ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH TÙY SỚ DIỄN NGHĨA SAO

QUYỂN 78

Đời Đường, Đại sư Trừng Quán

Sớ từ câu: “Thứ hai, Phật tử !” tiếp xuống: Văn nơi phần Sớ giải gồm ba:

Một: Nêu số lượng để phân định tổng quát.

Hai: Từ câu: “Hoặc tóm lược chẳng đủ” tiếp xuống: Là nhận xét, phân biệt.

Ba: Từ câu: “Xét kỹ thì một Tướng đều dựa nơi” tiếp xuống: Là nói về phần chính. Phần nầy gồm hai chi tiết:

Thứ nhất: Mở rộng để xác nhận về thứ lớp của Kinh.

Thứ hai: Từ câu: “Nay dùng loại để đối chiếu” tiếp xuống: Là bàn về phần chính tức mười chín đoạn.

Nói: “Đây tức thuận theo Quán Tướng Hải”: Tức Kinh Quán Phật Tam muội Hải, quán về “Biển Tướng” của Phật có hai: Một là Quán chung, có ba mươi hai Tướng

Hai là Quán riêng nơi mỗi mỗi các Tướng.

Căn cứ trong Quán riêng lại có hai nghĩa:

Thứ nhất: Từ đỉnh đầu đến chân gọi là Quán thuận.

Thứ hai: Từ tướng xoáy tròn hình bánh xe ngàn tăm dưới bàn chân cho đến đỉnh đầu là Quán nghịch. Vì thế viết: “Nay là Quán thuận” dựa vào lời của Bồ-tát Phổ Hiền thì nên nói là “Thuận thuyết”. Do muốn xác nhận Quán là gốc nên gọi là Quán thuận. Tức nơi Kinh kia là quyển thứ chín, phẩm thứ chín : Quán Tượng.

Sớ câu: “Nếu thế thì phần còn lại có thể không như thế”:

Trên chính là nói tính chất viên dung. Tư đây trở xuống là thông tỏ chỗ vướng mắc. Tức có vấn nạn: “Nếu biểu đạt sự viên dung thì sao chẳng cho các tướng đều gồm đủ ba mươi hai?” Ý đáp lại có thể nhận biết. Nhưng văn cũng chia làm ba:

Một: Chính thức giải đáp.

Hai: Từ câu: “Nên Kinh Thiện Sinh viết” tiếp xuống: Là dẫn chứng.

Ba: Từ câu: “ Đây là căn cứ nơi Tướng-Hảo cùng đối chiếu” tiếp xuống: cũng là thông tỏ chỗ vấn nạn.

Vấn nạn nêu: “Các Kinh Luận nói để thâu phục đối với con người nên nêu ba mươi hai Tướng. Để thâu phục hàng chư Thiên nên nói tám mươi vẻ đẹp (Hảo). Trong cõi người thì Luân Vương có ba mươi hai Tướng mà không có tám mươi vẻ đẹp, tức vẻ đẹp (Hảo) thì hơn”. Cho nên vì đấy mà cần thông tỏ. Tức ở đây căn cứ nơi Thể của tướng để đối chiếu với Thể của vẻ đẹp thì Tướng hơn so với vẻ đẹp. Còn Kinh kia thì căn cứ theo tính chất đầy đủ nơi con người, tức gồm đủ vẻ đẹp là hơn.

Như người đời cho người có khuôn mặt một thước (xưa) không bằng người có chiếc mũi ba tấc. Người có chiếc mũi ba tấc không bằng người có đôi mắt một tấc v.v… Tức tướng tướng cùng đối chiếu để biện giải cho sự hơn kém…

Sớ câu: “Một là nêu ra tên gọi. Tên gọi theo dụng mà lập”: Tức tên gọi Ánh sáng ấy soi chiếu tất cả các phương. Phần tiếp sau biện minh về Nghiệp dụng nói: “Mỗi mỗi đều gồm việc phóng ra Ánh sáng của ngọc báu Ma ni”, nên biết rõ là theo dụng để lập tên gọi của Ánh sáng. Các đoạn văn của phần sau lối diễn đạt thảy đều như vậy. Hoặc theo dụng mà lập, Hoặc theo đức của Thể có thể dùng ý để tìm cầu.

Sớ câu: “Kinh Quán Phật Tam muội nói như nắm tay hợp lại”: Tức Kinh ấy nơi quyển thứ tư, dẫn đoạn nầy để xác nhận “Như nắm tay” ở trên. Nói “Nắm tay” hãy còn ẩn giấu, “Nắm tay hợp lại” tức bao trùm cả nắm tay làm rõ nơi đỉnh đầu có tướng “Lồi lộ lên”

Tướng ấy có khả năng diệt trừ tất cả các tội lỗi, làm tăng trưởng hết thảy phước đức. Cho nên tính chất tôn quý thù thắng nơi đỉnh đầu của Phật chính là nêu rõ ở đây. Tức “Ô Sắt Ni Sa” (Nhục kế nơi đỉnh đầu của Phật) luôn niệm luôn quán, kéo dài thọ mạng của sự khéo an trụ, diệt trừ mọi khổ nơi địa ngục, chẳng thọ bảy lần rơi vào nước của loài súc sinh, lìa mọi quả báo ác của cõi người.

Sớ câu: “Nếu mở ra tức gồm đủ mười góc cạnh”:

Cũng là nơi Kinh Quán Phật Tam Muội, quyển thứ hai, nói rộng về việc quán tướng Bạch hào.

Kinh ấy, trước hết nói về Nhân của Tướng Bạch hào, viết: “Từ Tâm xả, không keo kiệt, không thấy tướng ở trước, chẳng nhớ nghĩ về của cải, tài sản, không bị bó buộc mà hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục (Phần sau chỉ nêu dẫn ý) sáu độ, mười Lực, bốn Vô sở uý, phát sinh các công đức vi diệu…”. Phần tiếp theo nói: “Sau khi Như Lai diệt độ, có các đệ tử, sáu thời trong ngày đêm, có thể ở trong một thời, ở trong một phần nhỏ, rất nhỏ, có thể trong giây lát niệm về tướng Bạch hào của Phật, khiến cho Tâm thông tỏ, không còn tướng lầm loạn, lui tiến phân minh,ý chăm chú không dứt. Người niệm về tướng Bạch hào, hoặc thấy tướng hảo, hoặc chẳng được thấy, những người như thế diệt trừ được chín mươi sáu ức na do tha tội lỗi của hằng hà sa vi trần số kiếp sinh tử. Phật nói với Phụ vương: Như Lai có vô lượng tướng hảo. Trong mỗi mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn các tướng nhỏ. Tướng hảo như thế chẳng bằng một phần nhỏ công đức của tướng Bạch hào”.

Giải thích: Phải nên quan sát, huống chi là dựa nơi Kinh nầy mà quan sát như thế.

Sớ câu: “Người phước đức lưỡi dài liếm tới mũi”: Tức văn của Luận Trí Độ. Hoặc “Đến cõi Trời Phạm Thế” Tức nơi Kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai thần lực, Kinh viết: Bấy giờ, đức Như Lai hiện ra tướng lưỡi dài rộng, trên lên đến cõi trời Phạm Thế”. “Hoặc che phủ cả Tam Thiên” tức ở Kinh A di đà: “Hiện ra lưỡi dài rộng che phủ khắp Tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật…”

Sớ câu: “Không chờ quán phá trừ sự tích tụ”: Kinh Kim Cương viết: Này Tu Bồ đề ý của Tôn giả thế nào? Số vi trần hiên có nơi Tam thiên đại thiên thế giới là nhiều chăng? Tu Bồ đề thưa: Rất nhiều, thưa Thế Tôn! Tu Bồ đề! Các vi trần, Như Lai nói chẳng phải là vi trần, nên gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới chẳng phải là thế giới, nên gọi là thế giới”.

Giải thích: Đoạn nầy, Luận gọi là đoạn thứ mười, quán phá trú xứ của hành tương ưng trong Sắc cùng thân chúng sinh kết hợp. Đại ý nói: “Thế giới của chúng sinh chỉ là sự thâu gồm vi trần mà thành. Hiện tại từ thô đến tế, cho tới cực vi đều không có Thể tánh thật, nên viết: Thế giới chẳng phải là thế giới”.

Nay nói: “Không chờ quán phá trừ” tức quán phá trừ chỉ là giả tưởng vì chưa thấu rõ. Nếu thấu tỏ các pháp vốn là Không thì chẳng chờ quán phá trừ. Viết: “Phá vỡ sự tích tụ” là nêu dẫn về nghĩa. Cho nên đại sư La Thập nói: “Nhằm phá vỡ cực vi”. Đại sư Giác Hiền viết: “Do một nên nhiều. Do nhiều nên một”. Vi trần tự nó là Vô tánh tức là Không. Phần còn lại như trước đã nêu.

Sớ câu: “Nên Phật nhập Niết-bàn, bốn răng không bị hủy hoại”: Tức nơi Kinh Hậu Phần, Phẩm “Thánh Khu Khuếch Nhuận”.

Sớ câu: “Trong bốn thì có ba là pháp nhũ”: Luận, quyển thứ ba mươi tám viết: Năm tưởng nơi việc nghe pháp:

Một: Như vật báu.

Hai: Như mắt.

Ba: Như Ánh sáng.

Bốn: Như công đức của Quả lớn.

Năm: Tưởng không tội lỗi.

