ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
HOA NGHIÊM KINH TÙY SỚ DIỄN NGHĨA SAO

QUYỂN 26

Đời Đường, Đại sư Trừng Quán

-Sớ từ câu: “Cõi đã chẳng đồng” tiếp xuống: Là phần thứ ba, giải thích văn. Phần này gồm bốn:

Một: Nối tiếp phần trước để dẫn đến phần tiếp theo.

Hai: Chính thức giải thích văn kinh.

Ba: Nhận xét, phân biệt, giải thích chỗ vướng mắc.

Bốn: Lần lượt dẫn dắt, dung hợp.

-Sớ từ câu: “Ba phần đầu” tiếp xuống: Là phần hai, chính thức giải thích văn kinh. Giải thích câu thứ nhất, văn nơi bản Sớ giải có hai:

Một là, chính thức giải thích.

Hai là giải đáp chỗ vướng mắc.

-Một: Nói “Tất cả các cõi Tịnh, uế”: Đây là chung cho ba cõi, chỉ trừ cõi Pháp tánh, vì nói “Do chung cả Tuệ Lực tạo thành”. Đấy tức là văn nơi kệ: “Trí Tuệ, Lực thần thông như thế”.

Nói “Vì muôn vật để chọn lấy, theo đấy mà ứng hiện khắp” tức ngoại trừ Tự Thọ dụng, còn lại đều là Vật.

-Sớ từ câu: “Phật ứng hiệu thì tóm hợp cả” tiếp xuống: Là giải thích chỗ vướng mắc. Ở đây có hai vướng mắc:

Một: Vướng mắc về chỗ “đều gọi là cõi Phật”: Nghĩa là cõi có tịnh, uế. Cõi uế há là cõi Phật? nên nay giải đáp: Uế cũng là cõi Phật. “Ngôi nhà hư nát trong ba cõi thuộc về một người. Cõi Sa-bà uế tạp xấu ác ở trong thế giới Hoa Tạng là cõi Phật của chúng ta”.

Hai: Theo lời Phật giảng nói thì không một quốc độ nào là không thanh tịnh, tức vướng mắc về chỗ “Chung nơi cõi uế gọi là cõi tịnh”. Đây là do trong kinh Tịnh Danh có trường hợp Đồng tử bảo Tích xin được nghe về tính chất thanh tịnh nơi quốc độ của Phật. Phật đáp lại nói: “Các loài chúng sinh…” tức là không phân biệt tịnh uế. Uế cũng là cõi tịnh. Cho nên đồng tử sinh nghi, cho rằng “uế” được gọi là cõi Phật, căn cứ vào cõi uế của Phật thống lãnh được gọi là cõi Tịnh. Thì dựa vào lý gì? Nên có lời đáp nầy: Cõi Phật đều thanh tịnh nhưng do đâu Tôn giả Thân Tử thấy nào là gò đống hầm hố ? Phật nói: “Cõi nầy của Như Lai là thanh tịnh mà Tôn giả không thấy…” nói “đã tức uế mà là tịnh nên là chẳng thể nghĩ bàn”. Tức là dùng nghĩa nêu trên hợp với văn nơi kệ tiếp theo. Kệ viết: “Cảnh giới Thế Tôn chẳng thể nghĩ bàn”.

-Sớ câu: “Nếu là Pháp tánh tức do thức gốc là thân Như Lai Tạng: Là căn cứ nơi Như Lai Tạng tùy duyên thành lập các cõi Tịnh, uế. Như phần bàn về Phẩm Tam muội đã dẫn kinh Lăng già nói: Đây là theo tướng chung, không hạn cuộc nơi chúng sinh, cũng chẳng giới hạn nơi Phật. Nếu nói: “Pháp như thế” (cũng gọi là Pháp tánh), tức đạo lý của “Pháp là như thế”, mà phần thập Địa đã nêu bày, nên Sớ giải đã kết hợp hai văn, ở nơi Lý có thể nhận thấy.

-Sớ từ câu: “Nghiệp có thiện,ác” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải gồm hai phần:

Một: Giải thích tổng quát.

Hai: Từ câu: “Nên kinh Tịnh Danh” tiếp xuống: Là dẫn chứng. Nêu dẫn ba kinh (kinh Tịnh Danh, kinh đại Bát Niết-bàn và kinh Quán Vô Lượng Thọ) với bốn đoạn văn. Kinh Tịnh Danh có hai đoạn, đều thuộc phẩm Phật Quốc.

Thứ nhất: “Dùng muôn hạnh làm nhân” kinh nói: “Đồng tử bảo Tích nên biết: Tâm ngay thẳng là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành

Phật thì những chúng sinh không dua nịnh sẽ vãng sinh về quốc độ ấy. Tâm sâu xa là tịnh độ của Bồ tát, Bồ tát khi thành Phật có những chúng sanh đầy đủ công đức sẽ sinh sang quốc độ ấy Tâm bồ đề là tịnh độ của Bồ tát” “Khi Bồ tát thành Phật các hàng chúng sanh Đại thừa sẽ sinh sang quốc độ ấy” Phần tiếp theo nêu ra các pháp như sáu độ v.v. Cho nên gọi là “ dùng muôn hạnh làm nhân”.

Thứ hai: Lại cho rằng: “Các loài chúng sinh là cõi Phật của Bồ tát”, cũng là văn của Phẩm đã dẫn.

