ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH TÙY SỚ DIỄN NGHĨA SAO

QUYỂN 27

Đời Đường, Đại sư Trừng Quán

 

-Sớ từ câu: “Lại nữa, Ở đây cùng nêu ra, hiển bày về cõi Tịnh của Phật với mười tám thứ viên mãn, mười lăm thứ thâu tóm” tiếp xuống: Là phần thứ tư chỉ rõ riêng về môn nghĩa. Văn nơi bản Sớ giải gồm ba phần:

Một: Thâu tóm mười tám thứ viên mãn.

Hai: Thâu tóm nơi Phẩm Thế giới thành tựu.

Ba: Phân biệt, xác định về chỗ chính yếu.

-Trong phần một có bốn chi tiết:

Một là, nêu tổng quát.

Hai là, dẫn ra tên gọi.

Ba là, chính thức thâu tóm.

Bốn là, bàn về chỗ giống, khác.

-Nêu tổng quát: Cùng đem văn của hai Phẩm để thâu tóm mười tám thứ viên mãn.

-Sớ từ câu: “Gọi là thứ mười tám” tiếp xuống: Là chi tiết thứ hai dẫn ra tên gọi. Văn nêu dẫn không theo thứ tự, cùng không có từ viên mãn. Nhưng mười tám thứ đầy đủ là:

Một: Hiển sắc viên mãn.

Hai: Hình sắc viên mãn.

Ba: Phân lượng viên mãn.

Bốn: Phương Sở viên mãn.

Năm: Nhân viên mãn.

Sáu: Quả viên mãn.

Bảy: Chủ viên mãn.

Tám: Phụ dực viên mãn. (Sự hổ trợ giúp sức viên mãn).

Chín: Quyến thuộc viên mãn.

Mười: Nhậm trì viên mãn.

Mười một: Sự nghiệp viên mãn.

Mười hai: Thâu tóm, đem lại lợi ích viên mãn.

Mười ba: Vô úy viên mãn.

Mười bốn: Trụ xứ viên mãn.

Mười lăm: Đường đi viên mãn.

Mười sáu: Thừa viên mãn.

Mười bảy: Môn viên mãn.

Mười tám: Nương tựa, duy trì viên mãn.

-Sớ từ câu: “Thế nào là thâu tóm? tiếp xuống: Là chi tiết thứ ba, chính thức biện minh về sự cùng thâu tóm. Gồm hai phần: Một: Nêu dẫn; Hai: Từ câu: “Ở đây gồm đủ Nhân duyên” tiếp xuống: Là giải thích. Ý của văn trong phần giải thích đều là ý nơi Luận Phật Địa, suy xét kỹ là có thể nhận biết.

Về mười tám tên gọi, hình tướng nêu trên, đến phần Hồi Hướng thứ năm sẽ lại giải thích rộng. Ở đây chỉ nêu lên mười lăm tên gọi ấy thâu tóm cả mười tám thứ kia. Như có vấn nạn thì nêu dẫn kinh để giải thích, dung hợp.

-Sớ từ câu: “Kiếp trụ, chuyển biến, trong mười tám thứ không nói đến” tiếp xuống: Là chi tiết thứ tư bàn về chỗ giống, khác. Về chung, có bốn thứ đồng (giống) dị (Khác). Ở đây có hai môn:

Một: Đồng dị lập danh: Như đã biện minh trong phần đối hợp riêng ở trên.

Hai: Đồng dị khai hợp: Cũng như đã nêu trên. Nhưng ở trên, Thể cùng với Phật trụ đều thâu tóm nơi hai pháp Thanh tịnh, Trang nghiêm thì thâu tóm đối với ba pháp. Tức bốn môn đã thâu tóm mười pháp. Tám môn còn lại mỗi môn đều thâu tóm một pháp. Tức mười hai môn dùng để thâu tóm mười tám pháp, là sự khác nhau về chia, hợp.

Ba là: “Khác nhau về có không”: Tức là kiếp trụ và kiếp chuyển biến giải thích về lý do không. Lược có hai ý:

Thứ nhất: Dùng kia để thâu tóm đây. Nghĩa là Quả thâu tóm kiếp trụ có quả của Cõi, ắt có thời phân của kiếp trụ. Sự nghiệp viên mãn thâu tóm sự chuyển biến ấy. thần thông của Bồ tát, tác dụng của Như Lai đều là sự chuyển biến.

Thứ hai: Chẳng dùng kia để thâu tóm, nên đâu cần phải cho là cố định về mười tám thứ viên mãn. Thêm vào đấy hai pháp để thành hai mươi pháp, là sự viên mãn chính đáng, như dùng sáu thông để thành mười thông.

Từ câu “Nghĩa là kiếp trụ, tận cùng đời vị lai” tiếp xuống Là chỉ rõ về Tướng của hai thứ viên mãn ấy.

Bốn là, từ câu: “Chỗ không sai biệt kia” tiếp xuống: Là nêu rõ chỗ đồng, dị về chung, riêng.

Mười tám sự kia mỗi mỗi đều chẳng giống nhau. Nay, chỗ không sai biệt bao quát chung cả mười tám sự. Do không sai biệt căn cứ nơi sự thâu tóm, dung thông mà nói, nên khiến mười tám sự được mang tên là viên mãn. Tức mười bốn thứ nầy đều dựa nơi Tùy nghi. Do chỗ không sai biệt ấy nên gọi là viên mãn.

Từ câu “Không sai biệt đã đồng” tiếp xuống: Là dựa theo điều đã nêu, phát sinh vấn nạn. Trên cho rằng mười bốn thứ còn lại đều là Tùy nghi, nên gọi là “Mỗi mỗi đều”. Vậy sao kinh nói: “Mỗi mỗi đều không sai biệt”? Nay đáp lại điều ấy, cho rằng: Chỗ không sai biệt là Sự có nhiều thứ. Ở trên, trong kinh nêu rõ: “Cảnh cảnh, cõi cõi, Phật Phật, đời đời, thảy đều dung nhiếp, sự sự cùng hướng về nhau”, tức gọi là “Một một, đều đều thâu tóm, dung hợp” nghĩa là không sai biệt.

-Sớ từ câu: “Nếu đem mười pháp ấy đối chiếu với Phẩm Thành Tựu” tiếp xuống: Là phần hai (phần một là Thâu tóm mười tám thứ viên mãn), thâu tóm nơi Phẩm Thế Giới thành tựu. Thâu tóm mười tám thứ viên mãn nêu trước, cùng dùng cho hai phẩm đều là chủ thể thâu tóm. Nay, chỗ đối hợp với trước ấy, tự phân làm chủ thể, đối tượng mà được cùng thâu tóm. Văn nơi bản Sớ giải sợ trách là quá nhiều nên chẳng thể nêu ra đầy đủ.

Nhưng nơi phần “Sao” thì cần phải tận lý, nên mỗi mỗi đều chỉ rõ. Ở đây, Phẩm Hoa Tạng thâu tóm Phẩm Thành Tựu: Trong Phẩm Hoa Tạng hướng vào sự thâu tóm, thì kia Phẩm Thành Tựu dấy khởi đủ hai sự là nhân duyên cùng thanh tịnh. Do chỗ hướng vào tức là ba môn giải thoát, có thể làm nhân của Cõi, khiến cõi thanh tịnh. Ở đây, “Lực Trì” đã thâu tóm ba sự còn lại. Nghĩa là, Phật xuất hiện nơi kiếp trụ, cùng với kiếp chuyển biến, do Lực Trì, tức là Pháp hỉ rộng lớn. Nếu không Phật thì theo cái gì để có được Pháp hỉ? Huống chi là có Phật Trì? Như Phật không xuất hiện thì chỉ do “Thực Trì” (Sự duy trì do ăn uống). Nếu Phật xuất hiện tức có “Pháp Trì”. Như do Thực Trì thì thời gian trụ sẽ ít. Nếu dùng Pháp Trì thì kiếp trụ sẽ dài lâu. Hai thứ Lực Trì ấy đều chung chuyển biến. Pháp Trì thì chuyển biến thành tịnh. Thực Trì thì Tịnh biến thành nhiễm. Luận Câu Xá nói khi ba thứ tai họa ấy dấy khởi thì có hai thứ nhân: Một là tham đắc hương vị ngon đẹp, hai là biếng nhác sa đọa, do Thực Trì nên Tịnh biến thành Nhiễm. Trên đã dùng hai pháp của Phẩm Hoa Tạng thâu tóm năm pháp nơi Phẩm Thành Tựu. Năm Sự đã hoàn toàn giống nhau nên mười pháp nêu đủ.

Nếu lấy chẩm Thành Tựu thâu tóm Phẩm Hoa Tạng thì trên dùng hai môn nơi Phẩm Hoa Tạng thâu tóm năm pháp nơi Phẩm Thành Tựu, ở đây thì dùng năm pháp nơi Phẩm Thành Tựu thâu tóm hai pháp nơi

Phẩm Hoa Tạng. Ba sự còn lại nơi Phẩm Hoa Tạng, là Phương Sở, Phân

Tề cùng Hành Liệt, (Nơi chốn, sự dung thông , thâu gồm, Nêu bày) thì Phẩm kia lấy pháp gì để thâu tóm? tức hai sự là Y trụ và hình trạng thuộc về trong năm pháp giống nhau, là chỗ thâu tóm của hai sự. Vì chỉ có y trụ (Nương tựa, trụ vào), mới có Phương Sở cùng Hành Liệt. Chỉ có Hình Trạng tức có Phân Tề, tức dùng bảy pháp nơi Phẩm Thế giới thành tựu thâu tóm năm sự nơi Phẩm Hoa Tạng. Năm Sự đã hoàn toàn giống nhau thì mười pháp cũng đầy đủ. Ở nơi hai Xứ đều nêu lên mười Sự thì mọi nơi chốn đều được gồm thâu. Khéo léo làm rõ với nhiều mối nên cùng Ẩn giấu, hiển hiện. Lý thật cùng nêu ra là hiển bày mười tám pháp viên mãn.

-Sớ từ câu: “Lại, các phần Văn nêu trên…” tiếp xuống: Là phần thứ ba, phân biệt, xác định về chỗ chính yếu (của Tông Hoa Nghiêm). Phần nầy có thể nhận biết.

