nói chúng sinh huyễn hóa vô minh… Nhập: nếu liễu ngộ thể dụng Viên giác thì trăm ngàn muôn pháp thảy đều ngộ nhập, cho nên văn sau nói: giác tròn sáng nên hiển bày tâm thanh tịnh, cho đến trùm khắp… cho nên biết muốn liễu ngộ muôn pháp, phải từ trong viên giác mà vào, lại từ gốc khởi ngọn là xuất, gom ngọn về gốc là nhập. Lại mê thì xuất, ngộ thì nhập, có nghĩa xuất nhập nên gọi là môn, trong đây môn là nghĩa căn bản, không đồng với pháp thế gian rằng môn nghĩa là hẹp và sâu. Kinh Bảo Tích hợp với trước lại chép: từ nơi môn sinh ra giác tuệ rộng lớn khác nhau, đây là môn của không môn, môn thanh tịnh. Hình tướng môn: giống như hư không, tất cả các pháp nương vào hư không mà có sinh diệt. Lại, Hà Trạch nói: một chữ biết là cửa của các điều mầu nhiệm, đều nói là căn bổn. Gọi là Viên giác, trên chỉ nói nghĩa tướng, còn ở đây là chỉ bày pháp thể, đã như trong tựa đề giải thích. Hai là nói về đức dụng.

12. Tâm đồng thì vọng nhiễm:

Lưu xuất chẳng phải có riêng, pháp từ trong lưu xuất ra ngoài, chỉ nương vào giác tánh hiển bày các môn, công đức không cùng tận, ứng dụng không nhàm mỏi, gọi là lưu xuất, vì thế luận chép: nếu tâm có động thì có nghĩa vọng nhiễm nhiều hơn cát sông hằng… đối với nghĩa này, tâm tánh không động thì có quá các công đức thanh tịnh nhiều hơn cát sông Hằng, nghĩa tướng thị hiện như vậy.

Tất cả thanh tịnh, là phân biệt với các pháp hữu lậu. Trái với chân lý, tánh vốn là không.

Chân như: Tự tánh viên giác vốn không có luống dối thay đổi, tức là chân như. Chân nghĩa là chân thật, nói lên chẳng phải luống dối. Như là như thường, nói lên không thay đổi, nghĩa là chân thật này đối tất cả vị thường như tánh của nói. Lại, chân: thể chẳng phải luống dối. Như: tánh không đổi khác, nguỵ là trá nguỵ. Dụ giống như vàng ròng, vọng là luống dối, ảnh như bản chất, khác là nói ngang, nhiều vật đồng thời mà mỗi vật thay đổi khác nhau, y theo chiều dọc và nói về nhất thể trước sau thay đổi, nay đều xa lìa các thứ này nên nói là chân như, nghĩa là thật thể này đối với vị lai thường như quá khứ, ở trong sắc thường như trong thọ, tướng chân thật là như chẳng phải vọng giống.

Luận chép: tâm chân như: tức là nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể. Cái gọi là tâm tánh không sinh không diệt, cho đến cuối cùng không biến hoại. Chỉ là nhất tâm nên gọi là chân như. Lại nói: dụng chân như: chư Phật nhân địa nhiếp hóa chúng sinh không chấp tướng, vì các Đức Phật biết chúng sinh và chính thân mình, chân như bình đẳng chẳng có sự khác nhau, vì có trí phương tiện lớn như vậy, trừ diệt vô minh, thấy pháp thân sẳn có. Tự nhiên có công dụng của nghiệp chủng không thể suy nghĩ bàn luận.

Bồ-đề: Hán dịch là Giác, nghĩa thấy trong đề, thỉ giác bổn giác không hai, không pháp nào không biết, vốn không có vô minh cho nên gọi là giác. Hai, ba, bốn trí và phát tâm, phục tâm, minh tâm, vượt đến năm thứ Bồ-đề vô thượng, đều thuộc ở đây. Nhân tròn quả đầy đều đi qua. Nghiệp dụng vô biên không thể nói hết.

Niết-bàn: Hán dịch là Vắng lặng, chấp nghĩa loại nên có nhiều tên, đều dùng nghĩa dịch gọi là viên tịch, nghĩa là giác tánh đã viên thông thì pháp nào không vắng lặng, vốn không sinh tử, đầy đủ ba đức, bỏ ba tạp nhiễm… cho nên hai, ba, bốn thứ đều thuộc ở đây. Vì thế kinh kia chép: có thể lập nghĩa lớn, lại, kinh Hoa nghiêm chép: không làm Bồ-tát thị hiện Niết-bàn, muốn khiến cho thường thấy Phật tròn đầy. Nhưng vì khiến chúng sinh ưa thích lưu luyến nên hiện ra, rồi biến mất, Phật hằng ngày thường hiện trong pháp khí có tâm tịnh, người có tâm ô trược thì khí thân hoại vỡ không thấy được.

Và: để phân biệt với nghĩa nhân quả khác nhau, lại chẳng phải chỉ lưu xuất ra. Lý quả mà cũng nói về nhân.

Ba-la: Hán dịch là Bỉ ngạn. Mật, nói đủ mật-đa, Hán dịch là đáo. Nếu văn thuận với phong tục Trung quốc thì nên nói đáo bỉ ngạn. Nghĩa là xa lìa sinh tử bờ này, vượt qua dòng phiền não, đến Niết-bàn bờ kia. Nhưng tất cả chúng sinh chính là tướng vắng lặng lại không còn diệt nữa, vì mê mờ điên đảo vọng thấy sinh tử gọi là bờ này. Nếu ngộ sinh tử xưa nay vắng lặng gọi là đến bờ kia. Lại nữa, y theo đối dịch, sáu tế lược có sáu thứ, nghĩa là tính không san tham, hủy cấm, sân nhuế, biếng nhác, loạn động, ngu si, thuận theo bổn tánh tu hành-thí, giới, nhẫn, tấn, định, tuệ, đã xứng tánh mà tu, tức đều đến bờ bên kia. Trong luận Bồđề Tư Lương thì Tuệ là đầu tiên, do tuệ thành năm, năm giúp tuệ. Vì thế luận kia chép: đã là mẹ Bồ-tát, cũng là mẹ các Đức Phật, Bát-nhã ba-la-mật, là giác tư lương ban đầu, thí, giới, nhẫn, tấn, định và năm thứ còn lại này đều nhờ trí độ nên đều thuộc Ba-la-mật. Khởi tín nhiếp là năm, chỉ quán tướng do định tuệ tướng, tức là Duy thức. Được chia làm mười, giúp trị mười chướng, chứng mười chân như, nếu dịch chung các nhiễm tức là tám mươi bốn ngàn, nghĩa như dưới đây sẽ giải thích.

Giáo thọ Bồ-tát: là nói lên nghiệp dụng của pháp chân như nói ở trên. Bồ-tát là sở giáo, chân như… là năng giáo, cho nên nói chân như là lý. Kế là hai quả Ba-la-mật là nhân lý, thật nhân quả, đáng làm khuôn phép. Nghĩa là y theo tình chấp kia thì dường như đều vô tình, đã vốn là không, đây chẳng phải mới được. Đốn ngộ lý ấy nương đó tu hành có thể sinh vật giải (hiểu biết) gọi là giáo thọ. Luận chép: thuận bổn tánh cho nên tu hành đàn độ… Niết-bàn cũng nói pháp là thầy của các Đức Phật. Sau nói ngộ thì thành Phật, trên lại nêu tông chưa được trả lời, nay nói lên ngộ thành Phật mới gọi là nhân bổn khởi. Nhân địa bổn khởi của tất cả Như Lai là nhắc lại lời hỏi.

Đều nương: Chẳng Đức Phật nào không như vậy.

Viên chiếu: tức là năng chiếu, xa lìa thiên chấp cục bộ. Tướng Thanh tịnh giác: tức là sở chiếu, vắng lặng rỗng không, chẳng liên quan năng-sở, chỉ vì ban đầu ngộ năng sở chưa quên cho nên nói tướng, đây chính là đồng với Thiện Tài ban đầu gặp Văn-thù, rõ ràng tìm hiểu thấy thân tướng kia, sau thấy Văn-thù, bày tỏ chứng trí, không thấy thân tướng.

13. Nhân để thành Phật:

Dứt hẳn vô minh, bản giác đã bày, vô minh vốn không, cuối cùng không sinh gọi là dứt trừ hẳn. Mới thành Phật đạo: các Đức Phật nhiều như cát bụi lấy đây làm nhân.

– Thứ hai: dứt sạch vọng tưởng, văn có hai, trước chỉ bày tướng ấy, sau hiển bày trí vốn không. Luận chép: Phật có hai cách nói pháp, trước phân biệt các pháp, sau nói rốt ráo không, chính là ở đây. Trong phần đầu có ba: nghĩa là nêu lên giải thích kiết thúc, ở đây trước nêu lên. Thế nào là vô minh? Là nêu lên để giải thích ở đây: có hai ý:

– Một do trước nói dứt hẳn vô minh, sợ rằng định có thể dứt ham muốn, đợi dứt hết mới thành Phật đạo. Nay nêu lên để giải thích vô minh vốn không

– Hai cho rằng vô minh này là gốc của tám muôn trần lao, đứng đầu mười hai nhân duyên. Hằng sa phiền não do đây mà sinh, luân hồi nhiều kiếp không dứt, sau khi ở tầng trời Phi tưởng định sanh xuống lại làm thân chồn, trong hầm vô vi vẫn gọi bệnh hành. Nay muốn sáng tỏ giác tánh thanh tịnh. Muốn hiển bày viên đốn là pháp môn vi diệu, trước không xóa bỏ vô minh, việc làm đều hết, giúp cho điên đảo, vì thế chắc chắn chân tâm sẵn có, liền xua tánh vọng, vốn không nương gá ở đây, liễu ngộ rõ ràng mới được gọi là nhân địa. Hai giải thích về vô minh: vô tha thì trí sáng, nghĩa là tuy có sáng của bản giác, mà không có sáng của thỉ giác. Thỉ giác theo duyên mới hiển rõ, đối với bổn nên gọi là Tha,

luận gọi bất giác, chỉ văn khác mà thôi, cũng gọi là mê, cũng gọi là điên đảo, luận nói: không biết đúng như thật pháp chân như là “một” cho nên bất giác tâm khởi… rõ quên chính mình. Đây nói vọng nhận bốn đại,… rõ ràng là nhận tha. Nhưng quên tự thì phải nhận tha, nhận tha thì phải quên tự. Hai: văn nêu lẫn nhau. Nghiệp dụng luận chép: sinh ra ba tế ở đây nói: do đây nên có sinh tử luân hồi. Nhưng tất cả pháp hữu lậu đều giữ gìn đây, đều là phát khởi đây, cho nên luận lại: phải biết tất cả cảnh giới của thế gian đều nương vô minh mà được giữ gìn. Văn ở dưới nói: các tướng thân tâm đều là vô minh. trong văn có ba.

  1. Xét định kia là sai.
  2. Giải thích tướng ấy.
  3. Nêu ra lỗi lầm.

– Một xét định kia là sai: chỉ nói điên đảo, chưa hiển bày tướng ấy.

14. Chúng sanh từ vô thỉ đến nay chưa hề giác ngộ:

Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh, ngoài tánh viên giác, còn lại đều bao gồm. Từ vô thỉ đến nay, chưa hề giác ngộ. Các thứ: như ở dưới sẽ nói. Điên: tâm thức cuồng loạn; đảo: bỏ giác theo trần, đảo có sở chấp, điên chỉ mê loạn, từ điên cuồng cho đến đảo loạn, như do mê mình cho nên nhận nó, giống như người mê bốn phương khác chỗ, như người vừa đến nguồn sông, hoặc vào làng xóm, thì bỗng nhiên tâm mê lầm cho Đông là Tây. Đã một phương mê ba phương khác đều chuyển, cho nên nói khác chỗ, nhưng khi đang mê phương hướng cũng không đổi, bổng nhiên tỉnh ngộ thì trở lại nơi cũ. Trở lại tìm mê này hoàn toàn không có dấu vết, không có chỗ xưa nay, không có chỗ hiện nay quá khứ.

Hai là giải thích tính tướng ấy: tức là quên pháp thân chân trí của mình, nhận bốn đại duyên niệm khác là tướng của vô minh. Cho nên Tăng Triệu nói: pháp thân giấu trong hình tướng, chân trí ẩn trong duyên lự. Văn có hai.

– Pháp: vọng nhận bốn đại làm tướng tự thân, cho là ngã. Nhưng bốn đại từ các duyên hòa hợp mà có, vô ngã vô chủ, rốt ráo là “không” lìa ngã, ngã sở. Lại, như văn dưới đây: da, thịt, gân, xương đều trở về đất, nhưng phàm phu gây ra các thứ nghiệp, nhiều kiếp luân hồi, do quên pháp thân của mình, chấp bốn đại này là ngã. Sáu trần duyên theo bóng dáng làm tướng tâm mình, ở đây có hai cách giải thích:

15. Nói duyên theo bóng dáng sáu trần:

– Sáu trần là cảnh, thức thể là tâm, tâm đối căn trần có tướng duyên lự, tướng duyên lự như bóng dáng, nêu thể hoàn toàn vô. Tâm tự sáng rõ, vốn chẳng phải duyên, nay cho duyên lự là tự tâm, mỗi niệm, mỗi niệm tùy theo chìm nổi biển khổ, như hạt châu trong sáng vốn không sinh vàng, khi đối trước màu xanh… liền có ảnh tượng. Người ngu chấp màu sắc kia cho là hạt châu. Như mê tự tâm mà nhận lấy duyên ảnh. Cho nên Duy thức nói: Các tâm vương, tâm sở nương vào trần mà khởi, cũng như việc huyễn chẳng phải thật có, vì kiến chấp ngoài tâm, tâm sở thật có cảnh, nói chỉ có thức. Nếu chấp duy thức là thật có thì cũng là pháp chấp. Kinh Phật Đảnh chép: đây là bóng dáng phân biệt của tiền trần, cho nên biết duyên ảnh chắc chắn là không. Nếu chân tâm thanh tịnh thì vốn không duyên lự, tinh thần sáng suốt không mê muội, không trụ không căn, nay duyên theo tâm thật là luống dối.

– Một câu này người dịch kinh dịch không hết, ý nên nói duyên bóng dáng sáu trần, bóng dáng sáu trần là sở duyên, vọng thức là năng duyên, sáu trần không thật, giống như ảnh tượng. Từ thức sở biến, nêu thể tức không, cho nên duyên tâm này cũng là vô thể, ngoài ra giống như trước đã giải thích. Trước nêu điên đảo nói có các thứ, nói chung thì chấp ngã, chấp pháp, trong đó mỗi thứ có các tướng chuyển và phàm phu Nhị thừa, mỗi thứ đều có bốn đảo. Nếu y theo văn này thì tức là trên quên thân quên tâm, gồm có bốn cặp điên đảo. Đó là bốn đại chẳng phải ngã mà cho là ngã, pháp thân chân ngã mà không nhận, đó là cặp thứ nhất, bốn đại như huyễn, vốn không mà thấy có, pháp thân chân thật vốn có mà thấy không, đó là cặp thứ hai. Duyên niệm sinh diệt cho là chân tâm, chân tâm rõ ràng mà không tự nhận, đó là cặp thứ ba. Duyên niệm như màu đen trong hạt châu, hoàn toàn không mà chấp có, chân tâm như tướng sáng trong hạt châu, thật có mà thấy không, đó là cặp thứ tư.

16. Nếu ví dụ để làm sáng tỏ:

Một, ba ngã chấp; Hai, bốn pháp chấp, các kiến chấp này không nhân tông chỉ của thầy, chỉ là phàm ngu nhậm vận như thế. Đã bốn đối tám chiếc khác nhau cho nên nói các thứ. Hai là dụ, văn chia làm hai:

– Ban đầu dụ thẳng văn trước.

Thí như bệnh mắt kia thấy trong hư không có hoa đốm và mặt trăng thứ hai. Này người thiện nam! hư không thật không có hoa, người bệnh chấp có, mắt mờ nhìn trong hư không không có hoa vọng cho là có, ấn mắt nhìn mặt trăng, bên cạnh mặt trăng thấy có mặt trăng khác, hoa đốn trong hư không và mặt trăng huyễn ấy đều dụ cho thấy nhầm, chúng sinh vì một niệm quên tâm, tự che lấp giác tánh tròn sáng, mà ở trong thể tròn sáng vọng thấy thân tâm sinh diệt, cho nên nói hư không thật không có hoa mà người bệnh vọng chấp, lời chấp lầm chính là lời (nhận sai) ở đối trước, nếu ngộ chân như không tướng thì chỉ là nhất tâm, như hư không vốn không có hoa, trời chỉ có một mặt trăng. Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Thấy nghe như màng che mắt, ba cõi như hoa đốm trong hư không, nghe lại thì màng che mắt hết, bụi sạch hết thì giác tròn sạch.

17. Tất cả mọi hiện tượng đều nằm trong tâm nhiệm mầu chân tịnh:

Lại nói: thân ông tâm ông, bên ngoài cho đến núi sông, hư không, mặt đất, đều là vật hiện ra trong tâm mầu chân tinh, cũng có thể phối riêng hai ví dụ: nghĩa là hoa dụ nhận thân, mặt trăng dụ cho nhận tâm, thân thì chỉ vì tâm mê nên ngay đương thể mà nhận lầm, như hoa đốm trong hư không chỉ vì mắt bị che lấp, ngoài không chỗ nương khác. Tâm thì nội căn ngoại trần nương nhau sinh khởi. Như mặt trăng thứ hai vì ấn mắt mà từ mặt trăng thật nương nhau sinh ra, cho nên phối với thân tâm soi chiếu hiện nghĩa. Nhưng mặt trăng dụ như hoa cũng nên nói: mặt trăng thật không có hai. Ấn là vọng chấp, văn kinh tóm lược nên không đầy đủ. Lại vì vừa hiểu, màng mắt, ấn mắt đều dụ cho kiến phần, mắt dụ cho trí tuệ, hư không và mặt trăng dụ cho chân lý, luận Bát-nhã của ngài Thế Thân lấy sự che lấp dụ cho tướng phần, theo ý của chỗ giải thích, lấy hoa của sở kiến, sau xoay vần thấy ngược.

Vì vọng chấp nên nhắc lại nguyên nhân sinh khởi chuyển chấp.

18. Chỉ trách trong hư không có hoa chẳng biết trong mắt có màng:

Chẳng phải chỉ mê lầm tự tánh hư không này, tính của hư không thanh tịnh không có sự vật, nay chấp hoa sinh trong hư không, tức giống hư không biến thành hoa, thấy nhầm hoa trong hư không, không sinh mà sinh, vô vật mà thành vật, chính là tánh của hư không bị mê hoặc. Cũng lại mê chỗ hoa thật sinh kia, đã chấp hoa từ hư không sinh, thì không biết từ sự che lấp mà khởi, che lấp thì thật là chỗ sinh của hoa, chẳng phải là hoa chân thật. Nếu đủ pháp hợp lại lẻ ra nói: chẳng phải chỉ mê hoặc tự tánh chân không này, mà còn mê chỗ sinh thân tâm kia, đây chỉ trách trong hư không có hoa, bất giác trong mắt có màng, ngoài hiềm thân tâm khổ não, không biết bên trong có chứa mê tình.

Ba Sinh ra lỗi lầm: Do đây, vì trước vọng nhận tướng thân tâm. Vọng có: sinh tử không thật.

Trôi lăn trong sinh tử: Vọng chấp thân tâm. Nếu không có lỗi lầm thì mặc tình chấp mãi, không cần thay đổi. Vì do chấp này nên trong số kiếp nhiều như cát bụi luân hồi không dứt, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tám khổ năm suy làm hại, cho nên phải chỉ bày. Ba là kiết thúc, cho nên gọi là vô minh, minh tức là giúp người giải thoát, cho nên biết người trôi lăn thì gọi là vô minh. Hai là nói lên vốn không, văn có ba:

19. Bản tế vốn là diệu minh:

– Trước là nêu định.

Này người thiện nam! vô minh này, chẳng có thật thể, nói không có thật thể, chỉ là giả danh. Tìm cầu trong ngoài hoàn toàn không thật có. Suy ra bản tế vốn là diệu minh, cho nên luận chép: niệm không tự tướng không lìa bản giác, lại nói: y giác cho nên quên, nếu xa lìa giác tánh thì là giác, rõ các hạnh vô thể này là không sinh, không sinh cho nên không diệt, sinh diệt dứt rồi vắng lặng là vui, là biết mười một chi pháp đều có sở nhân. Chỉ do vô minh này từ hư không sinh khởi một cách ngang trái, nay ngộ vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, cho đến già, chết diệt.

– Kế là ví dụ giải thích.

Như người trong lúc ngủ mộng khi mộng chẳng phải không và cho đến khi tỉnh thì hoàn toàn không thật có.