Từ câu: “Nghĩa là Pháp tánh tuy một” tiếp xuống: Là cùng giải thích hai đoạn nêu trên, văn nơi bản Sớ giải phân làm ba:

Một: Câu “Theo nghiệp thành ra khác”: Là giải thích câu “dùng muôn hạnh làm nhân” ở trên, đây là Nhân ở cõi.

Hai “Câu: “Phật tùy theo các loại chúng sinh khác nhau mà chọn lấy cõi để thâu nhiếp chúng sinh” là giải thích phần văn nêu trên. Lại nói “Các loại chúng sinh là cõi Phật của Bồ tát”: Đây là duyên của cõi.

Ba: Từ câu: “Kinh Niết-bàn” tiếp xuống: Là dẫn riêng một kinh

khác để xác nhận nghĩa thứ nhất kia.

Theo trong phần hai, cũng nêu dẫn văn thuộc Phẩm Phật Quốc, đồng tử Bảo Tích hiến cúng Phật các Lọng báu. Phật nhân đấy mà hiện bày sự biến hóa về tướng của cõi Tịnh. Đồng tử liền cầu về nhân đầu tiên hỏi: “Xin được nghe về tính chất thanh tịnh nơi quốc độ của Phật” tức là nêu về Quả. “Kính mong đức Thế Tôn nói về các việc làm để thực hiện tịnh độ của các Bồ tát”. Phật đáp: “Các chúng sinh là cõi Phật của Bồ tát. Vì sao? Vì Bồ tát tùy theo chúng sinh được giáo hóa mà chọn lấy cõi Phật. Tùy theo chúng sinh được điều phục mà chọn lấy cõi Phật”. Tùy các chúng sanh nên do quốc độ nào để khởi căn cơ Bồ tát mà chọn lấy cõi Phật.

Giải thích: Hai câu trên là biện minh chung về việc chọn lấy cõi, toàn bộ là vì muôn loài.

Kinh viết: “Tùy nơi các chúng sinh nên do quốc độ nào để hội nhập trí tuệ của Phật mà chọn lấy cõi Phật…”.

Giải thích: Ở đây là nêu rõ về nguyên do của sự khác nhau nơi Cõi.

Phần kinh tiếp theo đưa ra sự giải thích: “Vì sao? Vì Bồ tát chọn lấy nơi cõi Tịnh đều nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh” Ý nơi phần kinh giải thích nói: Bồ tát tu tập về Nhân, chọn lấy cõi đều nhằm duyên với chúng sinh, nếu không có chúng sinh thì chọn lấy cõi để làm gì? Đây đều là duyên của cõi Tha Thọ dụng và cõi Biến Hóa. Cho nên trong Luận Duy Thức nói hai cõi đều do Hạnh lợi tha mà thành, cũng là làm rõ việc vì chúng sinh mà chọn lấy cõi. Kinh Duy-ma-cật đã nêu ví dụ: “Như người có muốn tạo lập đền đài thì cần dựa nơi chổ đất trống. Nếu không có hư không thì rốt cuộc chẳng thể thành tựu. Muốn tu tập tịnh độ ắt phải duyên nơi chúng sinh. Nếu không có chúng sinh thì không có nơi chốn để tu hướng tới”.

-Sớ từ câu: “Kinh Niết-bàn nói về điều thiện nhỏ” tiếp xuống: Là dẫn riêng một kinh khác để xác nhận về nghĩa thứ nhất. Tức là kinh đại Bát Niết-bàn quyển thứ hai mươi mốt. Phẩm Bồ tát Cao Quý Đức Vương. Bồ tát Lưu Ly Quang từ thế giới Bất động đến thế giới này, nên Bồ tát Vô úy hỏi Phật: “Chúng sanh ở cõi Sa-bà nầy nên thực hành theo nghiệp gì để được sinh về thế giới Bất động?” Phật đã dùng kệ đáp lại nêu ra mười nghiệp thiện, mỗi mỗi đều được sanh về cõi ấy. Nói “Điều thiện nhỏ”, tức như kệ viết:

Đối với Phật, Pháp, Tăng

Cúng dường một hương, đèn

Cho đến dâng một hoa

Thì sinh cõi Bất động.

Nếu vì cớ sợ hãi

Lợi dưỡng cùng phước đức

Chép một kệ kinh nầy

Thì sinh cõi Bất động.

Lại nói:

“Tạo tượng hoặc tháp Phật

Dù chỉ bằng ngón tay

Thường sinh tâm hoan hỷ

Tức sinh cõi Bất động”

-Sớ câu: “Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về ba tâm”:

Có ba thứ ba tâm:

Thứ nhất: Đức Phật vì Hoàng hậu Vi đề Hy hiện bày về cõi Tịnh. Hoàng hậu nguyện sinh về cõi ấy, nên cầu Nhân. Phật dạy: “Muốn sinh về cõi ấy thì phải tu tập ba thứ phước:

Một là, hiếu duỡng cha mẹ, kính thờ các bậc sư trưởng, tâm từ bi không giết hại cùng tu tập mười nghiệp thiện.

Hai là, thọ trì ba Qui y, đầy đủ các giới cấm, chẳng hủy phạm oai nghi.

Ba là, phát tâm Bồ đề, tin sâu về nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến khích người tinh tấn tu tập.

Ba sự việc như thế gọi là Nghiệp tịnh. Phật bảo Tôn giả A nan cùng Vi Đề Hy: Chư vị nay biết chăng? Ba thứ nghiệp ấy là nhân chính nơi Nghiệp tịnh của chư Phật trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai.