-Sớ câu: “Đây, kia cùng hội nhập cũng là chỗ hướng vào của phần Tụng”: Trong phần Sớ giải nêu trên đã giải thích về nghĩa hội nhập. Phần nầy gồm hai:

Một: Lược nêu chỗ thể hiện của kệ văn.

Hai: Từ câu “ đều hội nhập mà không nhập” tiếp xuống: Là giải thích chung về hai kệ.

“Nhập mà không nhập”: chính là trong kệ trước có nghĩa chung cho kệ sau nên mới có sự diễn đạt như thế. Gồm có ba ý:

Thứ nhất: Giải thích ngược lại cho hai môn: Duyên khởi tương do cùng Pháp tánh dung thông.

Căn cứ nơi môn duyên khởi: Phàm pháp duyên khởi, chính yếu có ba nghĩa:

Nghĩa thứ nhất là các duyên đều khác nhau.

Nghĩa thứ hai là cùng biến hiện khắp, cùng hỗ trợ.

Nghĩa thứ ba là cùng tồn tại, không ngăn ngại.

Nay cho rằng: “Hội nhập thì hủy hoại duyên khởi” tức là giải thích ngược lại về “Chẳng nhập”. Hội nhập thì mất duyên, tức không có nghĩa “Các duyên đều khác nhau”.

Nói “Chẳng hội nhập thì hủy hoại dụng của Tánh”: Tức giải thích ngược lại nghĩa hội nhập, là không thể không hội nhập. Chẳng hội nhập thì chẳng có được chỗ dung hợp thấu triệt của Lực dụng, không có nghĩa “Cùng biến hiện khắp, cùng hỗ trợ nhau”, tức hủy hoại dụng. Nếu gồm đủ cả nhập và chẳng nhập thì cùng tồn tại không ngăn ngại, thành môn duyên khởi.

Căn cứ nơi môn Pháp tánh dung thông: Tức nhấn mạnh về chữ tánh. Phàm Pháp tánh dung thông thì chính yếu là không hủy hoại tướng, mà là chân tánh. “Nhập thì hủy hoại duyên khởi nên không thể cùng hội nhập. “Chẳng nhập thì hủy hoại dụng của tánh” tức tánh chẳng biến hiện khắp tất cả các pháp. Do chẳng hủy hoại tướng mà có thể biến hiện khắp phương là nghĩa “Pháp tánh dung thông”.

Thứ hai: Câu: Lại nữa, chính do chẳng nhập mới có thể hội nhập, tức giải thích thuận hợp, cũng chung cho hai môn, chỉ dựa theo tướng mà nói. Nếu căn cứ nơi môn duyên khởi, chính yếu là do các duyên hiện rõ, chẳng nhập thì mới có thể cùng hỗ trợ, biến hiện khắp, cùng hội nhập. Nếu căn cứ nơi môn Pháp tánh dung thông, thì chính là do Sự, tướng hiện rõ, mới theo Lý mà dung nhập tất cảc các pháp. Cho nên nói: “Chỉ căn cứ nơi Lý thì không thể cùng hội nhập”.

Thứ ba: Từ câu: “Lại, căn cứ nơi gốc của Thể là không” tiếp xuống: Là cũng biện minh theo hướng thuận hợp, cùng căn cứ cả nơi Tánh, Tướng.

Nghĩa thứ nhất nêu trên, Tướng thì chẳng hội nhập, Tánh thì có thể hội nhập. Nay, một nghĩa nầy, riêng Tướng riêng Tánh đều không thể hội nhập. Phải cần cả hai cùng dung thông thì mới có thể hội nhập.

Nói “Căn cứ nơi Thể vốn không thì chẳng đến, chẳng nhập”: Tức là nếu chỉ căn cứ nơi Tánh thì không thể có nghĩa “tức nhập”.

Nói “Căn cứ nơi Tướng chẳng hủy hoại, như gốc không sai biệt” tức nếu chỉ là căn cứ nơi Sự thì chẳng thể “tức nhập”. Hai nghĩa trên đều là nghĩa chẳng hội nhập.

Nói “Do Tánh dung thông Tướng nên có được cùng hội nhập”: Tức là giải thích nghĩa Hội Nhập là hiển bày nghĩa chính

Nghĩa là, chẳng khác với một Sự của Lý, lúc thâu tóm hoàn toàn Pháp tánh, khiến kia chẳng khác với nhiều Sự của Lý, tùy theo chỗ nương dựa là Lý, cùng ở trong một, đồng thời hiện bày. Một Sự thâu tóm Lý đã như thế, thì nhiều Sự thâu tóm Lý cũng như vậy. Tức một Sự tùy theo chỗ nương dựa là Lý, đều ở trong nhiều, đồng thời hiện bày tức thì, nên có thể cùng hội nhập, đó là môn Pháp tánh dung thông, như nghĩa thâu tóm, dung hợp.

-Sớ câu: “Hải có thể có Hoa nên mang tên Hoa” do Hải tên là Vô Biên Diệu Hoa Quang. Như nơi Ao Hoa sen thì Ao đã nhận tên của Hoa.

Câu “Hoa dựa nơi Hải để chọn lấy tên gọi nơi độ sâu của Hải”: Hải dùng Ma ni vương tràng làm đáy, nên Hoa gọi là Ma ni vương Trang Nghiêm. Như Hoa sinh ở trong bùn thì Hoa nhận lấy tên gọi của Bùn.

-Sớ câu: “Chỉ có hai trăm mười trần số cõi Phật”: Tức tầng thứ nhất là một cõi Phật với trần số thế giới. Tầng thứ hai là cõi Phật, một cõi ở trên thêm hai ở tầng nầy là ba. Tầng thứ ba thêm ba là sáu. Tầng thứ tư thêm bốn là mười. Tầng thứ năm thêm năm là mười lăm. Tầng thứ sáu thêm sáu là hai mươi mốt. Tầng thứ bảy thêm bảy là hai mươi tám. Tầng thứ tám thêm tám là ba mươi sáu. Tầng thứ chín thêm chín là bốn mươi lăm. Tầng thứ mười thêm mười là năm mươi lăm. Như vậy là mười tầng tức gồm có năm mươi lăm. Mười Tầng trên mỗi mỗi Tầng tăng dần cũng có năm mười lăm. Mà mỗi Tầng đều có mười, nghĩa là các Tầng thứ mười một, mười hai, mười ba, mười bốn v.v… mười Tầng trên lại có một trăm, cộng chung là một trăm năm mươi lăm. Cùng với Tầng dưới là năm mươi lăm thành là hai trăm mười.

Hỏi: Đã có hai mươi Tầng, vì sao chỉ nói là mười chín cõi Phật là cõi chủ?

Đáp: Do một Tầng dưới cùng chỉ gọi là một Thế giới, chẳng phải là một cõi Phật với trần số thế giới.

-Sớ câu: “Hội tiếp theo sẽ giải thích”: Tức là Hội thứ ba, với chủ thể vây quanh, đối tượng được vây quanh, tóm kết từng loại.

-Sớ câu: “Sáu là quyến thuộc”: Tức trong kinh có nói: “Đủ thứ đủ loại được sắp đặt bày biện, vô số sự trang nghiêm”, là nhằm biện giải về tướng trạng của cõi quyến thuộc (liên hệ) .

-Sớ câu: “Bầu Trời là vòm tròn rộng lớn”: Như sách bên ngoài nói về bầu Trời hoặc cho là có hình tướng, nên nói hình tướng của bầu trời là vòm cong rộng lớn, hình tướng ấy như cái lò thiêu. Hoặc nói “Trời tròn đất vuông” hoặc như Trang Tử cho rằng: “Trời là tự nhiên”, tức là không có hình chất.

-Sớ câu: “Cũng như trong kinh Pháp Hoa nói Phạm Vương là cha của chúng sinh”: Tức nơi kinh Pháp Hoa, quyển thứ sáu, Phẩm Dược Vương Bản Sự. Kinh viết: “Ví như đại Phạm Thiên Vương là cha của hết thảy chúng sinh. Kinh Pháp Hoa nầy cũng như thế, là cha của tất cả chúng sinh”. Do quan niệm cho vào thời kiếp đầu tiên Phạm Vương đã sinh khởi, về sau có các chư Thiên cùng sinh ra với Phạm Vương. Hàng phàm phu thảy đều vọng chấp cho Phạm Vương là cha của muôn loài. Trong các Kinh Luận của Phật giáo đều đả phá quan niệm ấy cho là không phải, là kiến chấp của ngoại đạo. Nay, nơi kinh Pháp Hoa, đức Như Lai tự nêu dẫn để làm ví dụ, thế Phật há chẳng rõ quan niệm cho Phạm Vương là cha của mọi loài là vọng chấp sao? Nên đó là đức Thế Tôn tùy theo thế tục mà nêu giảng. Ở đây, cũng thuận theo thế tục mà nói Trời có hình tướng, thì đối với Lý đâu có sai trái…

-Sớ câu: “Dịch nhầm từ Lạc Sát Nẵng”: Lạc Sát Nẵng đây gọi Tướng. Ố Sát La đây gọi là chữ. Do cách phát âm gần nhau nên khiến có sự nhầm lẫn. Gốc tiếng Phạn là: “Thất Lợi Trù Tha Lạc Sát Nẵng, hợp gọi là “Cát Tường Hải Vân Tướng” (Tướng an lành nơi vô số Hải).

-Sớ từ câu: “Tuy nhiên, Tướng ấy do vì” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải nêu ra ý kiến của bậc cổ đức. Do “Cát Tường Hải Vân” là Vạn, nên hợp gọi là “Vạn Tướng”, tức là tóm kết xác nhận về nghĩa chính của đại sư Tĩnh Pháp: “Cát Tường Hải Vân” là Vạn, hợp gọi là “Vạn Tướng”, chẳng hợp thì gọi là chữ Vạn.