Nay nói “Pháp đăng” (đèn pháp) là kết hợp hai nghĩa Ánh sáng và Mắt. “Quả lớn” tức hỗ trợ cho Pháp thân. “Không tội lỗi” là nêu rõ chung về sự lìa lỗi lầm.

Sớ Từ câu: “Trên đây lược nêu ra” tiếp xuống: Là tóm kết phần nhận định, phân biệt về chỗ giải thích. Gồm bốn chi tiết:

Một: Biện minh tổng quát về danh, số.

Nói: “Dịch giả đã sắp đặt”: Là do Tấn Kinh không có phần số.

Hai: Từ câu: “Đã chẳng nói tận cùng” tiếp xuống: Là nêu rõ chỗ lập Lý, nhằm hợp cho đủ số một trăm.

Nói: “Đã chẳng nêu tận cùng”: Tức vi trần trong mười Liên Hoa tạng là chẳng thể nói tận cùng.

Ba: Từ câu: “Huống chi trong đó, chỗ nêu bày” tiếp xuống: Là lần nữa dùng lý để xác nhận việc hợp thành nghĩa của một trăm.

Bốn: Từ câu: “Tấn Kinh có bỏ sót” tiếp xuống: Là nhằm ngăn chận sự biện hộ giúp. Tức e có sự biện hộ: “Như một trăm lẻ tám câu hỏi của Bồ-tát Đại Tuệ- nơi Kinh Lăng Già- đâu cần trọn số?” Phàm lập danh số phần nhiều đều có chỗ được biểu thị. Cho nên nay thông tỏ chỗ vấn nạn ấy: Đây là chín mươi bảy Tướng tức có đối tượng được biểu thị. Tấn Kinh có chín mươi bốn Tướng lại do chỗ biểu thị nào? Xưa, biểu thị là hợp. Nay, biểu thị là trái. Vì thế chẳng nên sinh tình để phối hợp. Nếu biểu thị cũng nên thành chín mươi tám Tướng.

Phẩm 35: NHƯ LAI TÙY HẢO QUANG MINH CÔNG ĐỨC

Sớ câu: “Hai là giải thích tên gọi” : Gồm hai phần:

Một: Biện giải về việc được mang tên.

Nói “Tùy theo Tướng lớn”: Tức là ý của Kinh Quán Phật, nơi phẩm trước đã dẫn.

Hai: Từ câu: Tùy hảo của Như Lai” tiếp xuống: Là giải thích về tên gọi.

Sớ câu: “Soi chiếu về bảy địa”: Tức:

Một là: Địa chủng tánh.

Hai là: Địa Thắng giải hành.

Ba là: Địa Tịnh Thắng Ý Lạc.

Tức là địa thứ nhất.

Bốn là: Địa Hành chánh Hạnh. (Từ địa thứ hai đến địa thứ bảy)

Năm là: Địa Quyết định. (Địa thứ tám)

Sáu là: Địa Quyết định Hành (địa thứ chín)

Bảy là: Địa đáo Cứu cánh (Từ địa thứ mười đến Như Lai địa)

Sớ câu: “Lần lượt mở ra như thế. Huống chi nơi các Tướng”: Trên có năm lớp. Nay vượt hơn khoảng giữa nên gọi là “Lần lượt mở ra”.

Nhưng chỗ nêu lên để so sánh ấy cũng hợp với năm lớp.

Nghĩa là:

Thứ nhất: Dùng một Ánh sáng của Nhân so sánh với một Ánh sáng của Quả. Chỗ vượt hơn nên nêu ra.

Thứ hai: Một Ánh sáng của Quả đã như thế, so sánh với nhiều Ánh sáng của Quả.

Thứ ba: Vẻ đẹp dưới bàn chân với Ánh sáng như thế, so sánh với Ánh sáng nơi vẻ đẹp còn lại.

Thứ tư: Ánh sáng của vẻ đẹp như thế đối chiếu nơi một Tướng.

Thứ năm: Một Tướng đã như thế, đối chiếu với nhiều Tướng.

Văn nơi phần Sớ giải chỉ có nêu câu đầu cùng câu sau. Phần còn lại có thể dựa theo đấy để đối chiếu.

Nên lại có thêm hai lớp. Tức:

Thứ sáu: Tướng ngoài đã như thế, so sánh với đức bên trong.

Thứ bảy: Một đức đã như thế, đối chiếu với nhiều đức.

Nên Luận Du Già quyển thứ bốn mươi chín đã nói rộng về nhân của việc nêu lên, so sánh, nói về nhân của Tướng hảo, xong, viết: “Lại, ở trong đó, nói tóm gọn về lượng phước tụ của tất cả chúng sinh… Lại nữa, Tướng tùy hảo ấy, nói tóm lược là do ba Nhân, gọi là Vô lượng:

Một là: Thời Vô lượng, tức tu tập ba A-tăng-kỳ.

Hai là: Ý lạc vô lượng, tức duyên nơi vô lượng chúng sinh để tạo mọi lợi ích, an lạc.

Ba là: Phẩm loại Vô lượng, tức tạo vô lượng nghiệp thiện khác nhau. Cho nên gọi là Vô lượng phước tụ có thể dấy khởi các tướng tùy hảo của Như Lai”.

Giải thích: Trong Kinh nêu tướng của đối tượng được cảm ứng. Luận thì dẫn nhân của chủ thể cảm ứng. Mà nhân quả cùng thành. Ở đây, văn đã minh chứng để nhận biết đức của Phật là khó nghĩ bàn…

Sớ câu: “Nghĩa là tuy tu theo Thừa giới mà hành mở rộng:”

Tức nơi địa thứ nhất nêu dẫn. Từ đây trở xuống có riêng một cách giải thích khác. Do ý hoàn toàn tỏ ngộ, vì từ xa xưa đã gần gũi các Thiện tri thức, gần gũi các Thiện tri thức của Kinh Pháp Hoa, Niết-bàn, tâm không phóng dật, hiển bày chỗ từng tu hành, dựa nơi các Kinh để tu tập. Về sau nghe Kinh nầy nói Nhân bao quát cả biển Quả, Quả thấu triệt ngọn nguồn Nhân, liền sinh tâm hủy báng vì thế bị đoạ nơi địa ngục. Do nhân tạo từ đời trước, được diệu lực từ uy thần lớn của Phật Tỳ-lô-giá-na làm hiện duyên. Nhân duyên cùng hỗ trợ nên tức thì vượt lên đến thứ mười. Căn cứ đây tức chẳng phải tu giới trì hoãn mà đọa địa ngục. Phẩm Thập địa có đoạn: “Tuy chứng đây thanh tịnh, trí tuệ rộng, săn cơ lanh lợi sáng suốt, sâu xa thường hay quyết định chọn lựa, tâm bất động như núi chúa, không thể nghiêng đổ, vượt qua biển lớn có hành mà chứa lâu, có hiểu mà chưa đắc, tùy thức mà hành, không theo trí mà lãnh hội, chúng đây sinh nghi hà đọa ác đạo. Ta thương xót chúng nên không nói, chúng đây sinh nghi bèn đọa địa ngục Lại như nơi Phẩm kệ tán viết:

“Như Lai thân rộng lớn

Rốt ráo nơi Pháp giới

Chẳng lìa khỏi toà nầy

Mà hiện bày khắp chốn

Như được nghe pháp ấy

Cung kính tin, vui thích

Lìa hẳn ba nẻo ác

Hết thảy mọi khổ nạn”.

Giải thích: Quyết định biết rõ không là tu giới trì hoãn.

Thêm nữa, như nơi Phẩm Xuất Hiện nói:

“Như cỏ khô chất cao thành núi

Ném tí lửa vào ắt cháy hết

Cúng dường Như Lai công đức ít

Tất khiến diệt khổ đạt Niết-bàn”.

Sớ từ câu: “Nhưng thiện căn nghiệp ác” tiếp xuống: Là nhằm ngăn chận vấn nạn về chỗ giải thích văn. Tức có vấn nạn: Địa ngục và thân đã do nơi ác nghiệp, tức từ trong ác nghiệp mà đến, nghiệp trước báo thành Phật tức từ trong thiện căn mà đến, tại sao đều nói không phải mười phương đến?

Nay giải thích để thông tỏ: Chính là do từ nghiệp. Tức từ duyên Vô tánh đến nơi là không đến. Nếu không từ duyên tức có tánh cố định, chẳng được “Không đến” Trung Luận viết:

“Như pháp từ duyên sinh

Tức không có định tánh

Nếu không có định tánh

Làm sao có pháp nầy!” Tức nghĩa nhân duyên nên Không.

Sớ câu: “Nên nhân duyên tức là Trí Tuệ”:

Tức nêu tóm lược, ngầm dẫn Kinh đại Bát Niết-bàn quyển thứ hai mươi mốt để chứng minh, phần Sớ giải ở trước đã dẫn. Kinh ấy nói: “Pháp của Trí Tuệ chẳng từ nhân duyên, vì sao lại hỏi về nhân duyên?” Nay dùng cách diễn đạt như trên.

Sớ câu: “Trước là chỉ giáo để nhận biết về sự thọ sinh, khiến bỏ kiến chấp sai lạc”:

Tức nơi Kinh đại Bát Niết-bàn quyển thứ hai mươi mốt nói: “Nếu thấy Như Lai thật sự sinh nơi Vương cung, lấy vợ, sinh con v.v… rồi nơi rừng Sa La diệt độ là sự thấy lệch lạc của hàng nhị thừa”.