Giải thích: Nếu thực hành đầy đủ ba nghiệp tịnh ấy thì cõi Tịnh nào mà không đạt đến. Vậy thì các chúng sinh nào theo Phật để được gọi chung là chúng sinh? Như trên đã dẫn, tức đoạn “Tâm ngay thẳng là cõi Phật của Bồ tát. Bồ tát khi thành bậc chánh Giác thì những chúng sinh chẳng dua nịnh sẽ được vãng sinh về quốc độ ấy…”

Thứ hai: Trong phần nói về “Thượng thẩm thượng sinh” kinh viết: Như có chúng sinh nguyện về quốc độ ấy, phát ba thứ tâm liền được vãng sinh. Những gì là ba tâm?

Một là Tâm chí thành.

Hai là Tâm sâu xa.

Ba là Tâm Hồi hướng phát nguyện.

Người đầy đủ ba Tâm ấy thì ắt được vãng sinh về quốc độ kia.

Thứ ba: Kinh viết: “ Lại có ba loại chúng sinh sẽ được vãng sinh.

Ba loại chúng sinh ấy là:

Một: Có từ tâm, không sát hại, đầy đủ các giới hạnh.

Hai: Đọc tụng các kinh điển Phương đẳng Đại thừa.

Ba: Tu tập hành trì sáu niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sinh về quốc độ ấy.

Người thực hiện đầy đủ các công đức ấy thì từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sinh”.

Giải thích: Ba Tâm thứ ba phần nhiều giống với ba câu của phần một. Mà hợp hai Tâm của phần một mở ra Tâm một của phần sau.

Các Tâm trên đây, chẳng phải chỉ là “được sinh về quốc độ kia”, mà còn là Nhân của sự vãng sinh, cũng có thể được gọi là Nhân của sự tu tập để hình thành cõi Tịnh kia. Cho nên kinh Quán Vô Lượng Thọ đã viết: “Nhân chính nơi Nghiệp tịnh của chư Phật trong ba đời”. Nay nêu dẫn làm Nhân của cõi Phật.

-Sớ câu: “Ba phần nêu trên, một là Nhân, hai là Duyên, ba là Nhân”:

Về Nhân thì tóm lược có hai:

Một là Nhân Biến Hóa. Tức là phần một nói về thần lực của Như Lai “gồm chung cả Tuệ, Lực mà thành”.

Hai là, Nhân cảm cầu về cõi tịnh, tức là phần thứ ba (Nghiệp lực của chúng sinh).

Về Duyên cũng có hai:

Một là, căn cứ nơi Cảnh, lợi vật, lấy chúng sinh làm Duyên.

Hai là, nhiếp Cảnh theo Tâm, đều là sự biến hiện từ Thức.

Ở đây, nghĩa thứ hai chính là chân tâm theo Duyên mà biến hiện.

-Sớ câu: “Tiếp theo, bốn là biện minh riêng, có Nhân có Duyên”:

Như đại Viện Cảnh Trí với đối tượng được thành tựu là Duyên nơi Nhân của cõi Biến Hóa, chung cả Nhân, chung cả Duyên. Phật dùng chúng sinh là Duyên. Chúng sinh lấy Phật làm Duyên.

-Sớ câu: “Chúng sinh, Bồ tát cùng tạo nên một duyên”: Trên đã biện minh chung tức đoạn “Tâm ngay thẳng là cõi Tịnh của Bồ tát v.v…”. Nếu Bồ tát tự mình tu tập về tâm ngay thẳng thì hạng chúng sinh dua nịnh nhờ đâu mà được vãnh sinh? Vì thế nên khuyên mọi loài cùng tu tâm ngay thẳng. Cho nên Bồ tát dùng nhân của Tâm ngay thẳng để chọn lấy cõi của Tâm ngay thẳng, do ứng hợp với chúng sinh có tâm ngay thẳng là cùng tạo nên một duyên vãng sinh đến quốc độ ấy. Muôn hạnh đều như thế, nên viết: “Tùy theo hành nghiệp”.

Nói “Phàm Thánh cùng cư ngụ”: Tức là cõi Biến Hóa. Nếu như nơi Tha Thọ dụng chỉ là chỗ ngụ của bậc Thánh, thì cõi Biến Hóa phàm Thánh cùng cư ngụ có hai nghĩa:

Một: Theo cơ duyên để biến hóa.

Hai: Ở trong thân phàm phu, mới chứng đắc quả Thánh, nên cũng cho là “ cùng cư ngụ”.

-Sớ câu: “Hai thứ ba, bốn là Nhân của cõi Tha Thọ dụng”: Tóm lược như văn của Luận Duy Thức đã dẫn ở trên. Luận Duy Thức toàn bộ dựa theo Phật để nói về Nhân. Nay chung cho Bồ tát, nghĩa là trong nhân của Phật tu tập hai nhân này thành Tha Thọ dụng, tức là Nhân của Phật. Hai là Bồ tát trụ địa tu tập hai nhân ấy, đạt được Tha Thọ dụng là căn cứ nơi nhân của Bồ tát. Nơi địa thứ nhất, tám địa, kinh Thập Địa có nêu giảng rộng.

-Sớ câu: “Thắng giải giữ lấy chỗ ấn chứng, theo tâm mà chuyển biến”: Thắng giải, do đối với Cảnh đã giữ lấy chỗ ấn chứng làm Tánh. Giữ lấy chỗ ấn chứng nơi vạn Cảnh để theo tâm mà chuyển biến.