Trước nói các lỗi lầm đều quy về vô minh. Nay lại nói vô thể, đạo lý khó thấy, lời nói bặt dứt, cho nên căn cứ vào dụ mà giải thích, nói khi ngủ nằm mơ thấy vật là có, cho nên các thứ trước nói về hành tướng kia khi thức muốn tìm lại thì không thật có, cho nên ở đây hiển rõ là vô thể.

20. Hỏi đáp về hoa đốm diệt:

Hỏi: Cầu không được thì diệt đi chỗ nào?

Cho nên kế lại đáp: Như hoa đốm trong hư không biến mất giữa hư không, không thể nói chắc chắn có chỗ diệt đi. Vì sao? Vì nêu ý rằng: Nếu không có chỗ diệt, thì lẽ ra nên thật có, vì sao nói hư không là vô.

Vì không có chỗ sinh: ý nói khi thấy hoa hư huyễn, nếu thật là có thì nay khi không thấy liền nói có chỗ diệt, khi thấy vốn không có chỗ sinh, không thấy làm sao tìm chỗ diệt?

Hỏi: Trước nói thật có chỗ sinh ra hoa, ở đây làm sao giải thích?

Đáp: Y theo lúc vọng chấp ở trước mà nói có. Ngộ rồi mới biết khi có vốn không, vì các pháp hòa hợp rõ ràng có thể thấy, cho nên kinh Lăng-nghiêm chép: mê này không có bổn tánh, rốt ráo là không. Xưa vốn không mê, mà dường như có mê tánh giác, giác mê thì mê diệt, giác không sinh mê, đây chính là lý vô sinh. Nếu quyết định nhẫn chịu ở tâm, gọi là vô sinh nhẫn. Kinh Hoa nghiêm chép: Tất cả pháp không sinh, tất cả pháp không diệt, nếu hiểu được như vậy, chư Phật thường hiện tiền. Sau khi dứt nghi, nghi rằng: trước nói sinh tử, do nơi vô minh, vô minh đã không, đâu có sinh tử? cho nên giải thích rằng:

21. Cái thấy ngang trái gọi là sinh tử:

Tất cả chúng sinh ở trong vô sinh vọng thấy sinh diệt, vô minh và sinh tử bổn mạt tất cả đều không. Chúng sinh ở trong không này mà mê tình, thấy có sinh tử một cách ngang trái, trước y theo cái thấy ngang trái cho nên nói có, ở đây thì thật luận cho nên nói không. Thế nên gọi là sinh tử luân hồi, chỉ cho văn trước, do bởi cái thấy ngang trái, cho nên văn trước gọi là sinh tử. Thứ ba giải thích thành nhân địa. Trên đây đã nói vọng, không, chân, hữu, có Phật, không Phật, tánh tướng vẫn như vậy, nay nói nương đây thông suốt, tâm ý thầm hợp mới thành nhân địa bổn khởi. Giải thích thành chánh đáp câu hỏi, trong văn chia làm ba:

22. Nói về nhân địa tu viên giác của Như lai:

– Trước là nương chân, ngộ vọng, mau chóng ra khỏi sinh tử. Này người thiện nam! nhân địa của Như Lai tu viên giác: Văn như trước đã nêu, tức là nương chân.

Biết là hoa đốm trong hư không là ngộ vọng, đều mau ra khỏi sinh tử, tức là không có trôi lăn thì không có pháp sinh tử. Đã biết muôn pháp như hoa đốm trong hư không, thì đâu còn thấy có trôi lăn, một hạt hoàn đơn chỉ sắt thành vàng, chân lý một lời biến phàm thành Thánh. Cũng giải thích nhân không khác quả, nhân địa như vậy mới gọi là chân tu.

Cũng không có thân tâm chịu sinh tử kia: người không sinh tử. Nghĩa là nếu chấp có ngã mà thoát khỏi luân hồi, thì đó là chưa khỏi ngã chấp. Ngã, ngã sở mất mới được giải thoát, tức là soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách. Bên ngoài để lại thế giới, bên trong thoát khỏi thân tâm. Không chấp thân, thân đồng hư không. Không chấp tâm tâm đồng pháp giới.

Chẳng làm cho nên không, bổn tánh là không. Chẳng do ta làm quán hạnh mới được, thân tâm rỗng không, bản tánh vắng lặng, xưa nay là không. Cho nên kinh Kim cương Tam-muội chép: Như chúng sinh được hóa độ mà không có chúng sinh được cảm hóa, không chúng sinh không hóa độ, hóa độ kia mới lớn! Kế là xoay vần phủi đi dấu vết, giải thích thành chánh nhân. Phủi có bốn lớp: Tri giác kia kia giống như hư không, một là phất nhẹ trí biết vọng, nghĩa là có thể biết thân tâm tánh vốn không, cũng như hư không đều chẳng thật có.

23. Xóa bỏ tâm phủi:

Biết hư không tức là tướng hoa đốm trong hư không, hai là xóa bỏ tâm phất. Biết năng giác là vô, tức đồng với hoa đốm trong hư không, tức là vô. Cũng không thể nói không biết tánh giác. Ba là ngăn dứt đoạn diệt, chỉ không khởi niệm phân biệt không hữu, không phải là không tâm, có không đều mất. Bốn là tổng kiết lìa lỗi.

24. Tổng kết lìa lỗi:

Ấy gọi là thuận theo tịnh giác. Giải thích thành nhân. Có-không đã không hợp lý, đây tức là đường tâm tư lời nói dứt bặt. Giác thể thanh tịnh từ đây hiển rõ, nhưng không bỏ giác theo trần, thì gọi là thuận theo, cũng chẳng có năng thuận riêng, cho nên ngài La-thập nói: vô tâm nơi hợp, hiệp ấy là hợp ư! Thuận theo tịnh giác nên nói tịnh giác thuận theo, như thế chấp hết thì bệnh trừ. Nhưng sâu hưng tâm vận hành, thì nhóm cát vẽ đất, chắp tay cúi đầu đều thành Phật đạo. Tu tập như vậy đáng gọi là chánh nhân, sau nêu lý do phất nhẹ. Giải thích trở về viên thật.

Vì sao? Vì thân tâm giả huyễn có thể nói là hoàn toàn không. Tri giác xứng lý vì sao lại phải bỏ! Hữu vô đều dứt thì y theo cái gì tu hành? Kế lại giải thích ý nói: tướng nhân đối đãi đều là theo duyên. Pháp của theo duyên đâu có thật thể! Sinh tâm động niệm thì trái với bổn tánh, mất đi chánh niệm. Tánh thể viên thật đều không như vậy…

Tánh hư không, tất cả pháp không bất sinh diệt, nghĩa là tướng như trên nhân các tướng, giống như hư không, vốn tự không sinh nay không thể diệt, chẳng phải phủi bỏ mới làm cho không. Vì thế kinh Phật Tạng chép: Tất cả pháp không không, chẳng có mảy may tướng…

Thường bất động, tất cả pháp vắng lặng không đến, đi. Chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Vì thế kinh Pháp Cú chép: các pháp từ xưa đến nay vắng lặng không hề lay động. Kinh Pháp Hoa cũng chép: tướng thường tự vắng lặng.

25. Nói về Như lai tạng:

Trong Như Lai tạng, hai câu trên nói về các pháp, dưới đây đều hiển rõ nhất tâm. Luận Chỉ Nhất Tâm chép: Như Lai tạng. Kinh Lănggià cũng chép: vắng lặng: gọi là nhất tâm. Nhất tâm: gọi Như Lai tạng. Kinh này ở dưới chép: viên giác, diệu tâm, Niết-bàn tức gọi Phật tánh. Nay một câu này là nêu chung, hai câu tiếp là “không tạng”, ba câu sau là “bất không tạng”. Gọi chung là Như Lai tạng: do ba nghĩa.

1: Nghĩa che lấp: nói che lấp Như Lai cho nên nói tàng, vì thế kinh

Lý Thú Bát-nhã chép: tất cả chúng sinh đều Như Lai tạng. Kinh Thắng- man chép: hai pháp sinh, tử gọi là Như Lai tạng. Pháp thân Như Lai không lìa khi phiền não, gọi là Như Lai tạng. Kinh Như Lai tạng chép: trong các phiền não tham, sân, si của tất cả chúng sinh có thân Như Lai, cho đến thường không nhiễm ô, đầy đủ đức tướng, như ta không khác, liền dùng chín ví dụ để ví dụ.

26. Nêu chín ví dụ:

  1. Ủy hoa Phật thân.
  2. Nham phong thuần mật.
  3. Khang hội canh mễ.
  4. Vàng ròng rơi xuống bùn nhơ.
  5. Nhà nghèo được kho báu.
  6.  Hạt trong quả am-la.
  7. Tượng vàng trong áo rách.
  8. Bần nữ của Luân vương.
  9. Tiêu mô đúc tượng.

1- Nghĩa gồm nhiếp: nghĩa là pháp thân Như Lai thâu nhiếp chứa nhóm thân tướng, cõi nước, thần thông đại dụng công đức vô lượng. Lại cũng gồm nhiếp tất cả chúng sinh, đều ở trong tạng Như Lai.

2- Nghĩa sinh ra: nghĩa là pháp thân này đã bao trùm các đức, hiểu rõ chứng nhập thì sẽ sinh ra. Luận Thập Địa chép: địa trí có công năng sinh ra nhân quả vô lậu, cũng có thể sinh khởi đạo hạnh của trời, người. Ba nghĩa này trước y theo khi mê, sau y theo khi ngộ, ở giữa là khắc thể nhưng y theo chân vọng hòa hợp, thì gồm có hai hình tướng, nghĩa là trong kinh này nói: Như Lai tạng tự tánh khác nhau, luận chép: Chân như sinh diệt, nhưng chân vọng mỗi thứ đều có hai nghĩa, chân nghĩa là tùy duyên bất biến, vọng: nghĩa là thể không thành sự, trong chân không thay đổi, trong vọng thể không tức tự tánh chân như. Trong chân tùy duyên, trong vọng thành việc, tức là sinh diệt khác nhau.

27. Tính chân như có hai tướng:

Ban đầu trong tính chân như, lại có hai tướng. Kinh Thắng-man nói: có thứ hai Như Lai tạng không trí, đó là Không Như Lai tạng và Thoát ly nhất thiết phiền não tạng. Bất không Như Lai tạng, có hằng sa không thể suy nghĩ bàn luận Phật pháp. Trong luận cũng nói như thật không -như thật bất không, nghĩa hoàn toàn giống như ở đây. Sau trong sinh diệt cũng có hai tướng, đó là hữu lậu, và vô lậu, vô lậu lại có hai. Hữu vi và vô vi, hữu lậu cũng có hai là thiện và bất thiện, những hành tướng này đều có nghiệp dụng. Ban đầu là chân tánh, chân tánh có hai nghiệp.

28. Có hai thứ nghiệp:

– Tự thể năng trì, công đức hằng sa, từ xưa đến nay không mất, không hoại.

– Có khả năng chế ngự hằng sa phiền não khách trần, từ vô thỉ đến nay không nhiễm không ô, sau sinh diệt cũng có hai nghiệp:

1. Có công năng khởi hoặc gây nghiệp, nhiều kiếp chịu khổ sinh tử trong sáu đường. Cho nên kinh Lăng-già nói: Như Lai tạng: là nhân của lành, không lành, có công năng tạo ra tất cả đường cho đến hoặc sinh hoặc diệt.

2. Có công năng biết chân đạt vọng, phát tâm tu hành chứng quả ba thừa. Như luận Thập Địa ở trước đã dẫn… nói do hai nghiệp. Luận bảo tánh dẫn bài kệ trong kinh chép: tánh từ vô thỉ đến nay, làm chỗ nương cho các pháp, pháp tánh có các đạo và chứng quả Niết-bàn. Văn xuôi dẫn lời giải thích của kinh Thắng-man chép: Tánh là Như Lai tạng. Y chỉ là Như Lai tạng, là nương tựa, là giữ gìn, là kiến lập. Các đường là có Như Lai tạng cho nên nói sinh tử, ấy gọi là khéo nói. Chứng Niết-bàn, nếu không có Như Lai tạng thì không được nhàm chán khổ, ham cầu Niết-bàn, là chỗ nương từ đầu đến cuối trong nhân quả của chư Phật, vì thế người vào đạo trước phải tin hiểu. Lìa đây mà tin khác thì rơi vào tà kiến. Vì thế kinh Mật Nghiêm quở trách là ác tuệ. Hoa Nghiêm cũng chép: không thể rõ tự tâm, làm sao biết chánh đạo. Kia vì điên đảo tuệ, nuôi lớn tất cả ác, căn cứ đây mà rõ mới biết chánh đạo. Cho nên kinh Thắng-man chép: nếu đối với Như Lai tạng mà bị vô lượng phiền não trói buộc không nghi ngờ thì đối với tạng pháp thân vô lượng phiền não xuất triền cũng không nghi ngờ. Hội ban đầu trong Hoa Nghiêm, Phổ Hiền liền nhập Tam-muội Như Lai tạng thân là ý ở đây. Nhưng dù tâm này phàm Thánh đều có, nhưng quả hiển rõ dễ tin, vì ẩn nên khó rõ, vì hiểu biết cạn cợt. lưu truyền khinh nhân trọng quả.

Nguyện các đường là tin sâu tự tâm.

29. Nói về tính chất của Như lai tạng:

Không khởi diệt: giải thích sinh tử sở tri ở trên…

Vì không tri kiến: giải thích tri giác giả ở trên…

Hai câu trên đây giải thích không tạng. Nghĩa là thấy sinh tử khởi, thì gọi là chấp tình, thấy sinh tử diệt, thì gọi là tri giác, nay vì trong Như Lai tạng đã không thể khởi, không thể diệt thì làm sao có năng chấp, năng tri? Lại, khi mê sinh tử chẳng khởi, khi tịnh tâm chẳng phải diệt, cho nên vô mê. Khi ngộ thì tịnh tâm chẳng khởi, sinh tử chẳng diệt, cho nên chẳng có ngộ. Vì chẳng có ngộ cho nên vô tri kiến, đây chẳng phải chỉ không thể biết thức, đè nén cũng không thể biết trí, thức và trí đều như, mới là tự thể hiểu biết chân thật, ánh sáng đại trí tuệ chiếu khắp, vì ba câu dưới đây nói về “bất không tạng”.

30. Hai điểm khác nhau giữa pháp giới tánh và Như lai tạng:

Như pháp giới tánh: pháp giới tánh và Như Lai tạng thể đồng nghĩa khác, khác có hai:

1/ Trong số hữu tình gọi Như Lai tạng, trong số phi tình (chẳng phải hữu tình) gọi pháp giới tính. Như luận Trí Độ nói sự khác nhau giữa Phật tánh và pháp tánh.

2/ Nói pháp giới thì tình thế gian, khí thế gian thông suốt tâm cảnh không phân, Như Lai tạng thì chỉ nói các Đức Phật và chúng sinh tâm thể cội nguồn thanh tịnh, như nói rằng có thể làm thiện ác, có thể khởi nhàm chán mong cầu, nói theo pháp giới, thì không có nghĩa đây. Căn cứ theo đây thì tạng tâm đảm đương cội nguồn, giới tánh hỗn hợp gốc ngọn, hỗn hợp thì nghĩa trùm khắp khắp dễ tin, đảm đương thì lý biến khắp khó rõ, vì thế chỉ tạng tâm như pháp giới tánh. Cũng là thâu nhiếp sự khác nhau của hai nghĩa kia, trở về đồng một thể, mới hiển rõ giác vọng nhờ nương thật chẳng phải rốt ráo viên thật.

Rốt ráo dọc cùng ba đời, đầu cuối thường như vậy. Viên là trùm khắp hư không, mãn là các đức đầy đủ. Vì khắp mười phương cho nên không bờ mé, vì tánh Như Lai tạng vốn tự như thế, đâu cần giảm cũ, thêm mới, diệt hoặc, sinh trí? Vì thế ba lần mất đi thầm hợp tâm giác, lấy đó làm gốc tu hành mới được chính gọi là nhân địa.

31. Kết thúc nhắc lại đáp:

Thứ tư kiết thúc nhắc lại lời hỏi đáp.

Cho nên là pháp hạnh nhân địa, Bồ-tát do đây, đối với Đại thừa phát tâm thanh tịnh, chúng sinh đời mạt pháp nương theo đó tu hành, không rơi vào xuống là kệ tụng, văn chia làm hai:

– Nêu lên: Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói kệ rằng: nhưng kệ có hai loại:

1/ Già-đà: Hán dịch là phúng tụng, tức là kệ cô khởi.

2/ Kỳ dạ: Hán dịch là xưng tụng, là tụng theo văn xuôi, hoặc vì người độn căn nói lại, hoặc vì những người đến sau, hoặc vì làm rõ thêm đều nói ở trước. Nay kệ kinh này điều đã là kỳ-dạ. Nhưng hễ nói văn xuôi thì kệ tụng đối nhau. Có ví dụ về năm cặp, đó là: có, không, rộng, lược, ly, hợp, trước, sau, ẩn, hiện. Vấn mục kinh này là có văn xuôi không có kệ.

Đáp: Đều là văn xuôi rộng, kệ lược, ngoài ra tùy theo đối văn tương đương đang chỉ.

– Chính thức trình bày: nhưng trong đoạn này có năm bài kệ, chỉ phúng tụng lại trường hàng, không có nghĩa riêng, cho nên như thứ hai y theo bốn đoạn trước mà xét. Nhưng văn kinh thêm bớt, cho nên tên khoa đoạn cũng khác nhau chút ít. Bốn thứ là:

32. Các bài tụng về liễu ngộ bản giác:

– Phúng tụng liễu ngộ bản giác.

* Văn-thù ông nên biết, tất cả các Như lai, từ nơi nhân địa gốc, đều nhờ trí tuệ giác. Nghĩa chẳng khác trước.

– Phúng tụng dứt trừ vô minh.

* Thấu rõ các vô minh:

Biết kia như hoa đốm,

Thì thoát khỏi trôi lăn,

Lại như người trong mộng,

Thức dậy chẳng thật có.

Hai đoạn trên đều lìa trường hàng, hợp với kệ.

– Phúng tụng phủi dấu vết thành nhân:

Người giác như hư không,

Bình đẳng không lay động,

Biết khắp cả mười phương,

Liền được thành Phật đạo,

Dứt các huyễn không còn.

Hai câu trên, trước văn xuôi sau kệ.

Thành đạo cũng không được, văn xuôi không kệ có, vì Bổn tánh tròn đầy, bốn đọc bài kiết thúc nhắc lại hỏi rằng.

Bồ-tát đối với đây,

Nặng phát tâm Bồ-đề

Văn xuôi kín, kệ hiển rõ.

Chúng sinh đời mạt pháp, tu đây khỏi tà kiến.

 

****

Dưới đây là đoạn lớn thứ hai, dạy nương vào sự hiểu biết tu hành tùy căn cơ chứng nhập, nghĩa là mở đầu người pháp gương sáng soi chiếu tâm, mau được tin hiểu, cho đến tu chứng lâu dài, nên từng tiết mục khác nhau, vì chướng có cạn sâu, căn cơ có lợi độn, thói quen có dày mỏng, tâm hạnh trái nhau, cho nên chỗ nào cũng phải tùy theo căn cơ dẫn dắt khiến được ra khỏi. Nhưng sự tu chứng kia giai cấp cao thấp tuy khác nhau nhưng phải nhờ bổn nhân, cho nên nói nương vào giải thích. Trước là tin hiểu. Ở đây là hành chứng cho nên bộ Hoa nghiêm cũng chỉ có bốn điều này, trong văn có hai:

  1. Nêu lên giải thích dụng tâm.
  2. Nói rộng hành tướng.

Sở dĩ như thế, vì lý ngộ tu một khác khó rõ, ý phù hợp với thật tướng mà dường như trái, vì thế phải nêu lên giải thích khiến hiểu dụng tâm. Nhưng sau tùy tánh tùy duyên, nói rộng về hành tướng. Ở đây trước hết nêu lên giải thích bốn đoạn của khoa lớn trong văn không khác môn đầu, trong phần bày thỉnh có ba cũng giống như trước nêu. Ở đây:

33. Trước là hỏi về oai nghi: Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Phổ Hiền chính là thể trong hạnh, nêu đầu tiên làm chỗ nương chung, quán môn riêng không lìa ở đây.

34. Hai Thánh biểu pháp rồi đầy đủ văn trước. Kế là trình bày, trong văn có bốn:

1. Một là y theo căn cơ đương thời nêu lên. Xin Đại bi Thế Tôn! vì các chúng Bồ-tát trong hội này và vì tất cả chúng sinh đời mạt pháp tu hạnh Đại thừa: nghe cảnh giới viên giác thanh tịnh này mà nói tu hành như thế nào? Tin hiểu viên giác tức là căn cơ đương thời, dù đạt được thiên chân vẫn chưa rõ duyên khởi, đại sĩ thương xót tiếp dẫn rủ lòng, trưng hỏi kỹ lưỡng dụng tâm giải hạnh khế hợp như thế nào?