Sớ câu: “Cho nên biết, Phật hóa hiện chỗ sinh chẳng phải chết đi rồi sinh ra”: Tức nơi Kinh Tịnh Danh, Phẩm Quán chúng sinh. “Tôn giả Xá lợi phất hỏi Thiên nữ: Thiên nữ chết ở đây thì sẽ sinh ở đâu? Thiên nữ thưa: Phật hóa hiện chỗ sinh thì con cũng sinh như thế. Tôn giả Xá lợi phất nói: Phật hóa hiện chỗ sinh chẳng phải là chết đi, sinh ra. Thiên nữ thưa: Chúng sinh cũng vậy, chẳng phải chết đi sinh ra”.

Sớ câu: “Trước nêu rõ Pháp thân không sinh, hiện hữu khắp mà chẳng thể thấy”: “Phả” là chẳng thể. Phẩm Xuất Hiện viết:

“Ví như Pháp giới hiện khắp thảy

Chẳng thể thấy cho là tất cả

Cảnh giới chư Phật cũng như vậy

Hiện hữu khắp mà chẳng phải khắp”.

Sớ câu: “Chẳng phải cho là được chọn nơi chốn sinh”:

Kinh Bản Hạnh nói: “Như Lai sắp sửa hạ sanh, đã dùng thiên nhãn thanh tịnh quan sát cõi Diêm phù đề có nơi chốn nào thích hợp với việc hạ sinh của mình”. Cho đến đoạn nói: “Chỉ có Vương gia của Vua Tịnh Phạm là thích hợp, các gia tộc khác thì không thể”. Tức giống như có sự lựa chọn nơi chốn sinh. Nhưng là Trí không phân biệt thật ra không có lựa chọn. Là Bi của Trí ứng hợp với vật, tức chọn lựa mà “Không có chỗ nào chọn lựa”.

Sớ câu: “Sau là như pháp để chính thức giáo hóa”: Trên đây là nêu lên chương.

Từ câu: “Phàm muốn hối lỗi” tiếp xuống: Là giải thích rộng về Tướng. Gồm hai:

Một: Nêu rõ bệnh của đối tượng được trị.

Hai: Hiển bày thuốc của chủ thể đối trị.

Đây tức là ý nơi sách Chỉ Quán của Tông Thiên Thai.

Nay nới về phần một, văn nơi bản Sớ giải chỉ lược nêu về tên gọi. Văn đầy đủ là:

Thứ nhất: Tự từ vô thỉ, do phần phiền não lôi cuốn nên tâm thức tối tăm mê muội vọng chấp ta người. Vì vọng chấp ta, người nên dấy khởi Thân kiến. Do Thân kiến nên có vọng tưởng điên đảo. Vì điên đảo mà khởi tham sân si. Do si mê tạo khắp các nghiệp, lưu chuyển trong sinh tử.

Thứ hai: Bên trong đã gồm đủ phiền não. Bên ngoài gặp bạn ác. Pháp tà lay động khiến cho Tâm ta càng thêm lầm lạc bội phần.

Thứ ba: Trong ngoài, duyên ác đã đủ, nên có thể trong thì diệt tâm thiện, ngoài thì diệt sự thiện. Lại, đối với điều thiện nơi người khác thì hoàn toàn chẳng tùy hỉ.

Thứ tư: Ba nghiệp được buông thả thì không điều ác nào mà chẳng làm.

Ba thứ năm, sáu, bảy hoàn toàn giống với phần Sớ giải đã nêu.

Chỉ nói thứ tám, nói “Lỗ Hỗ”, cũng gọi là “Bạt Hỗ” tức đều chỉ cho dạng mạo chẳng tôn kính (bướng bỉnh, ương ngạnh).

Đoạn sau tóm kết viết:

“Đó là mười thứ thuận theo dòng chảy của sinh tử, mê mờ, điên đảo tạo tác, như trùng bọ trong hầm xí thích ở hầm xí, chẳng nhận thức, biết rõ, tích tập nhiều kiếp chẳng thể đếm kể. Các tội bốn trọng, ngũ nghịch cực điểm đến hạng Xiển đề, cứ thế trong dòng sinh tử cuộn chảy, không có bờ bến.

Sớ từ câu: “Tiếp theo, dấy khởi mười thứ tâm” tiếp xuống:

Là phần thứ hai, hiển bày về thuốc của Chủ thể đối trị.

Sách Chỉ Quán viết: “Nay muốn sám hối cần phải đi ngược lại dòng chảy tội lỗi ấy, dùng mười thứ Tâm để diệt trừ trở lại các pháp ác”.

1/ Tin tưởng đúng đắn vào thuyết nhân Quả, quyết định hiểu rõ nghiệp chủng tuy lâu đời nhưng không hoại mất, nên quyết không tự mình tạo, dạy người khác tạo tội để thọ quả Nhận biết chính xác về thiện ác, không sinh nghi hoặc. Đó là phát tâm tin tưởng sâu xa, phá trừ tội nhất xiển đề thứ nhất.

2/ Tự hổ thẹn trách mình, hèn hạ. Người tội nặng nhất là không biết xấu hổ thẹn thùng. Tập theo lối sống của hạng súc sinh ruồng bỏ pháp trang nghiêm tốt nhất là sự trong sạch. Than ôi! Không có kiềm chế mà gây nên trọng tội, Trời thấy ta che dấu tội, thế nên xấu hổ với trời. Người thấy ta gây tội rõ ràng, nên thẹn với người. Dùng tâm này để phá trừ tâm không biết xấu hổ, thẹn thùng.

3/ Phát khởi tâm sợ hãi nẻo ác, nghĩ đời người là Vô thượng, một hơi thở đi không trở lại, biền biệt đi rồi, đường đi xa tít mịt mù chẳng chút hành trang, biển khổ mênh mông sâu thẳm, chẳng có thuyền bè nương cậy. Đạo Thánh hiền thì mắng bỏ, không hề nhờ dựa, tuổi tác còn ít, gió đạo chẳng nhiều, nhưng há có thể điềm nhiên ngồi chờ cảnh đau đớn ê chề! Ví như con dả can mất tai, đuôi, răng, vờ ngủ yên mong cứu thoát, chợt nghe bị chặt đứt đầu tâm hoảng sợ vô cùng. Gặp cảnh sinh lão bệnh ở đời còn chẳng cho là gấp việc chết chẳng nhiều mong đợi há chẳng sợ ư! Khi dấy khởi tâm sợ này, thì như người dậm phải nước sôi, lửa nóng, sáu trần năm dục chẳng rãng để tham nhiễm. Như em vua A dục ngồi ở ngự sàng, mong làm Đại Đế vương, bỗng nghe kẻ Chiên-đà-la sáng sáng khua chiên, một ngày đã qua, sáu ngày sẽ chết. Tuy lúc ấy có đủ năm dục thọ hưởng mà tâm chẳng chút nghĩ đến hưởng thụ đắm yêu. Vì sợ hãi khổ dẫn đến việc sám hối chẳng tiếc thân mạng. Như con dã can kia, biết chắc rằng chết, tuyệt không nghĩ nhớ mông lung. Vì thế dùng tâm sợ này phá trừ tâm chẳng sợ đường ác.

4/ Nên phát khởi, bày tỏ ra những lỗi lầm của mình mà không chê dấu. Giặc cướp, thuốc độc, cỏ dữ gấp mau trừ bỏ phải bày gốc ra, khô cành, nguồn cạn, dòng hết, nếu che dấu tội thì người chẳng thể hoàn lương. Ngài Ca diếp đầu đà thường khiến phát lồ tội lỗi trong đại chúng, Kinh Phương đẳng thì hướng đến một người, còn nhiều pháp thực hành khác nữa. Cốt chỉ tâm thành thật hướng trước tượng Phật, tự mình mong cầu sửa đổi. Như có ưng nhọt mà che dấu, kiêng kỵ chẳng chữa thì chỉ còn chờ chết! Do đó, dùng tâm này sám hối, đề trừ tâm che dấu tội lỗi.

5/ Tâm đoạn sự nối tiếp. Như sám hối rồi sau lại làm tội lỗi. Đó gọi là nối tiếp. Ví như vương pháp, phạm lần đầu thì nhẹ, lần sau phải nặng. Cũng vậy người mới vào đạo tràng có tội thì dễ diệt, lại tái phạm thì khó trừ. Như đã có thể nhổ, mửa ra còn nuốt lại? Dùng tâm này đoạn trừ tâm luôn nghĩ đến việc ác.

6/ Phát tâm Bồ đề: Xưa kia là tự mình an, người ta nguy, khắp phiền não tất cả cảnh. Nay mở rộng tâm đồng cứu giúp, khắp đến cõi hư không lợi ích tất cả ngoài mình. Dùng tâm này phá trừ, thay đổi tâm khởi ác đối với khắp mọi nơi.

7/ Dùng tâm tu làm công bù đắp cho lỗi. Nghĩa là xưa kia dùng ba nghiệp tạo tội, bất kể ngày đêm, nay dùng ba nghiệp tu thiện, siêng gắng chẳng ngừng. Không có thể dời núi, sao lấp được biển, là ý nghĩa đó vậy. Dùng tâm này phá trừ, thay đổi tâm buông thả hành trong ba nghiệp.