-Sớ câu: “Một là chỗ xuất phát của thiện căn, gọi là trong Nhân”:

Tức là sự tu tập, hành trì về hai nẻo tự lợi, lợi tha là viên dung, không bị chướng ngại, nên mới đạt được như thế.

Sớ từ câu: “Cõi Pháp tánh kia” tiếp xuống: Là phần ba, nhận xét, phân biệt, giải đáp chỗ vướng mắc. Vấn nạn nêu: “Mười câu ở trên hàm chứa bốn cõi, vậy sao chỉ nêu rõ riêng về nhân của ba cõi?” Nên vì thế mà ở đây đã giải thích như thế.

Tiếp theo lại nêu câu hỏi: “Ngoài bốn cõi còn nêu riêng về cõi viên dung nên có năm cõi” do vậy nay đáp rằng:

Ba cõi sau chỉ dung hợp với các giáo pháp khác. Còn bốn tức là tông chỉ của kinh Hoa Nghiêm. Chẳng phải có riêng một thể. Nhân của sự viên dung ấy cũng như đã nói ở trên. Lại nữa, nói về cõi Tịnh thì gồm có hai nghĩa:

Một: Hành nghiệp tịnh là Nhân, cảm cầu về tướng tịnh của Quả.

Hai: Đức nghiệp là Nhân, cảm cầu về sự thanh tịnh tự tại là Quả.

Hành nghiệp thì bắt đầu từ phàm phu, chung cuộc là đạt đến thập Địa. Đức nghiệp thì khởi đầu từ bất động, chung cuộc đạt tới Như Lai.

Phần thứ hai biện minh riêng là Hành nghiệp thanh tịnh. Phần thứ ba thâu tóm, dung thông là Tự Tại thanh tịnh. Phần thứ nhất biện minh chung thì gồm đủ hai thứ thanh tịnh ấy, nên văn nơi Sớ cho là ba.

-Sớ từ câu: “Lại, mười sự ấy lần lượt sinh khởi” tiếp xuống: Là trong kệ phát sinh sự dẫn dắt, dung hợp.

-Sớ từ câu: “Luận Thành Duy Thức nói” tiếp xuống: Văn từ đây tiếp xuống thì ở trước đã nêu dẫn chung. Nay sẽ giải thích tóm lược. “Trí đại Viên Cảnh tương ưng với Thức thanh tịnh”, tức quả vị thứ tám, đấy là nhân của sự nương dựa. Nương dựa ở đây để biến hiện tức thì.

Từ câu: “Do chỗ tu tập từ trước” tiếp xuống: Đây là Nhân của Hành.

Từ câu: “từ lúc mới thành Phật” tiếp xuống: Là biện giải về tướng của Quả. Thứ nhất, nêu rõ về chỗ dài lâu của chiều dọc (Thời gian). Thứ hai, từ câu: “Viên mãn khắp xuống” tiếp xuống: Là biện minh về tính chất rộng lớn của chiều ngang (Không gian).

-Sớ câu: “Luận viết”: “Nghĩa là Bình đẳng Tánh trí…”: Phần trên đã nêu dẫn. Trước là nói về trí, sau là nói về hành, đều là Duyên nhân. Cũng dùng Hành làm Nhân, dùng Trí làm Duyên nên gọi là nhân duyên. Hai pháp trên cũng đều là Nhân, tùy theo Bồ tát thập Địa làm duyên. Như trên nói tùy chúng sinh được hóa độ mà biến hóa làm cõi Tịnh, tức là Tướng của Quả. Nơi các địa càng tiến về sau thì lớn hơn so với càng lùi về trước. Càng lùi về trước thì kém, càng tiến về sau thì dần dần hơn hẳn. Phần tiếp dưới, dẫn về nghĩa của Địa đều như Phẩm gốc.

-Sớ từ câu: “Lại kệ thứ bảy trong y báo có y báo” tiếp xuống: Là dùng nghĩa để phân biệt, xác nhận về môn “Vô Ngại Hành”. Đây là ý của đại sư Hiền Thủ (643-712) trong phần quán về cõi Hoa Tạng. Theo đại sư thì có năm môn:

Một: Thành lập nhân duyên (Nhân duyên thành lập): Ý chính nơi môn nầy là dấy khởi đầy đủ nhân duyên.

Hai: Tướng trạng bố liệt (Nêu bày về tướng trạng): Tức như Phong Luân, Hương hải ở nơi Phẩm Hoa Tạng.

Ba: Cụ đức viêm mãn (Mọi đức đều viên mãn).

Bốn: Y chánh dung nhiếp (Y báo, chánh báo thâu tóm, dung thông)

Năm: Nhiếp thành quán trí (Thâu tóm thành trí quán).

Nay nơi bản Sớ giải có hai:

Một: Lặp lại kinh văn để biện minh tóm lược, tức là môn thứ tư vừa nêu (Y chánh dung nhiếp).

Hai: Từ câu: “Nhưng tính chất vô ngại ấy chung có mười thứ” tiếp xuống: Tức là môn thứ ba theo kiến giải trên (Cụ đức viện mãn). Chỉ lý giải hai môn nầy thì tự thành Trí quán. Cho nên lược không nói đến môn thứ năm.

Tuy nhiên, chỗ “Đức đầy đủ” (Cụ đức) kia nên bày về một “Hương Thọ” cũng làm rõ mười nghĩa:

Một: Hương Thọ nầy tức là đức nơi Trí Thân của Phật.

Hai: Tức là chuyển pháp luân.