2. Hai là hỏi giải hành trái nhau. Trong đó lại chia hai: Huyễn huyễn tu như thế nào?

Thế Tôn! Nếu chúng sinh kia: Là chỉ cho căn cơ đương thời ở trước. Biết như huyễn: thân tâm cũng huyễn (là giải thích ) vì sao dùng huyễn trở lại tu huyễn? (Là hành). Nghĩa là tất cả như huyễn chính giải mới thành. Pháp huyễn chẳng chân làm sao tu tập? Cho nên giải và hành tới lùi trái nhau, nêu lên giải thích dụng tâm thật do ở đây. Đây hỏi từ trước biết là hoa đốm trong hư không tức là do các văn nói về không còn trôi lăn… mà có. Ý nói thân tâm đã như huyễn, năng tri cũng là huyễn, dùng huyễn lại trừ huyễn, huyễn huyễn làm sao cùng tận. Huyễn nghĩa là thế gian có pháp huyễn, nương theo cỏ cây… huyễn làm người, súc sinh rõ ràng dường như có tướng của động tác qua lại. Chốc lát pháp tàn tạ lại thành cỏ cây. Nhưng các kinh giáo dụ huyễn rất nhiều, bởi vì năm thiên ở đây nói rất nhiều, thấy nghe đã xét pháp lý dễ rõ, và truyền đến Trung quốc trở thành khó hiểu. Nay y theo văn của các Đại sư xưa giải thích Hoa Nghiêm như huyễn. Pháp dụ mỗi thứ chia ra năm pháp, trong ví dụ có năm, như cột một chiếc khăn huyễn.

  1. Con ngựa, một khăn sở y.
  2. Pháp ảo thuật của nhà ảo thuật.
  3. Ngựa ảo.
  4. Ngựa có liền không.
  5. Người ngu chấp là ngựa, trong pháp có năm:
    • Chân tánh.-
    • Tâm thức.
    • Y tha khởi.
    • Ngã pháp tức là không.
    • Mê chấp ngã pháp, các ví dụ ảo thuật dưới đây đều dựa theo đây mà biết.

35. Ba Hỏi đoạn diệt ai tu.

Nếu các tánh huyễn tất cả diệt hết thì không có tâm, vậy ai là người tu hành, vì sao lại nói tu hành như huyễn?

Câu hỏi này cũng từ việc phủi dấu vết ở trước mà có. Nghĩa là nếu vì như huyễn nên tất cả đều không, năng sở đều không, vậy dạy ai tu tập? Vì sao lại nói tu hành như huyễn? Kinh Kim cương Tam-muội chép: Tâm tính chúng sinh vốn vắng lặng, tâm vắng lặng thể không sắc tướng, vì sao nói tu tập được bổn không tâm.

36. Bốn là ngăn lỗi không tu.

Nếu các chúng sinh vốn không tu hành, đối với sự sinh tử thường ở trong huyễn hóa, sẽ không biết rõ cảnh giới như huyễn, khiến tâm vọng tưởng làm sao giải thoát. Ý nói sợ hãi mê hoặc. Lại nói: Tất cả như huyễn, thảy đều là không, giác tính vô sinh xưa nay thanh tịnh, biết kia tức là mình thì làm sao có tu hành? Cho nên ở đây ngăn rằng: bổn không vốn không tu, nhiều đời khổ sinh tử, nay không, nay không tu, thì làm sao thoát khổ? Không rõ cảnh giới như huyễn là chưa đạt đến duyên khởi sự tướng. Từ xưa đến nay không thông hiểu vọng tưởng, không được giải thoát. Nay lại không biết rõ, như thế làm sao được giải thoát? Ý đắm chìm thời cận đại rất nhiều, chỉ cậy vào thiên chân mà không quán lực dụng.

37. Năm Phương tiện thỉnh tu.

Xin vì tất cả chúng sinh đời mạt pháp, dạy phải làm phương tiện gì tu tập dần dần, khiến các chúng sinh lìa hẳn các huyễn.

Như trên là ngăn lỗi không tu, đã biết thì quyết định nên tu.

Hỏi: Pháp môn đối trị làm thế nào lìa hẳn các huyễn?

Đáp: Luận chép: nếu người chỉ nhớ nghĩ chân như, không dùng các thứ phương tiện huân tu, thì không bao giờ được thanh tịnh, đối với dần dần xa lìa cho nên nói là lìa hẳn, nghĩa là trước quán nhất thể, dù giác ngộ được toàn chân, sau gặp tám thứ gió thì lăng xăng khởi lên vọng tưởng, hạnh như cùng tử, hiểu như ánh điện chớp dùng pháp gì tu trị? Để trừ hẳn gốc bệnh. Nhưng kinh nói: tất cả chúng sinh làm phương tiện gì? Giữa hai câu ý văn dứt bặt, dịch quá sơ lược, nên nói rộng thêm giải thích các lời, ý thì nối nhau, thông suốt rõ ràng? Sau cũng thường như vậy, dưới đây là ba lần xướng văn kinh, mô phỏng theo khoa đoạn ở trước.

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối rồi trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hiền rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sinh mời mạt pháp, mà tu tập Tam-muội như huyễn của Bồ-tát: Tam-muội. Hán dịch là Chánh thọ, do thấu đạt thân tâm Như Huyễn thì thầm hợp với bổn giác chân như, như gương nhận bóng, chẳng phải nhận, chẳng phải chống cự, vì thế gọi là chánh thọ.

Phương tiện dần dần khiến các chúng sinh được lìa các huyễn. Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông nghe. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền vui mừng vâng lời chỉ dạy, và các đại chúng im lặng lắng nghe: là phần giảng nói, trong văn xuôi có bốn.

  1. Nêu huyễn từ giác sinh để làm nghĩa gốc.
  2. Nói huyễn hết thì giác tròn đầy, để giải thích nghi ngờ ở trước.
  3. Khiến lìa huyễn, hiển bày giác, là chỉ bày dụng tâm.
  4. Nói huyễn và giác không đi chung. Kết thúc đáp lời thỉnh mời.

Ở đây, trước là phần thứ nhất nói nghĩa gốc: vì Phổ Hiền chỉ nêu lên tu huyễn, không hỏi chỗ sinh ra huyễn, Phật dạy sinh trong tâm giác, không vì chính đáp lời hỏi, hơn nữa phải nêu lên làm gốc, dựa vào đó nói lên huyễn hết thì giác tròn đầy, vì thế có tu thì nghĩa huyễn thành. Huyễn hết vốn chẳng phải đoạn diệt, cho nên luận chép: Tâm tự tánh thanh tịnh do vô minh lay động, cho đến vô minh diệt trí tánh không hoại, như gió ngừng thổi tánh ướt không mất.

Này người thiện nam, tất cả chúng sinh tạo ra các thứ huyễn hóa, như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới hữu lậu… Kệ chép: huyễn vô minh. Đều sinh: các pháp hữu lậu đều từ tánh tịnh chân tâm mà sinh, nương chân khởi vọng.

Như lai: Tâm này tùy phàm Thánh đồng nương, chỉ có Phật chứng đắc tròn đầy, y theo Phật mà nêu.

Viên: Là lìa tướng, giác: Thì chẳng phải không; Diệu: là nhiễm mà không nhiễm. Tâm: trong thật thần giải, tiếng Phạm là Càn-lật-đà, là tâm chắc thật, không đồng nghĩa của duyên lự lập khởi. Nói đều sinh: tâm thể bản giác là nhân. Căn bản bất giác là duyên sinh, nghiệp thức ba đời là nhân, cảnh giới là duyên sinh sáu thô. Vì thế kinh Lăng-già chép: Này Đại tuệ! Không thể suy nghĩ bàn luận, không thể suy nghĩ bàn luận biến là nhân hiện thức. Chọn lấy các bụi trần và vọng tưởng từ vô thỉ mà huân là nhân của phân biệt sự thức. Cho nên biết các pháp đều không có tự thể, phải mượn chỗ nương, nương tâm viên giác mà sinh khởi. Như ngựa ảo thuật không có thật thể, phải nương vào khăn, khăn dụ chân tâm, ngựa tức là năm uẩn, mười tám giới. Phối hợp với năm pháp trước gốc ngọn nên biết.

Hỏi: Chân có thể sinh vọng, chân là nguồn vọng, vì sao ở trước nói vô minh không có thật thể?

Đáp: Vọng gá vào chân mà khởi nên nói chân là nguồn, hiện trở lại mê chân, chân vốn không vọng, như mặt trăng thứ hai nương vào mặt trăng thật mà sinh ra, nói mặt trăng thật làm chỗ nương cho mặt trăng thứ hai. Mặt trăng thật không có vầng thứ hai, tức là mặt trăng thứ hai không có thật thể của nó. Cho nên kinh nói: Các thứ sinh nơi tâm giác, không phải tâm sinh các thứ, nhưng các kinh luận đều nói “Muôn pháp nhất tâm, ba cõi duy thức”. Tông đồ có khác, người học ít biết, nay y theo năm giáo lược nêu chỗ khác nhau.

  1. Ngu pháp Thanh văn giáo: giả nói nhất tâm, nghĩa là thật có cảnh ngoài, chỉ do tâm gây ra nghiệp mà chiêu cảm ra.
  2. Đại thừa quyền giáo: nói A-lại-da chín muồi gọi là nhất tâm, ngăn dứt vô cảnh.
  3. Đại thừa thật giáo: cho Như lai tạng là nhất tâm, lý không hai.
  4. Nhất thừa đốn giáo: Dứt bặt nhiễm tịnh, chỉ là nhất tâm, bác bỏ các số
  5. Nhất thừa Viên giáo: bao gồm muôn hữu, tức là nhất tâm, lýsự-bổn-mạt chẳng khác nhau.

Năm giáo trên đây sau cùng sâu, sau thâu tóm trước, trước không nhiếp sau, nhưng đều nói nhất tâm, có sự khác nhau này. Vì kinh nói theo căn cơ, luận suốt thì kinh thông, người theo luận chấp, đến nỗi khiến đời mạt pháp chấp chặt sự cạn cợt tạm bợ, nay bổn mạt thông suốt, khiến năm môn đều hiển rõ tông chỉ, đối nhau lại là ba môn.

1- Y theo sở thuyên: trái thứ tự thuận pháp, từ bốn đến một, xoay vần khởi mạt. Nghĩa là vốn chỉ chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh, tâm nhất pháp giới, do tên gọi bất giác, Như lai tạng cùng sinh diệt hợp nhau thành thức A-lại-da (thức thứ tám).

Lại do chấp đây làm ngã pháp, chuyển khởi bảy thức còn lại thành tám thức. Mỗi thức đều do thức thể khởi năng kiến phần, do năng kiến nên dường như ngoại cảnh hiện, chấp lấy cảnh này làm định thật, tạo ra các nghiệp chung, nghiệp riêng, vì thế trong thì mê ra tự thân, ngoài thì chiêu cảm khí giới tất cả các pháp.

2- Y theo năng thuyên: văn thuận pháp nghịch, từ một đến bốn, xoay vần cùng tột cội gốc. Nghĩa là Đức Phật đối với căn tánh thấp kém chưa thể mau thông đạt cội gốc sinh khởi ra muôn pháp: hơn nữa nói từ nghiệp chiêu cảm, đây là Thanh văn giáo đầu tiên. Kế là căn cơ hơi tốt. Nói năng sở chiêu cảm, tất cả duy thức, xoay vần cho đến chỉ một chân tâm, gọi là đốn giáo… đều do căn có cao thấp, khiến nói có cạn sâu, nếu chấp đắm thì mê sau sau. Thông hiểu đầu cuối mới cùng tột nguồn gốc.

3- Năng thuyên sở thuyên: nghịch thuận, bổn mạt đều không chướng ngại, vì xứng pháp tánh thẳng nói không theo căn cơ nên nói là khác, tức là Viên giáo. Nghĩa của Duy tâm kinh luận đã nêu rõ. Mê thì hướng mặt vào tường, hiểu thì muôn pháp trước gương, huống nữa đây nêu làm nghĩa gốc như thế sao không rõ tận cội nguồn? Người thông suốt hãy xét kỹ! Chớ trách bày ra đầy đủ. Dưới đây là phần thứ hai, nói về huyễn hết thì giác tròn đầy, để giải thích nghi ngờ trước. Nhưng trên nói huyễn từ giác sinh, duyên nhiễm sinh khởi. Ở đây nói về huyễn hết giác tròn đầy, duyên tịnh sinh khởi, cho nên luận chép: Có bốn pháp huân tập nghĩa, nhiễm pháp tịnh pháp khởi lên không chấm dứt. Pháp nhiễm: do nương pháp chân như có ra vô minh, vô minh huân tập chân như nên có vọng tâm, vọng tâm huân tập vô minh, không rõ pháp chân như, bất giác vọng khởi hiện cảnh giới vọng, cảnh giới vọng làm nhiễm pháp duyên, tức là huân tập vọng tâm, khiến niệm mê đắm, tạo ra các nghiệp, phải chịu tất cả các khổ thân tâm. Vì thế kinh Thắng-man chép: không nhiễm mà nhiễm, pháp thân không thêm không bớt. Kinh chép: pháp thân trôi lăn trong năm đường, gọi là chúng sinh. Kinh Hoa Nghiêm chép: Tâm như người thợ vẽ… tịnh duyên khởi:

Luận chép: Do có pháp chân như nên huân tập vô minh, khiến cho vọng tâm nhàm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, do nhàm chán ham cầu tức là huân tập chân như. Tự tin, đã tin, biết tâm vọng động, không có cảnh giới trước, tu pháp xa lìa, các thứ phương tiện khởi hạnh thuận theo, không chấp không niệm, cho đến năng lực huân tập lâu dài. Vô minh thì diệt, vì vô minh diệt nên tâm không khởi, cảnh giới diệt theo. Tướng Tâm đều cùng tận, gọi là được Niết-bàn, thành nghiệp tự nhiên, nhưng duyên thanh tịnh khởi trái với duyên nhiễm ở trước, duyên không tự tánh, nhiễm tịnh đều dung hợp tánh pháp giới, khởi chỉ do tánh khởi cho nên không dứt hết. Như Kinh Hoa nghiêm chép: y theo phương này gọi là huyễn hết giác tròn đầy, trong văn chia làm ba:

– Nêu ví dụ bao gồm văn giải thích trước.

2- Pháp hợp chỉ nói về nghĩa gốc.

3- Gồm cả, giác đồng với huyễn, nay đầu tiên giống như hoa đốm trong hư không từ hư không mà có, dụ cho nghĩa gốc ở trước, nghĩa là hoa đốm trong hư không rốt ráo thật không có sanh diệt, nhưng vì mắt bị màng nên thấy hoa. Khi bị màng che thì hoa nương hư không mà hiện, nói từ hư không mà có, như diệu tánh viên giác rốt ráo không sinh, chỉ vì tâm mê trong tánh vọng thấy, khi đã mê thì vọng nương giác hiện, nói sinh ra ở giác.

Hoa huyễn tuy diệt nhưng tánh hư không chẳng hoại, chính là dụ đoạn này giải thích văn nghi ngờ, nghĩa là che lấp khác nhau thì thấy

50 hoa tan biến trong hư không. Hoa tuy diệt mà hư không thường còn. Nhưng hoa khi sinh không sinh, khi diệt không diệt, có che lấp có khác nhau, thấy sinh, thấy diệt. Hai pháp hợp lại chỉ nói nghĩa gốc. Chúng sinh tâm huyễn lại nương huyễn diệt, nghĩa là tâm huyễn này do trí rõ suốt mới được trừ diệt. Sở liễu là huyễn, năng liễu cũng huyễn, thì ở trước nghi rằng huyễn huyễn làm sao tu? Nay đáp ý rằng: Không ngại dùng huyễn trừ huyễn, lại ở trước nói: huyễn hết thì đoạn diệt, kế ở dưới đây đáp rằng: Các huyễn diệt hết, tâm giác bất động, đây là năng sở đều quên, liền khế hợp Viên giác. Giống như sóng do nước dậy, sóng tan nước còn, huyễn từ giác sinh, huyễn diệt thì giác tròn đầy.

Kế gồm cả phất, đồng với giác của huyễn, phất có ba lớp: Nương huyễn, nói giác cũng gọi là huyễn, phất giác là giác của vọng, đối duyên mà khởi nên cũng là huyễn.

Nếu nói có giác vẫn chưa lìa huyễn, người sợ tu tập liền nghĩ rằng:

giác đối với vọng gọi là huyễn, giác không đối vọng vốn có thì chẳng phải hư huyễn, nếu sanh tâm này, sanh thì như huyễn.

Nói vô giác cũng giống như vậy, hoặc nói hai giác đều vô tức gọi là chân. Ý này cũng vẫn như huyễn, tóm lại: khởi tâm động niệm nói vọng nói chân đều là huyễn, đuổi nhau khởi niệm, thế cùng cực có ba lớp.

Cho nên huyễn diệt gọi là bất động, hoặc dứt bặt không nương nhờ, phân biệt không sinh, chân tâm viên giác tự nhiên hiển hiện. Vốn không huyễn hóa, nên nói bất động.

Kế là giúp cho lìa huyễn bày giác, chính là bày dụng tâm, là trả lời ý hỏi tu tập ở trước. Trước không nghi ngờ hợp với tu không tu, nhưng đối với tu nghi ngờ dụng tâm trái nhau, một bề chỉ thỉnh tu hành như thế nào để lìa huyễn? Gồm lỗi tự mình che lấp không tu, vì thế đoạn trước giải thích nghi ngờ rồi, đoạn này chính là chỉ bày dụng tâm, đoạn sau liền thông hiểu. Lời nói phương tiện thứ lớp, đã khiến lìa huyễn tu hành, bèn thông hiểu được lỗi nghi ngờ không tu. Vì thế không có văn trả lời riêng, trong văn có ba: nói pháp dụ hợp, trong pháp chia làm hai: Trước xoay vần lìa huyễn.

“Này người thiện nam! Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, là nêu chỉ cho đương cơ”. Phải nên là lời khuyên nhắc xoay vần bốn lớp.

Xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa luống dối.

  1. Lìa các cảnh huyễn, do giữ chắc xa lìa tâm, tâm như huyễn cũng lại xa lìa.
  2. Xa lìa “tâm lìa huyễn”, nói như huyễn là để phân biệt với chẳng phải tâm huyễn, xa lìa là huyễn cũng lại xa lìa.
  3. Khiến xa lìa “lìa huyễn”, lìa xa lìa huyễn cũng lại xa lìa.

4. Khiến xa lìa “lìa cái lìa”, cũng có thể một là lìa vọng, hai là lìa giác, ba là khiến xa lìa, bốn là bỏ cái khiến. Đều nói xa lìa có hai: một là chỉ; hai là quán. Chỉ lìa: dừng tâm dứt ý không bao giờ phan duyên như người gặp kẻ thù không nên ở chung. Quán lìa: pháp luống dối đều không có thể tánh, như mộng thấy gông xiềng, thức dậy thì đã lìa, vì thế văn dưới đây nói: biết huyễn tức lìa, sau thầm hiển bày chân giác.

Một là, được không chỗ lìa tức dứt các huyễn, trong mộng thấy mộng xoay vần biết trước đó là chẳng đúng, đến khi thức thì thấy biết mới thật, cho nên nói như vậy. Không chỗ lìa có hai ý:

  1. Thầm hợp với chân giác, chân giác thì không thể lìa.
  2. Đến trong chân giác, tự nhiên không như trên là các thứ huyễn có thể xa lìa. Hà Trạch nói: vọng khởi liền giác, vọng diệt giác diệt, giác vọng đều diệt tức là chân như.

Hai là, ví dụ: thí như dùi lửa, hai cây cọ nhau mà phát ra lửa, gỗ hết tro bay khói tắt. Như có một khúc củi khô, dùng một khúc gỗ khác dùi thì lửa phát ra, trở lại đốt hai khúc gỗ, gỗ lửa đã hết khói tự nhiên tắt, đã thành tro bụi mặc cho bay đi, hai cây khác nhau hình chất làm ngại, như kế là bốn việc phối với pháp, khúc gỗ dụ cho pháp được tu là huyễn vọng. Gỗ đồ lấy lửa dụ cho năng tu huyễn trí, khói dụ cho xa lìa, tro dụ xua đuổi. Văn kinh trước nói: Tro bay là dịch ngược, hợp lại là khói diệt trước, các tro bay đi. Trong thí dụ thiếu ở bày giác, vì văn lược bỏ, trước pháp sau hợp, đều có đủ, nếu muốn đầy đủ, thì nên dùng đất dụ cho Viên giác, do gỗ… từ đất sinh ra, cháy hết sạch chỉ còn đất, như các thứ huyễn hóa sinh trong diệu tâm viên giác, huyễn hóa thường động hết, viên giác xưa nay bất động.

Ba là, hợp dùng huyễn tu huyễn cũng giống như vậy, các huyễn tuy hết nhưng không vào đoạn diệt. Ba câu trên là chính văn hiện của hợp dụ, một câu dưới gồm cả ở trước thầm bày chân giác.

