ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH TÙY SỚ DIỄN NGHĨA SAO

QUYỂN 34

Đời Đường, Đại sư Trừng Quán

Phần thứ bảy: là Chánh hạnh thâm diệu:

-Sớ từ câu: “Hai là do đâu…” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải phân làm hai:

Một: Làm rõ tổng quát về đại ý.

Hai: Từ câu: “Bốn cái trước là căn bản” tiếp xuống: Là giải thích riêng về văn Kinh.

-Sớ câu: “Luận Tạp Tập quyển thứ bảy nói về các thứ phiền não”: Là giải thích chỗ vướng mắc. Tức có vấn nạn: “Đã phân ra căn bản phiền não, Tùy phiền não (Hoặc). Vì sao đều gọi là “Tùy”? Do đó mà ở đây cần thông tỏ. Luận kia viết: “Tùy phiền não: mọi thứ phiền não hiện có đều là tùy phiền não. Có Tùy phiền não chẳng phải là phiền não.”

Giải thích: “Chẳng phải là phiền não” đó là Phẫn v.v… Tùy theo Hoặc gốc, gọi là Tùy phiền não. Chẳng phải là căn bản thì gọi “chẳng phải là phiền não.”

Luận viết: “Nhưng Tham Sân Si gọi là Tùy phiền não. Tức tâm pháp do đấy mà thuận theo phiền não, theo đây gây não loạn nơi Tâm khiến chẳng lìa bỏ nhiễm, khiến chẳng giải thoát, khiến không đoạn trừ được chướng ngại, nên gọi là Tùy phiền não. Như đức Thế Tôn đã dạy:

“Chư vị trong đêm dài sinh tử, vì tham sân si luôn làm não loạn khiến tâm mãi bị cấu nhiễm”.

Giải thích: Ý của Luận nói, tất cả cội rễ của phiền não tùy chỗ mê lầm mà luôn theo đuổi chúng sinh, khiến Tâm, Tâm sở thuận theo nẻo cấu uế, nên đều gọi là Tùy. Do đấy, văn nơi bản Sớ giải viết: “Cái khác theo đấy mà sinh”. Cái khác tức là chúng sinh. Do tùy theo phiền não phát sinh nên sinh ra những phiền não tùy thuộc. Chính là ý của kinh. Nghĩa là “Các người hành trì, tâm tùy theo tham v.v…”

– Sớ câu: “Giải thích chung về Tham v.v… như trong chín địa”: Là chỉ rõ chỗ diễn rộng ở nơi khác. Nhưng trong chín địa giải thích về Tướng riêng, hoặc tùy theo tên gọi mà giải thích. Như Luận Duy Thức quyển thứ sáu viết: “Thế nào là Tham? Nghĩa là ở nơi Hữu (sinh tử) và trợ lực của “Hữu” luôn nhiễm đắm, vướng mắc là tánh. Có khả năng làm chướng ngại không tham, phát sinh khổ là nghiệp. Tức là do sức mạnh của Ái nên chấp giữ lấy Uẩn để sinh khởi”.

Giải thích: Hữu là quả dị thục trong ba cõi của thân sau (hậu hữu). “Trợ lục của Hữu” là Hữu trong Hoặc nghiệp kia cùng với khí thế gian.

Luận viết: “Thế nào là Sân? Là ở nơi khổ và “Trợ lực của khổ” tăng trưởng sự giận dữ là tánh. Có khả năng gây chướng ngại cho không sân. Tánh chẳng an ổn, làm chỗ dựa cho hành ác là nghiệp. Tức là sân ắt khiến cho thâm tâm luôn bị phiền não nung đốt, dấy khởi các nghiệp ác, tánh chẳng thiện.”

Giải thích: Khổ nghĩa là ba khổ. “Trợ lực của khổ” tức là tất cả các pháp Hữu lậu. “Vô lậu chỉ có thể sinh ra khổ” nghĩa là tà kiến v.v… chống báng lại vô lậu, nên cũng có thể sinh ra khổ.

Luận viết: “Thế nào là Si? Nghĩa là ở nơi các Lý, Sự luôn mê mờ, tối tăm là tánh, có khả năng tạo chướng ngại cho Vô si, làm chỗ dựa cho hết thảy mọi thứ tạp nhiễm là nghiệp. Tức là do Vô minh dấy khởi si ám, tà định, tham cùng phiền não, tùy phiền não tạo nghiệp, có thể chiêu cảm các pháp tạp nhiễm cho đời sau.”

Giải thích: “Độc đầu vô minh” gây nhiễm, mê lầm nơi lý của sự thật. “Tương ưng vô minh” cũng mê lầm nơi Tướng của Sự. Nghĩa là ở nơi sự thật v.v… đều sinh do dự.

Luận viết: “Thế nào là mạn? Là cậy mình nên đối với kẻ khác luôn cao ngạo là tánh. Có khả năng gây chướng ngại cho “Chẳng mạn” phát sinh khổ là nghiệp. Nghĩa là, như người có Mạn, thì đối với bậc có đức, tâm không khiêm tốn. Do đấy mãi lưu chuyển trong nẻo sinh tử vô

cùng, thọ nhận các thứ khổ não.”

Nhưng Căn bản phiền não có sáu thứ. Nghi cùng Ác kiến trong đây không nói, là do chỗ giải thích để giáo hóa cho người, hầu hết không có nghi và Ác kiến.

“Trong bảy thứ Tùy phiền não nên sau”: Theo Duy Thức thì Tùy phiền não tổng cộng có hai mươi thứ. Tụng viết:

“Tùy phiền não là Phẩn

Hận, Phú, Não, Tật, Xan

Cuống, Siểm cùng Hại, Kiêu

Vô Tàm và Vô quý

Trảo cử với Hôn trầm

Bất tín cùng Giải đãi

Phóng dật và Thất niệm

Tán loạn, Bất chánh tri”.

Nơi hai mươi thứ nầy có ba bậc:

Một: Phẩn v.v… gồm mười thứ, đều dấy khởi riêng, gọi là Tiểu Tùy phiền não.

Hai: Vô tàm, Vô quý hai thứ, chẳng thiện trong mọi trường hợp, gọi là Trung tùy phiền não.

Ba: Trạo cử v.v… gồm tám thứ còn lại, khiến tâm nhiễm trong mọi trường hợp, nên gọi là đại tùy phiền não.

Nay chỉ nói về Tiểu tùy là mười thứ, song nêu lên có bảy, lược bớt ba thứ là Não, Hại, Kiêu. Cũng do kiêu thuộc chỗ thâu tóm của Mạn, Não. Hại là chỗ thâu tóm của sân.

-Mà nói “Phú”, nghĩa là ở chỗ tự mình tạo tội lỗi, sợ mất lợi ích, tiếng khen nên ẩn giấu là tánh; có thể gây chướng ngại cho “Chẳng phú”, tạo sự hối hận, buồn phiền là nghiệp. Tức kẻ che giấu tội lỗi thì sau ắt có hối hận, buồn phiền, chẳng an ổn.

-Phần, tức là đối dựa nơi hiện tiền với cảnh chẳng có lợi ích, phát sinh phẫn nộ là tánh. Có thể gây chướng ngại cho “Chẳng phẩn”. Chấp giữ là nghiệp. Nghĩa là người mang phẫn nộ phần nhiều đều phát sinh bạo ác, nghiệp biểu lộ rõ nơi Thân.

-Hận: Nghĩa là do Phẫn nên trước hết là ôm giữ lấy điều ác không rời bỏ, kết oán là tánh. Có khả năng tạo chướng ngại cho “Chẳng hận”, luôn bị phiền não thiêu đốt là nghiệp. Tức là kẻ kết hận thì chẳng thể giữ lấy tâm nhẫn, luôn bị phiền não nung đốt.

-Tật: Tức là dốc thân theo danh lợi, chẳng biết nhẫn nhịn đối với chỗ giàu sang của kẻ khác, ganh ghét là tánh. Có thể gây chướng ngại cho “Chẳng tật”, ưu sầu, lo lắng là nghiệp. Nghĩa là người tật đố thì nghe thấy kẻ khác vinh hiển, lòng luôn mang nặng mối sầu muộn, chẳng hề an ổn.

-Xan: Nghĩa là quá tham đắm nơi của cải, chẳng thể lìa bỏ, giúp đỡ cho kẻ khác, keo kiệt là tán. Có khả năng tạo chướng ngại đối với “Chẳng xan”, nuôi giữ lòng hẹp hòi là nghiệp. Tức là kẻ “Xan lận” thì tâm luôn keo kiệt hẹp hòi, lo chứa cất tài sản mà chẳng hề biết xả bỏ, giúp đỡ.

-Cuống: Tức là khi đạt được lợi ích, tiếng khen, giả vờ hiện bày có đức độ, dối trá là tánh. Có thể tạo chướng ngại cho “Chẳng cuống”, tà mạng là nghiệp. Nghĩa là kẻ giả dối thì tâm luôn mang nặng những toan tính khác lạ, phần nhiều hiện bày điều chẳng thật, sinh sống theo nẻo tà vạy.

-Siểm: “Là giả mạo gắn bó với kẻ khác, vờ bày những nghi thức lạ, sâu hiểm là tánh. Có khả năng gây chướng ngại cho “Chẳng siểm”, nêu bày, chỉ dẫn là nghiệp. Nghĩa là, kẻ “Siểm khúc”, hoặc giả mạo gắn bó với kẻ khác, lúc quanh co, thuận hợp luôn vờ bày các phương tiện nhằm lấy lòng kẻ kia; Hoặc giấu chỗ lỗi sai của mình, chẳng nghe theo lời chỉ bảo chính đáng của thầy, bạn.

Nhưng Siểm, Cuống đều lấy một phần của tham, Si làm Thể. Xan thì chỉ dùng một phần của Tham. Tật, Hận, Phẫn, ba thứ nầy đều dùng một phần của Sân. Phú thì dùng một phần của Tham, Si làm Thể. Sợ mất lợi ích, tiếng khen là Tham. Chẳng sợ khổ hiện có là Si. Phần còn lại có thể theo đấy mà nhận biết.

-Sớ câu: “Pháp là pháp dược, nên chính là ở chỗ thực hành, uống thuốc” kinh Tịnh Danh có câu: “Hợp với bệnh cho thuốc khiến người bệnh có thể thực hành, uống thuốc!”

Câu: “Uống thuốc cùng chẳng uống thuốc, chẳng phải là lỗi của thầy thuốc” Tức là văn nơi kinh Di Giáo, sau phần nói về tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Kinh viết: “Chư vị. Tỳ kheo! đối với các công đức luôn phải nhất tâm dứt bỏ mọi phóng dật, như lìa xa giặc thù. Đức Thế Tôn đại bi với chỗ giảng nói về lợi ích đều rốt ráo, chư vị phải nên dốc tâm sức hành trì. Hoặc ở nơi núi non, hoặc ở chốn đầm ao vắng vẻ, hoặc ở bên gốc cây hay an tọa trong tĩnh thất, luôn nhớ nghĩ về pháp đã thọ nhận, chớ khiến quên mất, luôn phải tự cố gắng tinh tấn để tu tập,chẳng để luống công tới chết, sau đến nỗi có sự hối hận. Ta như bậc lương y, theo đúng bệnh cho thuốc, uống cùng không uống, chẳng phải là lỗi của thầy thuốc. Lại như người hướng đạo giỏi chỉ dẫn người đi theo đường tốt, đã nghe mà chẳng chịu đi theo thì không phải lỗi của người hướng đạo.” Đây đều là khuyến khích vệc hành trì.

-Sớ câu: “Phẩm Thập Hạnh viết: Có thể thực hành theo như lời nói”: Tức là Hạnh thứ mười: Chân thật hạnh.

-Sớ câu: “Trí Luận có câu: Có thể thực hành theo như ngôn thuyết là đúng”: Tức văn nơi quyển thứ sáu của Luận.

-Sớ Câu: “Tu tập đúng như ngôn thuyết mới đạt được pháp Phật”: Tức nơi địa thứ ba của kinh Hoa Nghiêm.

-Sớ câu: “Xa lìa sự cao ngạo, khinh mạn” Tức nơi Luận Du Già, quyển thứ ba mươi tám.

Luận viết: “Nghe pháp, nhờ sáu thứ tướng nên xa lìa nẻo tạp nhiễm của cao ngạo. Nhờ vào bốn thứ tướng nên xa lìa sự tạp nhiễm của khinh mạn. Nhờ nơi một Tướng nên xa lìa sự tạp nhiễm của khiếp nhược. Sáu tướng là:

Một: Nghe pháp hợp thời.

Hai: Nghe pháp với sự ân cần, tôn trọng.

Ba: Nghe pháp với sự cung kính..

Bốn: Nghe pháp không nhằm gây tổn hại.

Năm: Nghe pháp chẳng vì sự chiều theo.

Sáu: Nghe pháp không nhằm tìm xét lỗi lầm.

-Bốn tướng là:

Một: Cung kính chánh pháp.

Hai: Cung kính người giảng nói.

Ba: Không khinh thường chánh pháp.

Bốn: Không coi thường người giảng nói.

-Một tướng là: Chẳng tự khinh miệt mình.

Gồm đủ các nghĩa nêu trên mới gọi là “Khéo lắng nghe pháp”.

-Sớ câu: “Mong lãnh hội, tỏ ngộ..” Luận Du Già viết: “Do nơi năm Tướng nên Tâm không tán loạn”:

Một: Tâm mong lãnh hội, tỏ ngộ.

Hai: Tâm chuyên về một hướng.

Ba: Tâm lắng nghe lãnh hội âm thanh dặn dò.

Bốn: Tâm đã được gột rửa, trong sạch.

Năm: Tâm thâu tóm tất cả.

Gồm đủ năm Tâm ấy thì mới gọi là “Hết lòng lắng nghe pháp”.

-Sớ câu: “Ngôn thuyết chẳng những thế mà chính là gồm luôn việc tu tập”: Từ đây trở xuống là lặp lại Kinh, để giải thích rộng một câu hiển bày đại ý của một chương. Văn nơi bản Sớ giải gồm hai:

Một: xác lập lý.