Ba: Sự lý không ngăn ngại.

Bốn: Đức của Bi, Trí.

Năm: Đức khó nghĩ bàn.

Sáu: Thể dụng vô ngại.

Bảy: Định, Loạn không chướng ngại.

Tám: Đức vi tế.

Chín: Đức nơi cảnh giới của Phật.

Mười: Đức của Duyên khởi không bị ngăn ngại.

Mà trong ngoài cùng đan xen để thành mười môn. Cũng không dẫn chứng. Nay ,vì thuận theo kinh nên có thêm bớt lập bỏ, đều dẫn văn để chứng minh, gồm đủ cả Sự, Lý vô ngại, Sự Sự vô ngại. Văn nơi bản Sớ giải gồm bốn:

Một: Nêu tổng quát.

Hai: Từ câu: “Các Giáo nói về cõi” tiếp xuống: Là lập ý.

Câu: “Hoặc cho chỉ là vô thường”: Là chung cho cả Đại thừa, Tiểu thừa. “Hoặc cho là tâm biến hiện” chỉ là Đại thừa. “Lý sự cách biệt” là nêu rõ đấy chẳng phải là Thật giáo.

Ba: Từ câu: “Một là Sự Lý Vô ngại” tiếp xuống: Là chia môn để giải thích riêng.

Trong phần bàn về môn một “Sự Lý Vô ngại” đã nêu dẫn kinh, tức kinh Hoa Nghiêm quyển thứ mười. Câu cuối của bài kệ là:

“An trụ nơi hư không”

Nay chỉ chọn lấy ý “trang nghiêm” (câu ba: Trang nghiêm thảy thanh tịnh) là nói về Lý không sai biệt của Sự Pháp giới, tức là Vô ngại.

Nơi môn thứ hai “Thành Hoại Vô ngại” không nêu dẫn văn, do nghĩa dể thấu đạt. Cũng là kệ ấy nên viết là:

“Trong mỗi mỗi loại cõi

Kiếp thiêu chẳng nghĩ bàn

Chổ hiện tuy xấu, hoại

Xứ ấy luôn thanh tịnh”.

Trong môn thứ ba “Rộng hẹp không ngăn ngại, kinh viết: Thể Tướng như gốc không sai biệt”, tức là kinh quyển thứ tám, phần kệ giải thích về chủng loại cõi. Cùng với môn thứ tư (Tương nhập vô ngại), chỗ nêu dẫn, tức là nữa trước của kệ trước đầy đủ là:

“Dùng một cõi nhập về tất cả

Tất cả nhập một cũng không thừa

Thể tướng như gốc không sai biệt

Không hơn, không lường, biến hiện khắp.”

Nơi môn thứ năm “Tương Tức Vô ngại”, văn dẫn chứng là nơi kinh Hoa Nghiêm quyển thứ bảy. Môn thứ sáu (Vi tế vô ngại) kinh viết “Châu ngọc thanh tịnh bày như mây…”, tức là kệ của “Hương Thủy Hà” thứ tám đầy đủ là:

“Châu ngọc thanh tịnh bày như mây

Tất cả “Hương Hà” thảy phủ khắp

Châu kia cùng tướng giữa mày

Phật Hiển hiện rõ ràng các ảnh Phật.

Nay chỉ dẫn ra hai câu đầu và sau, là để làm rõ về nghĩa vi tế.

Môn thứ bảy “Ẩn Hiển Vô ngại” đã lượt bớt không dẫn kinh, do nghĩa gồm nhiều. Tức như kệ ở đây có câu:

“Theo tâm tạo nghiệp chẳng nghỉ bàn

Hết thảy các cõi được thành lập”.

Tức là nghĩa ấy, do cùng chốn mà thấy khác, nên là “chẳng thể nghỉ bàn”. Lại nữa, kệ nơi phần Hình Trạng viết:

“Trong tất cả Trần chỗ hiện cõi

Đều là lực thần thông nguyện gốc

Tùy tâm ưa thích loại loại khác

Ở trong hư không đều tạo tác”.

Giải thích: Đã gọi một Trần tùy chỗ ưa thích đủ loại đủ thứ đều tạo tác tức là Ẩn Hiển tự tại. Nhưng trong văn nơi bản Sớ giải thích đã lược nêu ra hai thứ Ẩn Hiển:

Một: Ẩn Hiển Nhiễm Tịnh. Như người cảm cầu về thế giới Sa bà, đối nơi thế giới Hoa Tạng mà thấy thế giới Sa bà, tức Tịnh Ẩn mà Nhiễm hiển. Còn cảm cầu về cõi Hoa Tạng, thì đối với thế giới Sa-bà mà thấy cõi Hoa Tạng, tức Nhiễm Ẩn mà Tịnh hiển bày. Cho nên nơi nước Ma kiệt đề mà đất là kim cương v.v…

Hai: Ẩn Hiển dị loại. Như núi chúa Tu Di hiện ra thế giới. Khi một loại hiển bày thì các hình tướng về sông suối đều Ẩn giấu.

Lúc cõi dài rộng hiển bày thì cõi ngắn hẹp liền Ẩn giấu. Phần còn lại có thể theo đấy mà nhận biết.