-Sớ câu: “Chỗ tóm kết về Cõi ấy xác định là cõi chủ”: Do người đi trước cho rằng: “Kinh nói mỗi mỗi thế giới nầy, tức hai trăm mười cõi Phật với số cõi nhiều như vi trần nêu trên, do hai trăm mười số cõi nhiều như vi trần là đối tượng được vây quanh. Hai lớp vây quanh xong thì mới có số lượng cõi” chẳng thể nói hết. Vì vậy, đã lập lý: “Nếu chẳng đem số lượng nầy kết hợp với số lượng lớn thì: Một tức trong loại cõi nầy chẳng phải chỉ có Thế giới rộng lớn với số lượng nhiều như số vi trần chẳng thể nói hết. Hai tức nơi ba xứ nêu giảng về số lượng là trái nhau.

Giải thích: Phần nêu trên ý nói: Nếu đối tượng được vây quanh đã có số lượng cõi nhiều như vi trần nơi cõi Phật chẳng thể nói, là lại tăng thêm hai lớp cõi vây quanh, tức có rất nhiều số cõi như số vi trần nơi số cõi Phật chẳng thể nói hết.

-Nói “Ba xứ nêu giảng về số lượng là trái nhau”: Tức là:

Một: Trong phần nêu lên đã có “Chẳng thể nói hết”.

Hai: Phần giữa nói chỉ có hai trăm mười.

Ba là tóm kết về Văn nơi hai lớp.

Chủ thể vây quanh đầu tiên đã có “Chẳng thể nói hết”. Sau thì có “Vô lượng chẳng thể nói hết”, nhưng ở phần giữa thì chẳng đầy đủ về “Chẳng thể nói hết”, nên là “Trái nhau”.

Cách giải thích ấy xem ra cũng có lý. Nhưng kinh nói “Mỗi mỗi thế giới nầy” … tức cho rằng mỗi mỗi thế giới đều có số lượng thế giới rộng lớn nhiều như số vi trần nơi mười cõi Phật lần lượt vây quanh. Cho nên biết rõ là hợp với số lượng cõi vây quanh “Chẳng thể nói hết” nơi phần trước. Lại do hai trăm mười là số lượng cõi thuộc đối tượng được vây quanh. Đoạn trước nơi phần giữa nói về cõi chỉ vượt hơn khoảng ấy, nêu rõ làcó hai trăm mười, so với ý của văn kia nêu thẳng về số lượng cõi nhiều như vi trần của mười chín cõi Phật, mỗi mỗi cõi đều có rất nhiều cõi Phật vây quanh, nên có hai lượt “Chẳng thể nói hết”. Vì sao? Vả như, một cõi thấp nhất đã có một cõi Phật với số lượng cõi Phật nhiều như vi trần vây quanh, hướng lên trên vượt quá số thế giới nhiều như số vi trần nơi một cõi Phật, mới đến Tầng thứ hai nơi các cõi thuộc khoảng giữa, do đâu không có cõi vây quanh?

Nếu không có vây quanh thì vòm lưới cõi không thành. Cho nên biết, lên thẳng nơi số lượng cõi nhiều như số vi trần nơi một cõi Phật, mỗi mỗi đều phải có vây quanh, chẳng thể nói đầy đủ hết, nên có vượt hơn chỗ nêu hai mươi lớp. Đã rõ tầng thấp nhất, một cõi có số lượng cõi nhiều như số vi trần nơi một cõi Phật vây quanh. Trên đây, theo thứ lớp, hai cõi lại tăng thêm một cõi là chủ thể vây quanh. Tầng thứ ba cũng tăng thêm một cõi. Như vậy dần dần lên đến một trăm thì tăng một trăm, đến một ngàn thì tăng một ngàn, tới một vạn thì tăng thêm một vạn cho tới lúc đầy số lượng cõi nhiều như số vi trần nơi cõi Phật. Đến Tầng thứ hai trở lại tăng thêm số lượng cõi nhiều như số vi trần nơi một cõi Phật là chủ thể vây quanh, có số cõi nhiều như số vi trần nơi hai cõi Phật vây quanh. như thế cho đến Tầng thứ hai mươi cũng vậy, mỗi mỗi tăng dần. Cho nên chỉ đến thẳng nơi số thế giới nhiều như số vi trần nơi một cõi Phật, cùng với số cõi là chủ thể vây quanh kia, đã có rất nhiều cõi Phật như số lượng vi trần với số lượng thế giới nhiều như số lượng vi trần nơi từng cõi Phật chẳng thể nhận biết. Vả lại, dựa theo số lượng của một kỳ hạn, gọi là “Chẳng thể nói hết”, nên biết rõ đối tượng được vây quanh xác định làcõi chủ. Nếu thì tại sao chẳng cùng với phần văn nêu lên trái ngược nhau? Văn nêu lên chỉ nói: “Một chủng loại Cõi có số lượng thế giới nhiều như số vi trần nơi số cõi Phật chẳng thể nói hết”, nên đã tăng thêm hai lớp chủ thể vây quanh, có số lượng cứ nhiều hơn.

Về vấn đề đáp lại, Ở đây có hai ý:

Một: Cho là “Chẳng thể nói hết” là dựa theo nơi chỗ nêu rõ về Chủ.

Hai: Hai lớp “Chủ thể vây quanh” kia đều chẳng ngoài trong số cõi của vô số cõi chẳng thể nói hết. Vì sao? Xem nơi ý của Văn thì chỉ là các cõi cùng làm chủ-bạn, là cùng vây quanh. Như một trăm người cùng tụ họp, một người là chủ thì chín mươi chín người kia là vây quanh. Chín mươi chín người còn lại, mỗi mỗi người lúc làm chủ thì đều được chín mươi chín người kia vây quanh. Nếu chẳng như thế thì một cõi thấp nhất đã có một cõi Phật với số lượng thế giới nhiều như số vi trần, vây quanh. Cõi là chủ thể vây quanh nầy lại có hai lớp chủ thể vây quanh, nên đã có số lượng cõi của vô số cõi chẳng thể nói, chẳng thể nói hết. Theo đấy mà xét, nên biết rõ cùng là Chủ-Bạn thì số lượng gốc không tăng… (Lược bớt)

-Sớ câu: “Nếu dựa theo nghĩa trước thì đấy là chỗ vi diệu của Dịch giả”: Chủ thể vây quanh, đối tượng được vây quanh, số lượng ấy đã nhiều mà chỉ nói “Như trên” tức là nói gọn, lược nên nói là “Chỗ vi diệu”. Tuy có hai cách giải thích, nhưng ý nơi bản Sớ giải là giữ lại cách giải thích thứ hai, chỉ dùng số lượng cõi nhiều như số vi trần nơi mười cõi Phật là chủ thể vây quanh. Vì thuận hợp với tông chỉ của kinh, nhằm làm rõ tính chất vô tận. Trước sau cách thể hiện nơi Thể, Loại đều như vậy. Phần còn lại như Văn nơi bản Sớ giải, suy xét kỹ có thể nhận thấy.

-Sớ câu: “Luận Câu Xá cho rằng”: Là tóm lược về nghĩa nơi Luận đã nêu. Phần Tụng của Luận đầy đủ là: “Đông Châu Tỳ-đề-ha

Hình tướng như bán nguyệt

Ba bên như Thiệm bộ

Phía Nam ba trăm rưỡi.

Nam-Thiệm Bộ như xe

Ba phía đều hai ngàn

Phía Nam ba trăm rưỡi.

Tây Châu Cù đà-ni

Tướng đầy đủ không khuyết

Thẳng hai ngàn năm trăm

Chu vi ba lần hơn.

Bắc, Câu Lô Trắc vuông

Bốn phía đều hai ngàn…”

Đông thì phía Bắc rộng, phía Nam hẹp. Phần còn lại có thể nhận biết. Cho nên chỗ tóm kết nói: “Bốn châu hình tướng khác nhau”. “Theo nay thì cho là như thế”, tức ở trên nêu Luận làm câu hỏi, còn hiện tại là giải thích theo hướng dung hợp nên nói là hoàn toàn giống với cảnh giới nầy. Bốn Châu ấy được sắp đặt là trú xứ của một vị Phật. Nay, thế giới nầy giống như cảnh giới của bốn châu ấy.

-Sớ câu: “Trong đó, văn không nêu phần tóm kết về số lượng lớn”: Là nêu ra phần trung gian nơi Hải, như phần cuối quyển thứ tám đã nêu. Nơi quyển thứ mười thì dùng chánh dụ cho y, dùng thân của chúng sinh để tụ cho vô số cõi, cũng là dùng nhân dụ cho duyên. Cho nên phần sáu địa tiếp theo nói: “Nghiệp là ruộng, Thức là giống. Nghĩa là Tâm tức các loại danh ngôn là Nhân duyên gần gọi chúng là Nhân. Nghiệp như Tăng Thượng duyên gọi chúng là Duyên”. Phần còn lại như chỗ giải thích của Sớ.

-Sớ câu: “Ba, một kệ biện minh cả hai về Tâm, Nghiệp”: Là nêu lên Hành tức là Nghiệp nên giải thích. Do Tâm hiển bày nên không giải thích. Nghĩa là tùy nơi Tâm ấy thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Là do Tâm khác nhau nên thấy cõi chẳng đồng. Như thực hành mười nghiệp thiện thì thấy mạng không chết non giữa chừng, được sinh nơi chốn phú quý, đất nước chuộng phạm hạnh, là tùy theo nghiệp khác nhau mà thấy cõi chẳng giống nhau. Đây tức cùng nêu lên cả hai về Nhân, Duyên, cũng cùng biện minh về nơi chốn đế vương.

Nói “Cũng dụ cho chúng sinh cùng nơi chốn mà thấy khác nhau”: Tức Phật vốn không hai mà thấy Phật bạc Phật vàng. Cõi vốn là một mà thấy có tịnh có uế.

Nên Phạm vương Loa Kế thì thấy như cung điện nơi cõi trời thứ sáu, còn Tôn giả Thân Tử thì thấy toàn là gò đống hầm hố.

-Sớ câu: “Thứ nhất thì Thô bị hủy hoại, Tế thì còn”: Đối tượng được hiện bày tùy hư bại, xấu ác tức thô bị hủy hoại, mà cõi Biến hóa, chốn ấy luôn kiên cố, vi tế thì còn, tức là Tự Thọ Dụng. Trên là tóm lược theo kinh văn, phần tiếp dưới là nêu ra lý do.