Hai: Dẫn chứng.

-Trong phần Một cũng gồm hai:

Thứ nhất: Chính thức giải thích.

Thứ hai: Từ câu: “Ở đây nêu rõ chẳng hành là sai” tiếp xuống: Là phân biệt để tránh sự lẫn lộn. Do nhiều người cho chương nầy là chê bai về “Đa văn”, khiến nhiều kẻ chỉ giữ lấy điều ngu tối, chẳng chịu học hỏi vềgiáo lý. Cho nên vì đấy mà ở đây cần phân biệt. Phần nầy gồm ba:

Một là, chính thức phân biệt chẳng phải là chê bai đa văn, chỉ trách cứ là nghe, hiểu mà chẳng hành trì, chẳng phải khiến hành trì mà chẳng cần nghe, hiểu.

Hai là, “Nếu không “Đa văn”, thì sự hành trì không có chỗ dựa”: Là xác lập bằng cách nêu ngược lại. Tức không nghe, không hiểu thì dựa vào cái gì để hành trì?

Ba là, Từ câu: “Do vậy, chẳng hành trì là sai” tiếp xuống: Là tóm kết, xác nhận nghĩa nêu trên. Đa văn mà chẳng hành trì thì như Điều

Đạt v.v… là chỗ chê trách của Kinh. Đa văn mà dốc hành trì thì như

Thân Tử v.v… là chỗ khen ngợi của Kinh. Thiện Tinh là con của Phật (con của thái tử Tất Đạt Đa). Điều đạt là em của Phật, đều thông tỏ mười hai hai bộ Kinh, chẳng nương vào đấy để tu tập nên thân còn sống mà đã bị đọa vào địa ngục A Tỳ. A Nan, Thân Tử đa văn mà dốc hành trì nên tự thân được Phật thọ ký.

-Sớ từ câu: “Cho nên tự lợi, lợi tha” tiếp xuống: Là tóm kết, nhấn mạnh chỗ quan trọng của đa văn.

Từ câu: “Chỉ nên khó lãnh hội…” tiếp xuống: Là thông tỏ chỗ vấn nạn. Nghĩa là có vấn nạn: “Tất cả Kinh, Luận đều nói “Vô ngôn”. Kinh Thương Chủ Thiên Tử có câu: “Không có việc chẳng chê trách ngôn từ mà đạt được đạo.” Kinh Niết-bàn quyển thứ hai mươi sáu nói: “Như biết Như Lai thường chẳng nói pháp, đó gọi là bậc đầy đủ đa văn.” Lại như nơi quyển hai mươi có câu: “Cho nên mong nghe ít mà hiểu nhiều về nghĩa lý. Chẳng mong nghe nhiều nơi nghĩa mà chẳng thấu tỏ.” Nên vì vậy mà cần thông tỏ: Kinh Niết-bàn chỉ nhấn mạnh về nghĩa “Hiểu” chứ không chê trách về đa văn. Kinh Thương Chủ v.v… chỉ nhấn mạnh chỗ chớ nên chấp trước. Há đâu chẳng thuận cho chúng sinh được nghe gíao pháp?

-Sớ từ câu: “Luận Tỳ Bà Sa quyển thứ bốn mươi hai nói” tiếp xuống: Là phần thứ hai, dẫn chứng. Dẫn gồm hai Luận và ba Kinh, nhưng văn phân làm hai:

Một: Dẫn một Luận, hai Kinh để làm rõ là cần phải đa văn. một Luận Tỳ Bà Sa, hai Kinh là Kinh Tịnh Danh, tức phần kệ đáp lại câu hỏi thứ hai của Bồ tát Phổ Hiện Sắc Thân; và địa thứ ba nơi Kinh Hoa Nghiêm, như văn đã dẫn ở trước.

-Sớ từ câu: “Trên là hiển bày riêng về văn” tiếp xuống: Là phần hai, cũng nêu dẫn cả phần nghe và hành.

Trước là dẫn Kinh Đại Niết-bàn, quyển thứ hai mươi lăm, Phẩm Bồ tát Cao Quý đức Vương, phần công đức thứ bảy. Kinh viết:

“Thiện nam! Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập Kinh điển đại Niết-bàn vi diệu, suy nghĩ: Pháp gì có thể làm nhân duyên gần với đại Niết-bàn? Bồ tát nầy liền biết có bốn thứ pháp làm nhân duyên gần của đại Niếtbàn. Nếu nói dốc tu tất cả khổ hạnh là nhân duyên gần kia thì không đúng. Vì sao? Vì nếu lìa bốn pháp nầy mà đạt được Niết-bàn thì không hề có chuyện ấy. Những gì là bốn pháp? Đó là:

Một: Gần gũi bạn lành.

Hai: Chuyên tâm nghe pháp.

Ba: Giữ niệm, tư duy.

Bốn: Đúng như pháp Tu tập.

Thiện nam! Ví như có người thân mang các thứ bệnh hoặc nóng hoặc lạnh, ngoại cảm nội thương, các tà quỷ độc… Người bệnh nầy tìm đến lương y, lương y liền theo bệnh cho thuốc, người bệnh hết lòng nghe theo lời chỉ dẫn của thầy thuốc, uống thuốc đúng cách thức, nên bệnh khỏi, thân được an vui. Người có bệnh dụ cho các vị Bồ tát. Đại lương y dụ cho Thiện tri thức. Phương thuốc của lương y nói ra, chỉ dẫn dụ cho Kinh Phương Đẳng. Thọ nhận lời chỉ dẫn của lương y dụ cho việc khéo suy nghĩ về diệu nghĩa của Kinh Phương đẳng. Theo sự chỉ dẫn kết hợp với việc uống thuốc đúng phương thức dụ cho theo đúng như pháp tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Bệnh được lành dụ cho sự diệt trừ phiền não. Đạt được an vui dụ cho sự chứng đắc Niết-bàn thường lạc ngã tịnh. Cho nên viết là: “Bốn sự của Niết-bàn cùng khen ngợi cả đa văn và thực hành”.

– Sớ câu: “Trí Luận nói: Đa văn, trí rộng ngôn ngữ đẹp…” là dẫn Trí Luận, tức Luận ấy, quyển thứ sáu tổng cộng có bốn kệ, phần dẫn nơi bản Sớ giải là kệ thứ nhất. ba kệ còn lại là:

“Đa văn, trí biện, ngôn ngữ khéo

Khéo nói các pháp chuyển tâm người

Tự chẳng như pháp hành bất chánh

Ví như mây, sấm mà chẳng mưa.

Học rộng nghe nhiều có trí tuệ

Miệng chạm, lời vụng, diễn đạt kém

Chẳng thể hiển bày kho pháp báu

Ví như có mây, không mưa, sấm.

Học vấn chẳng rộng, không trí tuệ

Chẳng thể nói pháp, hành không tốt

Là pháp sư kém, không xấu hổ

Ví như chẳng mây, chẳng mưa, sấm.”

Trên đây xem Hành là mưa, xem Biện giải là sấm, xem sự nghe, hiểu biết là mây. Kệ thứ nhất gồm đủ cả nên nay nêu dẫn. Kệ thứ hai thiếu một là Hành. Kệ thứ ba thiếu Biện giải và Hành. Kệ thứ tư thì cả ba (Hành, Nghe hiểu, Biện giải) đều thiếu, nên gọi là “Pháp sư kém”.

– Sớ câu: “Sợ nêu dẫn nhiều nên dừng”. Tức như Trí Luận, phần tiếp theo trước có đoạn:

“Có trí, không nghe nhiều

Thì chẳng rõ thật tướng

Ví như trong đêm tối

Có mắt, không thể thấy.

Nghe nhiều, không trí tuệ

Cũng chẳng rõ thật tướng

Ví như giữa ánh sáng

Có đèn mà không mắt.

Nghe nhiều, trí tuệ bén

Là chỗ nói nên nhận

Không nghe, không trí tuệ

Đó là bò trong người.”

Cùng với các Kinh khác, văn như thế là rất nhiều.

– Sớ câu: “Lại nữa, chín kệ ấy cũng có thể đối hợp riêng theo nghĩa tham v.v…”:

Một: Trôi nơi dòng nước là dụ theo Tham, do yêu thích nước.

Hai: Dụ tùy theo Xan, chẳng tự mình ăn uống.

Ba: Dụ tùy theo Tật, là bệnh từ bên trong.

Bốn: Dụ tùy theo Siểm, kể lể đức của kẻ khác.

Năm: Dụ theo Sân cùng Phẫn. Là trái với pháp của vua nên phải chịu đói, lạnh.

Sáu: Dụ theo Phú, như bịt tai, trộm chuông rung, muốn người chẳng nghe.

Bảy: Dụ theo Si, vì mù nên không thấy.

Tám: Dụ tùy theo Mạn, cậy mình là thành thạo.

Chín: Dụ theo Cuống, không đức hạnh mà nói có.

Phần thứ tám: là Trợ đạo thâm diệu:

-Sớ câu: “Nghĩa là đoạn trừ Hoặc, chứng Lý, dẫn dắt thực hành đạt quả”: Tức là dùng gươm trí tuệ diệt trừ giặc phiền não. Phải là Trí không phân biệt thì mới chứng đắc Như. Nói “ dẫn dắt thực hành”: Trí Luận viết:

“Năm độ như kẻ mù

Bát-nhã là có mắt”

Do có mắt nên có thể thấy rõ đường đi bằng phẳng, mở ra con đường cho muôn hành, chế ngự tâm theo Trung đạo để đạt đến thành trì Nhất Thiết Trí. Các hành khác có được Trí đều thành tựu tới bờ giác. Cứu cánh của Bát-nhã là thành tựu quả Bồ đề.

-Sớ câu: “Kết thành vấn nạn ở trước”: Từ đây trở xuống cũng có ba lớp ý vấn nạn:

Một: Nói vấn nạn ở trước cho rằng: Trí tuệ là trên tất cả. Cùng với nay “Chẳng phải chỉ dùng một pháp mà thành Phật”, là chẳng hợp với sự tán dương thiên về một phía. Nay có sự việc ấy, vậy là thế nào? đây là nêu hỏi thẳng về nguyên do.

Hai: Từ câu: “Vì cần nhờ nơi nhiều” tiếp xuống: Là câu hỏi mang tính chất hoài nghi.

Ba: Câu: “Như theo một mà được thành”: Tóm kết thành vấn nạn là cùng trái nhau.

-Sớ từ câu: “Nghĩa là, Trí tuệ là đứng đầu” tiếp xuống: Trên là nêu lên ý đáp lại. Từ đây trở xuống là dẫn lược theo đấy mà giải thích.

Một: Giải thích, làm rõ phần đầu.

Hai: Từ câu: “Trọn không chỉ dùng” tiếp xuống: Là giải thích, làm rõ phần sau.

Ba: Từ câu: “Giải thích phần trung gian kia” tiếp xuống: Là giải thích phần giữa.

Tổng cộng có năm ý: Bốn ý trước tức là bốn tùy theo. Một ý sau là thâu tóm chung.

Một: Tùy tâm khiến vui tức là tùy an lạc ở sau. Cũng là Thế giới tất đàn trong bốn Tất đàn.

Hai: Tùy thời sinh thiện tức là tùy nghi ở sau. Cũng là Vị nhân Tất đàn.

Ba: Chỗ đối trị có tổng quát, sai biệt, tức là tùy đối trị ở sau, cũng gọi là đối trị Tất đàn.

Bốn: Chỗ vào cửa chẳng giống nhau, tức là tùy nghĩa ở sau, cũng gọi là Đệ nhất nghĩa Tất đàn.

Tất đàn, Trung hoa gọi là “Tông chỉ của nghĩa”, tức ý trong Trí Luận: Chư Phật thuyết giảng chánh pháp không lìa bốn nghĩa ấy.

-Sớ từ câu: “Lại, Trí Luận nói: Bát-nhã ắt gồm đủ hết thảy Hành” tiếp xuống: Là ý thứ năm Bát-nhã thâu tóm chung các Hành. Nay, tán dương một Bát-nhã tức là tán dương những phần còn lại. Những phần còn lại là phần còn lại trong Bát-nhã. Cho nên chỉ tán dương phần còn lại là đã tán dương Bát-nhã.

-Sớ câu: “Xứng hợp với chỗ ưa thích nơi Tâm”: Tức là đối trước người thích hành bố thí thì khuyến khích bố thí. Thích hành giữ giới thì khuyến khích giữ giới v.v… Thuận theo thế giới, thuận theo ý ưa thích.

Nói “Nhờ vào sự tu tập của đời trước”: Tâm chưa hẳn đã ưa thích, song nếu đời trước đã từng tạo tác thì khi khuyến khích dễ thành tựu. Như đời trước từng tọa Thiền, nay khuyến khích tọa Thiền thì dễ đạt được định. Sự ưa thích căn cứ nơi chỗ mong muốn của hiện tại. Còn sự thích ứng thì căn cứ nơi chỗ có nền gốc. Cũng như con của gia đình rèn đúc kim loại thì thích nghi với việc đếm hơi thở v.v…” Tùy đối trị” thì có thể nhận biết. “Tùy nghĩa” tức là tùy theo chỗ dùng pháp gì để có thể hội nhập nơi Đệ nhất nghĩa. Có người nhân nơi Thiền mà ngộ đạo. Có người nhân nơi Tuệ mà ngộ đạo. Sáu dộ, muôn hạnh đều là những cửa ngỏ của việc hội nhập nơi Lý.

-Sớ câu: “Nhưng đều chung nơi bốn Tùy, lược nêu một là Tùy đối trị”: Là kết hợp nơi văn Kinh. Nêu chương thì gồm đủ bốn giải thích, nhưng chỉ có một tức là đã tóm lược. Cho nên dẫn Kinh Niết-bàn để chứng minh là có đủ nghĩa của bốn thứ. Tức như một người bố thí có sự ưa thích bố thí, khuyến khích họ tức là Tùy theo chỗ ưa thích (Tùy lạc). Trước đã từng tu tập nên có thể phát sinh, đưa đến nẻo lành, tức là “Tùy nghi”. Nhân nơi bố thí mà thấy lý, hiểu rõ của cải như mộng huyễn, tâm, sự đều xả bỏ, tức là “Tùy nghĩa”.