8/ Tâm gìn giữ bảo vệ chánh pháp: Xưa kia tự mình hủy mất thiện hủy luôn cả thiện của mọi người, chẳng biết tùy hỷ cho mình cho người. Nay phát tâm gìn giữ bảo vệ các Thiệm phương tiện làm cho thêm rộng chẳng để đoạn tuyệt. Kinh Thắng Man viết: “Tâm gìn giữ bảo vệ Chánh pháp, thâu nhiếp nhận lãnh chánh pháp là tâm bậc nhất. Dùng tâm này phá trừ tâm không tùy hỷ. Nay Sớ giải chỉ nói: Tùy hỷ việc thiện của người khác tức chọn lấy ý đổi với văn trên.

9/ Tâm nghĩ đến Phật ở mười phương. Xưa gần gũi bạn ác xấu, tin nhận lời họ. Nay nghĩ đến Phật ở mười phương, nghĩ đến đức Từ, Bi, Hỷ, xả… nghĩ đến trí vô phân biệt… Không nhờ cậy đến bạn, mà tưởng đến bậc Đại Đạo sư. Dùng tâm này để phá tâm thuận theo bạn xấu.

10/ Tâm quán tánh của tội là không. hiểu thấu rõ tâm tham dục, sân, si, đều là cửa đi vào sự vẳng lặng. Vì sao? Vì chúng khởi lên ở chỗ nào? Chúng dừng lại thì biết trụ ở vọng niệm, vọng niệm trụ ở điên đảo, điên đảo trụ ở thân kiến, thân kiến trụ ở ngã kiến. Ngã kiến thì không có chỗ trụ, mười phương tìm cầu ngã thật sự chẳng có được. Tâm của ngã tự là không thì tội phước không có chủ, hiểu rõ sâu về tướng tội phước, chiếu khắp mười phương, khiến cho không tuệ tương ưng với tâm. Như khi mặt trời hiện, sương sớm đều tan. Tất cả các tâm đều là cửa ngỏ tịch diệt; vui tịch tĩnh. Dùng tâm này phá trừ tâm vô minh hắc ám.

Phần tóm kết viết: “Đó là mười thứ sám hối, thuận hợp nẻo Niếtbàn, nghịch lại dòng chảy sinh tử. Có thể diệt trừ tội lỗi bốn trọng, năm nghịch. Nếu chẳng thấu rõ về mười Tâm ấy thì hoàn toàn chẳng biết được phải trái còn nói làm gì đến sám hối? Giả như có vào đạo tràng chỉ uổng công chịu khó tu hành, rốt cuộc không được lợi ích gì. Kinh Niếtbàn nói: Nếu cho gắng tu khổ hạnh là nhân duyên gần của đại Niết-bàn thì không hề có điều ấy”. Tức là ý nầy. Đó gọi là việc diệt trừ trọng tội trong pháp Sám hối về sự.

Sớ câu: “Vừa theo thứ lớp của việc dấy khởi Tâm”:

Từ nhỏ nhiệm đến hiện rõ, nên sự phá trừ, thay đổi tức từ thô tới tế. Nghĩa là, trước dấy khởi tâm tin tưởng, tiếp sau sinh tâm hổ thẹn. Như chiếc áo bị cáu bẩn nhận lấy cáu bẩn thì trước là chưa rõ (ẩn giấu) sau thì hiện rõ. Nếu khi giặt giũ thì trước là tẩy trừ chỗ cáu bẩn thô, sau mới tẩy trừ chỗ cáu bẩn tế.

Nói: “Trong đó do nói hơn kém”: Tức tâm Bồ đề là tối thắng v.v…

Sớ câu: “Một là phát tâm Bồ đề, là chỗ dựa của sự sám hối”:

Dựa nơi Tâm Bồ đề để sám hối mới là sự sám hối chân thực. Sám hối mà chẳng phát tâm thì chẳng phải là chân thiện. Cho nên nơi quyển thứ năm mươi tám (Kinh Hoa Nghiêm) nói: “Quên mất tâm Bồ đề, tu tập các thiện căn, đó là nghiệp của ma”.

Từ câu: “Là do gốc của Hành” tiếp xuống: Là phần thông tỏ chỗ vướng mắc về “Không thứ lớp”. Nghĩa như ở trước đã nêu.

Sớ câu: “Phần còn lại như chỗ nêu bày riêng”: Đây có hai sự việc:

Một: Nêu rõ về Thể của hai chướng, phần Sớ giải tiếp sau lại biện minh.

Hai: Biện minh về chỗ nêu bày riêng là thấy rõ chướng, như vừa dẫn sách Chỉ Quán để nói.

Sớ câu: “Mỗi mỗi trước Phật và trước chúng sinh”: Phật là chủ của việc Sám hối, dựa nơi Phật là chủ thể dứt trừ. Chúng sinh là cảnh của đối tượng được đối trị, trước đã từng não hại.

Sớ câu: “Đã ở nơi người, trời, phàm, Thánh”:

Tức trong mỗi mỗi chúng đều có “Trời”, trước mỗi mỗi Phật có Thánh. Thánh, Trời thấy mình che giấu tội lỗi. Người thấy mình bày rõ tội lỗi, nên là hổ thẹn.

Nơi một đoạn nầy phần Sớ giải dùng một đoạn Kinh, nhưng có hai ý:

Một: Dùng sự đối trị khắp để đảo ngược lại chỗ không biết Hổ thẹn.

Hai: Từ câu: “Do ý vận hành khắp” tiếp xuống: cũng là dùng sự đối trị khắp để đảo ngược lại phần thứ tư: Ba nghiệp buông thả.

Sớ câu: “Gồm luôn việc hiển bày vọng chấp về Ta, Người”: Do quán tánh của tội là Không chính là phá trừ vọng chấp.

Nói: Gồm luôn việc hiển bày”: Do ở đây có hai ý:

Thứ nhất: Gồm luôn việc hiển bày về đối tượng được đối trị, nên ba sự sau đều là đối tượng được đối trị. Tiếp theo thì mỗi mỗi sự đều có Chủ thể đối trị. Tức là với “Thắng nghĩa không” đã phá trừ vọng chấp về Ta, người; Làm rõ chẳng phải là đoạn, thường, phá trừ sự phủ nhận cho là không có nhân quả, đối nơi Phật ở mười phương là để đảo ngược lại sự “Bên ngoài gặp duyên xấu ác.”.

Thứ hai: Quán Không chính là phá trừ chỗ chấp về Ta, người thgeo chiều ngang. (Không gian).

Nay thêm hai phần sau gọi là “Gồm luôn”. Chỉ một “Tánh Không” đã phá trừ ba lỗi lầm.

Sớ từ cầu: “Nay nói về phần một, Nghiệp là nhân của Báo, là đứng đầu của ba chướng” tiếp xuống: Là nêu ra sự sám hối riêng về Nghiệp cùng lý do phải sám hối trước. Ở nơi văn có thể nhận biết.

Từ câu: “Chẳng phải là trước có Thể tánh” tiếp xuống: Là giải thích Kinh. Gồm hai chi tiết:

Một: Giải thích: “Chẳng phải từ phương Đông đến”: Là do không có Thể tánh, tức là nghĩa Không.

Hai: Giải thích: “Từ điên đảo sinh”:

Nói: “Giải thích nguyên do của Không”: Từ nhân duyên sinh tức là nguyên do của Không.

Do từ điên đảo sinh, nên xác nhận nghĩa Không là không có Thể tánh.

Từ câu: “Do biển nghiệp chướng” tiếp xuống: Là văn của Kinh Phổ Hiền Quán. Dẫn văn nầy để xác nhận hai nghĩa nêu trên. Tức tất cả biển nghiệp chướng đều từ Vọng tưởng sinh. Như muốn Sám hối thì phải ngồi ngay thẳng quán niệm về Thật tướng.

Nói: “Khiến cho Không tuệ ấy cùng với Tâm tương ưng”:

Tức cũng văn của Kinh Phổ Hiền Quán. Dùng đoạn Kinh ấy để giải thích phần Kinh hiện tại, quyết định thấy rõ, không nghi hoặc.

“Không tuệ tương ưng” thì Tuệ ấy là sự quyết đoán. “Có thể nhận biết như thế” là trở lại giải thích chữ Bồ-tát. Do Khiến Thiên tử sám hối nên gọi là Bồ-tát. “Như thị”, là do thấy rõ lý của hai Không, tức là Bồ-tát.

Sớ câu: “Do dụ, Tục có Chân không”: Tức là ý của Trung Luận duyên sinh là “Huyễn có” là Tục. Lý không của Vô tánh là Chân.

Sớ câu: “Có hai văn về Không thì ba chướng đều lược bớt”: Tức trong phần nói Có, thì lược không nói về “Báo chướng”. Nơi văn nói về không thì lược không nêu về Phiền não chướng”. Từ câu “Đã là Vô ngã” tiếp xuống là lãnh hội mười tâm nêu trước.

Từ câu: “Như cho là Không, chư Phật chẳng hóa”: Trung Luận viết:

“Chư Phật nói pháp Không

Là lìa nơi chấp Có

Nếu lại chấp có Không

Chỗ chư Phật chẳng hóa”.

Sớ từ câu: “Nên nay hiển bày chẳng phải là không của đoạn” tiếp xuống: Là lãnh hội mười Tâm ở trên. Là do duyên nên thành không của Vô tánh, do đó chẳng phải là không của đoạn. Kinh nói: “Nhưng thọ nhận báo kia”: Tức cũng giống với Kinh Tịnh Danh nói: “Không ngã, không tạo tác, không thọ nhận. Nghiệp của thiện ác cũng chẳng mất”.