Nói “Bị hủy hoại là do nghiệp ác”: Kinh Pháp Hoa nói:

“Các chúng sinh tội ác

Do nhân duyên nghiệp ác

Hơn A-tăng-kỳ kiếp

Chẳng nghe tên Tam bảo”.

Nói “Tồn tại là nhờ vào hai nhân”: Là nêu lên. “Một là căn cứ nơi Phật” tức là cõi Tự Thọ Dụng, hai là Thiện nghiệp tức tha thọ dụng. Gồm cả biến hóa, cõi Tịnh, do nghiệp chẳng đồng cùng nơi chốn mà nhận thấy khác nhau. Cho nên kinh Pháp Hoa viết:

“Hạng tu tập công đức

Nhu hòa và chân chất

Tức đều thấy thân Ta

Ở đấy và thuyết pháp”.

-Sớ từ câu: “Nên kinh Pháp Hoa có đoạn” tiếp xuống: Là dẫn chứng Câu “Cõi Tịnh ta chẳng hủy” là dẫn chứng về sự thành tựu của Tự Thọ dụng, căn cứ nơi Phật nêu trên. Câu: “Trời, người luôn sung mãn” là dẫn chứng, xác nhận về Tha Thọ dụng, căn cứ nơi nghiệp thiện nêu trên. Như phần dẫn tiếp theo để chứng minh nêu trên nên dẫn nghĩa ở văn kinh. Nếu nêu dẫn đầy đủ kinh viết:

“Chúng sinh thấy kiếp tận

Lúc lửa dữ thiêu đốt

Cõi của ta an ổn

Trời, người luôn sung mãn.

Vườn rừng các đền gác

Đủ thứ báu trang nghiêm

Cây báu nhiều hoa trái

Chúng sinh chốn dạo vui.

Chư Thiên đánh trống trời

Luôn tạo các nhạc hay

Mưa hoa Mạn đà La

Tung rải Phật, đại chúng.

Cõi Tịnh ta chẳng hủy

Mà chúng thấy đốt hết

Bao khổ não, lo sợ

Như thế thảy đầy đủ”.

Tức gọi là “Các chúng sinh tội ấy” v.v… Phần tiếp theo viết: “Hạng tu tập công đức” v.v…

-Sớ từ câu: “Nhưng diệt tuy chẳng cùng” tiếp xuống: Là giải thích, xác nhận nghĩa nêu trên, tóm kết quy về tính chất khó nghĩ bàn, tức là ý của đại sư Tăng Duệ. “Một diệt một còn” nên gọi là chẳng cùng (chẳng đều). Chẳng lìa nơi chốn hủy diệt mà có sự tồn tại, nên gọi là “Dấy khởi ắt cùng nơi chốn”. Như người ở nơi ngạ quỷ, thấy lửa là nước. Ngạ quỷ ở nơi người thì thấy nước lại là lửa.

Câu: “Tuy gọi là đồng nơi chốn mà luôn cùng không”, tức trong mất không có còn, trong còn không có mất. Cũng như cung điện của loài La Sát và cung điện của loài người cùng ở tại một chốn mà chẳng cùng thấy nhau, cõi Tha Thọ dụng cũng lại như thế. Như Tự Thọ dụng nên là biến hiện khắp cả, chẳng tức là ba cõi mà chẳng lìa ba cõi. Cho nên kinh Pháp Hoa nêu: “Chẳng như ba cõi thấy nơi ba cõi. Như cõi Pháp tánh lại sinh diệt luôn như”.

-Sớ câu: “Nên là khó nghĩ bàn”: Là tóm kết phần giải thích kinh văn về tính chất chẳng thể nghĩ bàn của “Kiếp thiêu hủy”. Nghĩa là chẳng thể dùng các khái niệm còn, mất, nhiễm, tịnh để tư duy.

-Sớ câu: “Đời cùng chẳng đồng v.v…”: Là đem cõi Pháp tánh đối hợp với cõi Tha Thọ dụng và cõi Biến Hóa.

 

 

Phẩm 6: TỲ LÔ GIÁ NA

(Từ đây trở xuống là vào quyển thứ mười một).

-Sớ câu: “Tức phần sau ấy lại có đại kiếp, đối với lý không trái”: Đây là nhằm ngăn chận sự biện hộ giúp. Nghĩa là, như đại sư Tĩnh Pháp (tức đại sư Tuệ Uyển) nói: “Dựa theo phần văn tiếp dưới thì đại kiếp có Hằng hà sa số tiểu kiếp, thọ mạng của con người là hai tiểu kiếp đầu, thọ mạng của Phật là năm mươi ức năm…”

-Sớ câu: “Lược nêu rõ có mười Tướng”:

Tức nơi phần tiếp dưới văn tóm kết nói: “Hầu hết giống với phần đầu của kinh, là mười Thân tướng khó nghĩ bàn của bậc Giáo chủ.

Thứ nhất là Pháp thân như nơi kinh nói, dùng thân Trí không ngăn ngại mà làm Pháp thân. Văn nơi bản Sớ giải lại dung hợp sắc tướng v.v… làm một Pháp thân, do thân thứ nhất là chung nên pháp không đâu là không hiện hữu, gốc tự biến hiện khắp chốn, tức giải thích kinh chỗ nói về thân biến hiện khắp là thân Pháp tánh.

Tiếp theo cho rằng “Trí cùng với Lý kết hợp một cách sâu xa nên sánh cùng với cõi Chân kia”: Tức giải thích kinh sánh cùng với Chân Pháp giới. Đây là Báo thân cũng là Như Trí. Kinh Kim Quang Minh nói: “Chỉ Như Như cùng với Trí Như Như riêng tồn tại là Pháp Thân”. Từ câu: “Có thể khiến sắc tướng” tiếp xuống: Do chân thân hiện hữu khắp nên khiến cho chỗ ứng hợp nơi diệu dụng cũng hiện hữu khắp. “Ta nay với thân nầy tức là thân Thường hằng, Pháp thân”. Tức dùng ba thân viên dung là một Pháp thân chân thật. Chín thân tiếp sau thì nêu bày riêng.

Hai là tướng Bi, tức là Ý sinh thân.

Ba là tướng Thành, tức là Bồ đề thân. Lý, Hành, Thời, Xứ là đạo tràng, đều như phần đầu của kinh.

Bốn là tướng Sắc, tức là Phước đức thân. Phần trước của kinh có đoạn: “Đối tượng hành hóa của ba đời với biển lớn của các phước đức, thảy đều thanh tịnh. Do đó, sắc tướng vi diệu là quả của phước”.

Kinh lại viết:

“Biển đại kiếp chẳng thể nghĩ bàn

Cúng dường hết thảy chư Như Lai

Khắp đem công đức thí quần sinh

Do đấy thân đoan nghiêm, tối thượng” 

Năm là tướng thù thắng, tức là Uy thế thân.

Sáu là tướng tôn quý, tức Tướng hảo Trang nghiêm thân.

Vả chăng, thuận hợp với ba Thừa gọi là vượt quá Thánh đế. Phần tụng của Luận Câu Xá nói:

“Tướng chẳng thật viên minh

Nên cùng Phật chẳng phải”

Đây là giải thích về tướng của Chuyển Luân vương. Nay là đức Thế Tôn nên gọi là phân minh, thật sự gồm đủ số tướng như vi trần của mười Liên Hoa Tạng.

Bảy là Tướng ứng hợp, tức là Lực Trì thân, như vì chúng Rồng lưu lại hình ảnh với “ diệu lực được duy trì” bất diệt.

Tám là Tướng Vô ngại, tức là Nguyện thân. Phần kinh ở trước có câu:

“Phật Tỳ Lô Giá Na

Nguyện lực khắp pháp giới

Trong tất cả quốc độ

Luôn chuyển diệu pháp luân”.

Nên mắt nhìn thấy khắp cả.

Chín là Tướng biến hóa, tức Hóa thân.

Mười là Tướng an lành, tức là Trí thân, chính ở nơi ánh sáng của Trí tuệ, phụ là gồm cả ánh sáng nơi thân tướng. Cho nên biết rõ kinh nầy nêu dẫn về nhân duyên từ trước, xưa, cũng đều là vi diệu, viên mãn.

-Sớ câu: “Thiện căn có ba, một là sinh phước cùng nghiệp bất động, dùng ba thứ Thí, Nhẫn, Trí mà làm thiện căn”: Nghiệp có ba thứ:

Một là nghiệp ác, tức do ba thứ căn chẳng lành sanh ra. Nay không có biện minh về chỗ nầy. Văn nơi bản Sớ giải nêu ra ba nghiệp tức là được sinh ra do ba thiện căn. Ba thiện căn là không tham, không sân, không si.

Nay, chẳng phải chỉ không tham đắm nơi cảnh giới có, mà còn có khả năng bố thí, cứu giúp, để thành tựu thiện căn không tham. Chẳng phải chỉ ở nơi khổ không giận dữ mà còn gồm luôn việc thực hành nhẫn nhục, nên thành tựu thiện căn không sân. Chẳng những ở nơi cảnh giới thấu đạt, thông tỏ, ma còn dốc sức tu tập về Tuệ giải, thành tựu thiện căn của không si. Có được ba thiện căn ấy chính là chỗ làm phát sinh điều thiện nơi ba cõi, nên là gốc bất động của phước đức.

Nhưng ba căn ấy là dựa theo Luận Duy Thức, đều có Tánh riêng. Mười một pháp Thiện (Tâm sở thiện) thâu tóm Vô Tham là do ở nơi các Hữu Hữu có đủ không tham đắm làm Tánh. Không Sân là do ở nơi khổ khổ có đủ không giận dữ làm Tánh. Không Si là do ở nơi các nẻo Lý, Sự lãnh hội sáng tỏ làm Tánh. Thông hợp thì chỉ Thiện, Tuệ đều có riêng Tánh. Nay dựa nơi Tập Luận quyển thứ nhất dùng Tuệ làm Tánh của không Si. Ý của Luận Duy Thức kết hợp cho Tuệ là quả của không Si, nên Thí, Nhẫn hai thứ cũng theo Quả mà gọi tên, do không Tham, Sân nên thành Thí, Nhẫn. Vì vậy, văn nơi bản Sớ giải cho rằng, dùng Thí, Nhẫn, Tuệ để làm gốc của ba thứ kia (Không Tham, Không Sân, Không Si).