-Sớ câu: “Kinh Niết-bàn nói: Đối trước kẻ keo kiệt bỏn sẻn thì chẳng nên tán dương sự bố thí”: Tức nơi Kinh đại Niết-bàn quyển thứ ba mươi bốn, Phẩm Bồ Tát Ca diếp. Kinh viết: “Phật bảo Bồ Tát Ca diếp: Như Lai, trong các Kinh khác đã nói về năm loại chúng sinh, chẳng nên vì họ mà giảng nói về năm thứ pháp. Là kẻ không có lòng tin thì chẳng nên tán dương về chánh tín. Đối với kẻ hủy báng giới cấm thì không nên tán dương việc giữ giới. Đối với người tham lam keo kiệt thì chẳng nên ca ngợi việc bố thí. Về kẻ biếng nhác thì không nên tán thán việc nghe rộng hiểu nhiều. Đối với hạng ngu si thì chẳng nên ca ngơi trí tuệ. Vì sao? Là vì, người trí, nếu vì năm loại người ấy mà giảng nói năm pháp kia, thì nên biết người thuyết giảng ấy chẳng được gọi là biết đầy đủ về các căn lực, chẳng được gọi là thương xót chúng sinh. Vì sao? Là vì năm loại người nầy nếu nghe các pháp kia xong ắt sinh tâm chẳng tin, tâm xấu ác, tâm giận dữ, do nhân duyên ấy mà ở trong vô lượng kiếp phải nhận lấy quả báo khổ”.

Nay văn nơi bản Sớ giải nêu dẫn nên gồm đủ bốn nghĩa.

Nói “Là tùy theo sự ưa thích”. Tức kẻ kia không ưa thích nên cũng không thuận theo đấy để tán dương.

-Sớ câu: “Nhưng trước dần dần đủ…” Tức trước, theo thứ lớp như thế mà tu tập thì dần dần gồm đủ pháp của chư Phật. Do đấy dùng chữ “Nhưng”, nhằm hiển bày Trí được xem là hàng đầu.

-Sớ câu: “Hai là chính thức nêu rõ chỗ sử dụng chẳng đồng”: Gốc của Hành là phòng giữ cùng với ưa thích khác biệt, nên cần phải gồm đủ. Ý trước là giải thích, làm rõ nghĩa đầu. Ý nầy thì giải thích, làm rõ nghĩa sau.

-Sớ từ câu: “Nhưng Nhiếp Luận, phẩm thứ chín” tiếp xuống: Là nêu dẫn Luận để xác nhận kinh gồm chung cả trước sau.

-Sớ câu: “Nói chung thì hai pháp ấy đều có thể ngăn chận bên ngoài, nuôi dưỡng bên trong”: Xét suy kỹ về lý của pháp nhằm nuôi dưỡng đức bên trong. Tinh tấn để ngăn chận biếng trễ, các thứ ma chẳng nhập vào là ngăn chận kẻ địch bên ngoài.

-Sớ câu: “Bốn biển lặng trong” là dụ cho định tối thượng. “Gương sáng soi tỏ muôn căn cơ” là dụ cho trí tuệ tột bậc. “Đội ân ngưỡng mộ” thì dụ cho sự nương nhờ.

-Sớ câu: “Gặt hái lấy quả vô tận”: Như tâm Từ nơi một định đạt được mười lăm quả. Đến phần nói về ba địa sẽ biện minh.

Phần chín là: Một đạo thâm diệu.

-Sớ câu: “Cùng quán về tâm tánh”: Tức là một của Chánh đạo, là một Pháp tánh của duy nhất chẳng khác với Chân.

Nói “Muôn hành cùng tu”: Là nghĩa gồm phần trợ đạo và chánh đạo. Ngàn Phật cùng để lai dấu vết là một đạo của xưa nay không dời đổi. Tức nêu rõ các loại hạng tương đồng là một, chẳng phải là một của số lượng một, hai, ba, bốn.

-Sớ câu: “Nghĩa là nhân nơi đạo đã là một nên quả chẳng khác biệt” văn nơi bản Sớ giải gồm hai phần: Một: Giải thích văn.

Hai: Phân biệt để tránh sự lẫn lộn.

Một: Giải thích văn. Trước là giải thích câu tổng quát. Cũng có ba lớp ý về câu hỏi:

Thứ nhất: Hỏi thẳng về nguyên do, nên viết là: “Vì sao hiện thấy…”

Thứ hai: Từ câu: “Vì quả khác nên…” tiếp xuống: Là nêu chỗ hoài nghi.

Thứ ba: Từ câu: “Như cả hai cùng tồn tại” tiếp xuống: Là làm rõ vấn nạn về chỗ cùng trái nhau.

-Sớ từ câu: “Phần sau là biện giải riêng vế mười Sự” tiếp xuống: Là giải thích phần tiếp theo nơi kinh văn. Ở nơi văn dễ nhận thấy, nên nay chỉ dẫn ra các tướng dị biệt.

Nói: “Một là Cõi có nhiễm, tịnh v.v…”: Tóm lược có mười nghĩa. Chữ đẳng (vân vân) là chỉ cho chín nghĩa còn lại. Đó là: Hai là Lớn, nhỏ. Ba là Chỗ nương tựa. Bốn là Hình trạng. Năm là Thể tánh. Sáu là sự trang nghiêm. Bảy là sự thanh tịnh. Tám là Phật xuất hiện. Chín là kiếp trụ. Mười là kiếp chuyển biến.

Đây tức là tám trong mười môn nơi Phẩm Thế giới thành tựu. Chẳng chọn lấy phần “Khởi đủ nhân duyên”, do đem chỗ nhân đồng để vấn nạn về Quả khác, nên chẳng cùng với môn không sai biệt. Nay vấn nạn về chỗ sai biệt. Vì nhằm đủ mười nghĩa nên đã thêm nghĩa nhiễm tịnh cùng với lớn nhỏ. Lớn nhỏ tức là phân lượng, cũng là từ hình trạng chia ra. Nhiễm tịnh là đối với thanh tịnh chia ra. Chỉ chung cho tám môn còn lại thì như cõi Sa-bà là nhiễm, cõi An Lạc là tịnh v.v… Nhỏ thì như cõi Sa Bà, một Tam thiên thế giới. Lớn thì như quốc độ của Phú-lâu-na nơi kinh Pháp Hoa, lượng như một hằng hà sa tam thiên thế giới v.v… Chín môn tiếp sai thì hầu hết như đã nêu trong phẩm Thế giới thành tựu.

Hai là chúng sinh cư ngụ khác nhau như thiện ác v.v…”: Tức chọn lấy hoặc chỉ bậc trên địa. Hoặc chỉ là bậc trước Địa. Hoặc chung cả hai. Hoặc ba Thừa, một Thừa v.v…

-Sớ câu: “Ba là các Thừa v.v… khác biệt”: Hoặc có quốc độ thuyết giảng về một Thừa. Hoặc hai, ba, bốn, năm. Như thế cho đến không có số lượng.

Nói “Hoặc rộng, hoặc tóm lược”: Như Thích Ca Như Lai thì chế tác rộng về Giới học. Ca diếp thì tóm lược. Cho đến có Phật thuyết pháp ở trong mộng.

“Bốn là hoặc dùng ba Học để chế ngự, nhiếp phục”: Tức dùng giáo pháp của Thừa nêu trước để giáo hóa, nhiếp phục chúng sinh. Hoặc dùng Giới, hoặc dùng Định, Tuệ để chế ngự, thâu tóm.

Nói “Cứng rắn, mềm mỏng”: Tức ý nơi kinh Thắng Man, như trước đã dẫn. Kinh Tịnh Danh cũng có đoạn: “Chúng sinh ở cõi nầy cứng rắn khó hóa độ, nên đức Phật ở đây phải dùng ngôn ngữ cứng rắn để điều phục họ”. Như nói Địa ngục Súc sanh, Ngạ quỷ, hành xử của kẻ Ngu si, hạnh tà vạy của thân và quả báo của hạnh tà vạy nơi thân. Ví như voi ngựa hung hãn khó trị, phải dùng thêm thuốc, cho đến xiềng xích vào xương cốt rồi sau mới điều phục được.

“Năm là thọ mạng có dài ngắn”: Như kinh Phật Danh, quyển thứ bảy, nói Phật Phạn Thanh thọ mạng mười ức năm. Phật Nguyệt Diện thọ mạng một ngày một đêm. Luận đại Trí Độ nói Phật Tu-Phiến Đa sáng xuất hiện chiều đã thị tịch. Phật A-di-đà thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. Phật Thích Ca thọ mạng không đầy một trăm năm v.v.

-Sớ câu: “Sáu là hào quang hoặc sắc tướng chẳng đồng”: Như nơi Phẩm Thập Định nói. Hoặc thấy Như Lai phóng hào quang với màu sắc vàng ánh. Hoặc thấy Như Lai phóng hào quang với màu sắc bạc trắng v.v…

Nói “Hoặc phóng hào quang đầy đủ hay thiếu, khuyết”: Phật Thích Ca thì gồm đủ. Nghĩa là hào quang luôn tỏa sáng là một tầm, phóng hào quang từ chặng giữa đôi lông mày tỏa chiếu đến một vạn tám ngàn cõi Phật. Hoặc Phật Phổ Minh luôn phóng hào quang không có phân biệt trước sau, là do hào quang luôn tỏa chiếu.

-Sớ câu: “Bảy là tùy theo cõi nhiễm tịnh, người cư ngụ khác biệt, nên hiện bày thần thông cũng không giống”: Nghĩa là tùy theo chỗ thấy hơn kém, nhiều ít chẳng đồng. Như quốc độ của Như Lai Phổ Hiện, chúng sinh ở đấy thảy đều tự nhiên thành tựu thần túc, nên Phậi vì họ mà hiện bày thần thông phải khác với phương nầy.

-Sớ câu: “Một là nhiều ít”: Tức là đặc điểm một của Tướng thứ tám: Chúng hội khác biệt. Nhiều, ít thì hoặc Bồ tát nhiều, Thanh văn ít, hoặc ngược lại, hoặc cả hai cùng nhiều, cùng ít. Cho nên nơi Phẩm Thế giới thành tựu ở trên đã nêu rõ về Phật Xuất hiện, cho rằng: “Hoặc hóa độ nhiều chúng sinh. Hoặc điều phục ít chúng sinh”. Kinh Phật Danh nói Phật di Lưu Thắng Vương, nơi Hội thứ nhất, chúng Thanh văn gồm tám mươi ức trăm ngàn na do tha vị. Đây tức là nhiều.

-Nói “Hai là số lượng hội thuyết pháp”: Tức đặc điểm hai của phần “Chúng hội khác biệt”. Như kinh Phật Danh, quyển thứ bảy nói: Phật di Lưu Thắng Vương có bốn Hội thuyết pháp. Phật Hoa Thắng có một Hội. Phật Thanh Đức có ba Hội. Phật Phóng Diễm có mười Hội thuyết pháp. Hoặc một kinh có nhiều Hội giảng nói, như kinh Hoa Nghiêm, Bátnhã. Hoặc một hội giảng nói nhiều kinh như kinh Vô Lượng nghĩa, kinh Pháp Hoa. Đức Thế Tôn Di Lặc với ba Hội Long Hoa. Bảy Phật thuyết pháp với vô số Hội chẳng đồng.

Ba là phàm Thánh lớn nhỏ”: Là đặc điểm ba. Tức hoặc chỉ tập hợp hành Thanh văn. Hoặc chỉ tập hợp hàng Bồ tát. Hoặc cả ba Thừa cùng hội đủ v.v…

-Sớ câu: “Chín là nghi thức của sự giáo hóa”, như trong phần “Giáo Thể” đã nêu bày. Mà “Nói vân vân” (đẳng) có hai ý:

Một: Hoặc giáo hóa trực tiếp.

Hai: Hoặc nghi thức giáo hóa có trước sau. Hoặc trước Tiểu, sai Đại. Hoặc trước Đại sau Tiểu. Hoặc Hiển, Mật chẳng giống nhau. Hoặc Đốn, Tiệm cùng khác, đều như đã nêu trong phần “Giáo Nhiếp”.

-Sớ câu: “Mười là pháp trụ thế lâu, gần”: Như kinh Pháp Hoa nói Phật Hoa Quang, chánh pháp trụ thế ba mươi hai tiểu kiếp; Tượng pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp. Hoặc Phật Quang Minh, chánh pháp, tượng pháp đều trụ thế hai mươi tiểu kiếp. Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương thọ mạng vô lượng ngàn vạn ức A-Tăng-kỳ kiếp. Chánh pháp trụ thế gấp bội thọ mạng. Tượng pháp trụ thế lại gấp bội chánh pháp…

-Sớ từ câu “Nếu căn cứ nơi một Phật, mười sự đều chẳng đồng” tiếp xuống: Là phần thứ hai, phân biệt để tránh sự lẫn lộn. Nghĩa là sợ có người lầm cho rằng một Phật một nhân mà có nhiều quả. Cho nên vì đấy mà cần phân biệt, nêu rõ đây là nhiều Phật cùng tu tập một nhân, do đâu thấy quả với đủ thứ loại sai biệt? Tức một Phật chứng một quả mà quả khác nhau, như trước đã biện minh. Bồ tát Văn Thù hỏi Bồ tát Đức Thủ: “Chỗ giác ngộ của đức Như Lai chỉ là một pháp. Vì sao lại nói có vô số lượng các pháp, hiện vô lượng cõi, hóa độ vô lượng chúng sinh” v.v… nên viết là “Bồ tát Đức Thủ đã biện minh.”