Môn thứ tám (Trùng Hiện Vô ngại) cũng không nêu dẫn văn, do

phần “Thế giới Hoa Tạng mọi trần có. Trong mỗi mỗi trần thấy Pháp giới” đã dẫn nhiều lượt. Nếu lại nêu dẫn nữa thì dựa nơi kệ Trụ. Kệ viết:

“Lại có quốc độ khắp pháp giới

Thanh tịnh, lìa cấu từ tâm hiện

Như bóng, như huyễn rộng vô biên

Như vòm lưới báu đều sai biệt”.

Môn thứ chín: (Chủ Bạn Vô ngại), về chỗ nêu dẫn tức nơi kinh quyển thứ tám, thuộc kệ trong phần giải thích về “ Hải nhỏ”

Môn thứ mười (Thời Xứ Vô ngại). Câu: “ Lại, phần văn tiếp theo nói: “ tức nơi kinh Hoa Nghiêm quyển thứ tám, thuộc phần kệ về “ Hà gian” Thọ lâm”.

-Sớ từ câu: “Mười môn vô ngại nầy” tiếp xuống: Là phần bốn tóm tắt về chỗ giải thích nghĩa của sáu Tướng. Lược nêu như trước đã nói, rộng diễn như nơi chương riêng về thập Địa.

-Sớ từ câu: “Như thế nào là thế giới rộng lớn” tiếp xuống: Là tùy theo chỗ khó mà giải thích riêng. Như giải thích về hai phần tám, chín có hai cách giải thích nghĩa:

Một là chung cho các Giáo.

Hai là, từ câu: “do vô lậu” tiếp xuống: Tức là tông chỉ củ “Sự Sự Vô ngại”. Ở trên, phẩm Hiền Thủ nói:

“Hết thảy quốc độ nhập thân ta

Chỗ chư Phật trụ cũng là thế Ông nên quán lỗ lông nơi ta Ta nay chỉ ông cảnh giới Phật”.

-Sớ câu: “Chỗ hiện quốc độ giống như cõi Báo kia nên tầng tầng lớp lớp mà hiện bày chẳng lìa nơi một sợi lông”: Như một ngàn ngọn đèn cùng soi chiếu nơi một sợi lông thì trên một sợi lông có ngàn lớp ánh sáng. Dựa theo dụ để suy xét về Pháp.

-Sớ từ câu: “Trong phần thứ tư, bàn về Thể của cõi, thì các giáo chẳng đồng” tiếp xuống: Tức năm Giáo, nêu ra chỗ giải thích về Thể có hai ý:

Một: Tức phối hợp riêng thì tám Vi là Tiểu Thừa. Duy Tâm là Thủy giáo. Pháp tánh là hai Giáo Chung và Đốn, hoặc tất cả Pháp là Viên Giáo.

Hai: Tức biện minh chung Viên Giáo gồm đủ nơi bốn nghĩa. Đốn giáo chỉ là Pháp tánh. Tiểu Thừa chỉ là tám Vi. Thủy giáo là Chung giáo thì chung nơi ba nghĩa trước. Nếu ba nghĩa đều riêng thì hai là Thủy giáo. Nếu ba nghĩa vô ngại, tánh tướng viên dung tức là Chung giáo.

Tông Pháp tướng nêu ra chỗ riêng của thể:

Một là Cõi Pháp tánh, dùng Chân như làm Thể.

Hai là Cõi Thật Báo, là lực vô úy vv tất cả công đức vô lậu nơi năm uẩn dùng làm Thể Tánh.

Nếu thâu tóm Tướng quy về Tánh thì cũng Chân như làm Thể.

Ba là Cõi Sắc Tướng, thâu tóm Cảnh theo tâm tự lợi, Hậu Đắc Trí làm Thể. Luận Phật địa nói; “Thức tịnh tối cực tự tại là tướng. Tướng tức là Tướng của Thể. Nếu căn cứ nơi phần riêng của Tướng, tức bốn Trần là Thể”.

Bốn là Cõi Tha Thọ dụng. Thâu tóm cảnh theo Tâm lợi tha, Hậu Đắc Trí là Thể. Thâu tóm Tướng quy về Tánh, cũng dùng Chân như là Thể. Nếu dựa theo chỗ riêng của Tướng thì cũng là bốn Trần.

Năm là Cõi Biến hóa, đồng với Thể của Tha Thọ dụng ở trước. Nêu rõ Thủy giáo dùng đủ ba pháp. Viên giáo thì do Tánh dung thông Tướng, Tướng không ngăn ngại nên chung cho tất cả pháp. Tức Sự Sự vô ngại chính là Thể. Vì thế, văn nơi Sớ giải viết: “Nay đều gồm đủ”.

Tiếp theo là nêu dẫn kinh, gồm thâu đầy đủ. Phần sau là dung thông vô ngại.

-Sớ câu: “đoạn thứ năm, nói về trang nghiêm cõi” đến “hoặc dùng vật báu để trang nghiêm”: Nhưng trang nghiêm có ba, tức gọi là ba Tịnh

Một: Xứ sở tịnh, tức các thứ báu là sự trang nghiêm.

Hai: Trú xứ chúng sinh tịnh, tức người là vật báu làm sự trang nghiêm.

Ba: Pháp môn lưu bố tịnh, tức dùng pháp làm sự trang nghiêm.

Đối với văn có thể nhận biết.

-Sớ câu: “đoạn thứ sáu, nêu rõ về sự thanh tịnh của Cõi”: Văn nơi bản Sớ giải có bốn phần:

Một: Nêu chung về đại ý.

Hai: Hiển bày riêng về Tướng.

Ba: Đối chiếu với Giáo để phân biệt, định rõ.

Bốn: Đối hợp với văn để phân biệt, tránh sự lẫn lộn.