Sớ câu: “Quyết định có tức thường, Quyết định không tức đoạn”:

Cũng là kệ của Trung Luận. Kệ viết:

“Định Có tức chấp thường

Định ba Không tức chấp đoạn

Vì thế người có trí

Chẳng nên chấp có, Không”.

Nói: “Đều có và cũng” là hai: Đều có cả Có và Không thì hai kiến chấp cùng trái nhau. Cũng chẳng lìa nhau, tức là nói cũng đoạn, cũng thường.

Cùng phá trừ hai kiến chấp, nên Kinh viết: “Chư Phật chẳng nói có pháp đoạn, thường”.

Sớ từ câu: “Nên tuy Không mà chẳng là đoạn” tiếp xuống:

Cũng là kệ của Trung Luận. Kệ nêu:

“Tuy không, cũng chẳng đoạn

Tuy có mà chẳng thường Tội phước cũng không mất Đó là lời Phật nói”.

Sớ câu: “Khiến cho nghĩ chân thật về phương chư Phật ở mười phương”:

Tức nếu không rõ chính là “Tâm mà chấp thấy từ ngoài đưa đến, giữ lấy những gì thuộc về sắc thì đâu biết “Tức Tâm tức Phật”. Như biết Tâm ,Phật, Chúng sinh, ba thứ không sai biệt là sự niệm Phật chân thật. Thiện tri thức nói: “Niệm Phật tức là niệm Tâm. Niệm Tâm tức là niệm Phật. Phật không hình tướng. Tâm không sinh diệt. Tâm, cảnh hợp làm một nên gọi là niệm chân thật”.

Sớ câu: “Lại, nghiệp cũng như Huyễn”:

Tức nghĩa của hai lớp Huyễn như trước đã dẫn.

Từ câu: “Lại nữa, Huyễn chẳng phải là Có, Không” tiếp xuống: Trên là biện minh về Tánh Không. Từ đây trở xuống là nói về Trung đạo.

Sớ câu: “Do diệu lực của Tam muội nên âm thanh được nghe khắp”: Là giải thích chỗ vướng mắc. Vướng mắc cho rằng: “Cõi nầy là Trời đâu Suất, Trống trời nói pháp. Vì sao nói lợi ích đến trăm ngàn ức còn ư?” Ý đáp lại có thể nhận biết.

Sớ câu: “Nay nói về phần một đều có chữ “Cố” v.v…”: Văn nơi phần Sớ giải gồm năm:

Một: Nhắc lại nghĩa của Kinh.

Nói: “Giống như nhắc lại phần trước làm nhân”: Tức giống việc do nghe, hồi hướng, đạt được thập Địa cùng Tam muội. Ba thứ ấy là nhân, thấy Phật là lợi ích.

Hai: Từ câu: “Nhưng trước đây chưa có” tiếp xuống: Là nêu ra lý do chẳng hợp với việc thêm chữ “Cố”.

Ba: Từ câu: “Là do Tấn Kinh” tiếp xuống: Là dẫn Kinh xưa để làm chứng.

Bốn: Từ câu: “Cho nên cho là nghe, nói” tiếp xuống: Là lãnh hội đúng đắn về văn của Kinh.

Năm: Từ câu: “Câu trên nói về đắc vị” tiếp xuống: Là giải thích văn. Vị tức là thập Địa.

Nói “Câu dưới là nói về thành hành”: Tức là các lực nơi phần Tam muội trang nghiêm.

Từ câu: “Đạt được mười lực” tiếp xuống: Là giải thích nghĩa của lực. Tức mười lực là đức của quả vị Phật. Nay nói “Đạt được” tức đạt được phần ấy.

Sớ câu: “Hoặc mê nói thành đế”: Tức là nghĩa của mười đế trong địa thứ năm. Nói “Mười đế” tức mười thứ quan sát về bốn Thánh đế, gồm:

  1. Nhận biết đúng về Tục đế
  2. Nhận biết đúng về Đệ-nhất-nghĩa-đế.
  3. Khéo nhận biết về Tướng đế.
  4. Khéo nhận biết về Sai biệt đế.
  5. Khéo nhận biết về Thành lập đế.
  6. Nhận biết đúng về Sự đế.
  7. Nhận biết đúng về Sinh đế.
  8. Nhận biết đúng về Vô sinh đế.
  9. Khéo nhận biết về Nhập đạo đế.
  10. Khéo nhận biết về thứ lớp thành tựu của tất cả Bồ-tát địa, cho đến khéo nhận biết về đế của sự thành tựu Trí Như Lai.

Nay nói “Thành tựu” tức là phần thứ năm: “Thành lập tên gọi của đế” trong chỗ Luận giải thích Kinh. Do Quán thứ năm kia đối với sự tập thành duyên khởi của bốn đế, nên nêu riêng tùy theo ngôn từ mà hiển bày chỉ rõ. Trong Luận gọi là “Nói thành”.

Sớ câu: “Nhưng cả hai đều có lý”: Tức phần Sớ giải kết hợp để thông tỏ cùng với văn nói về chỗ chưa thấy, nên chưa thể lấy, bỏ. Chỉ dùng lý để thông tỏ. Nhưng chỗ giải thích ở trước giống như dụ cho phiền não, còn chỗ giải thích sau thì giống như căn cứ nơi nghiệp. Lại do mê nơi mười đế nên nghĩa “Hoặc” có nhiều.

Sớ câu: “Lại có cách giải thích khác như nơi Kinh Hiền Kiếp”: Là kết hợp để thông tỏ về cách giải thích khác. Tức nơi chín địa đã dẫn.

Sớ câu: “Nay nói về phần một, dựa theo Tấn Kinh nói: gieo trồng một hằng hà sa” tiếp xuống: Văn gồm hai:

Một: Giải thích chung về “Kim Võng thanh tịnh”.

Hai: Giải thích riêng về câu: “Một hằng hà sa”.

Trong phần một có ba chi tiết:

Thứ nhất: Dẫn Tấn Kinh, bản tiếng Phạm để xác nhận về nghĩa “Bảo Võng”.

Thứ hai: Nêu dẫn lần nữa về Kinh hiện tại.

Thứ ba: Dẫn Kinh Anh Lạc để xác nhận cho hai Kinh trên.

Nay nói về phần một:

Nói: “Nhiều loại Luân vương”: Tức Bảo Võng là một. Chữ vân vân là chỉ cho Kim Võng, Lưu Ly. Nhiều nên có một hằng hà sa.

Nói: “Chẳng phải là chỗ nhiều thiện của một Luân vương”: Tức dùng chỗ Kinh cũ để phê phán chỗ Kinh hiện tại, nói: “Gieo trồng một Hằng hà sa thiện căn của Chuyển Luân vương Kim Võng thanh tịnh”. Tức một Luân vương có nhiều thiện.

Nói “Bản tiếng phạm cũng thế”: Tức dùng bẳn tiếng phạm để xác nhận cho Tấn Kinh.

Sớ câu: “Mà nói Kim Võng thanh tịnh”: Là chi tiết thứ hai, nêu

dẫn lần nữa về Kinh hiện tại.

Sớ từ câu: “Dựa theo Kinh Anh Lạc, quyển thượng” tiếp xuống: Là chi tiết thứ ba, dẫn Kinh Anh Lạc để xác nhận cho hai Kinh trên.

Gồm ba:

Một: Nêu dẫn Kinh.

Hai: Xác nhận cho Tấn Kinh.

Ba: Xác nhận cho Kinh hiện tại.

Một: Nói: “Đến địa thứ bảy có mười ba Bảo tướng luân”: Do địa thứ nhất có bảy Bảo (Báu), địa thứ hai có tám, địa thứ ba có chín, địa thứ tư có mười, địa thứ năm có mười một, địa thứ sáu có mười hai Báu, địa thứ bảy có mười ba Báu. Địa thứ tám trở lên thì số lượng Báu không tăng, nên chỉ nói: “Phần lớn ứng hợp Bảo tướng luân”.

Sớ từ câu: “Nếu thuận nơi Tấn Kinh” tiếp xuống: Là phần hai, Xác nhận cho Tấn Kinh. Nghĩa Là, nay đạt được địa thứ mười là thành tựu thiện căn của chín địa trở lên, nên: “Bạch tịnh” đồng với “Bạch Vân Bảo”.

Từ câu: “Tức trước là Hương Tràng Vân” tiếp xuống: Là dẫn hàng Kinh trước để chứng minh xác nhận cho Tấn Kinh. Tấn Kinh có chữ Bạch, trước có chữ Vân. Hai Kinh hợp thành nghĩa “Bạch Vân Bảo” của Kinh Anh Lạc.

Sớ từ câu: “Nếu thế thì chỉ là đối tượng được so sánh, tức Kim Võng chẳng mất” tiếp xuống: Là phần ba, kết hợp để lãnh hội Kinh hiện tại. Lại gồm hai chi tiết:

Một: Thuận theo Tấn Kinh để gồm thâu Kinh hiện tại.

Tức Tấn Kinh cho đạt được địa thứ mười thì có chín địa trở xuống với chỗ thiện của các Luân Vương Bạch Tịnh Bảo. Kinh ấy viết: “Bạch Tịnh Bảo Võng v.v…”. Vân vân tức so sánh nơi Kim, Ngân Luân. Nếu chủ thể so sánh ấy là Kim Võng tức địa thứ mười chẳng phải là Kim. Như cho đối tượng được so sánh là Kim thì Kim v.v… đâu có mất. Tức Tấn Kinh cho từ chín địa hướng xuống, Kinh hiện tại chính trong thập Hồi Hướng hướng lên.