Hai là Tín v.v… làm gốc thì đến phần tiếp dưới sẽ bàn rộng.

-Sớ câu: “Ba là cầu đạt trí Tuệ vô thượng, dùng bốn pháp cùng với không phóng dật là năm pháp làm gốc”:

Kinh Niết-bàn nói: “Đều tán dương từ bi là pháp căn bản của Bồ tát. Có tâm từ bi ắt phải hỷ xả. Chẳng phóng dật thì tinh tấn, không tham v.v…”. Ba pháp ấy ở nơi chỗ tu tập, đoạn trừ, ngăn chận điều sai trái là Tánh, giả lập làm một. Kinh Niết Bàn nói gốc của chẳng phóng dật rất sâu dày, khó có thể nhổ lên được. Nhờ chẳng phóng dật thúc đẩy bốn pháp trước cùng đạt được Nhất Thiết Trí, nên là gốc.

* Từ câu: “Bốn là nói chung về thiện căn” tiếp xuống: Tức là nói về Tánh chung của ba loại kể trên.

-Sớ từ câu: “Một là lớp vô minh, Trí tự giác ngộ, mở bày” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải có hai phần:

Một: Biện minh riêng.

Hai: Giải thích, tóm kết.

Trong phần một, thì bốn là lìa bỏ chướng, năm là khiến đạt được giải thoát, lợi ích chung cho ba Thừa. Sáu là chưa tin tưởng thì khiến tin tưởng. Bảy là khiến hội nhập nơi Ba Hiền. Tám là khiến đạt được địa thứ nhất. Chín là khiến từ Hai địa trở lên đạt được nơi tám địa. Mười là đã ở nơi tám địa, đã chứng Vô sinh, chu Phật khuyến khích đạt được chín mươi hai địa.

-Sớ từ câu: “Đây là căn cứ theo chỗ sai biệt” tiếp xuống: Là phần hai, giải thích, tóm kết. Sai biệt là tóm kết phần nêu trên, làm rõ cách giải thích, đối trị theo chiều dọc (thời gian). Tóm kết theo trên chẳng phải là ba Tất đàn.

Từ câu: “Nếu căn cứ theo sự phối hợp theo chiều ngang” tiếp xuống: Là lại tóm kết theo cách khác. Chiều ngang đối với chiều dọc ở trước, mỗi vị dùng chung mười câu ấy, nên phát sinh thấy điều Thiện. Lý đối với việc đối trị ở trên phát sinh điều Thiện, tức là Vi nhân Tất đàn. Nghĩa là phát khởi sự tin, hiểu lớn lao, sinh ra thiện căn thù thắng.

Dấy tâm thấy Phật, đều phát sinh điều Thiện. Thấy rõ Lý tức là Đệnhất-nghĩa tất đàn. Như trí tự giác mở ra hướng tới Nhất Thiết Trí, là đều thấy rõ Lý. Cũng ứng hợp có lúc thuận theo thế gian, khiến hoan hỷ là Thế giới Tất đàn. Do tiếp cận với lợi ích, nên trong đây không nói về tính chất vô ngại của chiều dọc-chiều ngang, ý trong đây là nghĩa của bốn Tất đàn, đến Phẩm Vấn Minh sẽ biện giải.

-Sớ từ câu: “Xét nơi kinh Anh Lạc Bản Nghiệp, quyển thượng” tiếp xuống: Là nêu dẫn kinh để xác nhận cho sự giải thích. Năm trăm là đúng. Hai vạn năm ngàn là chẳng phải. Trong ấy phân làm hai:

Một là: Đả phá, phủ nhận.

Hai: Từ câu: “Hoặc căn cứ nơi Giáo” tiếp xuống: Lại xác nhận trong phần nêu trước.

Nói “Quyển thượng” Tức là Phẩm thứ ba: Hiền Thánh Quán. Trong đó, Bồ tát Kính Thủ hỏi: “Bồ tát làm thế nào để học quán về danh tự, nghĩa tướng cùng với Tâm sở hành pháp, lại phải làm thế nào?”

Đức Phật trước giải đáp về danh tự, tức nêu ra tên gọi vi diệu nơi các bậc ba Hiền mười Thánh. Tiếp theo là đáp về Tâm Sở hành pháp:

Kinh nói: “Phật tử ! Ông trước hỏi thế nào là Tâm sở hành pháp? Đó là mười tâm. Một là Phát tâm trụ v.v…” là giải thích rộng về tướng vi diệu của ba Hiền mười Thánh. Tiếp theo, Bồ tát Kính Thủ lại hỏi: “Thế Tôn ! Từ địa thứ nhất đến một địa sau, có hai thứ Pháp Thân với quả báo thần biến: Một là Pháp tánh Pháp thân, hai là Ứng hóa Pháp thân. Vậy đó là sắc tướng hay là tâm tướng?” Phật đáp, trước đáp về quả báo xuất thế gian: Từ địa thứ nhất đến Phật địa, đều có hai thứ Pháp thân. Ở trong Đệ-nhất-nghĩa-đế pháp như dòng nước chảy từ Thật tánh phát sinh, Thật trí là Pháp thân, Pháp gọi là Tự thể. Tập tạng là thân vv nêu bày luôn về cõi Tịnh. Phần tiếp theo nói: Này Phật tử! Quả báo của thế gian, đấy là mười Trụ Đồng Bảo Anh lạc Đồng luân vương với một trăm người con phước đức làm quyến thuộc, sinh nơi một cõi Phật, thọ Phật học hành, giáo hóa hai cõi thiên hạ… Phật tử! Trên là Anh Lạc tướng luân nơi tất cả chư Phật, cùng Bồ tát, động tĩnh đều gắn bó, luôn theo nơi thân, cũng hóa độ hết thảy chúng sinh, nên có số pháp về quả báo như thế.

Giải thích: Đoạn trên là nêu dẫn đầy đủ về văn của kinh, ở nơi bản Sớ giải dễ lãnh hội, nên biết rõ là không vượt quá hai vạn người con.

-Sớ từ câu: “Xét về chỗ gồm thâu của Hỷ kiến” tiếp xuống: Là dùng hai nghĩa để chứng minh, chính là hợp với năm trăm:

Một: Chỗ thống lãnh là thành, chẳng thống lãnh bốn cõi thiên hạ, nên chẳngphải là Kim Luân.

Hai: Đã gặp ba Phật. Phật xuất hiện trong kiếp giảm, Luân vương xuất hiện trong kiếp tăng, nên biết là chẳng phải.

-Sớ câu: “Biết rõ là lìa bỏ Danh, Pháp”: Tức nơi kinh Tư Ích, quyển thứ nhất, Phạm Thiên Tư Ích nêu câu hỏi: “Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ tát hành hóa khắp? Phật dạy: Có thể khiến ba nghiệp thân, khẩu, ý luôn thanh tịnh” Bấy giờ đức Thế Tôn nói kệ:

“Như thân tịnh, không ác

Khẩu tịnh luôn nói thật

Tâm tịnh thường hành từ

Là Bồ tát biến hành.

Hành từ chẳng tham đắm

Quán bất tịnh không sân

Hành xả mà chẳng si

 Là Bồ tát biến hành.

Nơi xóm làng, đồng trống

Cùng ở với đại chúng

Uy nghi luôn chẳng đổi

Là Bồ tát biến hành.

Biết Pháp gọi là Phật

Rõ lìa danh là Pháp

Thấu “Không danh” là Tăng

Là Bồ tát biến hành.”

Giải thích: Đây tương đương với kệ thứ tư: “Nhân tiện nên lại”. Muốn giải thích kệ nầy cần biết rõ về sự dấy khởi, dứt sạch. Nay xem nơi ý của kinh ba lần nói đến chữ Tri (Biết, rõ, thấu) đều là người của quán hành. Nếu có thể nhận biết như thế là Bồ tát biến hành (hành hóa khắp). “Biết Pháp gọi là Phật” tức là Chân Phật, Pháp thân Như Lai. Phật tức là Pháp, Pháp tức là Phật. Cũng giống như Như Lai, tức là nghĩa Như của các pháp. Tiếp theo nên hỏi: Pháp tức là Phật, đối với nghĩa đã rõ, vậy Pháp là gì? Vì vậy câu tiếp nói: “Rõ lìa tức là Pháp”, do tất cả pháp, bản tánh là Lìa. Thể của Tâm là lìa niệm tức là Giác ngộ.

Tiếp theo nên hỏi: Gốc của pháp là tự lìa thì không có đối tượng được tu tập, sao cùng có Tăng? Nên có sự giải thích tiếp: “Rõ vô vi gọi là Tăng. Vô vi tức là pháp, Pháp vốn tự lìa, nhờ biết vô vi nên gọi là

Tăng. Kinh Đại Phẩm viết: “Do biết rõ các pháp là không, phân biệt có Tu Bồ đề”. Kinh Kim Cương có câu: “Tất cả Thánh Hiền đều do pháp vô vi mà có sai biệt”. Nghĩa là cùng học vô vi có cạn có sâu, nên thành ra sai biệt, chẳng phải pháp vô vi có sự sai biệt. Nay, văn nơi bản Sớ giải chọn lấy ý “ biết rõ về lìa gọi là Pháp”. Nếu chẳng xả bỏ pháp thì chẳng phải là biết rõ về lìa. Cho nên cho rằng: “Pháp cũng nên bỏ”, tức là ý nơi kinh Kim Cương: “Pháp hãy còn nên bỏ huống hồ là phi pháp”. Nhân nơi pháp mà được giác ngộ như nhờ bè đưa người qua sông. Nếu chẳng bỏ pháp khác nào người cứ ở mãi trong thuyền. Cần phải bỏ thuyền thì mới đến bờ kia. Cần phải quên đối tượng được bỏ mới là sự giác ngộ như thật về các pháp, là sự xả bỏ chân thật. Vì thế, kinh Đại Bát-nhã viết: “Bát-nhã hết mực thâm diệu, biết rõ bản tánh của tất cả các pháp là lìa”. Lại như Văn Thù giải thích: “Như Phật, Thế Tôn thọ nhận sự cúng dường, do ở nơi tất cả pháp biết rõ thật tánh của chúng”. Vì vậy, kinh nêu: “Giác ngộ như thật về tất cả các pháp là sự xả bỏ lớn”.