Bốn là, nói huyễn và giác không đi chung, kết thúc đáp lời thỉnh. Này người thiện nam! Biết huyễn tức lìa, không hành phương tiện, lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp, trước nói thực hành phương tiện gì để thứ lớp tu tập? Nay các chúng sinh xa lìa hẳn các huyễn, cho nên Đức Phật chỉ bày dụng tâm xong. Kết thúc trả lời không thực hành phương tiện cũng không thứ lớp, như vậy mới xa lìa được các huyễn, thông hiểu việc hỏi trong văn. Nhưng biết được đó là huyễn thì mình gọi là lìa, nhưng xa lìa được huyễn tức vốn là giác. Lại không có thứ lớp, dần dần biến thành giác. Như người mộng thấy thân lở loét, hỏi bác sĩ thuốc chữa, tỉnh dậy đã biết là mộng, thì đâu còn thực hành phương tiện gì? Nếu đợi phương tiện tu dần dần xa lìa tức là thật pháp, đâu gọi là huyễn hóa, nếu chấp thật có thì lại thành vọng chấp, đâu gọi là tu hành? Cho nên nói như thế.

Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, y theo đây tu hành, như thế mới lìa hẳn các huyễn, kết quả thành xa lìa chân thật, cũng là chung kết văn của dụng tâm ở trước.

Kế là bốn đoạn trong kệ tụng, theo thứ lớp kệ phúng tụng, lại văn xuôi, khoa văn hoàn toàn giống nhau, không phiền nói lại.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này bèn nói kệ rằng, lại nêu lên, văn sau mô phỏng theo đây.

Phổ Hiền ông nên biết,

Tất cả các chúng sinh,

Huyễn vô minh vô thỉ,

Đều từ các Như lai,

Lập ra tâm Viên giác.

Nêu chỉ cho sinh: Nói về vô minh thì văn xuôi không, kệ có.

Như hoa đốm trong hư không,

Nương không mà có tướng,

Hoa giữa không nếu diệt,

Hư không vẫn bất động.

Huyễn từ các giác sanh

Huyễn diệt giác tròn đầy

Vì tâm giác bất động.

Xoay vần phủi dấu vết văn xuôi có, kệ không. Nếu các Bồ-tát kia, và chúng sinh đời mạt, thường nên xa lìa huyễn, các huyễn thảy đều lìa, như trong gỗ sinh lửa, gỗ hết lửa lại tắt.

Văn xuôi lìa kệ hợp, lại pháp hợp và thầm hiển bày chân giác văn xuôi có, kệ không.

Giác thì không thứ lớp,

Phương tiện cũng như vậy.

Văn kết thúc trả lời,

Văn xuôi có, kệ không,

Nêu lên giải thích dụng tâm xong.

Dưới đây là đoạn văn lớn. Thứ hai nói rộng về hành tướng, có chín câu hỏi đáp, gom lại làm ba.

– Ban đầu bốn lần hỏi đáp nói chung về quán hạnh, thượng căn tu chứng. Kế là bốn lần hỏi đáp, nói riêng về quán hạnh, trung căn tu chứng, sau là một lần hỏi đáp, nói về đạo tràng gia hạnh, hạ căn tu chứng. Nhưng ba môn này trước trước không nhờ sau sau, sau sau phải theo đuổi trước trước, trong phần đầu có bốn. 1) Mở bày quán môn đồng với Phật.

  1. Gạn hỏi giải thích mê ngộ, đầu cuối.
  2. Nghiên cứu sâu cội gốc luân hồi.
  3. Lược chia địa vị tu chứng. Y theo của môn đầu có bốn, ba đều giống như trước.

Ở đây trước hỏi oai nghi.

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Nhãn ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi quanh theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: nghĩa cũng đồng như trên, kế là trình bày bốn trường hợp, trong đó có ba.

1. Nêu pháp thỉnh.

Đại bi Thế Tôn! Xin vì các chúng Bồ-tát trong hội này, và tất cả chúng sinh đời mạt pháp, giảng nói thứ lớp tu hành của Bồ-tát. Nêu thỉnh tu hành theo thứ lớp, do câu hỏi của Phổ Hiền rất sâu xa, Như lai xứng lý trả lời, trước muốn tiêu trừ tâm bệnh, sau đó muôn hạnh đều tu. Hoặc có nghe trước nói rằng biết huyễn tức lìa, không hành phương tiện, cũng không thứ lớp, nghĩa là nói biết huyễn tức đã lìa đều không nhờ tu. Phổ Nhãn muốn giúp cho giáo pháp tròn đầy nên thưa hỏi pháp môn khởi hạnh. Vì thế Phật dạy giữ giới, ngồi thẳng, thường nghĩ như vầy… xoay vần cho đến quán hạnh thành tựu.

Vì sao? dưới đây đều nêu riêng.

Suy nghĩ: Quán sát chân vọng tức là tư tuệ.

Thế nào là trụ trì? Ngộ được cảnh giới mầu nhiệm an trú trong đó, giữ gìn không mất, tức là tu tuệ. Ở dưới là lắng nghe Phật dạy là sinh văn tuệ. Từ phàm đến Thánh phải nhờ ba tuệ, vì thế Phổ Nhãn vì chúng mong cầu xin, trên đều hỏi về trí, dưới đây là hỏi về bi rằng. Chúng sinh chưa ngộ, phải thực hành phương tiện gì? Giúp mọi người khai ngộ, ở đây đồng với Pháp Hoa, muốn giúp cho chúng sinh “khai thị ngộ nhập”, dùng khai để thâu nhiếp Thị, dùng Ngộ thâu nhiếp nhập, vì khai thị y theo năng hóa, ngộ nhập y theo sở hóa. y theo kinh này thì dưới đây Phật trả lời hoàn toàn dùng Như lai thanh tịnh tâm viên giác đã hiển bày ở trước làm căn bản. Do quán nhân, không, pháp không, và diệt ảnh tượng, hư không vô biên giác được hiển phát. Viên giác sáng tỏ cho nên hiển bày tâm thanh tịnh, cho đến ngang bằng với chư Phật, tức là khắp khiến khai ngộ.

2. Lại hiển bày thưa thỉnh.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chúng sinh kia không có phương tiện chân chính và suy nghĩ chân chính, nghe Phật, Như lai nói Tam-muội này thì tâm sinh mê muội liền không thể ngộ nhập viên giác, trái lại nếu được nghe Phật dạy phương tiện suy nghĩ liền khai ngộ. Nói nghe Tam-muội này, chính là trước lìa pháp môn huyễn ảo. Vì thế Phật trước nói: Ông hãy tu tập Tam-muội Như Huyễn.

3. Kết thúc thưa thỉnh: Xin khởi lòng từ bi, vì chúng con và tất cả chúng sinh đời mạt pháp mà giả nói phương tiện. Giả nói, vì tánh giác vốn tròn đầy, pháp vọng vốn vắng lặng thật không có tu. Chỉ vì người mới ngộ thói quen mê mờ khó dứt ngay, vì thế cầu thỉnh đối với vô tu giả nói phương tiện tu tập, dưới đây xướng ba lần mô phỏng theo trước.

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như vậy, đến cuối rồi trở lại đầu.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Nhãn rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, hỏi Như lai thứ lớp tu hành, suy nghĩ trụ trì, cho đến giả nói các thứ phương tiện, nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông nghe. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Phổ Nhãn vâng lời dạy bảo vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Thứ tư là chính nói, trong văn xuôi có bốn.

    1. Phương tiện khởi hạnh.
    2. Quán hạnh Thành tựu.
    3. Mau đồng cảnh Phật.
    4. Kết thúc nhắc lại lời thưa hỏi.

1. Đây là mở đầu.

Này người thiện nam! Các Bồ-tát mới học kia và tất cả chúng sinh đời mạt pháp, muốn cầu tâm viên giác Thanh tịnh của Như lai, chỉ nêu đương cơ.

Phải nên chính niệm, xa lìa các huyễn, trước chỉ nêu ra giải thích lìa huyễn, để làm gốc cho khởi hạnh. Nếu chấp pháp chắc chắn là thật, thì quán hạnh không thành. Vì thế trước phải thực hiện phương tiện chánh niệm thì được vô niệm. Cho nên luận Trí Độ chép: hữu niệm là nghiệp ma, vô niệm là pháp ấn.

Luận chép: lìa tướng niệm sánh bằng hư không giới. Lại nói: Tất

cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm nối nhau không hề lìa niệm, cho nên biết vô niệm là chánh niệm. Nhưng chánh niệm và lìa huyễn thành tựu lẫn nhau, do lìa huyễn cho nên chánh niệm, chánh niệm nên lìa huyễn. Vì sao! Vì bên ngoài còn có pháp thì bên trong khởi duyên niệm, bên trong có duyên niệm thì bên ngoài thấy có pháp, do đây chỉ cho cả hai, đứng đầu các hạnh.

2. Văn quán hạnh thành tựu có hai:

– Đầu tiên là giới, định:

Trước nương hạnh Xa-ma-tha của Như lai, Xa-ma-tha, Hán dịch là chỉ, chỉ là định nghĩa. Văn sau giải thích rằng: Rất yên tĩnh là hành, định có cạn sâu, cho nên nêu Như lai để phân biệt với chẳng phải định thô cạn, tà, nhỏ. Nếu loạn tâm giữ giới thì không thể nhập vào quán môn này, vì thế trước định sau giới, cũng có thể văn tuy trước sau nhưng tu không có trước sau.

Giữ gìn giới cấm, một bề bặt duyên, không nghĩ phạm, gọi là giữ vững, ngăn ngừa căn môn, răn dè thân miệng, nên gọi là cấm giới. Giới phẩm tuy nhiều nhưng gồm thành ba nhóm:

  1. Nhiếp luật nghi.
  2. Nhiếp thiện pháp.
  3. Nhiếp chúng sinh.

Ở đây ý nói luật nghi, nghĩa có cả hai. Luật nghi giới nghĩa là mười vô tận, tóm lại chỉ có bốn trọng, bốn trọng này thanh tịnh thì tất cả nhánh lá không sinh.

Xếp đặt yên ổn đồ chúng, tức là người đồng hành, đồng kiến.

Hành nghiệp đã đồng, thì thay nhau đẽo gọt, cùng thương lượng, vì làm lớn thêm duyên đạo, vì thế phải xếp đặt yên ổn cho nên kinh Bảo Tích quyển bảy mươi hai chép: được thân người, kia nên nương Thiện tri thức mà nghe pháp bình đẳng của Phật ba đời, nghe rồi nên phát tâm siêng năng tinh tấn, nương vào thành ấp, làng xóm cùng đại chúng ở chung bốn bộ, lại nêu thắc mắc lẫn nhau, bàn luận Phật pháp, học hỏi khó trả lời, pháp bình đẳng của ba đời Phật hiện ra ở trước, hiểu tất cả pháp không có tự tánh, tu theo sự hiểu biết này thì phiền não dần dần dứt trừ.

Yên vui tĩnh thất là yên lặng, ngồi là nhiếp thân, thân trú thì tâm an, tâm nhàn thì cảnh vắng lặng, muốn an trú thân tâm nên phải yên ổn, ở trong thất yên lặng hay ở trong chúng đâu không trái nhau. Ở đây có hai cách giải thích:

1/ Căn tánh khác nhau, nên hoặc thường hôn trầm, được chúng sách tấn, hoặc thường trạo cử nên tự mình dứt, duyên chẳng phải một người mà làm hai việc.

2/ Định học tuệ học đồng đều: Nói quán hạnh viên thông, chỉ quán phải giúp nhau, phải nương bạn tốt, hoặc đồng kiến đồng hạnh, suốt ngày thảo luận pháp môn, không để dụng tâm sai lầm, sai một mảy may cách xa ngàn dặm, nên kinh Tịnh Danh chép: Không cần phải ngồi là ngồi yên, tuy cùng chúng an trú, không ngại ở phòng mình, đầu hôm, nửa đêm, gần sáng ngoài bàn luận Phật pháp chuyển đọc tôn kinh thì phải ngồi yên, suy nghĩ văn tư tu tuệ tròn sáng, đầu nên lơ là qua buổi vì thế không trái nhau. Ở đây y theo định giữ giới, ở trong chúng ngồi yên trả lời trú trì hỏi. Hai là quán tuệ, văn có hai.

  1. Nói về quán hai không.
  2. Sau nói về quán pháp giới.

– Trước là hai không: Chúng sinh nhiều kiếp chìm đắm, hoặc rơi vào tà kiến Tiểu thừa, không thành chủng trí, là do hai chướng.

a. Chướng không dứt do hai chấp, muốn dứt hai chấp, phải nhờ hai không, cho nên đối với pháp giới ở văn trước, trước thực hành hai không quán trí, chấp quên chướng hết, thì tánh Thánh hiện ra, ứng dụng số cát sông Hằng, được gọi là Phật, trong văn có hai: 1. Phá chấp. 2. Bày lý.

Trong phần một có hai:

  • Ngã không.
  • Pháp không.

Ngã không, lại có hai:

  • Quán thân vô ngã.
  • Quán tâm vô ngã.

Chấp ngã đều do năm uẩn, tự tướng năm uẩn chỉ có thân và tâm, nay có đoạn lớn mở bày. Nhưng bắt đầu phân tích riêng từng thứ, rong ruổi như thế vọng chấp chạy đường nào? Hoặc nói về thân là chung, thì sắc tâm là riêng, nay nói về ngã là chung, thân tâm là riêng. Ở đây trước quán thân, thân là cội gốc các ái, rõ ràng luống dối, thì tất cả phiền não tự dứt, nếu kia mê đắm thì khởi vô lượng lỗi lầm, nên ngài Tịnh Danh nhờ bệnh mà nói rộng về vô thường, khổ, không, vô ngã, khuyên khiến nhàm chán. Niết-bàn có thì dụ dùng bốn con rắn cũng khiến lìa bỏ. Kinh Kim Quang Minh, luận Trí Độ đều nói bội ân, trong văn có hai: Trước là tìm cầu quán sắt, sau là như thật quán. Trước là do tìm cầu xem xét, mới thấy lý như thật, đây là phần đầu.

Thường nghĩ như thế, đi, đứng, nằm, ngồi bất cứ lúc nào cũng thường quán như thế.

Nay thân ta đây chấp thọ đã bền chắc nên quán nghiêng lệch. Bốn đại hòa hợp, cứng ướt, nóng động, giả hòa hợp. Nên kinh Bảo Tích chép: Khi thân này sinh ra cùng với bốn đại chủng tánh của cha mẹ, một loại là Ca-la-la thân, nếu chỉ kéo địa đại mà không có thủy giới (cõi nước), thí như có người nắm bột gạo rang và tro cuối cùng không trộn lộn, hoặc chỉ có thủy giới không có địa giới, thí như dầu và nước không chắc thật, liền bị trôi chảy, nếu chỉ có đất, nước mà không có lửa thí như mặt trăng mùa hạ ở chỗ bóng râm, cục thịt mà không có ánh sáng mặt trời tức liền hư thối, nếu chỉ có đất, nước, lửa không có gió, thì không lớn lên. Kinh Tịnh Danh cũng chép: Bốn đại hòa hợp giả gọi là thân, bốn đại không chủ tể, thân cũng không ngã, cho nên văn kinh này trở lại chia bốn đại mỗi đại trở về chỗ cũ, đó là lóc, lông, móng, tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy não cáu bẩn đều trả về với đất, cứng chắc thuộc về đất.

Đờm, mũi, máu, huyết, nước bọt nước dãi, đờm mũi tinh khí, đại tiểu tiện đều trở về nước, trơn ướt thuộc về nước.

Hơi nóng trở về lửa rất dễ hiểu, nhưng khí (hơi) là gốc của bốn đại, không chỉ là gió. Vì thế đối với thủy đại, hỏa đại cũng gọi là khí.

Động chuyển trở về gió, kinh Tịnh Danh chép: Thân này vô tác, bị năng lực của gió xoay chuyển, nghĩa là mê tánh khởi tâm, tâm vận động năng lực gió chuyển ba đại còn lại, mà có động tác, tác không có tự tánh, cho nên nói là không, bốn đại đều nói trở về, thân này do bốn đại hòa hợp mà thành, nay nói thân vô chủ cho nên trở về bốn đại.

Bốn đại mỗi đại đều xa lìa, khi chánh quán mỗi thứ đều có chỗ trả về, tức gọi là lìa, không nói khi chết mới gọi là lìa, vì kinh am-đề-già Nữ Liễu Nghĩa nói về nghĩa sinh tử rằng: Nếu biết rõ bốn duyên đất, nước, gió, lửa rốt ráo không hề tự được có sự hòa hợp cho là nghĩa sinh, nếu biết đất, nước, gió, lửa rốt ráo không thật có, có chỗ tan rã chính là nghĩa tử. Ý này nói về ngay nơi hợp là tan, ngay nơi tan là hợp, cho nên văn nói hợp tan, đều không thật có. Nay thân huyễn đang ở chỗ nào? Hơn nữa đất có hình ngại nên bị dính mắc, gió không hình ngại nên nhẹ nhàng, thể tự trái nhau, nước lửa xâm phạm lẫn nhau, cho nên biết bốn đại trái nhau, mỗi đại khác nhau, không hề xét xem thân ta thuộc đại nào? Nếu thuộc tướng chung, thì có bốn ngã, nếu không thuộc chung, thì nên xa lìa bốn đại mà ngã thân có, nên nói như vậy. Sau quán như thật.

Tức biết thân này rốt ráo không có tự thể, hòa hợp thành tướng, thật đồng huyễn hóa, nói do trước tầm từ, thấy lý như thật, chắc chắn biết bốn đại chẳng phải ngã, chỉ y theo hòa hợp giả gọi là thân, cũng không có thật thể. Luận Trí Độ quyển mười bốn hỏi: Nếu tự thân không ngã mà chấp ngã thì thân người là vô ngã lẽ ra cũng nên chấp ngã mới phải chứ?

Đáp: Cũng có người đối với vật khác chấp là ngã, như ngoại đạo ngồi thiền lúc nhập vào quán đất thấy đất tức là ngã, nước, lửa, gió, hư không, thức cũng giống như vậy. Lại như có người đi xa ngủ một mình trong ngôi nhà trống, ban đêm thấy một con quỷ vác một thây chết vào nhà, lại có một con quỷ khác đến tranh giành. Lại, chỉ duyên chấp ngã mà làm tự thân, liền cho thân khác là tha nên sinh ra khó. Sau quán tâm vô ngã, tâm không tự tướng, nương cảnh mới sinh, tánh cảnh vốn không, do tâm mà hiện, căn trần hòa hợp, dường như có tâm duyên, trong ngoài từ chối, cái gì là thể kia? Sinh tử đắm chìm nhiều đời, do không rõ tâm, nếu hiểu được viên giác tự hiện, thì như kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: tánh cuồng tự hết, hết tức Bồ-đề, cao quý nhiệm mầu, không từ người mà được. Trong văn có hai:

Một là Quán Tầm tứ.

Bốn duyên (bốn đại) giả hợp, vọng có sáu căn, bốn đại hòa hợp thành một sắc. Đối với sắc này mới có sáu căn, lìa sắc thân này căn vốn vô thể. Các đại trả về bốn đại, sắc còn không giữ, thì lỗ hổng sáu căn nương vào đâu? Sáu căn, bốn đại trong ngoài hòa hợp thành, bốn đại là trong, căn là ngoài, trong ngoài giả hòa hợp thành thân này. Chấp có duyên khí chứa nhóm ở trong, dường như có tướng duyên giả gọi là tâm, nhờ nương bốn đại, sáu căn hòa hợp thành thân, nên có sáu trần vọng hiện. Do căn trần trong ngoài này mà dẫn khởi vọng tâm, duyên lự không dứt, niệm niệm sinh diệt, sát-na không dừng, duyên hợp thì có, duyên tan thì không, chối bỏ tự thể, hoàn toàn không thật có, nên nói giả gọi là tâm. Tâm luống dối tuy do giả duyên sinh, nhưng không lìa khí phần chân tâm, nên nói duyên hơi thở. Dường như là nói rõ chẳng phải thật có. Duyên tướng là tướng của duyên lự, sau quán như thật.

Này người thiện nam! Tâm luống dối này, nếu không có sáu trần, thì không thể có, phân tích bốn đại, không trần nào thật có, trong đó duyên (bốn duyên) trần (sáu trần) mỗi thứ trở về tan diệt. Tâm nương sáu trần, trần nương bốn đại, bốn đại không tự thể, sáu trần tức không, nên nói tan diệt.

Rốt ráo không có duyên tâm để thấy, duyên trần đã diệt tâm thể tức không, nên quyết phán rằng rốt ráo không thật có. Nói duyên tâm là tâm duyên khí ở trước.

Hỏi: Không trần nào thật có, ba câu ở dưới cũng nói pháp không, đâu được một bề xếp vào nhân không?

Đáp: Ở đây chỉ cho duyên trần đều tan rã, chính là nói lên tâm không, cho nên kết luận rằng: không có tâm để thấy. Thân và tâm đều thuộc ngã chấp.