Nói: “Không mất”: Tức cũng là có nhiều thứ thiện căn của Luân Vương. Nghĩa là đạt được một hằng hà sa thiện căn của Luân Vương Kim Võng v.v… nên nói là không mất.

Sớ từ câu: “Nếu cho địa thứ mười là Kim Võng thanh tịnh chính là địa thứ mười hiện có” tiếp xuống: Là chi tiết thứ hai, thuận thẳng nơi nghĩa một Chuyển Luân Vương Kim Võng có nhiều thiện căn. Dùng ba nghĩa để chứng minh, xác nhận:

Thứ nhất: Dùng nghĩa ngọc Vô uý là thanh tịnh.

Thứ hai: Dùng nghĩa người giáo hóa, thâu tóm theo mức độ, hạn lượng đồng với địa thứ mười. Tức nơi hàng tiếp theo của Kinh viết: “Trụ nơi bậc Chuyển Luân Vương ấy, ở trong số thế giới nhiều như số vi trần nơi trăm ngàn ức na do tha cõi Phật, để giáo hóa chúng sinh, chính là đồng với mức độ giáo hóa, giới hạn thâu tóm quá trong địa thứ mười”.

Thứ ba: Từ câu: “Cho nên phần sau, vị Vương ấy” tiếp xuống: Là dùng văn nó về ích lợi chuyển biến để chứng minh, xác nhận. Ích lợi chuyển biến của vị Vương ấy hầu như đều đạt được nơi địa thứ mười, nên biết vị Vương ấy tức chỉ địa thứ mười. Do vậy, Kinh viết: “Bồ-tát an trụ nơi bậc Kim Võng Chuyển Luân Vương cũng lại như thế”. Tức Kim Võng chẳng phải là đối tượng được so sánh, mà chính là địa thứ mười . Song chữ “Kim” kia, nơi Kinh Anh Lạc tuy không có, mà các Kinh còn lại cũng có, nên Kinh Kim Cương Đỉnh đã nói rộng về Kim Luân nơi đỉnh đầu của Phật.

Sớ từ câu: “Nói một hằng hà sa” tiếp xuống: Là phần hai, giải thích riêng về câu “Một hằng hà sa thiện căn”. (Phần một là giải thích chung về “Kim Võng thanh tịnh”).

Tuy Kim luân là đối tượng được so sánh, nhưng có thể gồm đủ các nghĩa, tức chẳng đồng. Còn “Một hằng hà sa thiện căn” thì hai Kinh phải là một”.

Nói “Chín địa trở lui”: Chính là thuận nơi Tấn Kinh, từ Bạch tịnh nơi địa thứ chín hướng xuống.

Sớ câu: “Kinh hiện tại, tóm lược ở sau, trong phần hợp với dụ”: Là nêu ra việc Kinh hiện tại thiếu phần nói về lý của Ánh sáng. Tức là phần Sơ thiền đạt được về sau, trong chỗ hợp với dụ. Kinh viết: “Bồ-tát Ma ha tát trụ nơi bậc Kim Võng thanh tịnh Chuyển Luân Vương, phóng ra Ánh sáng thanh tịnh của Ma ni kế”.

Sớ từ câu: “Nếu nói trực tiếp là được gặp Ánh sáng ấy” tiếp xuống: Là dùng lý để thành lập.

Sớ câu: “Cũng là nhắc lại trong chỗ hợp ở trước”: Tức là văn nói về chỗ kết hợp trong dụ “Thế giới nơi tấm gương”, ở trước đã nêu rõ. Văn viết: “Bồ-tát an trụ nơi bậc Kim Võng thanh tịnh Chuyển Luân Vương, cũng lại như thế. Như vừa được ánh sáng kia, ắt đạt được quả vị địa thứ mười của Bồ-tát”.

Từ câu: “Do đức dựa vào địa mà thành” tiếp xuống: Là nêu ra lý do của việc nhắc lại lần nữa.

Từ câu: “Chẳng thế thì thành ra” tiếp xuống: Là nêu ngược lại để

xác lập.

Sớ câu: “Phần cuối của phần nầy, sự nối tiếp của Kinh chưa hết”: Do sự thuyết giảng lần lượt mở rộng nói về lợi ích xong thì phải nêu tóm kết để quy về Ánh sáng gốc cùng diệu lực của Tùy Hảo, và hiện điềm lành xác nhận lợi ích v.v… Nay đều không có những thứ ấy nên nêu rõ là chưa hết.

Phẩm 36: PHỔ HIỀN HẠNH

Sớ câu: “Chung, tức hai phẩm nêu rõ về nhân quả xuất hiện”:

Văn nơi phần Sớ giải gồm hai:

Một: Chính thức biện minh.

Hai: Từ câu: “Nếu thế thì do đâu” tiếp xuống: Là giải thích chỗ vướng mắc. Gồm hai:

Thứ nhất: Nêu ra chỗ vướng mắc, có ba.

Thứ hai: Từ câu: “Tức do nghĩa nầy hiển bày là kết hợp với trước” tiếp xuống: Là giải thích để thông tỏ. Phần nầy có hai chi tiết:

Một là: Nêu ra lý do đáp lại.

Hai là: Đáp lại về chỗ nối tiếp của Kinh chưa hết.

Nơi phần “Một là” cũng có hai:

Một: Hai câu trên đây là giải đáp chung.

Hai: Từ câu: “Như lại hỏi riêng về” tiếp xuống: Là đáp riêng về ba câu hỏi.

Thứ nhất: Là đáp lại vấn nạn về chỗ chẳng hỏi.

Thứ hai: Là đáp lại vấn nạn về chỗ “Muốn kết hợp với phần trước, nên không dùng điềm lành để ngăn cách”, chung cho chỗ kết cuộc của quả sai biệt thứ hai ở trước, mà không có điềm lành.

Thứ ba: Từ câu: “Pháp của Phổ Hiền là hi hữu, đặc biệt” tiếp xuống: Là thông tỏ vấn nạn thứ ba về chỗ nói nhân bình đẳng xong thì liền có hiện điềm lành.

Sớ từ câu: “Lại nữa, trước nên có” tiếp xuống: Là chi tiết thứ hai, đáp lại về chỗ “Nối tiếp của Kinh chưa hết”.

Do quyển thứ bốn mươi tám của Kinh chung cuộc không có phần kết thúc, nên phần sau lại kết hợp có Kinh nêu tiếp. Nhưng ở đây chỉ nhằm thông tỏ về vấn nạn thứ hai: Trước không có hiện điềm lành.

Sớ câu: “Riêng, tức phẩm nầy v.v…”: Văn nơi bản Sớ giải gồm hai:

Một: Căn cứ trực tiếp nơi nhân quả bình đẳng để biện minh.

Hai: Từ câu: “Cũng nhằm đáp xa về” tiếp xuống: Là đối chiếu với câu hỏi ở trước để nêu bày. Phần nầy lại gồm hai chi tiết:

Thứ nhất: Chính thức đối chiếu với câu hỏi ở trước.

Thứ hai: Từ câu: Trước tuy đã giải đáp” tiếp xuống: Là giải thích chỗ vướng mắc. Văn gồm ba:

Một là: Chính thức đáp lại vấn nạn lần nữa.

Tức trước nếu chưa đáp thì cần phải giải đáp. Nhưng nơi Phẩm

“Bất Tư Nghì” đã đáp, thì sao cần đáp lại lần nữa? Nên vì đấy mà cần thông tỏ.

Hai là: Từ câu: “Cũng như” tiếp xuống: Là nêu lên sự so sánh.

Ba là: Từ câu: “Mà diệu của trong diệu” tiếp xuống: Là thông tỏ lần nữa về vấn nạn ngầm.

Tức có vấn nạn: “Nếu so sánh với “Tướng hải” (Biển tướng)v.

v… thì chỉ là giải đáp lần nữa. Vì sao cho là nói riêng về nhân quả bình đẳng?”. Cho nên vì đấy mà ở đây cần thông tỏ.

Câu: “Bậc cổ đức v.v…”: Tức “Nhân quả bình đẳng” là ý của bậc cổ đức. Do muốn thuận theo điều ấy nên ở đây đã thông tỏ. Nếu là ý chính của phần Sớ giải thì nhằm đem năm phẩm cùng đáp lại câu hỏi về chỗ quả thành tựu, như phần đầu của phẩm Bất Tư Nghị đã nêu.

Sớ từ câu: “Một là hiển bày chung về danh, nghĩa của hai phẩm” tiếp xuống: Văn nơi phần Sớ giải gồm hai:

Một: Căn cứ nơi sự bình đẳng để giải thích.

Hai: Dựa nơi sự xuất hiện để giải thích.

Thứ nhất: Căn cứ nơi chỗ cùng quy về một lý, do đó nên bình đẳng.

Dựa vào Tánh để dấy khởi tu tập là căn cứ nơi nhân. Dấy khởi dụng là căn cứ theo quả. Tận cùng của Tướng là đồng với Chân, do đó nên bình đẳng.

Thứ hai: Từ câu: “Lại, nhân là nhân của quả” tiếp xuống: Là căn cứ nơi tính chất kết hợp thấu triệt của hai sự, nên nói là Bình đẳng. Là do đạt được quả chẳng rời bỏ nơi nhân, nên viết: “Nhân là nhân của quả”.