-Sớ câu: “Trí tức là Thể”: Thể của Trí như mặt trời, dung như ánh sáng mặt trời. Thể của mặt trời tuy một nhưng có khả năng phóng ra hàng ngàn ánh sáng. Thể của Trí không khác mà có khả năng soi chiếu muôn cảnh. Lại nữa, ánh sáng của mặt trời không hai, nhưng chỗ được soi chiếu là vật thì sai biệt. Ánh sáng của Trí không sai khác, nhưng tùy theo cảnh giới mà sự soi chiếu có phân chia.

-Sớ câu: “Một là Chánh định v.v…”: Nghĩa là cùng nói đến Tà định Bất định tụ. “Thiện ác v.v…” là cùng nói đến vô ký. Ba là thâu gồm chung làm hai. bốn là “Hai vị” tiếp xuống: Là dung hợp làm một.

-Sớ câu: “Nghĩa là Nhân quả của càng về sau đều hội nhập nơi Tâm ban đầu”: Là giải thích tổng quát. Sáu vị cùng đối chiếu với nhau nên thành sau sau. Năm vị là nhân, Diệu giác là quả. Lại, ở trong vị, vị cũng có nhân quả. Như trong thập Địa với quả điều hòa, mềm diệu v.v…

-Sớ câu: “Như đi đến nơi ngàn dặm phải nhờ nơi bước ban đầu”: Tức lấy văn của đại sư Tăng Triệu, nơi bài “Vật Bất Thiên Luận”. Luận viết: cho nên công đức của Như Lai trải qua muôn đời mà hạnh lợi tha thường còn. Đạo pháp thông đến trăm kiếp, mà hạnh tự lợi càng vững bền vĩnh viễn. Bưng đất đổ thành núi phải từ nơi giỏ đất thứ nhất. Cũng như đi đến nơi chốn ngàn dặm phải nhờ vào bước đầu tiên. Quả do công nghiệp nên chẳng thể hư hoại.

Ý của Luận ấy cho rằng: “Các Tánh của vật đều an trụ, nên không có đến đi”. Nay tuy nêu dẫn văn nhưng dụng ý thì có chút ít khác biệt.

Ở đấy cho là vốn xuất xứ từ Trang Tử: “Đường đi ngàn dặm ở nơi bước chân lần dò”. Cũng như nước chảy cuồn cuộn, mênh mông vốn xuất phát từ dòng nước nhỏ. Cây to gốc đến mấy vòng ôm, vốn sinh từ cây con bé tí. Về sau nhờ nơi ban đầu mà đạt được, nên gọi là tại ban đầu.

Câu: “Học giả lộc tại kỳ trung hỹ” (Việc học, phúc lộc, bỗng lộc ở trong đó). Ý cũng giống như ở trên. Tức nơi sách Luận Ngữ: “Tử Trương học Can Lộc. Tử viết: “Đa văn khuyết nghi, thận ngôn kỳ dư tắc quả vưu. Đa kiến khuyết đải. Thận hành kỳ dư, tắc quả hối. Ngôn quả vưu. Hành quả hối, lộc tại kỳ trung hỷ” (Tử Trương muốn học làm quan, được bổng lộc. Khổng Tử bảo: Nghe nhiều, điều gì còn nghi thì để đó, đừng nói, những điều còn lại (tin được) thì khi nói phải thận trọng, như vậy sẽ ít lỗi. Thấy nhiều điều gì chưa yên lòng (hoặc còn nghi ngờ) thì để đó đừng làm, làm những điều còn lại, thì khi làm phải thận trọng, như vậy ít phải ăn năn. Lời nói ít lỗi lầm, việc làm ít ăn năn, bỗng lộc tự nhiên ở trong đó). Theo bản dịch của Nguyễn Hiến Lê.

Giải thích: Can cầu là mong cầu, dốc cầu về địa vị, phúc lộc. Tuy chưa đạt được phúc lộc nhưng đã có được con đường dẫn đến phúc lộc nên sau nầy sẽ đạt được. Do học mà có thể đạt được nên ở trong việc học. Một nghĩa trên đây là chung cho các Kinh, Luận.

-Sớ câu: “Trực tâm Bồ đề v.v…”: Tức là ý của Thật giáo trong Tông Pháp tánh nơi Luận Khởi Tín. Nhưng tâm Bồ đề gồm có ba Tâm, nay chỉ thâu tóm trong Trực Tâm. Do Trực tâm chánh niệm Chân như. Chân như tức là Chân như môn, một trong hai môn (Chân như môn, Sinh diệt môn) nơi Luận Khởi Tín, nên viết là “Trong Chân như môn”. Hai môn nầy đều thâu nhiếp hết toàn bộ tất cả các pháp, chỉ giữ lấy Chân như. Nghĩa là hết thảy các pháp cùng với với các đức về sau nầy đều dựa nơi Chân như. Chân như không hai nên là Thể của các pháp. Nay, tâm Bồ đề chánh niệm Chân như nên có thể thâu tóm tất cả.

-Sớ câu: “Ba là ba đức mở bày, làm hiển lộ sự viên dung sau trước”: Tức là nghĩa viên dung của Biệt giáo Nhất thừa, chẳng giống với những nghĩa khác.

Nói “Ba đức mở bày”: Tức nơi Phẩm Phát Tâm Công đức. Lúc mới bắt đầu phát tâm liền đạt được một Thân, vô lượng thân của Như Lai, chính là Pháp thân mở bày, làm hiển lộ chỗ đạt được trí tuệ rốt ráo. Đạt tất cả ánh sáng của trí tuệ tức Bát-nhã được mở bày, làm hiển lộ. Chẳng có một chút gì gọi là sở đắc đối với các pháp tức do tâm lìa vọng, giữ lấy sự tĩnh lặng, soi chiếu, cả hai cùng song hành, là sự mở bày, làm hiển lộ nẻo giải thoát. Trong tâm ấy, không một đức nào là không thâu tóm. Nhân bao gồm cả biển quả đều ở nơi Tâm ban đầu.

Câu “Từ lúc mới phát tâm liền thành Chánh giác” là văn nơi Phẩm Phạm Hạnh.

Nói “Trước sau đều viên dung”: Do trước là trước của tức sau, sao là sau của tức trước. Do pháp duyên khởi, lìa trước thì không sau, lìa sau thì không trước, nên nêu trước để thâu tóm sau. Nếu căn cứ vào tính chất dung thông của Pháp tánh, thì tất cả nhân quả đều không lìa tánh của Tâm. Khế hợp với tánh của Tâm nên không đức nào là không gồm thâu. Do hết thảy pháp đều tùy theo Tánh đối tượng được nương dựa, đều ở nơi Tâm ban đầu mà tức thì viên mãn. Cho nên nơi Phẩm Phạm Hạnh viết: “Nếu các Bồ tát có thể cùng với hành quán tương ưng như thế, ở trong các pháp không sinh hai thứ lãnh hội, lý giải, thì đối với tất cả Phật pháp mau chóng hiện tiền, lúc mới phát tâm liền đạt được đạo quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, biết rõ hết thảy các pháp là tự tánh của tâm, thành tựu thân trí tuệ, chẳng nhờ nơi sự giác ngộ của người khác”. Như văn nơi phần trước đã biện minh. Phần sau sẽ nêu bày trở lại.

-Sớ câu: “Trí của ba cái lớn, Trí ấy làm sáng tỏ Pháp giới”:

Trong Kinh nói đến “Mắt thanh tịnh” là tướng chung. Mắt ấy thấy cái gì? Thấy ba cái lớn của tâm. Trong phần Sớ giải thuộc về kinh nên chỉ phối hợp hai cái lớn (thể, tướng), lược không nói về cái lớn của Dụng. Dụng tức là sự thâu tóm của Trí.

Câu: “Theo nghĩa ánh sáng của Trí Tuệ soi chiếu khắp pháp giới”: Tức ngầm dẫn Luận Khởi Tín để làm rõ về ánh sáng tỏa chiếu khắp, là nghĩa “Cái lớn của Tướng”. Tức Luận Khởi Tín giải thích về môn Sinh diệt. Cái nghĩa “lớn” được hiển bày thì văn cùng làm rõ về Thể, Tướng. Luận viết: “Lại nữa, Chân như từ nơi Thể Tướng, tất cả hàng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chư Phật không có sai biệt, chẳng phải phần trước sinh, chẳng phải phần sau diệt, mà là thường trụ rốt ráo”.

Giải thích: Trên là giải thích về cái lớn của Thể, nay chẳng nêu dẫn, do pháp giới là Thể, nghĩa dễ nhận biết. Luận viết: “Từ xưa đến nay tánh tự đầy đủ tất cả các công đức. Đó là nghĩa tự Thể có trí tuệ lớn lao sáng suốt; nghĩa soi chiếu tất cả pháp giới; nghĩa nhận biết đúng thật; nghĩa Tâm thanh tịnh của Tự Tánh; Nghĩa Thường, Lạc Ngã, Tịnh; nghĩa trong mát, tự tại, không biến đổi…”

Giải thích: Sáu câu nêu trên đều là nói về cái lớn của Tướng:

Một: Bản giác với Trí sáng tỏ.

Hai: Bản giác hiển bày soi chiếu các pháp.

Ba: Lúc soi chiếu luôn thuận hợp, không điên đảo.

Bốn: Thể lìa mọi thứ hoặc, nhiễm.

Năm: Tánh đức viên mãn.

Sáu: Tánh đức không dời đổi.

Nay không nêu dẫn bốn nghĩa sau mà dẫn hai nghĩa trước có Trí, soi chiếu khắp để chứng tỏ “Ánh sáng tỏa chiếu khắp” là nghĩa lớn của Tướng. E có người cho pháp giới là đối tượng được soi chiếu, “Ánh sáng tỏa khắp” là chủ thể soi chiếu, nên nêu dẫn văn này. Cái lớn lao của Tướng vốn có tức đều là đối tượng được soi chiếu, do mắt thanh tịnh, Trí sáng tỏ là chủ thể soi chiếu.