-Một: Nói “Chỉ căn cứ nơi Tịnh”: Do nói thanh tịnh nên không đồng với hình tướng là chung nơi nhiễm.

Nói “chỗ tận cùng của hành” tức là ý của đại sư Đạo Sinh. Nơi sách “Chú giải kinh Tịnh Danh”. Đại sư viết: “chỗ tận cùng của hành” nơi Tịnh độ chẳng phải là tạo tác. Tạo tác nơi cõi, tức các loại chúng sinh”. Trong mười bốn khoa, giải thích nghĩa Trí (chỗ tận cùng) nêu:

Hỏi: Thế nào là Trí mà chẳng phải là thủ đắc?

Đáp: Phàm gọi là Trí, tức Thể là vật giả, tuy đạt được mà chẳng phải là chính mình”.

Giải thích: Nghĩa là nhân nơi cái khác mà đạt được nên gọi là Trí. Tức là Phật tu tập muôn hạnh, hướng thẳng tới cõi Chân Cực, chẳng chấp giữ nơi sắc tướng, Tha Thọ dụng, cùng nhân với các chúng sinh khác, bèn dùng tâm đại bi, vì muôn loài mà chọn lấy cõi, nên gọi là chỗ tận cùng của Hành”. Đã nhân nơi muôn Hạnh mà đạt đến cõi, tất kết hợp với Tịnh.

-Sớ từ câu: “Nhưng Tịnh có hai thứ” tiếp xuống: Là phần hai, hiển bày riêng về Tướng. Lần lượt chia ra nên thành bốn lớp, đều dùng phương tiện làm nhân, thanh tịnh là quả.

Trong đối thứ nhất, nói “Dùng sáu Hành làm phương tiện”.

Nghĩa là chán cái khổ và những chướng ngại thô nơi cõi thấp, vui cầu sự tịnh diệu ly của cõi trên, nên lấy hai cõi Sắc và Vô sắc làm cõi Tịnh.

-Sớ từ câu: “Ở đây lại có hai thứ” tiếp xuống “Là đối thứ hai về cõi Tịnh của hai Thừa, trong phần “Huyền đàm” đã biện minh.

-Sớ từ câu: “Tuy nhiên, trong loại Tịnh Xuất Thế Thượng Thượng” tiếp xuống: Là đối thứ ba, nói “ kinh Nhân Vương có câu…” tức nơi Phẩm Bồ tát Hạnh, vua Ba Tư Nặc tán dương Phật. Nữa bài kệ trước nói.

“Chánh giác, vô tướng khắp Pháp giới

Nhẫn vô sinh, Trí tận tròn sáng

Lặng soi chân giải thoát vô ngại

Đại bi ứng hiện không gì sánh.

An nhiên, chẳng động, thường yên định

Hào quang tỏa chiếu mọi nơi chốn Ba hiền, mười Thánh trụ quả báo Chỉ mỗi mình Phật trụ cõi Tịnh”.

Ở nơi văn dễ nhận biết. Như nơi kinh Anh Lạc cũng nói: “Phật tử! Có cõi gọi là nơi chốn an trú của tất cả Hiền Thánh. Vì thế, hết thảy chúng sinh, hết thảy Hiền Thánh đều có cõi của quả báo nơi chính mình cư trú. Như chúng sinh phàm phu trụ trong năm ấm là cõi của chánh báo. Rừng núi, đất đai… gọi là cõi của y báo. Bậc Thánh nơi địa thứ nhất cũng có hai cõi:

Một là Cõi Thật Trí. Trí trước là Trụ, Trí sau là Cõi.

Hai là, cõi biến hóa tịnh, uế, trải qua nhiều số kiếp ứng hiện, cho

đến cõi của địa Vô cấu cũng như thế. Tất cả chúng sinh, cho đến địa Vô cấu đều chẳng phải là cõi Tịnh, đều trụ nơi quả báo. Chỉ có Phật, độc nhất an trụ nơi cõi của Trung đạo đệ nhất Pháp tánh do vậy Như lai ngày trước ở nơi điện Phổ Quang, đã vì tất cả chúng sinh nêu giảng rộng về pháp môn Tịnh độ”.

Hai đoạn kinh nêu dẫn trên xác nhận chỉ Phật là tịnh.

-Sớ từ câu: “trong phần chưa đạt tới chỗ tột bậc lại có hai thứ” tiếp xuống: Là đối tứ tư. Nói “Hoàn toàn dứt hết mọi trói buộc nơi sắc”: Là Đại sư Đạo Sinh, trong mười bốn khoa bàn về nghĩa Tịnh độ đã viết: “Phàm chưa thoát khỏi những hệ lụy về hình tướng, từ tám địa trở về trước, đang quán về sinh Không, tức ra khỏi cõi Tịnh, tức ở nơi cõi uế. Tám địa trở lên, tăng trưởng quán sinh không tức tăng trưởng ở nơi cõi Tịnh, nên cần phải nhờ vào cõi để tự an trụ. Tám địa trở lên đã vĩnh viễn dứt tuyệt mọi trói buộc nơi sắc, soi sáng nơi Thể đứng riêng, chỗ thần diệu nơi tâm đã rộng mở, không còn giới hạn. Cõi cũng như thế”.