-Sớ từ câu: “Thứ hai là trong phần giải đáp”: Tức phần kệ giải đáp của Bồ tát Hiền Thủ. Văn nơi bản Sớ giải gồm hai phần:

Một: Lược nêu ý của phần đáp lại.

Hai: Nêu dẫn rộng để giải thích.

Trong phần một, nhấn mạnh về Nhân đồng để giải thích Quả khác. Khác là từ ở nơi vật. Đồng là Phật đồng.

-Sớ từ câu: “Vì sao chư Phật, nhân quả cùng đồng, khác?” Tiếp xuống: Là phần hai, nêu dẫn rộng để giải thích. Phần nầy được chia làm hai:

Một là nêu lên.

Hai là giải thích.

Một là nêu lên: Bồ tát Văn Thù đã dùng chỗ nhân đồng để hỏi về Quả khác. Nay biện minh quả cũng có đồng. Do đâu mà chẳng rõ? Nhân cũng có khác, nên cùng là chẳng nói. Vì thế viết: “Cùng có đồng (giống) dị (khác).” Đây là dùng Phật theo căn cơ nên nhân quả cùng khác. Bỏ căn cơ mà nói về Phật thì nhân quả cùng đồng. Nhưng quả đồng nhân khác thì cùng ẩn giấu. Nhân đồng quả khác thì cả hai cùng hiển bày. Cho nên Bồ tát Văn Thù dùng chỗ hiển bày để vấn nạn về chỗ ẩn giấu. Khiến vật cùng hiện rõ là thành một đạo duy nhất.

-Sớ từ câu: “Nghĩa là đồng viên mãn biển Hành” tiếp xuống: Là phần hai, giải thích về Tướng. Được chia làm bốn chi tiết:

Một: Giải thích chung về bốn nghĩa.

Hai: Tóm kết, xác nhận về đồng, dị.

Ba: Dẫn chứng về đồng dị.

Bốn: Làm rõ riêng về quả đồng.

Một: Bốn nghĩa là: (Nhân đồng, Nhân khác. Quả khác, Quả đồng)

Thứ nhất: “Đồng viên mãn biển hành”, tức cùng hành hai lợi (tự, tha). Thứ hai: Từ câu “Do nhân đồng nầy” tiếp xuống: Là biện giải về tướng của nhân khác. Tức cũng dùng hai lợi cùng hành như trước nay. Nhưng theo Tông Pháp tướng, thì Thân Tự thọ dụng cùng cõi Thọ dụng là do hành tự lợi mà thành. Như Thân Tha thọ dụng cùng cõi Biến Hóa thì do Hành lợi tha đem lại. Thế thì lợi tha cũng có thể tùy theo căn cơ mà chọn lấy quả khác. Chư Phật đều như vậy, cũng được gọi là đồng.

Còn như Tông Pháp tánh thì hai lợi đều thành nhân đồng nhân khác. Lợi tha chẳng viên mãn thì sao được quả báo chân thật? Tự lợi chẳng đủ há có thể lợi tha? Nên tùy theo hai Hành cùng thành quả của chính mình, đều có thể lợi tha, đều tùy nơi chỗ thích nghi mà hóa độ các lòai sai biệt, nên chọn lấy quả khác nhau.

-Sớ từ câu: “Đây là căn cứ nơi Phật tức đồng, có thể tùy theo nên khác” tiếp xuống: Là chi tiết hai, tóm kết, xác nhận về đồng, dị. Trên là nêu thẳng về tướng đồng, dị của Nhân Quả. Nay ở đây thì dung thông, kết hợp lãnh hội. Nhưng có năm câu:

-Câu nầy chỉ căn cứ nơi Phật; Đã đem chỗ nhân đồng chuyển thành nhân khác, nên tức đồng, Quả có thể là quả khác.

Hai: “Căn cứ nơi căn cơ, cùng xứ mà thấy khác”, tức chỉ căn cứ theo chúng sinh mà nói, thì tâm tự khác.

Ba: “Do chúng sinh theo Phật”, cũng như bốn Tâm cùng quán một cảnh, một cảnh chẳng sai biệt, nên thành nghĩa gốc đồng.

Bốn: “Do Phật theo chúng sinh, như tuy một cảnh mà khiến bốn tâm thấy khác, thành nghĩa có thể khác.

Năm: “Dùng Phật đối chiếu với Phật” thì Phật Phật đều có thể tùy theo căn cơ mà thấy khác, tức là nghĩa đồng.

Văn nơi bản Sớ giải kết luận: “Cũng như màu sắc nơi quả Thạch lựu để ở trong phòng luôn là đồng luôn là khác”. Là dung thông năm câu trên chẳng lìa tính chất vô ngại của đồng, dị.

-Sớ từ câu: “Luận du Gìa quyển thứ ba mươi tám” tiếp xuống: Là chi tiết thứ ba, dẫn chứng về đồng, dị. Ngoại trừ câu “Ý nêu rõ là tùy theo căn cơ” là văn nơi bản Sớ giải giải thích Luận, phần còn lại đều là văn của Luận.

-Sớ từ câu: “Căn cứ trong quả đồng” tiếp xuống: Là chi tiết bốn giải thích riêng về phần quả đồng, do vấn nạn về chỗ nhận thấy. Phần nầy gồm hai:

Một: Chính thức giải thích.

Hai: Từ câu: “Cho nên Luận Thành Duy Thức nói” tiếp xuống:

Là dẫn chứng.

Tức nơi quyển thứ mười, trong phần nói về bốn thứ Thân, cõi. Văn phân làm ba:

Một: Giải thích chỗ chứng nơi Thân, cõi của tự tánh. Đã đồng với đối tượng được chứng đắc nên rõ là Thể đồng. Như cái không của một căn phòng.

Hai: Tự thọ dụng như ánh sáng của ngàn đèn cùng chiếu bên trong căn phòng.

Ba: Hai Thân, Cõi còn lại, tức là Tha thọ dụng cùng cõi Biến Hóa, chính là làm sáng tỏ đối với trước cũng tương tợ nên gọi là đồng, nhưng tùy theo căn cơ mà thấy khác.

Văn nơi bản Sớ giải bàn về phần nầy (dẫn chứng) gồm hai:

Một: Nêu lên.

Hai: Giải thích.

Một: “Theo trong chỗ do nơi căn cơ nên thấy khác, có cùng, chẳng cùng”: “Cùng” là khác nên gọi là cùng, chẳng phải là nghĩađồng. “Chẳng cùng” thì tùy theo chỗ hóa độ sai biệt, nên cả hai điều trên đều khác. Nhưng cùng, chẳng cùng cũng tương tợ nên gọi là đồng. Nay thì, ở đây đều thấy cùng, chẳng cùng là sai biệt, tức là tùy theo căn cơ nên thấy khác.

– Sớ từ câu: “Đối tượng được hóa độ là cùng” tiếp xuống: Là phần hai, giải thích. Gồm ba chi tiết:

Một: Giải thích nghĩa cùng.

Hai: Giải thích nghĩa “Chẳng cùng”.

Ba: Cùng tóm kết cả hai.

Một: Giải thích nghĩa “Cùng”: Nói “Phật đều biến hóa”: Như hiện tại Phật Thích Ca là hóa thân. Nếu một loài chúng sinh từ xưa cùng với Phật A-Súc, Phật A-di-đà, Phật Dược Sư, Phật Bảo Tập, thảy đều có duyên nên thọ nhận sự giáo hóa của chư vị kia, người thuộc đối tượng giáo hóa, thân chẳng thể phân. Ở trong Hiền kiếp, nơi cõi diêm Phù đề, thì Như Lai A Súc hóa một thân Phật là Thích Ca văn. Phật A-di-đà cũng hóa một thân là Thích Ca văn. Phật Dược sư Lưu Ly Quang cũng hóa một thân là Thích Ca văn. Như Lai Bảo Tập cũng thế, cùng ở nơi thành Ca Tỳ, nơi cội Bồ-đề, một lúc thành Phật, khiến các chúng sinh chỉ cho là một Phật Thích Ca văn. Như năm ngọn đèn cùng soi chiếu nơi một vật thì cùng hiện ra một bóng. Thật sự thì có nhiều ánh sáng đều phát ra một bóng, nhưng vì cùng xen lẫn nhau nên cho là một. Như một người kia thuộc nơi năm vị Phật, như trên đã nêu rõ. Nếu trăm, ngàn người đồng thuộc nơi năm vị Phật, thì cũng như thế, tức đều thấy năm vị Phật là một.

-Sớ câu: “Ở chỗ chẳng cùng thì chỉ một Phật biến hóa”: Là chi tiết ba, giải thích về “Chẳng cùng”. Ví như thấy trăm, ngàn Hóa Phật trong mười phương, cũng là từ một Phật hóa hiện ra các thân.

-Sớ câu: “Các loài chúng sinh thuộc nơi Phật khác”: Là chi tiết ba, cùng tóm kết hai giải thích, để giải thích thành tựu nghĩa cùng, chẳng cùng đã bàn. Trước nay đều là văn của Luận. Chỉ một câu: “Do thuộc nơi Phật khác” là nêu dẫn nghĩa. Văn của Luận ấy đầy đủ là: “Các lòai chúng sinh từ vô thủy đến nay, chủng tánh theo pháp như thế, lại cùng lệ thuộc vào nhau, hoặc nhiều thuộc một, hoặc một thuộc nhiều, nên chỗ chúng sinh thuộc đối tượng hóa độ có cùng, chẳng cùng… Một Phật có thể đem lại lợi ích cho hết thảy chúng sinh…”

Phần kệ đáp. Sớ câu: “Lược nêu rõ về bốn cái nhất”: Bốn cái nhất là Pháp, Người, Nhân, Quả. Về Quả thì có năm nhất (Thân, tâm, Trí tuệ, mười phương và Vô úy). Ở trên là dùng Nhân là một để vấn nạn về Quả khác. Nay ở đây thì nêu rõ đủ về nhân qủa một tướng.

-Sớ câu: “Nhưng Thể đồng mà nghĩa khác” Là thông tỏ chỗ vướng mắc. Tức sợ có người nêu vấn nạn: “Đã chọn lấy nghĩa đầu tiên, Thể đồng là một, thì khi một Phật chứng đắc tức tất cả đều chứng đắc”. Nếu căn cứ nơi chỗ xuất hiện thì đúng như phần vấn nạn trong Kinh. Phật hiện bày nơi chúng sinh đều do sự chứng đắc đã trọn vẹn. Nay căn cứ nơi sự hiện có nên vì đấy mà cần thông tỏ. Do Thể dựa theo chủ thể chứng đắc nên có chứng, chưa chứng. Chỗ soi chiếu của ngàn ngọn đèn nơi một căn phòng thì ánh sáng ấy đồng với không. Do đèn theo Không thì Thể của Không là không hai. Do Không dựa theo đèn thì có chiếu, chưa chiếu. Tùy theo đèn chọn lấy, thuộc về đều nơi đèn gốc. Nghĩa của Phật cũng như thế.

-Sớ câu: “Tám thức, Tâm vương đều chẳng thể nhận biết” do chẳng phải là Phật vô tâm mà chính là Tâm ấy thâm diệu, sâu kín, khó có thể lãnh hội về tướng. Phẩm Xuất hiện có câu: “Tâm, ý thức của Như Lai đều chẳng thể đạt được. Chỉ do nơi Trí vô lượng nên biết tâm của Như Lai”. Đã nói “Biết Tâm của Như Lai” tức chẳng phải là vô tâm. “Tâm ấy có mười Tướng, mỗi mỗi tướng đều nói: Đó là Tướng thứ nhất của Tâm Như Lai. Chư vị Bồ tát Ma-ha-tát nên nhận biết như thế.” Nay chọn lấy “tâm của Phật, Phật đều chẳng thể nhận biết” nên gọi là Nhất.

-Sớ câu: “Trong kệ trước, tức tùy theo gốc là nhân khác”: Như chúng sinh thì nên dùng Tâm ngay thẳng, theo cõi mà hóa độ. Bồ tát tức dùng nhân của Tâm ngay thẳng chọn lấy cõi của tâm ngay thẳng, tức là tùy theo các chúng sinh, nên dùng quốc độ nào để khởi gốc của Bồ tát, mà chọn lấy cõi Phật v.v… Cho nên viết: “Đạt được cõi Phật như thế” tức là tướng của các cõi nhiễm tịnh v.v… chẳng là một.

-Sớ câu: “Ý phần đáp lại cho rằng: chúng sinh chẳng thấy há được gọi là không có?”

Tức là đồng với Kinh Tịnh Danh, nói: “Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợiphất, vâng theo uy thần của Phật mà suy nghĩ: Nếu tâm của Bồ tát tịnh thì cõi Phật tịnh; Vậy thì đức Thế Tôn của chúng ta đây lúc còn hành đạo Bồ tát, tâm ý há chẳng tịnh, mà sao cõi Phật nầy chẳng thanh tịnh như vầy? Phật biết rõ ý nghĩ ấy nên bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Mặt trời mặt trăng kia há chẳng thanh tịnh sao ? mà kẻ mù chẳng thấy? Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: Chẳng phải vậy, thưa đức Thế Tôn. Sự việc ấy là lỗi ở người mù, chẳng phải ở mặt trời mặt trăng. Phật nói: Này Tôn giả Xálợi-phất! Vì chúng sinh tạo tội lỗi nên không thấy quốc độ của Như Lai trang nghiêm, thanh tịnh, điều đó không phải lỗi của Như Lai. Tôn giả Xá-lợi-phất! Cõi nầy của Như Lai thanh tịnh mà tôn giả không thấy…” Tức là nghĩa ấy.

-Sớ câu: “Cũng có ba nghĩa: Một tức địa Tịnh ý lạc”: Trong đó, ba nghĩa nầy đối hợp với ba nghĩa trước. Do nghĩa một ở trước, về Thân Tha thọ dụng thì hàng trước Địa chẳng thấy. Còn ở đây thì biện giải hạng bước lên ngôi Địa tức thấy. Hai nghĩa sau theo đấy có thể nhận biết.