Dựa nơi quả để dấy khởi quả của quả, nên nói: “Quả là quả của quả”. Như hai văn về Pháp giới Không đã tóm lược bổ sung cho nhau.

Sớ từ câu: “Nhân quả cùng dứt” tiếp xuống: Là phần hai, dựa nơi sự xuất hiện để giải thích.

Sớ từ câu: “Riêng, tức tên gọi của Phẩm” tiếp xuống: Văn gồm hai:

Một: Bàn về phần chung.

Hai: Nói về phần riêng.

Trong phần chung, nói: “Phẩm nêu rõ về đối tượng hành hóa, chẳng phải là nói về Thể của người”:

Là ngầm phê phán cách giải thích của Đại sư Tuệ Uyển nơi sách “San định Ký”. Đại sư giải thích: “Phổ là khắp. Hiền là thiện. Hành là con đường, là nhân. Tức là, hoặc y báo, hoặc chánh báo đều có tính chất khắp. Hiện hữu khắp từ pháp giới đến hạt bụi, sợi lông là Phổ. Viên mãn trọn đủ các thiện nơi biển đức là Hiền, đạt được đạo mà chẳng rời bỏ nẻo hành của nhân…”. Phần sau, tiện dẫn rộng nơi phẩm Phổ Hiền Tam Muội để giải thích nghĩa “biến hiện khắp của Thân Phổ Hiền”. Nhưng đều không nới về Hành, về tướng của Hành. Lại cho Phổ là thuộc nơi người, Hiền là thuộc nơi đức”.

Nên nay phê phán: “đây là dùng người để chọn lấy Hành, chẳng phải là nói về Thân của Phổ Hiền”.

Sớ từ câu: “Nhưng Hạnh của Phổ Hiền” tiếp xuống: Là giải thích riêng về “Phổ hạnh”. Gồm ba:

Một: Nêu lên.

Hai: Giải thích về tướng.

Ba: Nhận định, phân biệt.

Một: Câu: “Các Kinh phần nhiều có nói đến danh hiệu”: Như nơi Kinh Pháp Hoa viết: “Như có người thọ trì đọc tụng, nhớ nghĩ đúng đắn, hiểu rõ về nghĩa lý sâu xa, như chỗ nêu bày mà tu tập, nên biết là người ấy đã hành trì Hạnh của Phổ Hiền”.

Giải thích: Đây tức có danh hiệu mà Tướng còn ẩn. Thọ trì, đọc tụng là Hành của sự. Nhớ nghĩ đúng đắn là chung cho Hành của Trí và Hành của Lý.

Kinh Phổ Hiền Quán gọi đủ là Kinh Quán Phổ Hiền Hành Pháp, cũng cho thọ trì Kinh, lễ sám, ngồi Thiền, đều là Hành Trì, nên có nhiều tên gọi mà ít biện minh về Tướng của Hành. Do đó, nay biện giải.

Sớ câu: “Trong phẩm tuy đã diễn rộng”:

Tức nơi phần văn xuôi cùng với kệ, mỗi mỗi đều là Hạnh của Phổ Hiền. Do còn tản mạn khó thấy nên cần thâu tóm lại.

Sớ từ câu: “Một chỗ cầu đạt là Phổ” tiếp xuống: Là phần hai giải thích về Tướng.

Sớ từ câu: “Thập Hạnh ở trên” tiếp xuống: Là phần ba, nhận định, phân biệt. Gồm hai chi tiết:

Thứ nhất: Dung thông. Tức là trước có Viên dung, Hành bố, sự, Lý dị biệt thì không thể dung hợp. Cho nên lược nêu ra mười thứ, sau mới dung hợp chung.

Thứ hai: Từ câu: “Lại, thập Hạnh trên” tiếp xuống: Là căn cứ nơi quả vị để phân biệt lần nữa. Gồm luôn việc lãnh hội sáu cách giải thích về quả vị của Phổ Hiền, đã thấy nơi văn ở trên.

Từ câu: “Nếu là quả vị riêng” tiếp xuống: Là tóm kết, phê phán các giải thích khác. Tức chỗ phá trừ trong phần bàn về ý nghĩa tổng quát ở trước. Lại chia làm hai:

Một là: Phá trừ chỗ dùng riêng Phổ hiền là sau hết của quả vị sau Phổ Hiền, như phần văn Sớ đã dẫn ở trên.

Hai là: Từ câu: “Giải thích rộng về Phổ Hiền” tiếp xuống: Là tóm kết, xác nhận chẳng phải là nói về Thể của người, gồm luôn việc chỉ rõ là nói về nơi chốn của người.

Sớ câu: “Tên gọi như Kiết, Phược v.v… như thường đã biện minh”: Chẳng phải chỉ là dễ hiểu nên nói rõ là thường giải thích. Mà văn của Kinh ở trên cũng đã giải thích nhiều lần. Song e hàng hậu học khó tìm kiếm nên ở đây lại nêu đủ. Kinh viết:

Một là Vô trí , tức Vô minh. Đây là chung cho cả hai thứ độc đầu và Tương ưng.

Hai là Tạo ác, tức là các Triền, đây có tám thứ, mười thứ Triền.

Nói tám thứ Triền, tức:

1/ Hôn trầm (chìm đắm trong sự tối tăm).

2/ Thùy miên (Ngủ nghỉ)

Hai thứ nầy là chướng ngại đối với pháp chỉ. Luận Tạp Tập quyển thứ bảy nói: “Tức khi tu tập pháp chỉ thì Hôn trầm, Thùy miên là chướng ngại. Đối với bên trong dẫn khởi Hôn trầm”.

3/ Trạo cử (Lao chao, dao động).

4/ Ố tác (Hối, Ghét việc làm đã qua).

Hai thứ nầy là chướng ngại đối với Quán. Luận viết: “Lúc tu Quán thì Trạo cử, Ố tác là chướng ngại. Đối với bên ngoài có thể dấy khởi Tán loạn”.

5/ Keo kiệt.

6/ Ganh ghét.

Hai loại nầy gây chướng ngại cho hành Xả. Luận nêu: “Kẻ tu tập Xả thì keo kiệt, ganh ghét là chướng ngại. Do hai thứ nầy hiện hành, nên ở việc tự lợi và Lợi tha đều đối kỵ, tiếc lẫn, luôn khiến cho Tâm của hành giả bị dao động”.

7/ Không hổ.

8/ Chẳng thẹn.

Hai loại nầy là chướng ngại đối với người tu Giới. Luận viết: “Lúc tu tập Tịnh giới thì không hổ, chẳng thẹn là chướng nhại. Do có đủ hai thứ nầy nên kẻ phạm các giới luật không cảm thấy xấu hổ”.

Nói mười thứ Triền là thêm Phẫn (Giận dữ) và Phú (che đậy) Phần tụng của Luận Câu Xá nêu:

“Hoặc mười, thêm Phẫn Phú”

Luận Tạp Tập viết: “Luôn tăng trưởng mạnh sự trói buộc nơi thân tâm, nên gọi là Triền. Do các thứ Triền ấy thường thường tăng trưởng mạnh sự trói buộc nơi Tâm của tất cả người hành Quán, nên đối với phần tu thiện là chướng ngại”.

Lại có năm Triền, tức: Tham ái, Giận dữ, Kiêu mạn, Ganh ghét và Keo kiệt. Kinh viết: “Gọi là Kiết, Luận Tạp Tập quyển thứ sáu nói:

“Hỏi: Kiết có bao nhiêu thứ? Thế nào là Kiết? Nơi chốn nào là Kiết? (đây có ba câu hỏi).

Đáp: Kiết có chín thứ, tức là: Kiết của Tham ái. Kiết củaGiận dữ. Kiết của Kiêu mạn. Kiết của vô minh. Kiết của Kiến giải. Kiết của Chấp giữ. Kiết của Nghi hoặc. Kiết của Ganh ghét. Kiết của Keo kiệt”.

Tụng viết:

“Ái, Nhuế, Mạn ,Vô minh

Kiến, Thủ, Nghi, Tật, Xan”.

Luận viết:

“Kiết của Tham ái: Tức là sự tham đắm nơi cõi dục.

Kiết của Giận dữ: Tức ở nơi sự khổ của chúng sinh cùng thuận theo pháp khổ ấy, Tâm sinh tổn hại.

Kiết của Kiêu mạn: Tức là bảy thứ mạn.

Kiết của Vô minh: Tức Là không hiểu biết về ba cõi.

Kiết của Kiến giải: Tức là ba Kiến: Thân kiến, Biên chấp kiến và Tà kiến.

Kiết của Chấp giữ: Tức là Kiến thủ và Giới cấm thủ.

Kiết của Nghi hoặc: Nghĩa là đối với Chân lý sinh do dự.

Kiết của Ganh ghét: Tức tham đắm về lợi dưỡng, không thích người khác vinh hiển, dấy khởi tâm đố kỵ.

Kiết của Keo kiết: Là tham vướng lợi dưỡng, đối với các vật dụng gắn liền với đời sống, tâm luôn luyến tiếc.

Giải thích: Hai câu hỏi còn lại về Kiết được giải đáp rộng như Luận kia.

Sớ câu: “Nên Tấn Kinh nói: Dấy khởi một Tâm giận dữ…”: Do nơi Kinh hiện tại, dịch giả vì thuận theo văn nên khiến người đọc hiểu lầm. Do đấy đã dẫn ba Kinh để hiểu đúng về nghĩa kia.