Thứ hai là pháp không.

Này người thiện nam! Chúng sinh kia thân huyễn diệt thì tâm huyễn cũng diệt, tâm huyễn diệt rồi thì trần huyễn cũng diệt, trước đối với thân tâm, tìm cầu vô ngã, nên gọi ngã không, ở đây thì thân tâm và cảnh mỗi thứ tự không nên gọi là pháp không. Nhưng thân… vốn không, chẳng phải nay mới diệt, cho nên kinh nói: sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt không, chỉ vì khi mê chấp có, nay chấp hết mới không, nghĩa nói là diệt.

Huyễn trần diệt rồi, thì huyễn diệt cũng diệt, có tâm biến kế thì thấy huyễn sinh, có trí quán sát thì thấy huyễn diệt, đối huyễn sinh nên nói huyễn diệt. Đối với tình chấp nên nói trí tuệ, pháp đối đãi đều thuộc duyên sinh, duyên sinh thì vô tướng, nên đều nói diệt. Bát-nhã Tâm Kinh chép: “Vô nhãn giới cho đến vô trí, cũng không có đắc”. Kinh Lăng-già chép: “Tất cả pháp như huyễn, xa lìa các tâm thức, trí chẳng thật có không, dấy lên tâm đại Bi, trong đoạn văn lớn thứ hai nói về lý. Tức là lý chân như do hai không hiển bày, do trước chấp cùng tận nên lý này hiện, như mây tan mặt trăng hiện, sạch bụi thì gương sáng, chẳng phải nói không mây mà gọi mặt trăng. Nhưng đối chỗ không mây mà thấy mặt trăng. Chẳng phải nói không huyễn thì đó là chân như. Nhưng đối với chỗ không huyễn thì thấy chân lý, trong văn có hai:

Trước nói về pháp.

Vì Huyễn diệt diệt (thuộc trước), chẳng phải huyễn không diệt, chính là hiển bày, nói lên tánh viên giác vốn tịnh, tròn sáng riêng thể, toàn chân không nhờ tu mà được, các huyễn tuy diệt tự tánh thường còn, không do duyên sinh, nên nói không huyễn. Kinh Kim cương Tam-muội chép: nếu được không tâm, tâm bất huyễn hóa, nhưng đối vọng trước hết thì giải thích là chân như. Nếu do bổn tông thì chỉ gọi viên giác, sau là ví dụ.

Thí như lau gương sạch bụi thì bóng hiện, tuy nói lau gương trái lại lau bụi, cái gọi là tu đạo chỉ là không theo vọng, tánh gương vốn sáng chẳng phải từ ngoài được, bụi trần che lấp thì ẩn, lau thì hiển ra, ẩn hiện tuy khác nhau nhưng tánh sáng không khác, ở đây nói chấp nhân, chấp pháp là cấu bẩn, tầm từ như thật là lau (chùi), chân tâm bản giác là nói người không pháp không toàn hiện. Dưới đây là đoạn văn lớn thứ hai nói về quán pháp giới, văn chia làm ba. Đầu tiên là ấn trước bày sau. Thứ hai phủi dấu vết vào huyền diệu, thứ ba: Là nói về pháp giới. Trong phần đầu nói về ấn, trước là hai không hiển, sau là viên thông pháp giới, trong văn lại chia hai: đầu tiên là nêu.

Này người thiện nam! Nên biết thân tâm đều là huyễn cấu, đây là ấn trước, huyễn là hư huyễn, không có thật thể, cấu là bụi trần nhơ bẩn làm tên, vì mê huyễn tướng chấp lấy trói buộc, ô uế tâm tịnh nên nói là huyễn cấu. Chư Phật, Bồ-tát tuy có thân tâm, nhưng nhờ biết như huyễn nên không chấp vào tướng, nghĩa là không bụi dính nên chẳng phải bụi, nhờ biết huyễn không nên chẳng phải huyễn.

Tướng cấu diệt hẳn, mười phương thanh tịnh, ở đây hiển bày ở sau. Các pháp căn trần pháp giới mười phương trùm khắp thanh tịnh. Đó là thân tâm bị bụi che lấp vọng chấp tự tha nên thành hạn cuộc chướng ngại. Nay đã ngã không pháp lặng, chỗ nào mà không thông? Sau giải thích văn có hai. Trước là ví dụ.

Này người thiện nam! Do hai vật hạt châu và gương đã ví dụ không giống nhau, cho nên lại nêu lên nói cho biết.

Thí như hạt châu ma-ni trong sạch chiếu ra năm màu, tùy theo các góc cạnh mà hiện ra, các người ngu si thấy ma-ni kia thật có năm màu, nghĩa là thể tánh ma ni sáng rõ trong suốt, tuyệt đối không hề có vết bẩn, không có sắc tướng, do tánh trong sạch. Tất cả sắc đối nhau thì hiện trong đó, năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen mỗi mầu tùy theo phương hướng mà hiện. Ví dụ này vừa dụ ấn trước, vừa dụ hiển sau. Nói ấn trước là năm màu dụ cho năm đường, tùy theo phương hướng dụ cho tùy nghiệp, người ngu không biết thể của hạt châu, chỉ thấy toàn là xanh vàng, đã là xanh vàng thì không thấy thật thể của hạt châu, vì thế kinh Hoa Nghiêm chép: Phàm phu thấy các pháp, chỉ tùy theo các tướng chuyển, không rõ pháp vô tánh, vì thế không thấy Phật, nếu phối hợp với ba tánh thì ma-ni dụ cho tánh viên thành thật, tức là lý đã nêu ở trước. Hiện sắc dụ cho tánh y tha khởi, tức huyễn ở trước. Người ngu chắc chắn thấy có xanh, vàng, dụ cho tánh biến kế sở chấp, tức bụi nhơ ở trước. Nếu xa tức là tướng thân tâm… ở trước. Vì văn này ấn định nghĩa của văn trước, cho nên chỉ ở trước. Nói hiển sau, nhưng hạt châu này do người ngu kia chấp chắc chắn sắc, vì bác bỏ sắc nên phối ba tánh để ấn văn trước, nhưng chỉ có người không kế chấp, tức là các thứ màu sắc của các hạt châu này mỗi màu đều trong sạch, mỗi màu đồng thể, thảy là diệu dụng ứng hiện của hạt châu, không có thể để phá, đem dụ cho văn sau, pháp giới mười phương tất cả thanh tịnh tròn đầy, không lay động, xen nhau vô ngại, cho nên hiển ở sau, nhưng trước dụ cho gương sáng, chỉ một mặt sáng, lại nói nhơ lau chùi mà hiện, bày tỏ lý hai không phá chấp mới hiển bày, đối chấp mà được tên, nay ngọc mani vốn trong sạch vốn sáng rõ, mười phương đều chiếu, để nói lên tông của pháp giới ở sau. Sau là pháp.

Này người thiện nam! Tánh tịnh viên giác hiện ở thân tâm, tùy loại đều ứng hiện, tức là các thứ huyễn hóa trước hóa sinh trong tâm giác. Nghĩa như kia đã giải thích. Người ngu si kia nói viên giác thanh tịnh thật có tự tướng thân tâm như vậy, là nói viên giác tuy hiện nhưng chẳng phải kia chắc chắn là thật, vì thế cho rằng: Người ngu nói.

Luận chép: Tất cả pháp nhiễm không thể làm cho nhiễm, thể của trí là bất động, đầy đủ vô lậu huân tập chúng sinh.

Cũng giống như vậy, là hợp với ví dụ ở trước, trong ví dụ về nghĩa khác để đối giải thích, rõ ràng rất dễ hiểu, thứ hai là phủi dấu vết nhập vào huyền diệu.

Do ở đây không thể xa lìa huyễn hóa, cho nên ta nói thân tâm huyễn cấu đối lìa huyễn cấu. Gọi là Bồ-tát, trên đây trước nói vì sao có dấu vết như vậy, dấu vết kia cũng khởi theo, cũng phủi gốc đi, vì chúng sinh vọng chấp huyễn hóa. Phật nói là huyễn cấu, chúng sinh nương giáo pháp lìa nhơ bẩn, lại gọi là Bồ-tát, dưới đây chính là phủi dấu vết ấy rằng:

Cấu hết: Huyền cấu như màu sắc trong hạt châu, hiểu nó vốn là không cho nên nói là hết.

Đối trừ: Cấu bị lìa đã không, trí đối lìa làm sao mà lập? Tức là không có vô cấu mà nói tên ấy, chữ giả là chung cho cả hai câu. Nghĩa là người đối cấu là Bồ-tát. Nói danh là Phật. Đã không có trí đối trị thì làm sao có người khởi trí, chấp sâu cạn vốn không, làm sao có người nói giáo? Cho nên đều là vô. Phật đối cơ cũng không thật có mới thấy pháp thân, pháp thân nói kinh là nghĩa ở đây. Nhưng người pháp ở trên đầu có ba, ba cặp sáu câu cùng tận là dấu vết của chỗ phủi qua. Nghĩa là pháp có chấp cấu, lìa cấu và danh số. Người có chúng sinh, Bồ-tát và Phật.

Hỏi: Người tự có khác nhau, pháp vốn không khác, sao nói ba tên?

Đáp: Khắc thể tuy không nhưng nghĩa nói thì có, vì đối người pháp mỗi thứ đều có chia năng sở.

Kế là làm sáng tỏ pháp giới, văn có hai:

  • Trước là pháp giới nhất chân.
  • Sau pháp giới ba lớp.

Nói nhất chân là chưa nói lý sự, chẳng nói có không, chỉ thẳng bản giác linh nguyên, dưới đây đối các pháp mất trọn, thâu trọn. Mới nói ba lớp khác nhau, ở đây là phần đầu.

Này người thiện nam! Bồ-tát và các chúng sinh đời mạt pháp này là nêu lên và chỉ ra sở chứng của đương căn, vì muốn nói về cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận, cảnh giới đặc biệt ở trước, lại y theo công dụng ở trước để nói được nhập, vì thế phát khởi ra thế văn ở sau:

Chứng được các huyễn,

Quán hạnh thành tựu,

Diệt mất ảnh tượng,

Y tha cũng mất.

Lúc bấy giờ, liền được vô phương thanh tịnh, y theo thân là chính ngoài thấy đồ vật, tướng ngã đã không, thì còn có phương sở gì?

Vô biên hư không do giác hiển phát, nhưng hư không lìa thức cũng chẳng thật có. Cho nên kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Nếu có một người phát chân về nguồn thì hư không mười phương đều tiêu mất cùng lúc, nghĩa là bị mê tình che lấp, chỗ giác thấy không, trần ảnh đã tiêu, “không“ vốn là giác, hiển nghĩa là không tiêu thì giác hiện, phát nghĩa là vọng hết tâm mở, quán xét kỹ lưỡng đều không có bờ mé. Kinh Thủlăng-nghiêm lại chép: Nghe lại thì chỗ che lấp hết, trần tiêu thì giác tròn tịnh, tịnh cùng tột thì ánh sáng thông suốt, vắng lặng soi chiếu bao trùm hư không, lại quán thế gian, giống như việc trong giấc mộng, cho nên biết không hữu đều mất cả hai, chỉ là tâm giác, siêng soi sáng rõ ràng, linh tri bất muội. Sau là pháp giới ba lớp:

  1. Quán Chân không tuyệt tướng.
  2. Quán Lý sự vô ngại.
  3. Quán Châu biến hàm dung.

Ý nghĩa trong đây hoàn toàn đồng với hành tướng ba lớp của môn quán pháp giới trong Hoa nghiêm, vì thế nương vào khoa kia, ở đây thứ nhất là quán chân không: Trong môn quán kia có bốn câu, đó là: Quán Hội sắc quy không Quán Minh không tức sắc.

Hai câu trên đều phân biệt với quán tình hiển giải ba không sắc vô ngại, hiểu thì cuối cùng thú hướng hành trì, bốn là quán Dẫn tuyệt vô ký, hành khởi thì hiểu dứt. Ở đây văn kinh có hai:

  1. Sắc tướng không tịnh.
  2. Không sắc đồng như vậy.

Ở đây, trước hết văn kinh đều nói thanh tịnh: nghĩa là do môn quán hai không ở trước phân biệt với tình hiển giải.

Kế là phủi dấu vết mất hình bóng, đồng với hạnh khởi giải bặt, cho nên đều thanh tịnh là chân không. Luận Trí Độ chép: Rốt ráo không tức là rốt ráo thanh tịnh. Thanh tịnh và không đều là nghĩa bặt tướng, nếu y theo tâm thì như kinh Tịnh Danh, cho rằng vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh… nên nói thanh tịnh, trong văn có bảy, một là nội thân căn thức:

Giác tròn sáng: y theo trước để hiển bày nhân thanh tịnh, do phủi mất… nên được tròn sáng.

Hiển bày tâm thanh tịnh, so với mê tâm giác, trong tâm chấp pháp, nay thấy pháp tánh, pháp tức đều không, cho nên nói thanh tịnh. Như người không biết thể của hạt châu, chỉ chấp xanh vàng, phải thấy ma-ni tức là sắc thanh tịnh, trong bảy đoạn đều đồng với ở đây. Nhưng xoay vần y theo trước để hiển rõ thanh tịnh, nghĩa như ở sau giải thích. Nay lại trừ bỏ danh thể của pháp số. Tâm là tướng chung nói về tâm ta, tức thể của Lại-da.

Luận Thành Duy Thức chép: Thức thứ tám có nhiều tên khác nhau, trong đó có bốn tên, chung cho tất cả vị, tâm chính là một. Khi mê do chấp tàng và năng sở tàng, cho nên gọi Lại-da. Nay quán trí thành tựu tánh giác tròn sáng, nên chỉ nói tâm, không gọi Lại-da. Tâm đã thanh tịnh đồng vô cấu thức, cho nên văn dưới đây đốn đồng với cảnh Phật.

Vì tâm thanh tịnh, là nhắc là văn trước, dưới đây đều y theo trước.

Thấy trần thanh tịnh, dưới đây nghe biết v.v… lệ theo đây đều nói là trần. Nghĩa là do tâm ta chấp đắm, thấy tất cả sắc tướng, do chấp tướng tức kiến… là trần, không chỉ nói sắc bên ngoài… gọi là trần, cũng không nói riêng căn thức gọi là trần… thể trở lại là tâm của ngã chấp, chỉ do y theo chỗ chấp tướng sinh lỗi mà đặt tên riêng. Lại cũng không lìa ba thứ căn, cảnh, thức mà có thể riêng, như pháp của năm uẩn và ngã ở trong uẩn chẳng phải khác chẳng phải giống nhau.

Vì thấy thanh tịnh, chỉ nhắc lại chữ thấy không nói trần, đủ nói lên ngay nơi thấy là trần chẳng phải trần bên ngoài, nghe… cũng như vậy.

Nhãn căn Thanh tịnh, năm thứ còn lại cũng lệ theo đây. Sáu thứ đều gọi là căn là chỗ nương của thức, có công năng phát ra thức, năm thứ trước mỗi thứ đều từ tự chủng sinh tự hiện hành, bốn đại sở tạo tịnh

sắc làm thể. Ý căn tức là thức thứ bảy, do đây vin theo bên ngoài khởi ý thức.

Vì căn thanh tịnh, nên nhãn thức thanh tịnh, năm thứ còn lại ở dưới cũng lệ theo đây. Đều gọi là thức, tùy theo cảnh của sáu căn chủng loại khác nhau. Do đủ năm nghĩa nêu đặt tên theo căn.

  1. Thức nương vào căn, chẳng phải do cảnh sắc mà thức chắc chắn sinh nhau, như người mù không thấy…
  2. Căn phát ra, thức do căn thay đổi khác nhau, nên thức cũng phải đổi. Khác như nhãn căn bị đau thấy màu xanh là vàng, chẳng phải sắc hoại mà là thức hoại.
  3. Thức thuộc căn, do hạt giống của thức chạy theo căn mà được sinh, chẳng phải hạt giống của sắc, thức chủng tùy theo.
  4. Thức giúp căn: vì căn hợp thức, chỗ thức lãnh thọ khiến cho căn bị tổn hại hay lợi ích, chẳng phải cảnh giới.

5. Thức như căn: Hai pháp căn, và thức đều có tình số, chẳng phải sắc pháp kia chắc chắn là hữu tình, căn năm nghĩa tốt đẹp cho nên nói nương căn, nếu theo luận Khởi Tín đều gọi ý thức. Sáu thứ này đều nương ý khởi là thức của ý, vì thế kia giải thích nhân duyên sinh diệt rằng: Cái gọi là chúng sinh nương tâm ý, ý thức chuyển, tâm thức là tự thể của Lại-da, ý thức là năm ý, vì trong hai nghĩa Lại-da có nghĩa bất giác, bất giác mà khởi, có thể thấy, có thể hiện, có thể nhận cảnh giới, khởi niệm nối nhau. Ý thức: tức là thức nối nhau này, nương các phàm phu chấp đắm càng sâu, chấp ngã, ngã sở, các thứ vọng chấp theo việc phan duyên. Phân biệt sáu trần gọi là ý thức, cũng gọi là thức phân ly, lại gọi là thức phân biệt sự.

Vì thức thanh tịnh, nên văn trần thanh tịnh, vì văn thanh tịnh. Nên nhĩ căn thanh tịnh, vì căn thanh tịnh, nên nhĩ thức thanh tịnh, vì thức thanh tịnh, giác trần thanh tịnh. Như thế cho đến mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như vậy, trên đã giải thích xong. Nhưng trong tám thức không nói thức thứ bảy: nghĩa sẽ thấy nghe… là trần. Vì thức thứ bảy hợp với thức thứ tám, gọi là như thấy trần. Cho nên Du-già chép: Thức Lại-da khởi chắc chắn hai thức tương ưng. Lại nữa, thức thứ bảy hợp với thức thứ sáu, gọi là các trần như thấy v.v… vì khi ý thức duyên cảnh ngoài, quyết phải ở trong nương mạt-na làm căn nhiễm ô mới sinh khởi được. Vì thế ở trên dẫn các luận chép: chính là nương thức nối tiếp này, cho đến gọi là ý thức. Luận và kinh này đã nêu không có mạt-na riêng, Lăng-già cũng như vậy, đều do thức thứ bảy chấp trong làm ngã hợp với chuyển tướng, chấp ngoài ngã sở hợp với sự thức, nêu không nối trước dính sau, thì hiển bày tâm sở theo đuổi sinh khởi, nghĩa không tiện.

Sáu trần cảnh bên ngoài:

Này người thiện nam! Căn thanh tịnh nên sắc trần thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh nên thanh trần thanh tịnh, hương, vị, xúc, pháp cũng giống như vậy. Sáu thứ đều gọi là trần làm nhơ tâm thức, là nói theo phàm phu cũng gọi là sáu cảnh, cho cả phàm Thánh đều có nói sắc…, là cái mà nhãn… chấp lấy, sắc có chung riêng, ở đây là riêng. Nghĩa là chỉ có nhãn chấp lấy tướng thay đổi trở ngại hữu kiến hữu đối là hiển bày thô thiển nhất. Thanh… rất dễ hiểu, chỉ là cái mà ý chấp, cảnh pháp trần chung cho với tất cả. Ba là bốn đại trong ngoài.

Này người thiện nam! Sáu trần thanh tịnh, nên địa đại thanh tịnh, vì địa thanh tịnh nên thủy đại thanh tịnh, hỏa đại, phong đại, cũng giống như vậy. Tức là đối với căn trần không chấp lấy nghĩa của phát thức dẫn tâm, chấp lấy thể của bốn đại. Kinh Bảo Tích chép: Bốn đại mỗi đại có hai: nghĩa là trong và ngoài. Địa giới có hai: trong đó là trong tự thân, tha thân có cái cứng chắc, đó là tóc, lông… bên ngoài nói ngoài thân có cái cứng chắc: đó là đất, gỗ… Thủy giới có hai: Tánh ướt trong thân như nước bọt, mồ hôi… tánh ướt ngoài thân như mưa móc… Hoả giới có hai: trong thân thể nóng: tướng nóng có thể tiêu thức ăn… ngoài thân thể nóng: tướng nóng có công năng thành thục… Phong giới có hai: thể gió trong thân, như gió gọi nhanh chóng trụ bốn chi… thể gió ngoài thân… bốn là các pháp thế gian.

Này người thiện nam! Bốn đại thanh tịnh (nhắc lại trước) mười hai xứ, sáu căn, sáu trần là chỗ sinh thức, xứ là nghĩa môn sinh, cũng gọi là người, ý thức thường mê muội căn trần nhập vào nhau.

Mười tám giới: Trong sáu căn môn thì ba thứ căn, thức, trần mỗi thứ đều có phần giới, cũng là nghĩa nhân, nghĩa chủng tộc.