-Sớ câu: “Đã thâu chuyển đồng thành dị thì cũng gọi là Thể thành ích (dụng)”: Đã cho là Như Lai đem chỗ nhân đồng kia để chọn lấy quả dị, khiến cơ duyên mãn, tức nên thấy chân. Vì thế gọi là Thể thành ích.

-Sớ câu: “Như thuận theo kinh hiện tại (Đường dịch) thì cũng có thể cho hai pháp ấy là chung cho Phật cùng với Cõi”:

Trên là chọn lấy ý của bản kinh (Tấn dịch). Không phân biệt là không sai biệt nên chỉ thuộc về Cõi. Không yêu ghét là căn cứ nơi Tâm nên chỉ thuộc về Phật. Nay xét thẳng vào văn, thì Phật gồm đủ không phân biệt, không yêu ghét. Do không phân biệt nên Tâm Trí bình đẳng. Cõi cũng không phân biệt, không yêu ghét. Do cảnh chỉ là vô tâm tức không phân biệt, thì sao có yêu ghét ? Đó là chữ Phật với hai cách dùng: Phật không phân biệt và cõi của Phật không phân biệt.

-Sớ câu: “Nửa kệ tiếp theo nêu rõ dị là từ ở nơi vật”: Đây là biện minh về nhân của sự thấy khác nhau (dị), là nhân nơi Tâm và nghiệp.

Nửa sau là chính thức nêu rõ về sự thấy khác.

Phần mười: cảnh giới của Phật thâm diệu:

-Sớ câu: “Mười Tín quán viên mãn nên tạo ra cảnh giới của Phật”: Đây là nêu rõ về ý tiếp nối, cũng là biện giải về nghĩa nơi phần sau.

-Sớ câu: “Khởi đầu là Tín, chung cuộc là Trí đều nhờ nơi cảnh giới của Phật”: Văn Thù chủ nơi hai pháp môn:

Một là chủ nơi Tín: Đồng tử Thiện Tài đầu tiên thấy liền phát khởi tâm tin tưởng.

Hai là chủ về Trí: Đồng tử Thiện Tài lần sau thấy đại sĩ Văn Thù thì liền gặp Phổ Hiền.

Mới nhập vào Tín thì cũng tin nơi cảnh giới của Phật. Trí của chủ thể hóa độ cũng chứng đắc cảnh giới của Phật. Cho nên Bồ tát Văn Thù nói kệ đáp.

-Sớ câu: “Đều chẳng phải là chỗ đạt đến của tác dụng nơi Nhân”: Là tóm kết. Đây là tóm kết về cảnh giới với những giới hạn, sai biệt.

“Cũng chẳng phải là đối tượng nhận thức của các bậc thấp”: Là tóm kết chung về hai Cảnh.

-Sớ câu: Tuy nhiên, có ba nghĩa”: Là chính thức giải thích câu kệ thứ tư: “Mà thật không có” “Đối tượng nhập”. Nhưng là dùng câu thứ ba để giải thích, nên đều có chữ “Chứng nhập”. ba nghĩa ấy đều riêng biệt:

Một là dùng lý đối chiếu với sự tỏ ngộ để nói.

Hai là dùng lý đối chiếu với sự để nêu bày. Tức chúng sinh là sự, cùng với lý chẳng phải là “Tức”, nên có chữ nhập (Tất cả chúng sinh nhập). Cùng với lý chẳng phải là khác nên “không chỗ nhập”.

Ba là Chính căn cứ nơi Tâm Cảnh khế hợp mà nói. Nghĩa là, khi khế hợp một cách sâu xa với Cảnh thì chẳng còn tạo ra sự lãnh hội về nhập.

-Sớ từ câu: “tức chỗ sâu xa của sự rộng lớn” tiếp xuống: Là tổng kết về ý của một kệ.

-Sớ câu: “Một là thù thắng v.v…” Tức ba nghĩa về tính chất vô hạn nơi Nhân (Thù thắng, Vi diệu, Rộng lớn) cùng ở trong câu kệ.

-Sớ câu: “Không thể ước lượng”: Là ý nơi kinh Tịnh Danh, quyển thứ ba: Nói về Tuệ không bị ngăn ngại cũng không thể ước lượng.

-Sớ câu: “Sáu là đáp câu hỏi về pháp” văn nơi bản Sớ giải có hai giải thích: Giải thích trước chỉ dung hợp hai Cảnh. Giải thích sau thì Cảnh, Trí cùng dung thông. Trong giải thích trước, nói “Thâu chuyển Lý thành Sự” là môn “Dựa nơi Lý thành Sự”. Lý thấu triệt chỗ biểu hiện của Sự tức là môn “Lý thật tức là Sự”. Chính dùng hai môn nầy tức hiển bày chỗ không sai biệt. Ở đây đã có sự hỗ tương tóm lược để biện minh. Cũng có thể nói: Lý dựa nơi Sự mà hiển bày, tức là môn “Sự có thể hiển bày Lý”. Sự thấu triệt cội nguồn của Lý, tức là môn “Pháp của Sự tức Lý”.

-Sớ câu: “Vì thế, Sự chẳng chờ bị hoại mà luôn là Chân”: Là xác nhận hai câu trên. Đây là xác nhận câu trước, do Sự hoàn toàn thâu chuyển cả Lý. “Chẳng phải Sắc diệt rồi mới là không mà tánh của Sắc tự nó là không”. Câu sau là xác nhận câu “Lý thấu triệt chỗ biểu hiện của Sự”, chẳng đợi ẩn giấu mà lý thường Tục.

-Sớ từ câu: “Chẳng phải chỉ là rộng lớn” tiếp xuống: Là tóm kết. Nghĩa là đời đời xứng hợp với Chân thì mỗi mỗi đều rộng lớn. Lý chẳng phải ở ngoài Sự, đó gọi là chỗ sâu xa hết mực. Lại nữa, Lý biến hiện khắp mọi chúng sinh nên gọi là rộng lớn.

Tức “Chúng sinh tức là Lý” nên gọi là “Hết mực sâu xa”. Đây là tóm kết quy về nghĩa sâu rộng trong kệ tổng quát thứ nhất.

-Sớ từ câu: “Lại nữa, pháp giới là đối tượng được chứng đắc” tiếp xuống: Là phần hai giải thích, dung thông cả Cảnh, Trí. Tức cứu cánh không sai biệt, nên ở đây có hai Hướng: Hướng lên trên thì dung thông hai cảnh giới. Hướng xuống dưới là dung hợp chỗ thấu đạt của chủ thể, đối tượng. Cho nên viết là: Xét tìm kỹ về gốc thì cũng không sai biệt, tức chủ thể-đối tượng khế hợp cùng một pháp giới duy nhất.

-Sớ từ câu: “Do tất cả mọi thứ ngôn ngữ, âm thanh sai biệt” tiếp xuống: Là thông tỏ chỗ vướng mắc do vấn nạn. Tức là có vấn nạn: “Trên hỏi về thuyết pháp, còn ở đây thì đáp về sự thấu tỏ của Trí. Há được xem là giống nhau?” Nên nay giải đáp: “Âm thanh của chỗ thấu tỏ là chỗ thâu tóm của âm thanh nơi Phật chuyển pháp luân. Tùy âm thanh của từng loài vì đấy mà thuyết pháp”. Phẩm Xuất Hiện nói: “Thật tướng của âm thanh tức là Pháp luân”. Phẩm Hiền Thủ cũng nêu:

“Hay khiến mọi âm thanh ba cõi

Người nghe đều là tiếng Như Lai.”

Ở trên, văn nơi bản Sớ giải viết: “Tùy nơi Tánh, tùy theo Tướng thảy đều thấu rõ. Thấu tỏ tướng sai biệt, theo chỗ thích hợp mà sử dụng.

Thấu tỏ Thể của Tánh là dung thông nên một thâu tóm tất cả.

-Sớ câu: “Tám Trí tức là Thể của Tâm”: Câu nầy là nêu rõ về Trí nói ở trước, tức là đối với pháp của đối tượng được chứng đắc biện minh về Trí của chủ thể chứng đắc. Nay thì nêu thẳng việc nhận biết chỗ linh diệu nơi Chân tâm hẳn là khác với cây đá, tức thông hợp chỗ chứng đắc của chủ thể, đối tượng.

-Sớ từ câu: “Phân biệt rõ thì chẳng phải là chân tri” tiếp xuống: Là cùng kết hợp hai Tông Thiền nam, bắc để thông tỏ ý nơi kinh. Câu nầy tức là nhằm dứt trừ bệnh của Nam tông (Thiền). Tức Thức thì lấy tính chất “Phân biệt rõ” làm nghĩa. Nhận thấy theo hướng phân biệt về Tâm Tánh cũng chẳng phải là chân tri. Kinh Tịnh Danh nói: “Dựa nơi Trí, chẳng dựa nơi Thức”. Nghĩa là, phân biệt gọi là Thức, không phân biệt gọi là Trí. Nay, có Thức của sự phân biệt, nên chẳng phải là chân tri. Chân tri thì chỉ “Vô niệm” mới thấy.

-Sớ câu: “Dấy khởi trong chớp mắt cũng chẳng phải là Chân tri”: Đây là giải thích câu thứ hai, nhằm dứt trừ bệnh của Bắc tông (Thiền). Bắc tông cho rằng “Chẳng khởi tâm” là huyền diệu. Do “Tập khởi” gọi là Tâm. Tâm dấy khởi, Tâm xem xét tức là vọng tưởng nên chẳng phải là Chân tri. Do vậy, chân tri sắt phải quên Tâm, bỏ soi chiếu, mọi nẻo 2 ngôn từ, tư duy đều dứt. Cho nên Thắng Thiên Vương Bát-nhã hỏi:

-Thế nào gọi là Bồ tát tu học Bát-nhã sâu xa, thông đạt pháp giới?

Phật bảo Thắng Thiên Vương:

-Đại vương! Đó là như thật.

-Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là như thật?

-Đại vương! Như thật tức là chẳng biến đổi.

-Thưa Thế Tôn! Thế nào là chẳng biến đổi?

-Đại vương! Đấy gọi là Như như.

-Thưa Thế Tôn! Thế nào là Như như ?

-Đại vương! Đây thì chỉ có thể dùng Trí để nhận biết, chẳng phải ngôn từ có thể nêu bày! Lìa tướng, vô tướng, xa lìa mọi nẻo tư duy lường tính, vượt quá chỗ quán biết về Cảnh. Đó gọi là Bồ-tát tu tập Bátnhã hết mực thâm diệu, thấu đạt Pháp giới sâu rộng”.

Giải thích: Chỉ do tâm vô niệm, xứng hợp với chỗ ấy mà nhận biết, tức đồng với tri kiến của Phật.

Kinh viết: “Như thật tức là Vô niệm.” Là dùng tâm vô niệm đối với mọi kiến văn, giác, tri để nhận biết về tất cả pháp của Sự. Tâm luôn tịch tĩnh tức là Như Lai tạng.

-Sớ câu: “Thể của Tâm là lìa niệm, chẳng phải là có niệm để rồi không”: Là cùng kết hợp cả hai Tông Bắc, Nam (thiền) để giải thích câu thứ ba. Do tông chỉ của Bắc tông với tông chỉ “Lìa niệm”. Nam tông đả phá, cho rằng: “Lìa niệm tức có niệm để có thể lìa. Vô niệm thì từ gốc vốn là không. Lìa niệm như lau chùi gương. Còn Vô niệm thì như gốc vốn thanh tịnh.” Nay vì đấy mà kết hợp. Luận Khởi Tín đã nói: “Thể của Tâm là lìa niệm.” Cũng là gốc tự lìa, chẳng phải là có niệm để có thể lìa. Cũng giống như không niệm để có thể không, tức Tánh thanh tịnh, chẳng phải do xem biết xong mới thanh tịnh. Như cái xem của chẳng xem thì cũng như cái niệm của không niệm, tức là niệm nơi Chân như.

-Sớ từ câu: “Chúng sinh cũng có mê lầm che chắn nên chẳng nhận biết” tiếp xuống: Là giải thích câu thứ tư. Tức dùng ý nơi kinh Pháp Hoa: “Khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật”. Ấy là, mở ra, xua trừ mọi chướng ngại của phiền não, hiển bày chỉ rõ chân lý khiến tỏ ngộ Thể không, chứng nhập Thể của Tâm. Đại ý là như thế. Nhưng ở đây có nhiều cách giải thích, như đã nêu dẫn ở phần trước. Nay lại lược nêu cách giải thích của Thiền môn. Bắc tông cho rằng: Cái dụng của Trí là Tri (biết). Cái dụng của Tuệ là Kiến ( thấy). Thấy Tâm chẳng dấy khởi gọi là Trí. Trí là chủ thể nhận biết (Năng tri). Năm căn chẳng động là Tuệ. Tuệ là chủ thể nhận thấy (Năng kiến), là Tri kiến của Phật. Tâm chẳng động là Thai. Khai là mở ra cửa phương tiện. Sắc chẳng động là Thị. Thị là chỉ rõ Tướng Chân thật. Ngộ là vọng niệm chẳng sinh. Nhập là muôn cảnh luôn vắng lặng.”

Nam tông nói: “Chúng sinh với Trí của Phật do vọng phân cách nên chẳng thấy. Chính đạt được Vô niệm, tức tự tánh xưa nay vốn tịch tĩnh là khai. Trên thể tịch tĩnh tự có Trí gốc. Do Trí gốc nên có thể nhận thấy tự tánh xưa nay là thanh tịnh, gọi là Thị. Đã có được chỗ chỉ rõ, tức thấy bản tánh của Phật cùng chúng sinh xưa nay không khác, là Ngộ. Sau khi ngộ thì đối với tất cả các pháp Hữu vi, Vô vi, có Phật không Phật luôn thấy về bản tánh. Tự biết vọng tưởng là không có tự tánh tự rõ về Thánh Trí nên là Bồ tát. Chỗ biết của Thánh trước chuyển cùng truyền trao, tức là nghĩa Nhập.”