Tức nơi “Tập Thiền” nói: “Nghe Kinh, chẳng thấy các pháp là lỗi, ác lớn lao”. Lại nói: “bản tánh của Ác là Không nên nói là chẳng thấy. Thấy tức là vọng tưởng”. Tuy là lý đúng nhưng không hợp với Kinh hiện tại. Cho nên nêu dẫn ba đoạn Kinh để làm rõ nghĩa “Không có lỗi ác đấy”, là “chẳng chấp thấy có thôi”.

Kinh Quyết Định Tỳ Ni, chỉ có một quyển: “Tôn giả Ưu ba ly bạch Phật: Thế Tôn ! Như có tâm tương ưng với tham dục mà phạm giới, hoặc có tâm tương ưng với giận dữ mà phạm giới. Hoặc có tâm tương ưng với Si mà phạm giới thì trường hợp nào là nặng?

Phật dạy: Như có Bồ-tát, tâm tương ưng với tham dục nhiều như hằng hà sa mà phạm giới; Hoặc có Bồ-tát do một tâm sân hận mà phạm giới, nhân nơi sân hận mà phạm nên biết đó là hết sức nặng. Vì sao? Vì nhân nơi giận dữ nên có thể xả bỏ chúng sinh…” Cho đến nói: “Các thứ Kiết hiện có, có thể sinh khởi sự gần gũi, yêu thích. Bồ-tát đối với điều ấy chẳng nên sinh sợ hãi. Còn đối với các Kiết hiện có, có thể khiến xả bỏ chúng sinh, Bồ-tát đối với điều ấy nên sinh sự sợ hãi lớn”. Lại nói: “ Người tu tập pháp Đại thừa, nhân nơi tham dục mà phạm giới, Ta nói người ấy chẳng gọi là phạm. Người nhân nơi giận dữ mà phạm giới thì gọi là lỗi, ác lớn lao, gọi là sự đoạ lạc lớn, ở trong pháp Phật là trở ngại lớn”.

Sớ từ câu: “Là do trong Kinh đại Bát-nhã” tiếp xuống: Là để chứng minh, trong trường hợp Bồ-tát dấy khởi giận dữ là hết sức nặng. Kinh nói về việc Ma thấy chúng sinh cùng can dự với thị phi, cũng sinh vui mừng, nhưng chẳng phải là vui mừng lớn. Còn nếu thấy Bồ-tát cùng can dự với thị phi thì sinh vui mừng lớn, vượt hơn mức bình thường. Như hai cọp đánh nhau, con nhỏ chết thì con lớn cũng bị thương, cả hai đều vô ích. Bồ-tát cũng thế, Tự, Tha cùng tổn hại, đều mất cả hai lợi.

Sớ “Hai là do đâu tiếp xuống: Là nêu ra”: văn nơi phần Sớ giải có bốn:

Một: Nêu lên.

Hai: Từ câu: “Cổ nhân đã dựa nơi quả vị” tiếp xuống: Là nêu ra cách giải thích xưa. Sách “San định Ký” đồng với cách giải thích nầy.

Ba: Từ câu: “Cách giải thích ấy chẳng phải là không có lý” tiếp xuống: Là biện minh về chỗ thuận, trái.

Bốn: Từ câu: “Lại, chỗ chướng ngại” tiếp xuống: Là tóm kết, xác nhận về nghĩa chính. Cũng là cách giải thích xưa, nên có chữ “Lại”.

Ý của phần Sớ giải là cách giải thích đó, chẳng muốn phối hợp riêng, nên cho là nghĩa chính.

Sớ câu: “Cũng từ nơi mười thứ trước và mười thứ tiếp theo mà thành, nhưng có chia, hợp”:

Phần Sớ giải sợ dẫn nhiều văn, nay sẽ lược phối hợp, trong đó tên chữ có chỗ đồng với mười thứ đầu, có chỗ đồng với mười thứ tiếp theo.

Ở đây lại như thứ lớp để phối hợp với mười thứ tiếp theo.

Một: Do nhận biết về pháp sâu xa, nên thấu tỏ nẻo hành nơi Tâm cảu chúng sinh. Nẻo hành ấy là hết sức thâm diệu.

Hai: Do gần gũi bạn lành, nên thành tựu được nghiệp báo thù thắng.

Ba: Do hộ trì giáo pháp nên nhận biết về pháp Phật.

Bốn: Do thấu đạt về cõi Không nên nhận biết về nghĩa lý sâu xa.

Năm: Do đi sâu vào pháp giới nên thành tựu được sự duy trì diệu nghĩa.

Sáu: Quán Tâm vô biên, tức là đối tượng được nêu giảng, nên đạt được chủ thể nêu giảng, với biện tài diễn đạt thông suốt.

Bảy: Gồm đủ Hạnh Bồ-tát, nên có thể tùy nơi Tâm mà giảng nói.

Tám: Đồng với chỗ thiện của Bồ-tát nên có thể hiện hữu khắp.

Chín: Không vướng mắc nơi các kiếp, luôn hiện rõ Ảnh, tượng.

Mười: Thuận với pháp của chư Phật, gồm đủ Nhất thiết Trí.

Từ mười thứ tiếp theo phát sinh thì đã như thứ lớp. Từ mười thứ đầu phát sinh thì nghĩa giống với chỗ nói ở trước.

Trên là dựa vào chỗ chẳng chia. Nếu là chia, hợp thì:

Hai pháp đầu đều là pháp thâm diệu, tức ở đây chia mà trước hợp.

Như nơi phần Tổng trì ấy, do gần gũi với bạn lành, hộ trì giáo pháp mà thành, tức ở đây hợp mà trước thì chia.

Căn cứ nơi lý khong giới hạn, nên gọi là chia, hợp. Thật sự thì như nơi nghĩa nối tiếp đã trọn vẹn. Như ba đối chiếu với hai ở trước đã như thế, thì bốn, năm nối theo ở trước cũng vậy. Có thể theo đấy mà xét.

Sớ câu: “Thứ hai là chính thức hiển bày về Tụng”: Văn gồm ba:

Một: Phân định tổng quát.

Hai: Từ câu: “Đây là Già đà” tiếp xuống: Là tụng cô khởi, phân biệt chẳng phải là Kỳ dạ, chẳng phải là “Trùng tụng” đối với trước.

Ba: Từ câu: “Trước là nêu lược nêu rõ” tiếp xuống: Là phân biệt về chỗ riêng biệt của hai văn.

Sớ câu: “Trong ấy là huyền diệu nên phải suy xét kỹ”: Văn, lý nơi phần chính của Kinh theo mọi nẻo hiện bày hầu hết là vi diệu. Chỉ riêng về lời văn dàn trãi đến mênh mông cũng chẳng thể giải thích đủ.

Lại nữa, lý huyền diệu mà văn dễ lãnh hội nên khiến phải suy xét. Đã gọi là Huyền diệu nên ở đây lại giải thích tóm lược.

Kệ thứ nhất là Pháp, dụ cùng nêu lên. Trí của Chủ thể quán nêu rõ về không gian thì hiện khắp, về thời gian thì vĩnh viễn.

Kệ tiếp theo thấu đạt hai Thế gian là giả danh, không thật, tức là Giả Quán.

Thứ ba, một kệ: Cùng lìa cả phân biệt, không phân biệt để thành Không quán.

Thứ tư: Có một kệ, giải thích về Niệm, không niệm, tức là Trung đạo quán. Lại, hai tức là Quán, ba tức là Chỉ, bốn là cả hai cùng vận hành.

Thứ năm: Chẳng động mà đi đến cỏi, tức ở nơi khí thế gian đạt tự tại.

Thứ sáu: Dung thông Niệm, Kiếp, tức ở nơi Thời đạt tự tại. Hai phần trên là Sự Lý cùng đạt đến.

Thứ bảy: Loại bỏ hai và chẳng hai, khéo hội nhập vào Trung đạo, thông hợp với hai thế gian.

Thứ tám: Tóm kết về ba thế gian cùng đồng với Pháp giới.

Thứ chín: Tóm kết về thân của Chủ thể biến hiện khắp.

Thứ mười: Tổng kết về chủ thể, đối tượng là không hai. Nữa trên là dùng không hai để loại trừ hai. Nữa dưới lại loại bỏ không hai. Vì nếu chấp vướng nơi không hai tức là ở nơi hai có chủ thể, đối tượng. Do đấy biết không hai chẳng phải là hai nên không có gì vướng mắc.

Sớ câu: “một kệ thứ chín nhận biết về bốn thứ Hành của thuyết pháp”: Tức ba thế gian cùng với Thời là bốn. Nếu Thời phân ra theo ba Thế gian thì thành sáu thứ. Nếu ở nơi ba đời đều có ba thế gian, tức có chín thứ, cộng với “Nhứt thiết thuyết” tức là mười nghĩa.

Từ câu: “Mà thuyết giảng về cõi v.v…” tiếp xuống: Là giải thích nghĩa. Cõi cùng với ba đời, nghĩa nầy sâu kín, nên phần Sớ giải đã giải thích.

Nói: “Dung thông”: Tức một vi trần thì thâu tóm tất cả. Sao có thể trong cõi lại không thuyết giảng?.

Nói: “Hiển bày Lý”: Như về Sắc tức hiển bày tính chất ngăn ngại, hiển bày về duyên sinh, về Vô thường, về Vô tánh v.v…

Nói: “Tức tiếp xúc với các loại thành giáo”: Là chứng minh cho nghĩa hiển bày Lý, như trong phần “Giáo Thể” ở trước đã biện minh.