* Từ câu “Tích chứa hằng sa tánh đức” tiếp xuống: Là giải thích chữ Tạng trong kinh, gồm đủ nghĩa của hai Tạng. Tích chứa Hằng sa đức tức Tạng Bất Không. Vọng, Hoặc vốn rỗng không tức là Tạng Không. Cho nên thanh tịnh là nói hướng lên trên là thuộc Tạng của đối tượng được xem xét, hướng xuống dưới là thuộc về Mắt của chủ thể nhận thức. Không có chướng ngại, che phủ nên gọi là “ kiên tánh”.

Câu: “Nhục nhãn tức gọi là Phật nhãn” tức nơi kinh đại Bát Niếtbàn quyển thứ sáu. Kinh viết: Thiện nam! Hàng Thanh văn, tuy có thiên nhãn nhưng vẫn gọi là nhục nhãn. Người tu học Đại thừa tuy có nhục nhãn nhưng được gọi là Phật nhãn. Vì sao? Vì kinh điển Đại thừa gọi là Phật thừa. Phật thừa như thế là đối tượng, tối thắng, là sự “Kiến tánh” của chư Phật.

-Sớ câu: “Lực lớn không dụng công một hành gồm nhiều”: Do tám địa đã đạt được diệu dụng không tốn công sức, như cỡi thuyền đi vào biển, nên gọi là lực lớn nhanh chóng.

Nói “Một hành gồm nhiều”: Tức trước dùng một thân dấy khởi sự hành hóa, đến tám địa nầy thì dùng vô lượng thân để thực hiện sự hành hóa, nên trong mỗi mỗi Hành đều dấy khởi tất cả Hành.

-Sớ câu: “Phần còn lại có thể nhận biết rõ, nên gọi là chứng đắc, hội nhập”: Trí Luận quyển thứ ba mươi mốt viết: “Thấu triệt gọi là hội nhập. Hội nhập cũng là chứng đắc. Đắc tức là nơi chính mình đạt được”.

-Sớ câu: “Cha của Bồ tát nên sự sáng tỏ đứng đầu”: Là văn của Trí Luận. Luận viết: “Bồ tát dùng Bát-nhã Ba-la-mật làm mẹ, Tam muội Ban chu làm cha. Ban chu tức là niệm Phật, đây phiên dịch là “Tam muội Phật lập”. Chính do niệm Phật tức là tiếp cận đích thực với sự việc, giống với phương tiện nên được gọi là cha. Lại nữa, niệm Phật, thành Phật là những thứ vốn gần gũi.

Nói: “Cho đến thập Địa chẳng lìa niệm Phật”: Tức trong thập Địa đều nói: “Hết thảy mọi đối tượng được tạo tác không lìa niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng v.v…”.

Phần biện giải ở trên, trước là nêu rõ lý do. sau, từ câu: “Vô biên Hải tạng” tiếp xuống: Là trở lại giải thích về tên gọi riêng. Phần nầy gồm hai:

Một: Nhắc lại kinh để giải thích tóm lược.

Hai: Từ câu: “Nhưng tóm lược có ba nghĩa” tiếp xuống: Chỉ bày rõ về Tướng.

Trong ba nghĩa, nghĩa thứ nhất là trong định thấy nhiều Phật, hai là Phật có nhiều đức. Hai nghĩa nầy đều căn cứ nơi đối tượng được niệm gọi là Vô biên Tạng. “Ba, vô biên đức thù thắng” tiếp xuống: Là căn cứ nơi chủ thể niệm gọi là Tạng. Phần nầy có ba:

Một: Làm sáng rõ.

Hai: Từ câu: “Thế nào là niệm Pháp” tiếp xuống: Là nêu ra chỗ giải thích, dẫn tóm lược về ba Thân.

Ba: Từ câu: “Chướng ngại không gì không diệt” tiếp xuống: Là sự tán dương của kinh. Cho nên trong phần kết của Hiền Hộ đã nêu dẫn rộng về các đức, trưng bày về nhân, Phật đáp “Đều từ niệm Phật mà sinh”.

Câu: “Một lời đủ bao quát tất cả”: Tức văn nơi sách Luận ngữ: “Khổng tử nói: Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, đó là tư tưởng không tà vạy”. Nghĩa là quy về nơi chính. Niệm một danh hiệu Phật cũng gọi là “Một lời” (nhất ngôn), nên dùng ngay “Nhất ngôn” chỉ cho một chữ Phật.

-Sớ câu: “Bảy là Bát-nhã” Tức giác ngộ tự tánh của các pháp là lìa mọi thứ phân biệt. Đây là giải thích chung về một môn, cũng tương đương với chỗ giải thích riêng về câu “Tự tánh lìa mọi cấu nhiễm”, là văn trong kinh đại Bát-nhã, Mạn Thù Thất Lợi phần, Bồ tát Từ Thị nói: Nếu các Bồ tát được nghe pháp Bát-nhã hết mực sâu sa nầy, tâm không bị chìm đắm, là đã tiếp cận đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Là vì các vị Bồ tát ấy hiện tại đã giác ngộ về tánh của các pháp là xa lìa hết thảy mọi phân biệt, như đại Bồ đề”. Nay pháp Bát-nhã ấy cũng khiến giác ngộ về tự tánh của các pháp, nên gọi là “Tự Tánh Ly”. Chữ Ly (lìa) có hai hướng: Hướng lên trên là thuộc “Tự Tánh Ly (tính chất lìa của tự tánh). Hướng xuống dưới là thuộc về phần lìa cấu nhiễm, tức lìa mọi cấu nhiễm của phân biệt.

Từ câu: “Có chỗ có thể lìa” tiếp xuống: Là giải thích riêng về văn kinh để xác nhận chỗ giải thích tổng quát ở trên.

Câu: “Còn thấy có chỗ có thể lìa thì chẳng phải là lìa bỏ đích thực” là giải thích ngược lại. Câu đầu xác nhận “Tánh lìa” nêu trên. Câu “Biết rõ “Tự tánh lìa” thì không trở lại lìa nữa” là giải thích thuận. Câu đầu là xác nhận lời lìa phân biệt nêu trên. Chẳng biết rõ về Tánh lìa, nghĩa là còn thấy có chỗ có thể lìa, tức là phân biệt. Nay đã rõ về Tánh lìa biết Tướng là vắng lặng nên không phân biệt.

Từ câu: “Lìa của không lìa tức là Chân Pháp giới” tiếp xuống: Là nối kết phần trên để giải thích phần dưới nói về Pháp giới, chính là giống nơi Luận Khởi Tín.

Chỗ gọi là “Giác”, nghĩa là Thể của tâm lìa mọi niệm. Lìa tướng của niệm là cùng sánh với Hư không giới, không nơi chốn nào là không biến hiện. Pháp giới một Tướng tức là Pháp thân bình đẳng của Như Lai. Pháp thân tức Chân pháp giới.

Câu: “Xưa nay đều thanh tịnh” là nối kết pháp giới ở trên để giải thích chữ thanh tịnh. Đã rõ “Tự tánh lìa” là chân pháp giới, tức vốn tự thanh tịnh, chẳng phải do quán chiếu khiến thanh tịnh, cũng chẳng phải trừ bỏ cấu uế nên được thanh tịnh. Do đó kinh nêu là “Pháp giới thanh tịnh”.

Câu: “Pháp giới kia thanh tịnh tức Bát-nhã thanh tịnh”: Là đem nghĩa nêu trên xác nhận Bát-nhã nầy được gọi là thanh tịnh. Đây có hai ý:

Một: Do Thể thanh tịnh mới thành Bát-nhã. Ở đây, Bát-nhã nhận lấy tên gọi thanh tịnh của Pháp giới.

Hai: Tánh vốn không hai. Cho nên nơi kinh đại Bát-nhã, Phần “Khó tin hiểu” có đoạn: “Lại nữa, Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh nên Sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên trí Nhất Thiết Trí thanh tịnh. Vì sao? Vì hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa thanh tịnh, hoặc Sắc thanh tịnh, hoặc Trí Nhất Thiết Trí thanh tịnh đều không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt, nên gọi là Tánh không hai”.

Câu: “Bát-nhã thanh tịnh tức gốc của muôn pháp thanh tịnh”: Cũng có hai ý:

Một: Do Bát-nhã soi chiếu tất cả pháp, biết rõ chúng vốn thanh tịnh.

Hai: Cũng là Tánh không hai. Cho nên nghĩa giống như đã nêu dẫn trên: Bát-nhã thanh tịnh tức Sắc thanh tịnh, bao quát khắp các pháp, lược nêu lên hơn tám mươi loại. Đó là: Năm uẩn, mười hai nhập, mười tám giới, bốn đế, mười hai nhân duyên, sáu Ba-la-mật, cho đến Bồ đề, Niết-bàn v.v… đều như đã nói về Sắc, nên gốc của muôn pháp là thanh tịnh.

Câu: “Muôn pháp thanh tịnh, tức không tịnh, không bất tịnh”: Là từ bỏ cả Tướng tịnh. Phàm gọi là Tịnh, tức nêu rõ gốc của Pháp, tánh là vô sinh, các tướng đều vắng lặng nên gọi là thanh tịnh, há đợi đến thanh thản không vật mới gọi là tịnh sao? Chẳng phải chỉ nơi Sự không mà là thanh tịnh đích thực. Còn thấy gốc đích thực là thanh tịnh thì chẳng phải là thanh tịnh, vì cũng là chỗ đối đãi nơi chủ thể, đối tượng chưa dứt hẳn, sao được gọi là tịnh? Nên bậc Thiện tri thức đúng nghĩa khiến xem rõ nẻo Tịnh, “Tức là Tánh vốn thanh tịnh, tịnh ấy không còn là tướng Tịnh, mới thấy rõ tâm ta” là nghĩa nầy.

Kinh Tịnh Danh nói: “Cấu uế, thanh tịnh là hai, thấy rõ thật tánh của cấu uế thì không còn tướng tịnh. Lìa bỏ nơi chỗ thấy tướng ấy là đi vào pháp môn Bất nhị”.