Hai kiến giải trên đều là một Lý. Còn phần giải thích tóm lược ở trước là ý của bản Sớ giải.

-Sớ từ câu: “Tức dụng của Thể nên dùng phần nhận biết để nêu câu hỏi” tiếp xuống: Là lãnh hội chỗ trái nhau. Nghĩa là câu hỏi trước là hỏi về Tri (nhận biết). Nay đáp lại về Tánh thanh tịnh, đều không có nói Tri. Vậy do đâu mà lãnh hội, dung hợp? Vì thế mà ở đây cần lãnh hội. Thủy Nam thiện tri thức nói: “Tức dụng của Thể gọi là Tri. Tức thể của dụng gọi là vắng lặng.” Như lúc của đèn thắp sáng, tức là ánh sáng. Tức lúc của ánh sáng tức là đèn, đèn là Thể, ánh sáng là dụng, không hai mà là hai. Một chữ Tri mà là “Cửa của mọi thứ vi diệu”. Cũng là lời của Thủy Nam.

Từ câu: “Như có thể làm rỗng lặng tự thân tâm mình” tiếp xuống: Là khuyến khích tu tập. Tức có thể dùng cái thần để lãnh hội, khó có thể lấy sự mà cầu tìm. Có thể lãnh hội như thế thì chẳng phải chỉ đối với Không, Thức mà thôi, cho đến đối với Ngã cũng có phần.

-Sớ câu: “Chín là đáp lại phần hỏi về chứng đắc”: Văn nơi bản Sớ giải gồm ba phần:

Một: Nêu lên.

Hai: Giải thích về Tướng.

Ba: Tóm kết, chỉ rõ.

-Sớ từ câu: “Chẳng phải là sự trói buộc của Nghiệp” tiếp xuống: Là phần hai, giải thích về Tướng. Phần nầy gồm ba chi tiết:

Thứ nhất: bảy chữ trong Kinh chỉ rõ Thể của ba đức (chẳng nghiệp, chẳng phiền não không vật).

Thứ hai: Từ câu: “Không chốn trụ” tiếp xuống: Dùng tám chữ để loại trừ tướng của ba đức. (Không trụ xứ, không chiếu, không sở hành.)

Thứ ba: Dùng câu kệ thứ tư để biện giải về công năng của ba đức (Giải thoát, Bát-nhã, Pháp thân)

-Sớ từ câu: “Do không dụng” tiếp xuống: Là giải thích câu kệ thứ tư. (Bình đẳng hành thế gian) Kết hợp với Thể Tướng nêu trên là không hai nên công dụng bao trùm khắp.

-Từ câu: “Đó gọi là ba đức” tiếp xuống: Là phần ba, tóm kết, chỉ rõ về ba đức. Nghĩa rộng đã nêu bày trong phần Huyền đàm. Phần dưới, nơi Phẩm Xuất hiện sẽ lại giải thích lần nữa. Ở đây chỉ tóm lược nêu văn để đối chiếu.

-Sớ từ câu: “Nhân vào cái gì để hiện bày” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải có ba phần:

Một: Ý nối tiếp, có thể nhận biết.

Hai: Từ câu: “Chỗ hiện bày có mười” tiếp xuống: Là giải thích văn.

Ba: Từ câu: “Lại nữa, ở đây cũng có thể” tiếp xuống: Là lãnh hội lần nữa văn ở phần trước.

Trong phần hai, nói “Trì giới tức là chỗ hơn kém của hàng Trời, người”: Là như địa thứ hai đã nêu.

-Sớ câu: “Mười là thuyết pháp thì phước báo gần là chỗ ở thanh tịnh, thông minh, trí tuệ sắc bén v.v…”: Đây đều là văn của Trí Luận.

Quyển thứ mười ba của Luận dẫn Kinh Dục Vương nói: “Dục Vương thường cúng dường chúng Tăng. Có một vị Tỳ kheo nơi miệng luôn có mùi thơm phức. Dục Vương hoài nghi, cho thử nghiệm mới biết chuyện có thực. Hỏi về nguyên do. Tỳ kheo đáp: Đó là quả báo của việc thuyết pháp từ thời Phật Ca Diếp. Lại hỏi: Quả báo của việc thuyết pháp chỉ như thế thôi sao? Đáp: Đây là phước báo trước mắt, bước đầu.

Hỏi: Quả báo thì như thế nào? Nhân đấy nói kệ đáp:

“Thân đẹp, danh tiếng lớn

Được vui và cung kính

My quang như nhật nguyệt

Nên thảy đều yêu thích.

Biện tài luôn nổi danh

Dứt sạch mọi kiết sử

Khổ hết, đạt Niết-bàn

Như vậy gọi là mười”.

Đây tức là phước báo của thuyết pháp.

-Sớ câu: “Lại nữa, ở đây cũng có thể phối hợp với mười sự thâm diệu”: Là lãnh hội lần nữa phần văn ở trước. Tức chẳng phải sự giải thích ấy hiện bày sự việc không có lý do. Mà lý ắt hợp như thế. Chỉ do văn cùng tóm lược, suy xét kỹ thì cũng có thể thấy rõ.

Phẩm 11: TỊNH HẠNH

-Sớ Câu: “Một là ý nối tiếp”: Phần nầy có ba:

Một: Đối hợp chung cả phần trước, sau để biện giải về ý nối tiếp. Nghĩa là, muốn thành tựu quả vị vi diệu là sau mười Trị ở sau. Cho nên Phẩm trước biện minh về sự lãnh hội (Giải), tức là đối với phẩm trước mà nói.

Hai: Từ câu: “Lại nữa, trước thì biện minh hội nhập Lý, quán Hành” tiếp xuống: Đây cùng ý thứ ba đều là đối với hai phần ở trước. Tức dùng Hành đối với Hành thì chính là Lý, Sự chẳng đồng.

Ba: Tức dùng Nguyện đối với Hành thì hai phẩm hoàn toàn khác biệt. Cho nên phẩm trước gồm đủ hai nghĩa Hành, Giải, phẩm nầy gồm đủ hai nghĩa Hành, Nguyện.

-Sớ câu: “Tiếp theo là giải thích tên gọi của Phẩm”: Gồm hai:

Một: Chính thức giải thích.

Hai: Từ câu: “Đạt được ý nầy” tiếp xuống: Là biện giải về công năng của Hành.

-Sớ từ câu: “Là tâm của Văn Thù” tiếp xuống: Là trở lại xác nhận hai pháp trên. Song, như nơi Phẩm Hiền Thủ (phẩm mười hai) thì ý ban đầu phát khởi theo văn có thể nhận biết.

-Sớ câu: “Bốn là giải đáp chỗ vướng mắc” Phần nầy gồm hai:

Một: Vướng mắc về phần có Nguyện mà không có Hành.

Hai: Biện giải về vướng mắc sở hành chẳng phải là chân thật.

Trong phần một gồm hai chi tiết:

Một là nêu câu hỏi.

Hai là giải đáp.

Nơi phần đáp lại gồm hai:

-Trước là nêu ra.

-Sau là tóm kết.

Trong phần nêu ra lược có sáu lớp:

Một: Hành về Sự Lý không ngăn ngại.

Hai: Từ câu: “Do Nguyện dẫm khắt Trí” tiếp xuống: Là Hành theo Bi, Trí không ngăn ngại.

Ba: Từ câu: “Gặp cảnh thuận nghịch” tiếp xuống: Là Hành theo chỉ, Quán cả hai cùng hiện bày.

Bốn: Từ câu “Lại đối nơi Cảnh của Sự” tiếp xuống: Là Hành theo ba Quán một Tâm.

Năm: Từ câu: “Chỗ tạo thành Hành” tiếp xuống: Là Hành theo mười độ cùng tu.

Sáu: Từ câu: “Đều nguyện lợi sinh” tiếp xuống: Là Hành theo bốn thệ nguyện rộng lớn.

Trong sáu Hành nêu trên thì ba lớp trước mỗi lớp đều có ba nghĩa.

Ba nghĩa của lớp thứ nhất (Hành theo Sự Lý không ngăn ngại) là:

Thứ nhất: Là Hành theo nẻo tiếp cận với duyên, tạo tu tập về sự.

Thứ hai: Hành thep nẻo tiếp xúc Cảnh chẳng mê lầm nơi Lý.

Thứ ba: Cùng đạt cả Lý, Sự, tức Hành theo Sự Lý không ngăn ngại.

Ba Hành hàm chứa trong lớp Hành thứ hai là:

Một: Hành theo đại bi tức Bi hành.

Hai: Đầu tiên, đối nơi bi mà Hành, gọi chung là Trí Hành.

Ba: Hành theo Bi, Trí cùng chuyển biến.

Trong lớp Hành thứ tư (Hành theo ba Quán một Tâm) có năm Hành riêng” Nêu rõ về Không, Giả, Trung là ba. Ba quán Không theo thứ lớp như trên là bốn. Ba quán một Tâm là một Hành là tức hành thứ năm.

Ba lớp Hành thứ ba, năm, sáu thì đều như ở văn có thể nhận biết.

Ba Quán thì như trước sau đã nêu.

-Sớ câu: “Âu Hòa, bước lên nẻo Sự”: Âu Hòa Câu Xá La, đây gọi là “Phương tiện thiện xảo”. Tức văn của đại sư Tăng Triệu nơi bài Tông Bản Luận. Luận viết:

“Phương tiện (Âu Hòa), Bát-nhã, là sự xứng hợp của Trí tuệ lớn. Thật tướng của các pháp gọi là Bát-nhã. Đã có thể thấy được thật tướng của các pháp, nhưng chẳng theo hình tướng ấy mà chừng đắc, là nhờ vào công dụng của phương tiện. Hóa độ thích hợp theo căn cơ của chúng sinh, đó là phương tiện. Dù ra vào nơi sinh tử nhưng chẳng bị nhiễm phiền não cấu uế là nhờ diệu lực của Bát-nhã. Thế thì, cửa của Bátnhã là quán Không, cửa của phương tiện là bước lên nẻo Có. Bước lên nẻo Có mà chưa từng mê chấp, nên thường ở nơi Có mà chẳng bị cấu nhiễm. Chẳng nhàm chán cái có mà quán về Không, nên quán không mà chẳng chứng đắc. Đó gọi là diệu lực của một niệm, trong ấy gồm đủ cả trí tuệ và phương tiện. Với diệu lực của một niệm đã kết hợp đầy đủ cả Thật trí và Quyền trí. Người dụng công tư duy thì có thể lý giải, lãnh hội rõ ràng.”

-Sớ câu: “Hai là trong phần nêu bày về câu hỏi”: Văn nơi bản Sớ giải gồm hai:

Một: Nhận xét tổng quát.

Hai: Từ câu: “Trong một đoạn nầy” tiếp xuống: Là nhận định, phân biệt. Phần nầy tự có ba ý, có thể nhận biết.

Nơi ý thứ ba, từ câu: “Do khéo tu tập bảy Giác ý” tiếp xuống: Là giải đáp chỗ vướng mắc. Tức có vấn nạn: “Trong ý thứ nhất, các đoạn hai, bốn, sáu thì cả ba đều nêu rõ về Nhân. Thế sao nay nơi mười đoạn đều gọi là Quả?” Nên vì đấy mà cần thông tỏ. Do căn cứ nơi Tướng được hiển bày đối chiếu với Bồ đề, Niết-bàn, nên ba đoạn ấy là Nhân. Là đầu mối của sự thành tựu nơi mười đoạn kia nên được gọi là Quả.

Từ câu: “Cho nên đều gọi là làm thế nào” tiếp xuống: Là giải thích câu “Làm thế nào để được”.

Từ câu: “Mười câu hỏi ở phần đầu đối chiếu với phần sau” tiếp xuống: Là trở lại thông tỏ chỗ vấn nạn. Hỏi: “Mười đã là nhân. Do đâu phần nhận xét ở trước cho rằng: Bồ tát Trí Thủ nêu đức, trưng dẫn nhân?” Ý của phần giải đáp có thể nhận biết.

Tức Bồ tát Trí Thủ nêu câu hỏi chung về đức của Nhân Quả. Còn đại sĩ Văn Thù thì nêu tổng quát về việc tiếp cận với duyên theo nguyện thiện xảo, tức đều thành tựu.

– Sớ từ câu: “Nay, một là mười câu…” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải phân làm ba:

Một: Dựa theo hướng chung riêng để giải thích.

Hai: Giải thích quả trước nhân sau.

Ba: Dùng câu văn hiện tại đối chiếu với các thứ phiền não để giải thích.

Một: Tức mười một đoạn đều là Quả được thành tựu, gồm luôn ý thứ ba trong phần nhận định, phân biệt. Mười câu hỏi đầu là chủ thề thành tựu. Mười đoạn tiếp theo là đối tượng được thành tựu. Từ sau nhắc ngược lại để thành mười Quả. Xét theo thứ tự để giải thích văn. Nghĩa là, câu hỏi một, do ba nghiệp không lỗi lầm, nên được quả thứ mười một là tôn quý, siêu vượt, thù thắng. Câu hỏi hai, ba nghiệp không bị tổn hại thì đạt được quà thứ mười là có khả năng tạo mọi lợi ích. Câu hỏi ba thành quả thứ chín. Câu hỏi bốn thành quả thứ tám. Câu hỏi thứ năm thành quả thứ bảy. Câu hỏi thứ sáu thành quả thứ sáu. Câu hỏi thứ bảy thành quả thứ năm. Câu hỏi thứ tám thành quả thứ tư. Câu hỏi thứ chín thành quả thứ hai. Câu hỏi thứ mười thành quả thứ ba.

Cũng có thể như phần tiếp theo: Giống như bước lên Cảnh mà không hề bị nhiễm nên thành tựu các Tuệ. Trí là người dẫn dắt đi trước nên thành tựu pháp khí. Trong đó tăng thêm chữ để giải thích văn. Như nói: Không giận dữ, gây tổn hại là dùng giận dữ để giải thích tổn hại. Dùng “Bước lên Cảnh” để giải thích “Không bị cấu nhiễm”. Căn cứ nơi Thể để giải thích “Thanh tịnh” v.v… Suy xét kỹ thì thấy rõ.