Trước là sáu hai, người hiểu thì dứt ở nghiệp nhân, đây là sáu ba. Quán sát đối trị ở ngã chấp, gồm cả năm uẩn, tức đủ ba khoa. Các tông Đại thừa, Tiểu thừa đều y theo đây để nói các nghĩa, trước nói nhận lầm thân tâm của bốn đại, và nói trong ngoài hợp thành… tức là nghĩa năm uẩn, cho nên ở đây lược bỏ.

Hai mươi lăm hữu thanh tịnh, bốn châu, bốn đường, bốn cõi thiền, bốn Không, Vô tưởng, Tịnh Cư, Phạm Vương, sáu tầng trời cõi Dục là hai mươi lăm hữu, đây đều là hữu, mỗi thứ đều y cứ về thật báo, chẳng thuộc về chánh trí. Nhưng Phạm vương ở Sơ thiền, Vô tưởng, Tịnh cư ở thiền thứ tư, trong giai vị bốn thiền nêu riêng trường hợp này Phạm vương hữu kiến, ngoại đạo Vô Tưởng, Tịnh Cư chỉ có bậc Thánh, khác với các tầng trời khác. Năm là các pháp xuất thế.

Vì kia Thanh tịnh là nghĩ nhắc lại các pháp thế gian ở trước.

Mười Lực: Nhưng Như lai duy nhất trí lực thật tướng các pháp, năng lực này có mười dụng nên nói là mười, gọi chung là lực: có khả năng xua đuổi kẻ thù, không thể khuất phục.

  1. Biết chỗ chẳng phải chỗ: nghĩa là đều biết nhân duyên nghiệp báo của tất cả các pháp, thời hàng phục vô nhân, ác nhân, biết người nào có thể độ, không thể độ.
  2. Biết ba thứ nghiệp như việc tốt quá khứ, hiện tại, vị lai… và ba báo thuận hiện… biết chỗ độ có chướng ngại hay không.
  3. Biết các thiền giải thoát Tam-muội cấu tịnh và biết các quả nương đây mà chứng được.
  4. Biết năm căn như tín căn… thượng, trung, hạ.
  5. Biết các thứ ưa thích, khiến xả bỏ bất tịnh, tăng thêm tịnh.
  6. Biết nhất thừa, ba thừa, năm thừa, tham, sân, si… các thứ tánh dục, biết tức thời, khác thời ai có thể độ, không thể độ…
  7. Biết tất cả đường cho đến chỗ.
  8. Biết chỗ ở đời trước.
  9. Biết chết đây sinh kia, tức thiên nhãn trí, riêng ở đây từ sở y mà có tên gọi
  10. Biết mình được giải thoát không nghi ngờ, cũng biết chúng sinh hết hữu lậu được Niết-bàn. Nhưng Phật lực vô lượng, nhân duyên độ người nên chỉ nói mười mà phân biệt đủ việc ấy.

– Bốn Vô sở úy:

  1. Biết tất cả pháp, nghĩa là Phật răn dạy rằng ta là bậc Nhất thiết chánh trí…
  2. Hết các lậu và tập, ý nói ta hết pháp hữu lậu…
  3. Nói tất cả các pháp chướng đạo.
  4. Nói ra đường khổ, Đức Phật răn dạy nói bốn pháp này, quyết định không sợ.

Bốn Vô ngại trí: trí duyên bốn cảnh không trở ngại.

  1. Pháp: như nói đất, nước, gió, lửa…
  2. Nghĩa: như cứng, ướt, nóng, động…
  3. Từ: nghĩa là được kia mới bàn về để nói đất…
  4. Đối với ba thứ trí ưa thích nói, trên nương luận Trí Độ, nếu y theo kinh Hoa nghiêm thì hai thứ đầu khác với ở đây.
  1. Nói biết tự tướng.
  2. Biết tướng riêng.

– Lại nữa:

  1. Biết tự tánh.
  2. Biết sinh diệt

.- Lại nữa:

  1. Pháp trí.
  2. Tỷ trí.

– Lại nữa:

  1. Biết một tướng.
  2. Biết uẩn giới…

– Lại nữa:

  1. Biết tánh nhất thừa bình đẳng.
  2. Biết tánh các thừa khác nhau, hai thứ sau thì giống nhau, nghĩa là “từ” thì nói pháp nghĩa, lạc thuyết là nghĩa khác trong từ.

Mười tám pháp Bất cộng của Phật như lực v.v… hai thừa có phần, ở đây không có phần. Một, hai, ba như thứ lớp phối hợp thân, miệng, niệm không lỗi. Bốn là vô dị tưởng, năm là không tâm bất định, sáu là vô bất tri dĩ xả, bảy là dục, tám là tinh tấn, chín là niệm, mười là tuệ, mười một là giải thoát, mười hai là giải thoát tri kiến. Sáu thứ trên đều nói không giảm, mười ba, mười bốn, mười lăm tất cả thân, miệng, ý nghiệp thực hành theo trí tuệ, mười sáu, mười bảy, mười tám, nhờ trí tuệ mà biết quá khứ, vị lai, hiện tại thông suốt không ngại. Hỏi vô kiến đảnh tướng… cũng không cùng chung, vì sao không nói? Đáp: Trong mười tám thứ này chỉ nói công đức trí tuệ, không nói pháp quả báo tự nhiên. Trên từ lực… đến đây bốn khoa hoàn toàn y theo luận Trí Độ.

Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo: trợ là giúp đỡ, giúp đỡ chính đạo, đạo tức là nhân, đó là chỉ quán. Phẩm tức là loại, chính nhân loại, cũng nói Bồ-đề phần, phần cũng nhân với nghĩa. Ba mươi bảy pháp là: bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ-đề phần, tám Chánh đạo phần. Nhưng chỉ lấy mười pháp làm thể, nói tinh tấn, định tuệ, mỗi thứ có tám, niệm bốn, giới ba, tín hai, khinh an, hỷ, xả, tư duy mỗi thứ có một.

Trước là bốn niệm:

  1. Quán thân năm thứ bất định, là trụ xứ hạt giống tự tướng tự tánh rốt ráo.
  2. Quán ba thọ đều khổ, nghĩa là khổ thọ, lạc thọ, xả thọ.
  3. Quán tâm từng niệm từng niệm vô thường.

4. Quán các pháp vô ngã, ở đây đối trị bốn điên đảo của phàm phu. Lại, quán thân rốt ráo là không, quán thọ trong ngoài không, quán tâm không thật có, quán pháp chỉ có tên gọi, đây là đối trị bốn điên đảo của Nhị thừa.

Bốn chánh cần, bốn niệm xứ hỏa. Nếu có gió mạnh thì gió không chỗ nào không đốt, cho nên kế là phân biệt rõ. Tinh tấn làm thể nên gọi chung là cần, khác với cần của ngoại đạo nên gọi là chánh, tuy là nhất cần, nhưng tùy theo nghĩa chia làm bốn.

  1. Điều ác chưa sinh không để cho sinh.
  2. Điều ác đã sinh rồi dứt bỏ không để tiếp tục.
  3. Điều thiện chưa sinh làm cho phát sinh.
  4. Điều thiện đã sinh rồi làm cho rộng lớn.

Bốn thần túc:

Dục cần tâm quán, Dục là ưa muốn, Cần là không xen hở, Tâm là định. Chuyên một cảnh tánh, Quán là tuệ, bên trong tự lựa chọn, vì cần vượt qua tán loạn mà lửa trí yếu ớt nên phải định chế, vì sở dục tự tại. Thần tức là thần thông, túc tức là định, do pháp xuất thế tự tại thù thắng nhất, bốn định như dục… có thể chứng đây, gọi là thần túc, cũng gọi như ý túc, đều ham muốn như tâm.

Năm căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ, năm căn này đều sinh ra pháp xuất thế gian, do ba khoa trước ở đây không thể loại bỏ, ba thứ trước đến đây được gọi chung là căn.

Năm lực: tức là năm căn trước thêm lớn, ma phạm… không thể khuất phục, lại có thể bị tổn giảm không tin… là chướng ngại, nên gọi là lực.

Bảy Giác chi: là chỗ nương của niệm, do buộc niệm, nên khiến cho các pháp lành đều không quên mất. Trạch pháp là chi tự thể, hiểu rõ tự tướng. Tinh tấn là chi xuất ly, do thế lực này mà năng đáo sở đáo. Hỷ là chi lợi ích, nhờ tâm mạnh mẽ vui vẻ, thân thể điều hòa. Khinh an định xả đều là chi bất nhiễm ô, có thể dứt bỏ thô xấu, nương định chuyển y. Hành xả bình đẳng xả bỏ hẳn tham ái, vì thế bảy việc đều gọi là giác chi. Tuy trong một sát-na bảy pháp đều khởi, tùy theo hình tướng mỗi chi mà nói về công năng.

Tám Chánh đạo: là chánh kiến là chi phân biệt, nương vào chỗ chứng chân thật ở trước mà lựa chọn, bảy chi còn lại mỗi chi cũng gọi là chánh. Tư duy là chi dạy bảo người khác như chỗ chứng kia phương tiện lập ra, danh nghĩa suy nghĩ phát ra lời nói. Ba điều dưới đây là chi khiến cho người khác tin. Ngữ là khéo nương vào chỗ chứng hỏi đáp lựa chọn, giúp cho người tin có cái thấy thanh tịnh. Nghiệp là thân nghiệp, chánh hạnh mọi oai nghi đều đầy đủ, khiến người khác tin có giữ giới thanh tịnh. Mạng là khất cầu đúng pháp, y theo Thánh chủng mà an trụ, xa lìa năm tà mạng. Tinh tấn là chi thanh tịnh phiền não chướng, do đây xa lìa hẳn tất cả ràng buộc. Niệm là chi thanh tịnh tùy phiền não chướng, do không quên mất, chính chỉ nêu tướng, không bao giờ để cho hôn trầm, trạo cử… Định là chi làm cho thanh tịnh, công đức cao quý nhất, do đây dẫn phát thần thông… vô lượng công đức cao quý, bảy thứ trên theo thứ lớp, nghĩa là nghe pháp rồi trước phải ghi nhớ giữ gìn, kế là siêng năng tu tập, siêng năng thâu nhiếp tâm, điều hòa nhẹ nhàng, nhẹ nhàng nên tín… thành căn, căn thêm lớn là lực, phân biệt bảy giác, chánh hạnh tám điều chân chính, nói chung dùng ví dụ hiển rõ. Pháp tánh như đất, niệm xứ như hạt giống, chánh cần là trồng trọt, thần túc như đâm chồi, năm căn như bắt rễ, năm lực như nhánh lá lớn dần, nở hoa bảy giác, kết quả tám Chánh đạo.

Thanh tịnh là gọi chung lực… đều thanh tịnh.

Như thế cho đến: Vượt hơn nhiều pháp. Nghĩa là ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thần thông địa, độ, quả, hướng, duyên, đế xứ định…

Tám mươi bốn ngàn: nhưng pháp môn nói rộng vô lượng, vô biên, nay đều ở đây kết số, đối trị trần lao, trần lao đã có tám mươi bốn ngàn, mỗi pháp đối phiên tức đều là thanh tịnh pháp, nhiễm và tịnh số không thêm bớt, luận nói bất giác niệm khởi thấy các cảnh giới, cho nên nói vô minh cho đến có nghĩa nhiều hơn số cát sông hằng… vọng nhiễm, đối nghĩa này nên tâm tánh không lay động, tức là hơn số cát sông hằng… các công đức thanh tịnh tướng nghĩa thị hiện.

Đà-la-ni: được Tổng trì, Bồ-tát đối với mỗi mỗi pháp giữ gìn tất cả pháp.

Môn: từ mỗi mỗi pháp, nhập vào tất cả pháp.

Tất cả thanh tịnh là tổng kết.

Hỏi: Hai tướng Pháp thế gian, và xuất thế gian có khác nhau như thế vì sao kinh này đều nói thanh tịnh?

Đáp: Trước đã nói, ở đây giải thích lại, nghĩa là nếu đối trị phàm Thánh, tức là cao quý hay thấp kém hoàn toàn khác nhau, nếu xứng pháp giới mà quán một loại, thì đều là huyễn hóa, đều từ duyên khởi không có tự thể, như có một cái gương hiện các thứ quý báu cao siêu mầu nhiệm, trẻ con ngu si không hiểu sang hèn khác nhau, người trí thông suốt không chút khác nhau. Quán trí tròn sáng tâm thức thanh tịnh, cũng giống như vậy, thấy thế gian và xuất thế gian hoặc Thánh hoặc phàm, tất cả đều không. Không là thể giác, nên văn sau nói: thấy thế giới Phật như hoa đốm trong hư không. Sinh tử, Niết-bàn giống như giấc mộng, chỉ duyên xứng lý bình đẳng, vì thế gọi là bậc Thánh nếu kia trọng Thánh khinh phàm ưa chân chán vọng, dù cho tu tập, cũng đâu chứng được chân nguyên? Nhưng trên từ hiểu rõ tròn sáng nên lần lượt y theo lý do ở trước để hiển bày rõ các pháp thanh tịnh thế gian và xuất thế gian, cho đến năm đoạn này rõ ràng các pháp đầy đủ.

Ngoài hai đoạn sáu, và bảy, chỉ là kết chung thân khác, cõi khác, không có nghĩa nào khác.

Do năm đoạn ấy: là tâm vốn thanh tịnh, vì bất giác nên gọi là thức Lại-da, tương ưng với ý lại nói kiến trần, khởi ra hiện hành có căn thức cảnh. Trung hữu năng tạo cho nên nói bốn đại. Vì đó đầy đủ các pháp hữu lậu xứ, giới, các hữu, đối trị những điều này có tu có chứng, lại thành quả đức nhân hạnh vô lậu, nay đã hiểu rõ vô minh. Tâm, ý, thức và chỗ thay đổi (sở biến)… lần lượt được thanh tịnh. Da không còn, lông không chỗ nương gá, nhưng pháp vô lậu nếu y theo người tu chứng, thì nhân trước quả sau. Nay y theo pháp bổn mạng, nên quả trước nhân sau. Cũng như trong luận căn bổn diệt nên thô nhiễm diệt theo, sáu tự tha chánh báo: Này người thiện nam! Tất cả thật tướng, nhưng hễ cái gì có tướng đều là luống dối, từ nhân duyên sinh. Hội duyên vào thật tức là thật tướng, nên luận Trí Độ chép: soi thấy sắc… là không tức gọi là thật tướng. Thật lý tánh không xa lìa điên đảo, chẳng luống dối nên đối với không thấy không cũng gọi điên đảo, đối với không mà không mê đắm mới là thật pháp. Thật tướng này tức là phi tướng, cho nên Như lai gọi là thật tướng, không dời không đổi, rốt ráo thường còn. Kinh Vô Lượng Nghĩa chép: Vô tướng như vậy là bất tướng, bất tướng là vô tướng, đó gọi là thật tướng.

Vì Tánh thanh tịnh, thật tướng này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, tất cả pháp vọng không thể làm nhiễm, so với mê dường như nhiễm, nay ngộ vốn thanh tịnh gọi là thanh tịnh.

Một thân thanh tịnh, do trước ngộ được các pháp căn, thức, trần, đại, thế gian, xuất thế gian đều trở về thật tướng thanh tịnh, mới thành tựu người này. Một thân thanh tịnh nên các đoạn thanh tịnh, đều nhắc lại văn trước, nhưng ở đây chỉ riêng thật tướng, để làm lý do thanh tịnh.

Vì một thân thanh tịnh, nhiều thân thanh tịnh, đã đối với tự thân chứng lý thật tướng, cũng thấy tất cả chúng sinh đồng một thật tướng thanh tịnh, để quán tất cả chúng sinh không chấp tướng, đồng tròn đầy tánh giác. Ngài Chí Công nói: Do thân ta là không nên các pháp đều không, ngàn muôn phẩm loại thảy đều giống nhau. Lại, văn sau nói: viên giác soi khắp vắng lặng không hai, mới biết chúng sinh xưa nay thành Phật.

Vì nhiều thân thanh tịnh, như thế cho đến chúng sinh mười phương thanh tịnh viên giác. Dùng chánh trí Bát-nhã để quán khắp chúng sinh, Bồ-đề Niết-bàn trí tánh vô lậu xưa nay đầy đủ, đây là một người ngộ tánh, biết tất cả chúng sinh bản tánh thanh tịnh, chẳng phải nói một người tu đạo nhiều người thành Phật.

Kế là một nhiều y báo.

Này người thiện nam! Một thế giới thanh tịnh thì nhiều thế giới thanh tịnh vì nhiều thế giới như thế cho đến tận hư không ba đời, trong lý tròn đầy cõi nước tịnh uế đều do tự tâm, chúng sinh kiếp thiêu cõi ta an ổn, hai tướng xấu xí và xinh đẹp không giống nhau, ấn ngón chân xuống đất thì mặt đất trang nghiêm quý báu như ngồi trên hoa sen không khác. Huống chi tâm thầm hợp tánh giác, thức trí không sinh, thân cõi nương chân, nhiễm tịnh đều mất, thông suốt pháp giới, thanh tịnh vắng lặng. Viên là tròn khắp hư không, lý: nghĩa là bao trùm ba đời, dọc suốt cùng cực, hư không là ngang khắp.

Tất cả: ngang dọc bao gồm, bình đẳng: bổn mạt vị đồng, thanh tịnh: đều kết bảy đoạn, bất động: thầm hợp nhất như. Nhưng bảy đoạn trên khi ngộ đã thanh tịnh lẫn nhau, khi mê thì cấu nhiễm lẫn nhau. Nên nói: Vì giác không sáng tỏ nên khiến tâm không thanh tịnh, tâm không thanh tịnh nên thấy trần bất tịnh vì thấy trần bất tịnh nên nhãn căn bất tịnh, như thế cho đến một, nhiều thế giới bất tịnh, thế văn và ý nghĩa đối lại với kinh rất dễ hiểu.

Thứ đến không sắc đồng như bảy đoạn trước, tức là không sắc vô ngại, ở đây sẽ bặt dứt không nương gá. Quán kia nói: động niệm liền trái với pháp thể, lại hiển rõ pháp thể vốn không lay động.

Này người thiện nam! Hư không bình đẳng bất động như thế, nhiếp trước khởi sau. Do trước nói tận cùng hư không bình đẳng thanh tịnh, liền biết tướng đều đồng với hư không.

Hư không đã vốn vô sinh diệt, lay động, nên biết các pháp cũng vốn không sinh, cũng không đợi diệt, nhất nhất đương thể như như bất động.

Nên biết tánh giác bình đẳng không động, nhưng tất cả pháp chỉ nương tánh giác mà sinh diệt chuyển động. Các pháp đã tận cùng hư không đều không lay động, cho nên tánh giác bất động. Như sóng không vỗ thì nước vắng lặng bất động, lý đều nên nói bình đẳng. Cho nên kinh Pháp Hoa nói là “Pháp ấy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trú.”

Kinh Pháp Cú chép: các pháp từ xưa đến nay không phải cũng không trái, tướng phải trái vắng lặng, xưa nay không lay động. Nhưng các pháp bình đẳng với tánh giác, chưa gọi là lý sự vô ngại pháp giới, nói rằng lý sự vô ngại thì cần phải nhiều việc hoàn toàn đồng một lý mà vắng lặng. Một lý hoàn toàn thành tựu nhiều việc mà thay đổi, ngay nơi động là tĩnh, ngay nơi tĩnh là động, sinh diệt rộng hẹp tất cả đều như vậy. Biến đổi vô ngại, nay chỉ một bề bất động, chỉ là thâu nhiếp sắc… sự đồng chân không, cho nên chỉ gọi là quán chân không.

Bốn đại bất động, nên biết tánh giác bình đẳng bất động. Như vậy cho đến tám mươi bốn ngàn Đà-la-ni môn bình đẳng bất động. Nên biết tánh giác bình đẳng bất động, lại như bảy đoạn trước trải qua các pháp môn, kinh sợ văn rườm rà nên lược nêu đầu và cuối, nghĩa bao gồm chặng giữa nên nói cho đến, đoạn sau nói cho đến cũng lệ theo ở đây mà biết.

Thứ hai lý sự vô ngại pháp giới.

Này người thiện nam! Tánh giác trùm khắp thanh tịnh bất động, tròn đầy không bờ mé, nên biết sáu căn trùm khắp pháp giới, vì căn trùm khắp nên biết sáu trần trùm khắp pháp giới vì trần trùm khắp nên biết bốn đại trùm khắp pháp giới, như thế cho đến Đà-la-ni môn trùm khắp pháp giới. Y theo pháp giới quán ở đây có mười môn.

  1. Lý trùm khắp sự.
  2. Sự trùm khắp lý.
  3. Nương lý thành sự.
  4. Sự hiển bày lý.
  5. Dùng lý đoạt sự.
  6. Sự ẩn che lý.
  7. Chân lý tức sự.
  8. Sự pháp tức lý.
  9. Chân lý chẳng phải sự.
  10. Sự pháp chẳng phải lý.