Phần kinh tiếp dưới viết:

“Nếu có thấy chánh giác

Giải thoát, lìa các lậu

Chẳng vướng nơi mọi đời

Kia chẳng chứng đạo nhãn.

Nếu có biết Như Lai

Thể Tướng không chốn có

Tu tập được thông tỏ

Người ấy mau làm Phật”.

-Sớ từ câu: “Thật Tướng Bát-nhã là Thể của muôn pháp” tiếp xuống: Là giải thích chữ Thân trong kinh.

Thân có ba nghĩa: Thể, Nương tựa, Tích tụ. Nay, Thật tướng Bátnhã tức là Thể của Pháp thân. Quán chiếu Bát-nhã đồng với chỗ nương tựa của Báo thân. Hóa thân gọi là tích tụ, vì cạn nên không nêu bày tức “Quyến thuộc Bát-nhã”, cũng được gọi là Thân, đồng với nghĩa tích tụ.

-Sớ câu: “Nên kinh Nhân Vương nói: ba địa sau…” Tức là địa thú tám trong Phẩm Giáo Hóa, gọi là Bồ tát đẳng quán. Kệ viết: “Bồ tát Đẳng quán, vua hai Thiền

Pháp thân biến hóa vô lượng quang”. Chín địa nói: “Khai sĩ Tuệ Quang, vua ba Thiền” Thập Địa nêu: “Bồ tát Quán đỉnh, vua bốn Thiền” Sau đều tụng như ba địa trên, là:

“Đẳng, Tuệ, Quán đỉnh, ba bậc sĩ

Trừ trước, trừ tập duyên vô minh

Vô minh tập tướng nên phiền não

Hai đế lý cùng, tất cả dứt”.

Giải thích: Đã nhắc lại tổng quát về ba địa dứt trừ tập khí của Vô minh. Do đấy, văn nơi bản Sớ giải gọi là cùng xua trừ vô minh.

Từ câu: “Chẳng phải là địa quán đỉnh” tiếp xuống: Là giải thích nghĩa nơi kinh kia. Địa Quán đỉnh nơi kinh kia tự tương đương với với địa thứ mười, nên gọi “Chẳng phải là địa Quán đỉnh”. Nhưng thập Địa cũng dùng việc dứt trừ tận cùng tập khí của vô minh với Trí không dụng công mà được quán đỉnh, nên gọi là “Trí quán đỉnh”.

-Sớ câu: “Thấy pháp khắp nên gọi là Phổ nhãn”: Đây là giải thích tên kinh, nhưng có ba nghĩa:

Một: Căn cứ theo đối tượng được nhận thức, gọi là Phổ (khắp).

Nói “Phổ pháp” (pháp khắp nơi) tức là một gồm đủ tất cả, mỗi mỗi xứng hợp với Tánh, đồng thời gồm đủ. Đây tức là khả năng của một Nhãn trong mười Nhãn. Kinh viết: “Mắt của Nhất Thiết Trí thấy rõ khắp Pháp giới”.

Hai: Đối chiếu một Nhãn (mắt) tức là mười Nhãn, do dung hợp không chướng ngại là căn cứ nơi chủ thể nhận thức, gọi là Phổ. Như Phật nhãn trong năm Nhãn. Bốn Nhãn kia hội nhập nơi Phật nhãn đều gọi là Phật nhãn. Như bốn sông lớn chảy vào biển thì không còn trở lại với tên sông, mà có đủ vị của biển cả. Kinh Kim Cương có câu: “Như Lai có nhục nhãn chăng? Đúng vậy, Thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn”. Cho đến câu: “Như Lai có Phật nhãn chăng? Đúng vậy, Thế Tôn! Như Lai có Phật nhãn”. Nay, mười nhãn cũng như thế. Theo một gồm đủ nười. Nhưng các giáo pháp nói chỉ có Phật nhãn là gồm đủ năm thứ, bốn nhãn còn lại thì không. Nay, người của nhân quả đều chấp thuận một nhãn tức gồm đủ mười nhãn, chẳng phải chỉ sau hơn, đầy đủ so với trước kém. Mà nếu một chẳng gồm đủ mười thì chẳng phải là “ Phổ nhãn”.

Nói “Mười nhãn” là nơi Phẩm Ly Thế Gian đã thuyết minh: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn, Trí nhãn, Quang minh nhãn, Xuất sinh tử nhãn, Vô ngại nhãn, Nhất thiết trí nhãn.

Về sự “Dung hợp không ngăn ngại” có hai nghĩa:

Một: Xác nhận tính chất vô ngại của mười nhãn nêu trên.

Hai: Xác nhận phần tiếp dưới, tức chủ thể, đối tượng không ngăn ngại.

Từ câu: “Ngoài Nhãn không có pháp mới đích thực là Phổ nhãn” tiếp xuống: Là căn cứ nơi Tâm, Cảnh cùng gồm thâu mới gọi là Phổ Nhãn.

Trên là nêu lên. Từ câu: “Dùng các duyên để phát hiện, nhận rõ” tiếp xuống: Là giải thích riêng về lý do. Như Pháp sư Đại Thừa (đại sư Khuy-Cơ) dùng chín duyên để nêu rõ về Thức. Nhãn căn gọi là Nhãn, phần còn lại chẳng gọi là Nhãn. Nay thì nêu ra, đối chiếu. Nhãn căn có thể phát sinh ra Thức, nhãn căn được gọi là Nhãn. Sáu duyên còn lại cũng như thế, do tính chất duyên khởi nơi các pháp đều có Hữu lực, Vô lực cùng thành lập.

Tiếp theo viết: “Nhân chìm trong Quả duyên hợp đều gọi là Nhãn”: Tức chín duyên không thấy sắc, không thấy thì chẳng gọi là Nhãn. Chín duyên đều thấy sắc Ẩn chìm nơi Quả cùng gọi là Nhãn. Do đều toàn Hữu lực.

Nói: “Toàn bộ sắc là Nhãn, thường thấy Sắc mà không duyên hợp” Sắc là Cảnh của đối tượng được duyên hợp. Nhãn là căn của chủ thể duyên hợp. Nay Sắc tức là Nhãn nên không duyên hợp.

Nói “Toàn bộ Nhãn là Sắc luôn gọi là thấy mà chẳng phải là ngã”:

Nhãn là chủ thề nhận thức của ngã. Nay toàn là Sắc, nên lúc chánh kiến tức chẳng phải là ngã. Đây tức là ý của đại sư Hiền Thủ. Phần tiếp theo lại có câu:

“Chẳng phải là ngã lìa nơi tưởng của vọng tình, không duyên hợp, dứt tuyệt mọi tham cầu, thâu tóm muôn hình tượng nơi trước mắt, bao gồm cả mười phương nơi cõi Nhãn, do đấy nghĩa duyên hợp là vô tận, theo nhận thức, kiến giải mà chẳng cùng. Tánh của vật đâu thể nghĩ suy, ứng hợp với pháp pháp mà khó thành chuẩn mực. Pháp hiện khắp thì Nhãn có khắp, nghĩa thông hợp nên nhận thức cũng thông, Thể ấy tự Ẩn giấu, soi chiếu thì lớp lớp tầng tầng. Sau đấy, tận cùng mười phương nơi cõi mắt, có không của gương mà càng sáng rõ. Thâu gồm muôn hình tượng để thành thân, hiển bày Sự, Lý mà thông suốt, thấu triệt”.

-Sớ câu: “Năm độ đều có phước, định là lớn tột bậc”: Sáu Ba-lamật (độ) thâu tóm thành hai thứ trang nghiêm, tổng quát có hai ý:

Một: Năm độ trước là Phước. Một độ sau là Trí.

Hai: Ba độ trước chỉ là Phước. Một độ sau chính là Trí. Còn Tinh Tấn, Thiền định thì chung cho cả hai. Thành trước là Phước, thành sau thuộc Trí. Nay do trong kinh nói: “Đạt được Tam muội gọi là đại phước đức” nên dùng phần trước.

-Sớ câu: “Phước tức là thiện, chẳng phải phước tức là tội”: Tức ý nơi Phẩm Tương Nhiếp Tội Phước của Bách Luận. Cho nên Luận đã dẫn kinh Kim Cương: “Phước còn phải xả bỏ huống chi là chẳng phải phước”. Dùng thiện bỏ ác, dùng trí Vô tướng bỏ phước, tức thiện ác cả hai cùng quên. Nay gọi là thấu tỏ, tức một là thấu rõ về Tướng, hai là thấu rõ về Thể Không, ba là thấu rõ về tính chất vô ngại.

Từ câu: “Hai, Phước tức là Tướng” tiếp xuống: Tức dùng Thế đế để nói về Phuớc. Trong Đệ-nhất-nghĩa-đế thì Phước cũng chẳng còn. Cho nên dẫn kinh Kim Cương: “Như Lai nói tướng Phước đức” là tùy theo thế tục mà giảng nói. “Tức chẳng phải là tướng Phước đức” là ứng hợp với thể rỗng lặng. “Đó là tướng Phước đức” là tóm kết về nghĩa chính.

Nếu Phước tức Phi Phước mới gọi là Phước đích thực. Nếu cho Phước là Phước thì chẳng phải là Phước đúng nghĩa. Có người cho câu thứ ba cũng là căn cứ nơi Tục đế mà nói, như thế là chẳng đạt được ý của kinh.

-Sớ câu: “Một là không thật mà quyền biến nêu bày”: Như nói có ba xe hiện có nơi ngoài cửa (Pháp Hoa) tức là Quyền giáo với ba Thừa. Vốn không có ba Thừa mà nói có ba Thừa, dối nêu ba xe, nhưng ra khỏi cửa chẳng đạt được. Câu: “Hai là, Lý vốn vô ngôn”: Cũng là kinh Pháp Hoa: “Tướng các pháp vắng lặng, chẳng thể dùng lời nêu, do diệu lực phương tiện, Giảng cho năm Tỳ Kheo”.

Câu: “Ba là Quyền, Thật không vuớng mắc”: Tức là hội nhập nơi Hữu chưa từng mê chấp nơi Không. Quán không chẳng hề sót nơi Sự, tức Như Lai với phương tiện tri kiến Ba-la-mật đều đã đầy đủ.