– Sớ từ câu: “Lại do mười đoạn sau có thể thành tựu” tiếp xuống: Là phần hai, giải thích quả trước, nhân sau. Do mười câu hỏi đầu là Quả, mười đoạn với một trăm câu sau là Nhân, nên gọi là “Hoàn toàn không lỗi lầm. Chính là pháp Bất cộng của Phật.”

“Hoàn toàn không có lỗi lầm v.v…” thì chữ vân vân là chỉ cho chín câu tiếp sau như ba nghiệp không bị tổn hại v.v…

Nói “Bất cộng” tức là mười tám pháp Bất cộng của Phật. Đó là:

Một : Thân nghiệp không lỗi lầm.

Hai: Âm thanh không vội vàng, nóng nảy.

Ba: Không có các thứ, các loại tưởng.

Bốn: Không có Tâm bất định.

Năm: Không có niệm quên mất.

Sáu: Không có sự chẳng chọn, bỏ.

Bảy: Ý chí không hề thối chuyển.

Tám: Niệm không hề thối chuyển.

Chín: Tịnh tấn không thối chuyển. Mười: Định không hề giảm.

Mười một: Trí tuệ không hề giảm.

Mười hai: Giải thoát không hề giảm.

Mười ba: Thâm nghiệp theo sự dẫn dắt đi trước của trí mà chuyển.

Mười bốn: Ngữ nghiệp theo sự dẫn dắt đi trước, của trí mà chuyển biến.

Mười lăm: Ý nghiệp là sự dẫm dắt đi trước, theo trí nà chuyển biến.

Mười sáu: Nhận biết về quá khứ không chấp trước, không bị ngăn ngại.

Mười bảy: Nhận biết về vị lai không vướng mắc, không bị ngăn ngại.

Mười tám: Nhận biết về hiện tại không vướng mắc, không bị ngăn ngại.

Nay dùng mười câu hỏi của phần đầu (Bồ tát Trí Thủ hỏi) đều thâu tóm chung về mười tám pháp Bất cộng nầy. Nghĩa là hai câu đầu là ba pháp bất cộng đầu (1,2,3) do ba nghiệp không có lầm lỗi. Hai câu kế (3,) tức bất cộng bốn, năm, sáu. Do có niệm định tuệ không thể bị hủy hoại, nên cả ba đều nói không có. Câu năm sáu tức bất cộng bảy tám, chín. Câu bảy tức Định, Tuệ, Giải thoát (10, 11, 12). Câu tám, chín tức là ba bất cộng sau cùng (16, 17, 1). Do ba đời không chấp trước không ngăn ngại nên nói thanh tịnh không nhiễm. Câu mười tức bất cộng (13, 1, 1). Trí là người dẫn đường, nên chuyển theo trí. Vì thế sớ nói: Vĩnh viễn không sai lầm v.v… chỉ có bất cộng của Phật. Nay dựa theo từng phần nên làm nhân sau.

-Sớ từ câu: “Lại nữa, trong chín câu sau” tiếp xuống: Là phần ba, dùng cân văn hiện tại đối chiếu với phiền não để giải thích. Do phá trừ sáu thứ phiền não căn bản mà thành chín câu nầy:

-Nghi thâu tóm ba câu.

-Tham thâu tóm hai câu.

Bốn thứ còn lại ( Sân, Si, Mạn, Ác kiến) mỗi thứ thâu tóm một câu, nên sáu thứ thâu tóm chín câu.

-Sớ câu: “Một là Quả dị thục”:

Luận Câu Xá, phần Hiển Tướng Tụng viết: 

“Dị thục, pháp vô ký

Hữu tình, Hữu ký sinh.

Đẳng lưu giống tự nhân

Ly hệ do Tuệ tận.

Như nhân lực kia sinh

Gọi là quả Sĩ dụng

Trừ pháp hữu vi trước

Đó là quả Tăng thượng.”

Giải thích: Hai câu đầu là Tướng của quả dị thục. Chỉ là “Vô phú vô ký”, chẳng chung cho hàng “Phi tình”. Theo chỗ chiêu cảm của thiện ác gọi là “Hữu ký sinh”.

-Câu tiếp theo là Tướng của quả Đẳng lưu. Giống nơi đồng loại là nhân của chính mình cùng biến hành.

-Câu tiếp theo (câu bốn) là Tướng của quả Ly hệ. “Do Tuệ tận”: Tuệ tức lựa chọn, tận tức diệt hết. Nghĩa là sự “Trạch diệt” ấy là chỗ hiển bày do lìa mọi trói buộc của phiền não. Dùng “Trạch diệt” để giải thích quả Ly hệ.

Hai câu tiếp theo (câu năm,sáu) là Tướng của quả Sĩ dụng. Như pháp được sinh ra do Thế lực nào đó. Ví như nhờ tâm lực của địa dưới phát sinh ra định hữu lậu vô lậu của địa trên. Cho đến nhờ tâm lực thanh tịnh nơi tĩnh lự phát sinh ra các quả ly hệ v.v… của chứng đắc biến hóa tâm vô ký. Đó gọi là sĩ dụng của bất sanh. Hoặc nhân nơi Đạo lực mà chứng đắc, thì cũng gọi là quả Sĩ dụng.

Hai câu sau cùng là tướng của Tăng thượng. Pháp hữu vi sinh ra pháp khác không chướng ngại gọi là quả Tăng thượng. Trừ pháp hữu vi trước là trừ pháp hữu vi đã sanh ra. Nghĩa là quả đối chiếu với nhân hoặc cùng lúc, hoặc sau tức nhiên không có quả trước nhân sau cho nên nói “Trừ”. Trừ những hữu vi có trước này, các hữu vi còn lại là tướng của quả tăng thượng.

Luận nói: Quả Tăng thượng.

Hỏi: Vậy có khác với quả sĩ dụng thế nào?

Đáp: Quả Sĩ dụng chỉ đối với tác giả (làm ra) còn quả Tăng thượng gọi chung được cho các thứ khác. Như vật do thợ làm ra, và chủ thể người thợ đối nhau đều có hai nghĩa quả Tăng thượng và Sĩ dụng. Nhưng đối với những thứ không phải từ thợ làm, thì chỉ là quả Tăng thượng. Không phải thợ, không tạo ra nên không phải Sĩ dụng.

Luận Du Già quyển ba mươi tám nói: Quen tập thói xấu, nên ưa thích an trụ vào điều xấu là Quả đẳng lưu. Hoặc tương tợ nghiệp trước đây, quả sau chuyển theo đó.

Giải thích: Đây có hai nghĩa giải thích về Đẳng lưu. Nghĩa sau là quả tương tợ nhân trước đây là ý củ luận Câu xá. Như do nhân sát sinh mà chĩu quả yểu mệnh v.v… Nghĩa trước là trong quả sáu thức hành nhân tương tợ nhân trước đây. Như đời trước sát sinh đời nay cũng ưa sát sinh v.v…

Luận Du Già lại nói: Dùng đạo diệt hoặc là quả Ly hệ. Do bốn nhân công cùng làm mà hoàn thành đạt được tài lợi ruộng vườn v.v… thì quả là quả Sĩ dụng. Hoặc Nhãn thức là quả tăng thượng của Nhãn căn v.v… Thân thể không tổn hoại là quả Tăng thượng của Mệnh căn. Hai mươi hai căn mỗi thứ đều được quả Tăng thượng quả v.v…

– Sớ câu: “Luận du Già giải thích đầy đủ”: Đến phần đầu của Hồi Hướng thứ sáu sẽ giải thích rộng. Tức có tám thứ dị thục, ở đây chia thành mười câu:

Một: “Chỗ sinh đời nay được đầy đủ” là nêu rõ chung về nghĩa tương đương với quả về tài, vị (của cải, địa vị) Hai: Tức quả về chủng tộc.

Ba: Cũng là quả về tài vị.

Bốn: Tức là quả về sắc thân lớn lao.

Năm: Quả về tánh của giống người không phải hạng bất nam, bất nữ v.v…

Sáu: Quả về lời nói tin tưởng, ý do niệm đầy đủ.

Bảy: Quả về danh dự.

Tám: Nghĩa tương đương với thọ mạng. Lìa lỗi lầm, tu tập nên có thọ mạng lâu dài.

Chín: Quả về sức mạnh lớn.

Mười: Cũng là về sức mạnh lớn. Sức mạnh của Trí tuệ là giác ngộ.

-Sớ từ câu: “Lại nữa, Vô úy…” tiếp xuống: Là tùy chỗ khó mà giải thích lần nữa.

-Sớ từ câu: “Lại như mười sự nầy” tiếp xuống: Là căn cứ nơi Pháp.

Nói “Sinh nơi nhà Phật”: Tức Tâm Bồ đề là nhà. Chữ “Đẳng” (Trong câu “Là chốn sinh đầy đủ v.v…”) là chỉ cho các câu còn lại. Tức: Hai là chủng tộc, tức có đủ chủng tánh của Phật, nghĩa là tự tánh, trụ tánh là chỗ thành tựu do tu tập. Ba nói rõ nhà tức Chân như là nhà. Cũng là ngôi nhà thứ tư. Bốn là ngôi nhà như bảy địa. Nhà thứ tư nầy nêu rõ việc thấy Phật tánh, như thấy Sắc. Kinh Niết-bàn có câu: “Phật tánh có hai: Một là Sắc; Hai: Chẳng phải là Sắc. Như lai vốn thấy Phật tánh đó là sắc. Năm là tướng, tức có Bi, Trí v.v… là tướng của Bồ tát.

Năm câu còn lại thì Kinh tự căn cứ nơi Pháp, có thể nhận biết.

-Sớ từ câu: “Lại đầy đủ” tiếp xuống: Là giải thích lần nữa về chữ “Đầy đủ ”. Trên là căn cứ theo sự gồm đủ của chiều ngang (không gian) là đầy đủ. Nay thì căn cứ theo chiều dọc (thời gian) để nói.

-Sớ câu: “Tức là chủng tánh”: Tức là Chủng tánh vị. Do nơi Tập chủng hợp với Tánh chủng, mới gọi là Chủng tánh. Chủng của Tánh tức là Tự Tánh, trụ tánh là nhân chính. Tánh tức là Tánh nơi Đệ nhất nghĩa Không của Niết-bàn. Tập là mới huân tập, là Tánh của sự tu tập mà thành. Quyết định đối với nhân của Phật gọi là Chủng tánh. Phần dẫn chứng có thể nhận biết.

Nói “Nhiếp Đại thừa Luận thích của Bồ tát Vô tánh”: Tức Luận ấy, quyển thứ tám, giải thích về Nhân duyên, nói:

“Nhân duyên của các Bồ tát, tức có sự huân tập của ngôn từ, kiến văn. Là trí không phân biệt cùng tác ý đúng như lý”. Trong phần giải thích Luận nói: “Nhân tức là nghĩa chủ thể tạo ra nhân duyên. “Có ngôn từ” tức là âm thanh, ngôn từ của Đại thừa. “Kiến văn” tức sự lắng nghe, lãnh hội. Do đấy dẫn đến công năng sai biệt gọi là Huân tập. Do ở đấy làm nhân, là chỗ sinh ra ý niệm, ngôn từ, thuận theo lý thanh tịnh, gọi là tác ý đúng như lý.”

-Sớ câu: “Nhiếp Luận nêu bày rộng”: Tức Nhiếp Luận, phẩm thứ bảy, Luận Du Già quyển thứ bốn mươi lăm, nêu rõ trong ngoài đều có sáu phương tiện, đây tức là phương tiện thứ sáu, thuộc bên trong.

-Sớ câu: “Các Luận Du Già, Khởi Tín…”:

Nơi phần trước, Sớ giải quyển thứ nhất của kinh đã dẫn Luận Khởi Tín. Nay lược dẫn Luận Du Già, tức trong phẩm Bồ Tát địa thuộc quyển thứ bảy mươi bảy. Luận ấy cũng dẫn kinh Giải Thân Mật: “Bồ Tát Từ Thị hỏi đức Thế Tôn: Như Lai nói có bốn thứ “Cảnh sự” của đối tượng được duyên:

Một là, “Cảnh sự” của đối tượng được duyên có phân biệt ảnh tượng.

Hai là, không phân biệt ảnh tượng.

Ba là, Sự nơi biên vực tận cùng.

Bốn là, “Cảnh sự” của đối tượng được duyên nơi chỗ tạo tác đã hoàn thành.

Vậy bốn Cảnh sự của đối tượng được duyên nầy có bao nghiêu thuộc về Chỉ? Có bao nhiêu thuộc về Quán? Có bao nhiêu thuộc về cả chỉ, Quán? Đức Thế Tôn đáp: “Cảnh sự” của đối tượng được duyên thứ nhất (có phân biệt) là thuộc về Quán. “Cảnh sự” của đối tượng được duyên thứ hai (không phân biệt) là thuộc về Chỉ. Hai “Cảnh sự” sau là cùng thuộc về cả Quán và Chỉ”.

Giải thích: “Cảnh sự” một tức là Sự. Hai tức là Lý, nên Trí không phân biệt (chủ thể) duyên (đối tượng). Ba, Bốn là chung cả Sự, Lý… Nay chọn lấy một nghĩa nên không nói về, trái, dùng để biện minh về mười lớp (Chỉ, Quán), từ thô đến tế, từ cạn tới sâu. Hai lớp đầu là Chỉ, Quán hành riêng biệt. Một tức phẩm Xa-ma-tha (Chỉ) nơi Luận Du Già. Hai tức phẩm Tỳ Bát xá na (Quán). Tám lớp tiếp theo đều là phẩm “Song vận”. Nhưng lớp ba chính là cả hai cùng vận hành đối với lớp thứ bốn là cả hai cùng ngăn chận.