Nay nói đầy khắp pháp giới: chính là hành tướng của môn thứ hai, bao gồm nghĩa lý môn khác. Nghĩa là ở đây các pháp tức lý không khác với lý, mỗi pháp tự cùng khắp pháp giới, không đồng môn trước, không có thể để xếp vào trong lý, nên đây gọi là lý sự vô ngại. Dã trùm khắp pháp giới, liền biết động tĩnh vô ngại mỗi pháp cùng khắp. Nói tánh giác tròn đầy không bờ mé cho nên biết sáu căn trùm khắp, do môn trước đã hiển rõ sáu căn… bình đẳng với tánh giác, bình đẳng: tức là không khác nhau mảy may, tức không khác với tánh giác, tánh giác tròn đầy không ngằn mé, nên biết sáu căn cũng tròn đầy không ngằn mé, vì thế đầy khắp pháp giới, nếu nói không trùm khắp tức là có ngằn mé, có ngằn mé tức khác với tánh giác, khác nhau thì trái với môn trước, nên ở trước nói: tròn đầy không ngằn mé. Vì thế kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Tánh thấy là giác sáng, giác tinh là cái thấy sáng, thanh tịnh bổn nhiên trùm khắp pháp giới, sáu trần về sau đều lệ theo trước.

Thứ ba Châu biến hàm dung quán, tức sự sự vô ngại. Nghĩa là hễ nêu bất một trần nào cũng bao trùm khắp tất cả pháp. Lại bao trùm tất cả pháp trong tự trần, một trần đã như vậy, tất cả pháp đều như vậy, cho nên nói trùm khắp bao gồm.

Này người thiện nam! do tánh diệu giác kia trùm khắp, là nêu tánh sở y, làm lý do của sự sự trùm khắp vô ngại. Căn tánh trần tánh: đây là mỗi mỗi chỉ cho tự tánh căn trần, chẳng phải nói mất căn nhiếp trần trở về một tánh.

Không hư hoại không xen lẫn vì căn trần không hoại. Như thế cho đến đa la ni môn, nghĩa là căn và trần đều là sự pháp, lệ như bảy đoạn trước, sự sự đều như vậy, nên nói cho đến… vô hoại vô tạp: y theo ví dụ giải thích.

Như trăm ngàn ngọn đèn chiếu sáng một căn phòng, ánh sáng đèn kia trùm khắp không hoại, không xen lẫn. Như một ngọn đèn ánh sáng đã khắp một căn phòng, lại có một ngọn đèn, ánh sáng cũng hoàn toàn trùm khắp. Trăm ngàn ngọn đèn mỗi ngọn cũng như vậy, mỗi ngọn không làm ngại nhau, cũng không lẫn lộn nhau, hư không trong phòng ví dụ cho pháp giới, ánh sáng của đèn ví dụ cho căn trần, nghĩa là ánh sáng của một ngọn đèn chứa nhiều ánh sáng. Tức là một ánh sáng trùm khắp trong nhiều ánh sáng, mỗi pháp đều như vậy, lớp lớp vô tận, bảy đoạn trước là sự pháp mỗi mỗi nêu ra so sánh với đây rất dễ thấy, đó là nghĩa bao trùm cùng khắp nghĩa là như thế. Sở dĩ như vậy, chỉ là chân tâm sở hiện, đều như ảnh tượng huyễn mộng, chẳng phải một với tánh sở y, chẳng phải khác, cho nên được gom nhiều vào một, một dung chứa nhiều… Thứ ba đoạn văn đốn đồng cảnh Phật trong đó có ba:

  1. Dụng tâm đồng.
  2. Thấy cảnh đồng.
  3. Xứng thật đồng, trong phần đầu có hai:

– Pháp: Này người thiện nam! Giác thành tựu, chỉ chung cho pháp giới tròn đầy hiển bày, văn trở xuống, do đây nên được đồng với cảnh giới Phật. Nên biết Bồ-tát không bị pháp trói buộc, không cầu pháp giải thoát, không nhàm chán sinh tử, không ưa thích Niết-bàn, không cung kính giữ giới, không coi trọng tu tập lâu, không khinh người mới học. Vì

sao? Vì tất cả là giác. Với bốn cặp pháp đối không có tâm hơn kém, như Phật đối với cảnh ba niệm, cho nên nói là đồng. Lý do của đồng kinh tự nêu lên giải thích rằng: do tất cả giác, nên luận chép: Cái gọi là nghĩa giác: chính là tâm thể lìa niệm, ở đây thì lìa tám niệm ở trước chán, yêu, kính, ghét, trọng, khinh… Nêu tám cảnh ấy để hiển rõ tâm, ví dụ rằng ánh sáng không ghét yêu, sau nói tu tập tâm này. Thứ hai là ví dụ.

Thí như mắt sáng thấy rõ cảnh trước, ánh sáng kia tròn đầy không có ghét yêu. Vì sao? Thể ánh sáng không hai, vì không ghét yêu. Ánh sáng tức nhãn thức hiện lượng sở đắc nên không ghét yêu. Kinh Thủlăng-nghiêm chép: Mắt kia nhìn khắp, chỉ như trong gương không phân tách riêng. Ở trong thức ông thứ tự nêu lên, nói mắt kia là ý chấp lấy nhãn thức, nói thức ông: tức là ý thức cũng có thể tùy theo tình kiến của phàm tục cho tròng mắt là ánh sáng. Như kinh Pháp Hoa chép: Phạm Vương là cha của chúng sinh.

– Thấy cảnh đồng: Này người thiện nam! Bồ-tát này và chúng sinh đời mạt pháp, tu tập tâm này được thành tựu là gồm kết tám cảnh an tâm, xa kết quán hạnh thành tựu, ở đây không tu, cũng không thành tựu, dứt dấu vết tâm ở trước, khởi y chánh ở sau. Văn Phàm Thánh bình đẳng, nếu không dứt thì tuy không ghét kính, còn thấy giữ giới, phá giới,… nên phải dứt bỏ, mới đồng cái thấy của Phật, dưới đây là hiển rõ cái thấy đồng ấy.

Viên giác chiếu khắp, vắng lặng không hai, do tự tâm đã không nên chỉ là giác chiếu, đâu có phàm Thánh khác nhau? Thầm hợp với vô tậm nhất như, tức thường vắng lặng của muôn vật, chiếu khắp là dụng, vắng lặng là thể, chỗ cùng tột của Phật đến tận cùng nơi vắng lặng soi chiếu, vì thế kinh Anh Lạc chép: Đẳng giác soi chiếu vắng lặng, Diệu giác vắng lặng soi chiếu. Ở đây nói đồng với Phật, nghĩa là Đẳng giác, cho nên nói vắng lặng chiếu khắp. Kinh Kim Quang Minh, luận nhiếp Đại thừa đều nói quả Phật không khác công đức sắc thanh. Chỉ như như và trí như như riêng còn. Ba thứ thế gian dung nhiếp không ngăn ngại. Thế giới tức khí thế gian, chúng sinh tức hữu tình thế gian, thành Phật tức trí chánh giác thế gian. Trong đó: tức trong vắng lặng soi chiếu, tròn đầy không ngằn mé. Trăm ngàn muôn ức là số ở Trung Quốc. A-tăngkỳ: Hán dịch là vô số, chính là số đầu tiên trong mười số lớn của Hoa nghiêm, kinh luận phần nhiều dùng nên nêu ra. Mười là nói A-tăng-kỳ: vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết, bất khả thuyết.

Không thể nói: là số lớn thứ chín, hằng hà sa, nghĩa là tất cả cát trong sông Hằng. Sông này từ phía Đông ao a-nậu lưu xuất ra, ban đầu xuất ra miệng voi chu vi bốn mươi dặm, cát vàng trôi vẫn lộn, cát mịn như bột rang, vì mịn nên số nhiều.

Các thế giới Phật: tăng-kỳ nói ở trên… là số tính ở thế giới này, nghĩa là có trăm ngàn muôn ức tăng-kỳ… số con sông trong mỗi sông một hạt cát là một cõi, để nói thế giới nhiều như thế. Nhưng ý trong đây thẳng đến cùng tột hư không trùm khắp pháp giới tất cả thế giới, không phải là tính toán số lượng kia, vì muốn dẫn căn cơ tạo ra vô biên cảnh, giả định chứa nhóm thêm số nhiều như vậy. Nhưng các cõi tịnh uế… thì cõi Phật gồm nhiếp, cho nên nói cõi Phật giống như hoa đốm, duyên không tự tánh, toàn thể tức chân, chân tánh đoạt lấy chẳng sót, nên được tướng đều hư huyễn, như trong môn lý đoạt sự ở trước nói, cũng như Thiện Tài cầu pháp, lần lượt chỗ Ma-da… hội duyên nhập thật, được môn nguyện trí huyễn giải thoát, thấy tất cả thế giới đều như huyễn trụ, loạn khởi loạn diệt, ở đây có ba ý:

  1. Tất cả thế giới đều nương theo vọng niệm, niệm sát-na không dừng trụ thì thế giới cũng khởi diệt không dừng.
  2. Kinh Hoa Nghiêm chép: chúng sinh trú nhiễm ô, thế giới thành nhiễm ô, chúng sinh phước lớn trụ nên thành nhiễm tịnh, Bồ-tát tín giải trụ nên thành tịnh nhiễm…
  3. Tướng thành hoại, nhưng thành, trụ, hoại, không, mỗi tướng tuy có hai mươi lần tăng giảm, mà thế giới vô lượng vô số, quán chung khởi diệt lăng xăng.

Hỏi đáp về cõi Phật:

Hỏi: Nhưng cõi Phật giáo hóa cho phép như thế, trong tự thọ dụng khởi diệt như thế nào?

Đáp: Y theo thật giáo sẽ rõ, vô hình là tịnh độ.

Sinh công nói: chúng sinh hữu hình nương gá vào cõi nước để ở, Phật là pháp thân thường trú, cần gì cõi nước? Cho nên kinh Hoa nghiêm nói nương chân mà trụ, chẳng cần cõi nước.

Kinh này chép: vào trong đại quang minh tạng, các nghĩa còn lại đã nói rõ như trước.

Hỏi: Kinh Pháp hoa nói: Cõi ta đây an ổn, trời người thường đông vầy thì làm sao hiểu?

Đáp: Kia y theo môn lý tức sự, ở đây y theo môn lý đoạt sự, cả hai đều vô ngại. Bất tức bất ly: Nói về thế giới này không tức viên giác cũng không lìa viên giác, như hoa đốm và hư không, như vàng và vật trang sức, do không lìa cho nên tánh giác, đoạt thì thành hoa đốm trong hư không, do bất tức, nêu thế giới không ngại có khởi diệt. Không trói buộc không giải thoát: văn chung cả trên dưới, trên thì do thế giới vô tịnh uế, sau vì chúng sinh vốn thành Phật.

Mới biết chúng sinh xưa nay thành Phật, mới biết tức là mới giác, quán hạnh thành tựu mới biết được. Vốn thành tức bản giác. Biết và không biết vốn là Phật. Phật là rốt ráo giác, thỉ giác và bổn giác chẳng phải hai giác.

Sinh tử, Niết-bàn giống như giấc mộng đêm qua: cũng không khác với thỉ giác, bốn tướng xưa nay đồng một giác, lại vắng lặng không hai, là tự giác, thế giới và chúng sinh là giác tha, hai chữ thành Phật và sinh tử Niết-bàn như mộng huyễn, là giác mãn, thành tựu nghĩa là tròn đầy. Động tĩnh cả hai đều mất mới tròn đầy. Nhưng nói chúng sinh vốn thành Phật, chỉ là Hoa nghiêm, viên giác còn lại các nghĩa khác bao gồm mà không chỉ ra hoặc chú thích, nhưng vì tiếng làm kinh giác, kẻ phàm lý vượt thường tình. Phật thì nói ít, người ngu thì bàn nhiều. Nay xét kỹ giáo lý lược nêu sáu môn:

  1. Tiểu thừa hữu bộ, chỉ có Thái tử Tất-đạt một đời thành Phật, ngoài ra đều không có phần.
  2. Đại thừa thỉ giáo: ba vô số kiếp hạnh vị đầy đủ mới được thành Phật.
  3. Chung giáo: tướng hết tánh bày mới gọi là thành Chánh giác.
  4. Hoa nghiêm nói: Địa vị thập tín tròn đầy mới phát tâm trụ tức thành chánh giác.
  5. Đốn giáo: khi một niệm ngộ liền gọi là Phật.

6. Viên giáo: xưa nay thành Phật, nên Hoa nghiêm chép: khi Như lai thành chánh giác, ở trong thân kia thấy khắp chúng sinh thành Chánh giác, cho đến thấy khắp tất cả chúng sinh nhập Niết-bàn, đều cùng một tánh, cái gọi là vô tánh.

Lại nói: Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết tự tâm, niệm niệm thường có Phật thành chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như lai không lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tự tâm tất cả chúng sinh tâm cũng giống như vậy, đều có Như lai thành chánh giác. Nay văn kinh, nếu y theo quán thành mới biết được nên phải hai môn bốn, năm, nếu y theo sở tri, thì chúng sinh xưa nay là Phật, thời chỉ thứ sáu. Ba xứng thật đồng, xứng pháp giới chân thật tánh.

Này người thiện nam! Như giấc mộng đêm qua: Do thấy sinh tử, Niết-bàn như mộng, tức xứng viên giác thật tánh đồng cảnh Phật. ở đây có hai ý:

1/ Chỉ có mộng năng y thì phải có người sở y, mộng là thần thức của người dạo chơi, cũng là khí phần của thấy nghe, không có tự thể riêng.

2/ Chỉ hiểu thể của mộng là không vô, liền chứng tự thân chân thật, vì quên Tự thân, do chấp đắm mộng nên cảnh đại mộng chắc chắn là có, đại giác thì tròn sáng nên biết ở dưới có bốn tiết. Ban đầu nói chung về xứng thật:

Nên biết sinh tử và Niết-bàn không khởi không diệt, khi mê thì sinh tử không khởi Niết-bàn không diệt. Khi ngộ chẳng diệt, sinh tử lại phát khởi Niết-bàn, xứng thể mà quán đều không khởi diệt.

Không đến không đi, pháp Thánh chẳng phải mới đến, phàm tâm chẳng phải diệt đi. Lại nói thẳng thể, không khởi diệt đến đi, không y theo phàm Thánh, hai là chỉ riêng năng sở:

Sở chứng không được không mất, không lấy không bỏ, cảnh sở chứng chẳng phải được chân mất vọng, bỏ thô lấy diệu.

Người năng chứng không làm không dừng, không mặc ý, không diệt mất, tâm năng chứng đều không phân biệt, lìa bốn lệnh.

  1. Mất cả năng sở:

Đối với chứng này không năng không sở, rốt ráo vô chứng, cũng không người chứng. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: nếu thấy có chánh giác giải thoát, xa lìa các lậu, không mê đắm tất cả thế gian thì người ấy chẳng chứng đạo nhãn.

. Tổng kết xứng thật nói: tất cả pháp tánh bình đẳng không hư hoại, rất dễ hiểu bốn kết thúc nhắc lại câu hỏi.

Này người thiện nam! Các Bồ-tát kia tu hành như vậy, thứ lớp như vậy, suy nghĩ như vậy, trú trì như vậy, phương tiện như vậy, khai ngộ như vậy, cầu pháp như vậy cũng không mê muội, rất dễ hiểu trong kệ chỉ có ba: lược bỏ phương tiện khởi hạnh thứ nhất, nên ban đầu phúng tụng quán hạnh thành tựu có hai, hai thứ còn lại như thứ lớp hoàn toàn đồng với văn xuôi.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, nên ngài nói kệ rằng:

Phổ Nhãn ông nên biết

Tất cả các chúng sinh.

Thân tâm đều như huyễn

Thân tướng thuộc bốn đại.

Tâm tánh về sáu trần

Bốn đại thể đều lìa

Ai là người hòa hợp?

Hai là nói không quán,

Như thế dần tu hành,

Tất cả đều thanh tịnh,

Không động khắp pháp giới.

Pháp giới quán cũng văn xuôi rộng, kệ lược. Không tác chỉ, nhậm diệt, cũng không người năng chứng, tất cả thế giới Phật, như hoa đốm trong không, ba đời đều bình đẳng, chẳng bao giờ đến đi, Bồ-tát mới phát tâm và chúng sinh đời mạt, muốn cầu vào Phật đạo, nên tu tập như vậy.

Thứ đến là nêu giải thích mê ngộ, thỉ chung, văn có bốn, ban đầu có ba ở đây là phần đầu.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim cương Tạng ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Rất dễ hiểu.

– Hai là trình bày trong câu có ba.

1. Vui mừng sở ngộ kia:

Đại bi Thế Tôn, khéo vì tất cả các chúng Bồ-tát, tuyên dương viên giác thanh tịnh đại Đà-la-ni nhân địa pháp hạnh của Như lai, đây là cội gốc của tất cả hạnh vị, sau phải theo trước cho nên chỉ lại.

Thứ lớp phương tiện mở mang tối tăm cho các chúng sinh, ở trong hội, pháp chúng vâng lời chỉ dạy của Phật, mắt che được sáng tỏ như mắt trí tuệ thanh tịnh rất dễ hiểu.

2. Thưa hỏi thắc mắc: Thế Tôn, nếu các chúng sinh xưa nay đã thành Phật, là xếp đoạn văn trước vào gốc nghi này. Vì sao lại có tất cả vô minh: nghi ngờ cho là chân có thể sinh vọng.

Nếu các vô minh chúng sinh vốn có thì vì sao? Như lai lại nói xưa nay thành Phật, nghi rằng nói vọng là chân.

Chúng sinh mười phương vốn thành Phật đạo, sau lại khởi vô minh thì tất cả Như lai lúc nào sinh tất cả phiền não trở lại? Là nhắc lại và nêu lên, trách lỗi vô cùng.

Đây là ba điều khó ở trên, ý nói xưa nay là Phật thì phiền não làm sao sinh? Nếu trong vô sinh mà vọng sinh khởi thì Như lai thành Phật đồng với vốn không sinh. Trong vô sinh lẽ ra lại nên khởi vọng, nghĩa thành Phật… sinh không nên bằng nhau, bằng với chúng sanh quả Phật đâu có tôn quý gì? Nếu bằng thì nhân trái với việc hiện tại, tiến lùi đều không thể, nên có lời ấy.

3. Kết thúc thưa thỉnh giải thích chung.

Cúi mong không bỏ lòng đại từ vô già, vì các Bồ-tát mở kho bí mật tạng. Y theo ba việc khó này các kinh sách không có. Chỉ Phật biết rõ, bước lên các địa mới nhận. Đây là thỉnh nói thành giáo, khắp chỉ bày phàm phu đời mạt pháp, nên nói vô già (không gì ngăn được), mở kho bí mật, chẳng phải pháp khí thì không truyền, mật nghĩa là che giấu tướng mà nói. Và vì tất cả chúng sinh đời mạt pháp: nếu bí tàng không mở: kho bí mật thì một pháp bao gồm nhiều. Nay xin không phân biệt đời mạt pháp thì mở kho bí mật, hiển rõ mà nói thì mở kho bí mật.

Được nghe kinh giáo, pháp môn liễu nghĩa như thế, do đây nêu ở đề kinh.

Dứt hẳn nghi ngờ, là nói chung về nghi, đối với các đế lý do dự làm tánh, làm chướng ngại tín tâm, thiện phẩm làm nghiệp. Riêng hiển bảy thì năm cái. Trong nghi có ba:

1. Nghi mình: nghĩa là mình không thể nhập lý.

2. Nghi thầy: nghĩa là thầy không có khả năng khéo chỉ dạy.

3. Nghi pháp: nghĩa là với sở học vì khiến xa lìa, vì không xa lìa, như người bị bệnh tự nghi mình, nghi thầy, nghi thuốc, bệnh cuối cùng không lành, ở đây trong ba nghi tức là nghi pháp, nghi này lại có đã khởi, chưa khởi, ở đây đều bao gồm. Bồ-tát Kim cương Tạng vì người khác xin hỏi giúp dứt bỏ hẳn, nhưng phương tiện dứt nghi thì hoặc nghi cảnh giới khiến ngộ duy tâm, hoặc nghi pháp tánh khiến quán không được, ngoài ra đều lệ theo mà biết.

Hối: hối là pháp bất định, hối điều lành là ác, hối điều ác là lành, nay xin dứt hẳn, tức thuộc về ác. Nhưng người vào đạo nếu chưa thông thì quyết chúng sinh và Phật đồng khác, hoặc có khi dụng công nhiều lại tự nghi ngờ hối hận, sau đây xướng ba lần như trước.

Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, ba lần thỉnh như vầy, đến cuối lại trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Kim cương Tạng rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp hỏi Như lai phương tiện rốt ráo bí mật sâu xa. Bí mật có hai:

1. Mật tạng của Như lai, nghĩa là tri kiến của Nhất thừa Như lai. Phật đối với pháp môn tiệm giáo lặng lẽ đã lâu im lặng chỗ quan trọng này, nên nói phương tiện rốt ráo. Sau đây là trả lời Diệu giác viên chiếu, lìa hoa đốm bị màng che lấp…

2. Như lai tức bí mật, do chứng mật tạng, năng sở không hai.

– Nghiệp nghiệp đầy đủ, đều là bí mật. Thân mật nghĩa là chẳng phải sắc hiện sắc, như ma-ni… Nói mật ở trong một lời nói mà giảng bày biển pháp vô biên, như tiếng vang trong hang trống… ý mật vô tâm thành việc… trong hai nghĩa thì kinh hiển rõ sở chứng.