Đây là cả hai cùng soi chiếu. Nếu chọn lấy nghĩa riêng thì cả hai cùng soi chiếu đều là Quán, cả hai cùng ngăn chận đều là Chỉ. Bốn lớp trước thì dùng Lý, Sự làm chủ thể thành tựu: Chỉ, Quán là đối tượng được thành tựu. Lớp năm thì dung hợp nơi Tâm, Cảnh, tức hợp hai lớp ba, bốn ở trước. Do Sự, Lý của hai lớp đầu tức là đối tượng được dung hợp của hai lớp ba, bốn. Cho nên dứt tuyệt Lý, Sự tức là Cảnh trong môn (lớp) thứ tư. Không ngăn ngại tức là Cảnh trong môn thứ ba. Chỉ, Quán cùng dứt bặt tức là Chỉ, Quán của môn thứ tư. Chỉ, Quán không ngăn ngại tức là Chỉ Quán của môn thứ ba. Hợp hai lớp Chỉ, Quán trên cùng với Cảnh của hai lớp, nêu rõ chẳng phải là một, khác. Chẳng hủy hoại hai tướng nên chẳng là một. Hai Thể không khác nên chẳng là hai. Do vậy, chính dung hợp Tâm, Cảnh mới là môn Sự Lý không ngăn ngại.

Song nói cùng dung hợp, chẳng nói là Quán hay là Chỉ? Đây thì gồm ba ý:

Một: Chỉ dung hợp Chỉ, Quán của hai lớp trước, tức là Chỉ, Quán của môn ấy.

Hai: Sự soi chiếu ở đây hai mà chẳng hai, chẳng hai mà là hai. Tức là ở nơi Quán chẳng chấp giữ các tướng, gọi là Chỉ.

Chẳng hủy hoại một vị mà Tâm, Cảnh cùng thành tức là ngay trên Chỉ.

Ba: Chẳng hoại Tâm, cảnh là một thành tựu tức là Chỉ ngay trên Quán.

Phần sau, lớp năm là Chỉ, Quán trong môn Sư Sự vô ngại. Sáu là môn “Nhất đa tương dung bất động”. Bảy là môn “Chư pháp tương tức tự tại”. Tám là hợp với nghĩa tức nhập ở trước, thành môn “Đồng thời cụ túc”. Chín tức môn “Nhân đà la võng cảnh giới”. Mười là môn “Chủ bạn viên minh cụ đức”. Nhằm hiển bày càng về sau thì sâu hơn lùi dần về trước nên hợp “Tức, nhập”. Phần còn lại có thể theo đấy mà xét. Đây cũng là một chốn mà nêu rõ về Chỉ Quán gồm luôn việc diễn rộng về các huyền môn.

-Sớ câu: “Đều căn cứ nơi lưu chuyển để biện minh”: Do nghĩa thiện xảo chung cho cả trở về, vắng lặng. Cho nên giải thích tổng quát về Thiện xảo gồm có ba nghĩa:

Một: Biết rõ về Lý.

Hai: Biết rõ về Sự.

Ba: Thêm khả năng thâu tóm vô tận. Chính là Sự sự vô ngại gồm luôn “Sự lý không ngăn ngại”. Kinh Đại Phẩm có đoạn: “Tất cả pháp đều hướng tới Sắc. Sắc hãy còn chẳng thể nắm bắt được, thì làm sao có được chỗ hướng tới chẳng phải là hướng tới? Tất cả cùng quy về nơi không. Không của các pháp chẳng khác sắc”. Vì Không nên là ý của Sự Lý không ngăn ngại. Nay dùng một thâu tóm tất cả tức là Sự Sự vô ngại. Thiện xảo đã chia chỗ nầy làm hai nên có bốn nghĩa. Luận Du Già quyển thứ năm mươi sáu, năm mươi bảy đã nói rộng về ba khoa Thiện xảo, hầu hết đều căn cứ nơi tướng để nêu bày, tức là nghĩa thứ hai.

-Sớ câu: “Đoạn thứ tám, được mười loại Vua cung kính, hộ trì là Quả Tăng thượng”: Tức sự tăng thượng của “Hữu lực. Do nơi tự thân gồm đủ các đức khiến các bậc kia hộ trì.

-Sớ câu: “Do nơi diệu lực của bản nguyện làm chỗ nương tựa, cứu giúp…”: Tức nơi Luận Du Già, ý trước là Hành do từ xưa đã tu tập. Nói “do diệu lực của bản hạnh là bậc nhất”: Là ý thứ hai, quả giống với nhân từ trước. Đã là bậc nhất nên là quả của Hành.

-Sớ câu: “Luận Phật Địa quyển thứ bảy có năm lớp giải thích”: Tức, Một là tu tập nhân thiện thì được quả an lạc. Hai là lìa ác, thâu nhiếp thiện. Ba là đời nầy đời khác đều được lợi ích. Bốn là có được lợi ích của thế gian và xuất thế gian. Năm là được lợi ích về phước đức, trí tuệ. Năm lớp trên đều nêu trước là nghĩa sau là lợi.

-Sớ câu: “Dùng một lời để bao quát đủ tất cả” (Nhất ngôn dĩ tế chi). Tức nơi sách Luận Ngữ: “Kinh Thi có ba trăm Thiên, dùng một lời đủ để bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính”. Bao quát gọi là Tế, cũng như là ngăn chận. Nghĩa là quy về nẻo chánh.

-Sớ “Bốn mươi hai bậc”: Đây là căn cứ nơi sự tu tập, hành trì có chướng ngại. Bậc thứ bốnhai là quả vị Diệu Giác. Là đối tượng mong đạt tới, nên không chướng ngại thì chẳng phải là Hành trì.

-Sớ câu: “Chẳng giống với Quyền giáo, Tiểu thừa, nói có, ẩn giấu không”: Tiểu thừa thì cho chỉ Phật là người duy nhất có tánh đại giác. Quyền tức là năm Tánh. Nói “Kia là có, kia là không”, là ở trong phần “Có Phật tánh”. Lại nói chung, riêng khác giống. Chung tức là đều có. Riêng tức có “Có Phật tánh”, có “Không Phật tánh”.

-Sớ câu: “Do vậy, đức tột bậc là gốc của Hạnh”: Tức là ý nơi sách bên ngoài. Sách Hiếu Kinh nói: “Phu tử nói với Tăng Tử: Các bậc Tiên vương có đức cao tột, đạo chính yếu. Dân dùng đấy để được hòa thuận tin kính, trên dưới không oán, ông biết chăng?”

Chú giải: “Đức cao tột là Hiếu đễ. Đạo chính yếu là Lễ nhạc. Cho nên trên đến Thiên Tử, dưới tới người thường đều phải thực hành Hiếu, không có đầu cuối”.

Nói “Gốc của Hạnh”: Tức sách nơi thế gian cho Hiếu là gốc của trăm Hạnh.

Phần tiếp theo dẫn giáo pháp của Phật để chứng minh. Bồ Tát giới cũng nói: “Hiếu dưỡng các bậc sư trưởng, cha mẹ. Hiếu gọi là Giới. Cũng gọi là Chế chỉ.”

-Sớ câu: “Nhưng chỗ nhiễm của hai Thừa chẳng phải là cái nhiễm đích thực”: Tức nơi kinh đại Bát Niết-bàn quyển thứ hai, nam bản. Phẩm Ai Thán, Phật chê trách các Tỳ kheo tu tập ba pháp:

“Các thầy chớ đem tâm thấp kém mà sinh niệm biết đủ. Các thầy nay tuy được xuất gia nhưng đối với pháp Đại thừa nầy chẳng sinh ham mộ. Thân các thầy tuy được mặc Cà sa là y phục đã được nhuộm, nhưng Tâm vẫn chưa được nhuộm pháp Đại thừa thanh tịnh. Các thầy thân tuy hành khất trải qua nhiều nơi mà chưa từng khất thực pháp Đại thừa. Các thầy dầu đã cạo bỏ râu tóc mà chưa vì chánh pháp để diệt trừ các thứ kiết sử. Này các thầy Tỳ Kheo! Nay Như Lai sẽ nêu bày chân thật với các Thầy, Như Lai hiện tại hòa hợp với chúng Đại thừa, Pháp tánh của Như Lai là Chân thật không điên đảo. Vì thế các thầy cần phải tinh tấn, nhiếp tâm, dũng mãnh xô dẹp mọi thứ kiết sử…”

Giải thích: Đây là dùng cho Tiểu thừa. “Phương, đại” hãy còn chưa có thể diệt trừ vô minh của đối tượng được nhận thức (Sở tri chướng). Pháp nhiễm, pháp không, pháp thường trụ vi diệu, nên gọi như thế.

-Sớ câu: “Tức một của năm Thọ”: Là: Một là Thiện lai. Hai là Thượng pháp. Ba là Tam quy. Bốn là Bát kính. Năm là Yết ma. Phần nhiều giải thích không giống nhau. Hầu hết đều dựa vào năm thọ nầy.

-Sớ câu: “Cái chính của quy về là ba nẻo”: Trong phần nêu bày về quy kính ở trước đã diễn rộng xong.

Nói “Đến phần sau sẽ giải thích rõ”: Tức nơi phẩm Minh Pháp. Trước là chỗ quảng diễn của phần “Sao giải”, nên ở đây chỉ rõ là sau.

-Sớ câu: “Hòa thượng đây gọi là Thân giáo”: Là tiếng Phạm của thời trước, tức tiếng Phạn của nước Quy Tư trở đi. Chính gọi là “Ô bađà-da”, Trung hoa gọi là Thân giáo.

-Sớ “Giới có hai thứ”: Dựa nơi Tỳ kheo giới thì năm giới, mười giới, tám giới đều là phương tiện. Chỗ cao tột của năm chúng là pháp tối thắng. Nếu Bồ tát giới là “Cụ túc” thì Tỳ kheo giới cũng là phương tiện. Siêu vượt trên hai Thừa là pháp tối thắng. Chỗ thành tựu của nguyện nêu rõ là quả vị Phật.

-Sớ câu: “Năm điều lợi của dương chi”: Đó là:

Một: Làm mắt sáng.

Hai: Trừ đờm.

Ba: Trừ mùi hôi trong miệng.

Bốn: Làm rõ mùi vị.

Năm: Ăn uống tiêu hóa tốt.

Kinh mới cho là có mười nghĩa.

-Sớ câu: “Trong buổi sớm ngậm nhai “Dương chi” thì sự tịnh uế chẳng còn xen tạp lẫn nhau”: Hai câu nầy hoàn toàn là lời của Thiền sư Vô Hành ở nơi sách “Tây Vực Ký Quy”. Truyện Nam Hải Lý Quy cũng nêu bày rộng về điều này.

-Sớ câu: “Ba khổ, tám khổ cũng điều trừ diệt”: Do sự khổ nơi ba đường dữ đã dứt, nên cái khổ của sinh lão bệnh cũng diệt. Do đoạn trừ phiền não ấy, không tạo mười nghiệp ác, nên không còn cái khổ oán ghét phải gặp nhau. Nhờ diệt trừ phân biệt về tham dục, nên không còn cái khổ mong cầu chẳng đạt được và cái khổ yêu thương phải biệt ly. Từ đây chỉ còn có cái khổ về tử và chấp giữ uẩn. Đến đạo quả Kim cương vô gián với Căn bản trí sẽ đoạn trừ hai thứ khổ đó. Tuy có pháp thiện hữu lậu nhưng lúc này cũng còn tùy thuộc vào Hành khổ. Do được trí thù thắng soi chiếu đồng với Pháp tánh, ở nơi nẻo giải thoát chẳng đợi “Trạch diệt” tự tại lìa bỏ, công sức quy về Kim cương vô gián.

Ở trên là căn cứ theo Pháp tướng mà nói. Chọn lấy Thể chính nơi Trí không phân biệt, gọi là căn bản, do đối chiếu với Gia hạnh mà được gọi tên. Tuy chung cho các quả vị mà hai quả vị Kiến đạo, Kim cương hiểu rõ trội nhất nên tóm lược nêu ra.

Lại có thể căn cứ theo Pháp tánh, do Bản giác là Trí căn bản, vì so với Thủy giác là căn bản. Đây chỉ căn cứ nơi đạo giải thoát, lúc chứng đắc Lý thì cùng với phần căn bản có sự khế hợp sâu xa, nên gọi là đạt được căn bản của Bản giác. Từ đây, vĩnh viễn không còn cái khổ của Tử cùng chấp giữ Uẩn. Tuy đoạn trừ phiền não, chứng đắc lý, lập ra tên hai đạo gọi như thế, nhưng cùng một sát na, Trí đạt được cũng vậy, do đó, đạo quả vô gián lúc đoạn trừ hai thứ chướng của Kiến, Tu, tức là lúc đạo giải thoát đọan trừ.

-Sớ câu: “Một là căn cứ nơi Tuệ của sự hội nhập chân, thấy đạo”: Cũng có hai nghĩa: so sánh đồng với đoạn khổ. Đoạn trừ cái khổ của thân bệnh là nhắc lại chỗ đoạn trừ ở trước. Cùng với phiền não bệnh đó là đối tượng được đoạn trừ. Từ câu: “Nghĩa là tất cả” tiếp xuống: Là nêu ra Thể của đối tượng được đoạn trừ. Thô, trọng tức là Chủng tử. Phân biệt, lựa chọn nơi “Câu sinh” cũng là nhân gần của thân bệnh, chẳng phải là nhân xa. Như quá gần gũi với sắc là nhân xa của thân bệnh. Do tham nên như thế, tức là nhân gần. Nói “Trong một sát na tức thì đoạn trừ” đến phần nói về địa thứ nhất sẽ giải thích rộng. Câu: “Chứng đắc tức thì Chân như, Tứ đế nơi ba cõi” thì đến phần nói về thập Hồi Hướng sẽ giải thích.

-Sớ câu: “Hai là căn cứ nơi Tuệ của tâm Kim cương tức thì đoạn trừ tất cả các phiền não bệnh”: Tức là “Câu sinh”. Trên đây là chỗ chuyển biến, lìa bỏ dựa trên để giải thích dưới, tóm kết xác nhận hai nghĩa trước.