Các Bồ-tát này chỉ dạy Đại thừa liễu nghĩa trên hết, có thể khiến Bồ-tát tu học trong mười phương, và tất cả chúng sinh đời mạt pháp được quyết định tin thì lập tức đồng với cảnh Phật, nghĩa là phải tín căn thành tựu mới phát tâm trụ. Nay chỉ chung cho quyết nghi thì khó để thành nghĩa trước.

Dứt hẳn nghi hối, nay ông lắng nghe, sẽ nói cho ông: lúc bấy giờ, Bồ-tát Kim cương Tạng vâng lời chỉ dạy vui mừng và các đại chúng im lặng mà nghe. Thứ tư là nói văn xuôi, có bốn:

  1. Cội gốc của nhiều lần khởi nghi.
  2. Ví dụ giải thích nghi ngờ hiện khởi.
  3. Hiển bày cạn cợt khó tạo sâu sắc..
  4. Kết thúc lời hỏi không hợp lý.

– Trong phần đầu lại có ba:

  1. Chỉ chung luân hồi.
  2. Chân theo vọng chuyển.
  3. Kết thúc chỉ ra nghi ngờ trước. Ở đây là phần đầu.

Này người thiện nam! Tất cả thế giới: là chỉ chung hữu tình thế gian và khí thế gian, luận Kim cương của Vô Trước nói dùng bốn uẩn làm thế giới, nếu không y theo tình sao thì đâu luân hồi? Thứ hai: sáu đối sau đây làm rõ luân hồi kia, nghĩa là chỉ trụ hữu vi liền thuộc về tâm luân hồi.

Trước (bắt đầu biến đổi) sau (chứng cùng cực) mới sinh khởi, diệt: niệm niệm tàn tạ.

Trước quá khứ, sau quá khứ vị lai, có trụ kiếp, vô kiếp không, tụ kiếp thành, tán-kiếp hoại, khởi-hiện hạnh, chỉ-điều phục niệm niệm nối nhau tình giới, khí giới đều nương vọng niệm, sở y đã không dứt thì năng y cũng giống như vậy.

Tuần hoàn qua lại, khí giới là đã không lại thành, tình giới đã diệt lại sinh, hoặc nghiệp huân tập, báo luân hồi, trần sa kiếp-ba cũng chẳng dứt được, hai câu trên là chánh tông, chỉ rõ sự luân hồi.

Các thứ lấy bỏ đều là luân hồi, lấy là chấp lấy, chấp ngã, ngã sở, xả là nhàm chán xa lìa, nhàm chán sở y của khổ, lại đối với căn thân thì nhàm chán khổ thô chướng là bỏ, ưa thích tịnh diệu lìa là lấy, đối với khí giới thì nhàm chán xa lìa Ta-bà này là xả, ưa thích Cực lạc kia là lấy, hoặc lấy hoặc bỏ các thứ khác nhau, đều là vọng tâm điên đảo biến hiện ra sự luân hồi, nên luận chép: tất cả phân biệt tức là tự tâm phân biệt, tâm chẳng thấy tâm, pháp chẳng phải tướng nào thật có. Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Tự tâm chấp tự tâm, chẳng huyễn thành pháp huyễn.

– Kế là Chân tùy vọng chuyển, văn có ba:

1. Pháp:

Chưa ra khỏi luân hồi mà bàn luận viên giác thì tánh viên giác kia liền đồng với trôi lăn, thoát khỏi luân hồi thì không có việc đó, năng quán là tâm luân hồi, viên giác sở quán cũng giống như vậy. Như mộng thấy vật thật thì vật cũng là mộng. Hai là ví dụ. Thí như mắt động đậy thì có thể lay động nước trong, do mắt thường động nên, nước trong như sóng lay động, lại như định nhãn do vòng lửa xoay tròn, kế là nhãn thức chậm chạp nên lửa thành tướng vòng tròn, mây trôi thì thấy mặt trăng đi, thuyền lướt thì thấy bờ chạy cũng giống như vậy, tưởng có thể thấy ba hợp.

Này người thiện nam! Các vòng lửa chưa dứt thì mắt thấy mây, thuyền, dụ cho tâm sinh tử cấu bẩn, vật kia trước trụ còn không thể được là nước lửa trăng bờ, dụ cho viên giác, huống chi sinh tử trôi lăn, tâm cấu chưa từng thanh tịnh, quán Phật viên giác mà không xoay lại, chính là hợp. Ba kết thúc chỉ ra điều nghi ở trước.

Cho nên các ông liền sinh ba hoặc, tức là ba thứ nghi ở trước. Y theo ý chỉ ra của văn kết thúc này, liền biết định là gốc ngọn của trách trước khởi nghi, là trả lời các vấn nạn. Nếu là trả lời riêng một việc khó trong ba, tức là không hợp kết thúc chung ba hoặc. Người trí thì biết rõ rõ, nhưng tuy chẳng chính thức trả lời nhưng đã là nêu lên thế lực xây dựng nghĩa trả lời, ý khiến chấm dứt ý nghĩ như trên, tức là nghi ngờ ở trước sớm hợp tự mất, huống chi hoa đốm trong hư không, vàng quặng rõ ràng nói lên ví dụ.

2. Văn ví dụ giải thích nghi ngờ hiện khởi, có hai:

  1. Ví dụ hoa đốm trong hư không chẳng khởi diệt.
  2. Ví dụ quặng trong vàng không sinh lại. Trong phần đầu có ba:

Một là giải thích ví dụ, hai là hợp pháp, ba là kết thành. Ở đây trước chia nhỏ làm hai:

  • Ví dụ bỏ màng che mắt thì hoa mất.
  • Ví dụ hư không chẳng sinh ra hoa.

Này người thiện nam! Thí như mắt bị màng huyễn che lấp lầm thấy hoa đốm trong hư không, nếu cạo bỏ màng huyễn thì không thể nói che lấp này đã diệt lúc nào lại khởi tất cả các màng che, nghĩa là không biết hoa là do bị màng che. Vọng chấp từ hư không mà sinh, không biến mê chân nên vọng sinh, chấp ngang trái chân có khả năng sinh ra vọng, đã bị che lấp đều không thấy hoa. Nghe nói do che lấp mà sinh, lại chấp lúc nào lại che, để ví dụ so sánh mê làm điên đảo vọng thấy luân hồi, nhờ nghe pháp môn Phổ nhãn, liễu ngộ căn trần thanh tịnh, nghe đạo nhờ đó trừ tâm mê nên được thanh tịnh, không phải mới được diệu môn. Lại chấp sớm muộn lại mê, giống như lúc nào lại che lấp, hỏi khi che lấp hết thì lúc khác có lại sinh hay không? không cần quyết định mãi mãi là không, làm sao lấy đây làm ví dụ?

Trả lời: Ví dụ nhưng chỉ lấy việc ngay lúc ấy, không nói trọn đời, nhưng vì người ngu lúc sáng sớm, sáng sớm chỉ thấy hoa, giờ ăn mắt hết, thấy hoa sinh diệt lăng xăng, nghĩa là nói che lấp cũng mau khởi mau dừng, niệm niệm đợi chờ, nên nói rằng không thể, vì thế các kinh luận ví dụ giải thích lời Phật dạy như tỉnh giấc mộng lớn, đâu thể hỏi vặn rằng ngủ dậy tỉnh mộng. Ngại gì nói đêm lại ngủ lại mộng nếu hỏi vặn như thế thì đâu biết ví dụ! Vì sao? Vì hai pháp màng che và hoa chẳng đối đãi nhau, màng che không hẹn với hoa, hoa không sinh theo màng che, nhưng vì che nên vọng thấy, chẳng phải hoa thật sinh. Hai pháp mỗi pháp đều không biết nhau, huống chi một không một có, cho nên nói không đối đãi nhau. Dù cho tâm mê sinh tử cũng vắng lặng, vì duyên mê nên dường như sinh tử, chúng sinh vốn tự không sinh, hoa huyễn không bao giờ khởi, đừng đem màng che đối đãi, đừng dùng mê mà cầu. Kim cương Tạng hỏi mục đích chính là ở đây, sau đây là ví dụ hoa đốm trong hư không rằng:

Cũng như khi hoa đốm trong hư không biến mất trong hư không, không thể nói rằng hư không lúc nào lại sinh hoa đốm nữa. Vì sao? Vì hư không vốn không có hoa nên chẳng khởi diệt. Ví dụ này trước đã bao gồm giải thích, văn rất dễ hiểu. Hai là hợp pháp.

Sinh tử, Niết-bàn đồng với khởi diệt, diệu giác viên chiếu xa lìa màng che và hoa đốm. Mê thì thấy sinh tử giống như hoa khởi, ngộ thì được Niết-bàn giống như hoa diệt, nói viên giác lìa hoa lìa màng che, thì phủi cả hai sinh tử và vô minh, hư không chẳng tạm có không, tánh giác đâu quan hệ gì đến mê ngộ? Chúng sinh đã như hoa khởi, y theo đâu mà vặn hỏi vô minh? Vô minh sinh tử đã không, trách gì xưa nay thành Phật? Hoa đốm trong hư không chẳng bao giờ sinh trở lại, quả vị đâu còn trở lại mê? Vì mình chấp chặt không ngừng, thấy người khác tánh giác trôi lăn, nếu hiểu như thế thì sẽ dứt ngay ba nghi. Ba nghi móc xích nối nhau không phải là ba khoa đáp riêng, sau đây là ví dụ quặng vàng, tức là đáp thành Phật rồi không mê trở lại, nghi này quá sâu, nên ví dụ lại. Ba là kết thành.

Này người thiện nam! Nên biết hư không chẳng tạm có, cũng chẳng tạm không, huống chi Như lai thuận theo viên giác, hư không bản tánh bình đẳng, hư không của thế pháp còn không đồng với hoa khởi diệt, huống Như lai thuận theo viên giác chân thường vắng lặng, là thể tánh của hư không ư?

Giác là tánh không: Kinh Phật đảnh chép: Hư không sinh trong đại giác, lại nói: vắng lặng soi chiếu bao trùm hư không. Lại nói bình đẳng là viên giác tuy là tánh của hư không, mà lại thầm hợp với không phân trùm khắp pháp giới vô phân, vô hạn, không khác, năng y, sở y, nên nói là bình đẳng. Ý này nói: Hư không ở trong giác hư không còn thường vắng lặng, huống chi giác là không tánh, đâu có thêm bớt, dụ như không bằng cho nên nói huống nữa, sau ví dụ quặng vàng.

Này người thiện nam! Như luyện vàng, vàng chẳng phải do luyện mà có, vàng ở trong quặng, loại bỏ quặng thì vàng hiện, chẳng phải quặng tiêu mới có, nếu do luyện mà có thì luyện đá… cũng sẽ được vàng. Cho nên biết tuy là giả luyện vàng nhưng tánh vàng phải sẵn có mới thành vàng được, nếu không luyện thì quặng, có trải qua vô cùng thời kiếp tánh vàng cũng không hoại. Đây là nói ở quặng thì ẩn, ra quặng thì hiển rõ, ẩn và hiển tuy khác nhưng tánh vàng xưa nay bình đẳng.

Không nên nói rằng vốn chẳng sẵn có: giải thích tánh vàng sẵn có.

Như lai viên giác cũng giống như vậy là hợp pháp, quặng dụ phiền não, vàng dụ tánh giác, luyện ra trong sạch liền có ánh sáng, và có thể tùy thợ, tùy khuôn, thành tượng Phật… hoặc các dụng cụ, dụ cho ba thân Phật. Nhưng ví dụ này chỉ đáp hỏi vặn là thành Phật rồi thì không còn mê trở lại, trước thì y theo lý viên ngộ, chúng sinh và Phật đều là vốn chân, để thành nghĩa chúng sinh xưa nay thành Phật trong đoạn Phổ Nhãn, cho nên nêu hoa đốm trong hư không xưa nay không khởi không diệt, chẳng phải sau mới diệt, hợp pháp: sinh tử, Niết-bàn đồng với khởi diệt, cho nên đều chung cho ba câu vặn hỏi, ở đây y theo tướng bất hoại nhân quả, nên nói luyện quặng ra vàng. Hoa thì đầu cuối vốn không, quặng thì do luyện mới hết, ý nói: lý viên đốn tuy giống nhau nhưng mê ngộ không ngại thành khác, đã có nghiệp chướng huân tập nhiều đời, trở lại phải trái với huân tập hiển rõ chân thật, chân hiển rõ thì rốt ráo thanh tịnh, nếu chỉ dùng dụ ở trước thì bác bỏ không có tướng nhân quả mê ngộ. Liền thành tà kiến nếu chỉ dùng dụ này, thì thành tánh giác của

chúng sinh xưa nay bất tịnh, mất lý chân thường, cũng thành tà kiến, đạo lý mầu nhiệm một ví dụ khó sáng tỏ vì thế nói hai việc, cho nên biết ví dụ này chỉ trả lời câu hỏi vặn thứ ba. Ba là hiển rõ cạn cợt khó tạo sâu xa. Văn có hai:

1. Sở tạo lìa niệm: Này người thiện nam! Tất cả Như lai tâm viên giác mầu nhiệm, trước nêu tâm giác làm tống, sau mới phủi dấu vết để nói chẳng phải đoạn diệt, nhưng lìa chỗ được phủi thì đều là tâm giác, phủi nhẹ có ba tiết:

Vốn không có Bồ-đề và Niết-bàn, phủi tên chuyển y, do chuyển phiền não sinh tử nên gọi là Bồ-đề Niết-bàn, thể tuy tức gọi là chân nhưng nhờ vọng mà được.

Cũng chẳng có thành Phật và không thành Phật, không có vọng luân hồi và chẳng luân hồi, hai tiết này đều phủi bỏ đối đãi. Trong tánh viên giác đều không, việc này nếu có cái thấy hẹp hòi thì mê viên giác. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: đối với pháp, nếu có cái thấy này thì chưa phải thấy, nếu không có thấy như thế là thấy Phật. 2. Năng tạo làm ngưng trệ tình cảm, văn có bốn:

  1. Nêu sự cao quý nêu sự yếu kém.
  2. Nêu ví dụ, hiển bày tình cảm.
  3. Ngăn ngừa dứt tâm vọng tâm.
  4. Lại làm sáng nghĩa vọng.Đây là phần đầu, văn có hai cặp.

– Cặp lý trí tiểu Thánh.

Này người thiện nam! Nhưng cảnh giới sở viên của Thanh văn thì thân tâm lời nói thảy đều đoạn diệt, chìm không đắm lặng, nguội thân bặt trí, không bao giờ đến được Niết-bàn do thân chứng của kia hiện ra. Nếu chưa nhập diệt tức là Niết-bàn Hữu dư, hoặc đã nhập diệt tức là Vô dư Niết-bàn, sau đây là đối phàm tâm chân giác.

Huống chi dùng tâm có suy nghĩ, các thứ chấp đắm để so suy lường cảnh giới viên giác của Như lai, hai cặp trên đây ý nói: chân trí hàng Tiểu Thánh còn không thể đích thân đến được lý của tiểu Thánh, huống chi là phàm tâm thấp kém hơn trí ở trước, chân giác lại vượt lý trước, xoay vần cách xa làm sao có thể tạo ra ư! Như Bách liêu còn sợ tể tướng, trăm họ đâu dám gần thiên tử! Đây đồng với người chứng bốn quả của kinh Kim cương còn vô tâm nói ta chứng được bốn quả, há là Như lai có định pháp chứng được vô thượng Bồ-đề ư! Hai là nêu ví dụ hiển bày tình cảm, như lấy lửa đom đóm đốt núi Tu-di, không bao giờ được, nêu ví dụ, sau đây là hiển bày tình cảm.

Vì tâm luân hồi sinh ra cái thấy luân hồi, nhập vào biển vắng lặng hoàn toàn của Như lai, thì không bao giờ đến được, liền biết trước nêu thù thắng, ở đây nêu ví dụ và chính là nói lên tâm phân biệt không thể chứng giác, thầm chê bai ba thứ nghi ngờ vặn hỏi ở trước nói có tâm suy nghĩ, chính là đây nói dùng tâm luân hồi, trước nói cảnh giới viên giác, tức là ở đây nói hiển bày vắng lặng hoàn toàn. Có thể soi chiếu sâu xa, ba là ngăn dứt vọng tâm.

Cho nên ta nói: tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp trước dứt bỏ cội gốc luân hồi từ vô thỉ, chỉ cho văn chưa ra khỏi luân hối… ở trước, nếu xa chỉ tức là chương Văn-thù trước dứt trừ vô minh, hoặc chỉ cho các kinh khác thì đều nói như thế, lại nói lên nghĩa vọng, văn có hai:

1. Không có thật thể.

Này người thiện nam! Có ý suy nghĩ từ có tâm khởi, nêu lên căn thức hữu của năng khởi, tâm là biết, khởi là tâm sở, đều là duyên khí vọng tưởng của sáu trần, nêu lên trần cảnh có công năng lôi kéo, chẳng thật có tâm thể, thật tâm vô niệm.

Đã như hoa đốm trong hư không, dùng suy nghĩ này nói về cảnh Phật, giống như hoa đốm trong hư không lại kết quả không, xoay vần vọng tưởng thì không có việc ấy, dù thật có suy nghĩ nhưng suy nghĩ còn không thể chứng giác, huống chi tâm này sớm đã như hoa đốm trong hư không? Tự không có thật thể, hướng thượng càng muốn cầu chứng, đâu khác gì kết quả như hoa đốm trong hư không? Nên nói xoay vần vọng tưởng.

2. Không có tác dụng cao siêu.

Này người thiện nam! không thể thành tựu phương tiện viên giác, từ căn bổn của nghi ngờ đối chiếu khảo sát tỉ mỉ thứ nhất, bao gồm một đoạn thứ ba này, đại ý đều là trách hỏi đắm tình phân biệt lỗi lầm, cho nên trong đó thì tiết này gần nhất. Do ba phe nghi ngờ trước tiện đều dừng nhưng tâm thô phù khéo thấy vẫn không thể chứng giác.

Kết thúc lời hỏi không đúng lý, phân biệt như thế chẳng phải là hỏi đúng, vừa xem kinh nhiều lần, tức là dường như chỉ văn kết thúc cái thấy khéo léo, nghĩa ấy rõ ràng đều kết thúc một đoạn thứ ba, trước hỏi khen ngợi lành thay, ở đây trách chẳng đúng. Vì sao?

Đáp: trước khen ngợi khởi giáo tốt đẹp. Ở đây trách là hiển bày thật lý đó, ngờ một đoạn nghi này rất chướng ngại việc tu chứng, nếu không nêu lên, thì đời mạt pháp mê mãi nêu lên có ích lợi này, nên trước khen ngợi. Chỗ nêu của Kim cương Tạng ý là ở Phật trách, cho nên biết lỗi trách này, mới nêu lên có công, vừa xem như trước sau trái nhau, rõ ràng chính là trước sau phù hợp, có thể xét nghĩ, nhiệm mầu là ở đây! Bốn đoạn trong kệ, ba đoạn trước hoàn toàn giống văn xuôi, hai câu sau hoàn toàn khác nhau.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên Ngài nói kệ rằng:

Kim cương Tạng nên biết!

Như lai tánh vắng lặng,

Không hề có trước sau,

Nếu đem tâm luân hồi,

Suy nghĩ liền trói buộc,

Chỉ đến bờ luân hồi,

Không thể vào biển Phật.

Văn xuôi trước nêu lên tướng vọng, văn kệ trước nêu lên thật tánh.

Thí như luyện quặng vàng,

Vàng chẳng do luyện có.

Tuy xưa nay là vàng,

Cuối cùng luyện mà thành,

Vừa thành thể vàng ròng,

Không còn trở lại quặng.

Lược bỏ không có bài tụng về hoa đốm trong hư không, rõ ràng ở đoạn sau.

Sinh tử và Niết-bàn, phàm phu và chư Phật, đồng là tướng hoa đốm, sở tạo lìa niệm bởi do Văn xuôi hoa không khởi diệt, trong ví dụ văn kết thúc giống với đoạn này, vì thế ở đây cũng lấy ví dụ hoa đốm trong hư không, ý bao trùm trước sau.

Suy nghĩ như huyễn hóa,

Huống chi hỏi luống dối,

Tạo ra trệ ngại tình cảm,

Nếu rõ được tâm này,

Thì sau cầu viên giác.

Một đoạn thứ tư này là y vào hiểu biết khởi hạnh. Cùng với Văn xuôi thứ tư lẫn nhau có không.

 

Pages: 1 2