Ý cho rằng: Tám địa thanh tịnh với Pháp Nhẫn vô sinh, đạt được tự tại đối với sắc, lìa bỏ phần đoạn sinh tử, nên gọi là “Vĩnh viễn dứt tuyệt mọi trói buộc nơi sắc”. Mọi pháp nơi thế gian, xuất thế gian, tâm không còn hiện tiền, nên viết là “ soi chiếu nơi Thể đứng riêng”. Xứng hợp với tính chất hiện hữu khắp của Tánh, nên gọi là chỗ “Chỗ thần diệu nơi Tâm đã rộng mở, không còn giới hạn. thần tức chỗ thần diệu của Tâm. Sách Chu Dịch có câu: thần là cái diệu nơi muôn vật mà nêu bày ra lời. Cho nên thần thì không phương sở, mà Dịch thì không Thể tánh’. Đã không còn mọi hệ lụy nơi Sắc, nên Tướng của cõi ấy khó có thể dùng tên để xưng gọi.

-Sớ: “Bảy địa trở lại” tức “chưa ra khỏi ba cõi”. “Dựa nơi kẻ đến thẳng”, tức chưa rời bỏ Phần đoạn sinh tử.

Nói “Trí quán vô lậu có sự gián đoạn” tức là sáu địa trở xuống. Nếu đạt tới bảy địa thì sự quán không còn gián đoạn. Dựa theo kinh Thập địa thì sáu địa trở xuống là nhiễm, tám địa trở lên là Tịnh. Địa gọi là trung gian, cũng có thể gọi là nhiễm, mà cũng được gọi là tịnh, hoặc chẳng phải là nhiễm, chẳng phải là tịnh. Nay chọn lấy nghĩa nhiễm nên cho chẳng phải là thuần tịnh.

-Sớ từ câu: “Nếu nơi Luận Du Già” tiếp xuống: Là phần ba, đối chiếu với Giáo để phân biệt, định rõ. Phần này có thể nhận biết.

-Sớ từ câu: “Nhưng, phương tiện tịnh tức là nhân của tịnh” tiếp xuống: Là phần bốn, đối hợp với văn để phân biệt tránh sự lẫn lộn.

Phần này gồm hai:

Một: Đối hợp với văn ở đây: Từ trước tới giờ bốn đối đều căn cứ nơi thanh tịnh là Quả, phương tiện là Nhân. Nay dùng theo nghĩa chung, phương tiện cũng là Quả. Gần gũi với bạn lành là phương tiện. Nay được vật báu là người để trang nghiêm thì gồm luôn cả nơi Quả. Cho nên các cõi như Cực Lạc v.v… Với các hàng người thiện tột bậc cùng gặp nhau nơi một chốn là quả Đẳng lưu.

-Sớ từ câu: “Tuy nhiên so với trang nghiêm” tiếp xuống: Là phần hai, đối hợp với văn trước để phân biệt rõ. Như trong phần Trang Nghiêm nói: “Hoặc cho là tất cả Bồ tát với công đức để trang nghiêm, cùng với ở đây là sự tăng trưởng nơi vô lượng vô biên công đức rộng lớn biến hiện khắp Pháp giới, nên văn giống nhau. Lại nữa, trong phần kệ kia hầu hết đều nêu Nhân để bày Quả nên cùng với phần văn xuôi ở đây là đồng. Ở đây cho rằng: “Từ bi rộng lớn bao trùm khắp chúng sinh, dùng điều ấy để trang nghiêm nơi các“ Sát Hải”(Vô lượng vô biên Cõi), cùng với sự trang nghiêm đồng dấy khởi đầy đủ nhân duyên”. Nhân các cõi Tịnh cùng với văn xuôi ở đây nói về việc tu tập nhân tịnh là giống nhau, nên cần có sự phân biệt ấy. Văn nơi bản Sớ giải có hai: Một là làm rõ chỗ khác biệt của môn. Nghĩa là đối tượng được xử dụng tuy là một mà nơi chốn sử dụng thì chẳng đồng. Cũng như giảng nói pháp ở nơi môn bố thí thì gọi là Pháp thí, ở nơi môn trí tuệ thì gọi là phương tiện v. v…

-Sớ từ câu: “Lại khởi đủ nhân duyên chung cả nhiễm tịnh” tiếp xuống: Là phần hai lại dùng lý riêng để phân biệt nơi hai môn. Tức đủ duyên là chung thì xứ đây là riêng. Cho nên phần Sớ giải ở trước viết “Chỉ căn cứ nơi tịnh”, đối chiếu với sự trang nghiêm thì nhiều ít chẳng đồng. Như nhiều thứ thuốc hòa hợp thì theo chốn, cõi mà được gọi tên. Trong định có Tuệ thì chỉ nhấn mạnh về định. Trong Tuệ có định thì chỉ gọi là Bát-nhã. Cho nên cho là: “kia trang nghiêm đa phần căn cứ nơi Quả, còn đây (thanh tịnh) thì hầu hết căn cứ nơi Nhân.

Nói “Trước thì phần nhiều là tu tập về thiện” thì cũng là theo tính chất nhiều ít mà nói. Trước thì dùng nhân đối hợp với quả để bàn về chỗ nhiều ít. Còn đây thì chỉ căn cứ trong nhân tự có nhiều ít. Trước nêu: “Biển công đức vô biên của Bồ tát, cùng với hạnh nguyện của Phổ Hiền, các Phật tử với kiếp chúng sinh nên siêng năng tu tập”. Đây là đa phần tu tập về thiện. Còn nay thì văn viết: “Thanh tịnh tu tập các thắng giải rộng lớn, thành tựu diệu lực thanh tịnh nơi phương tiện. “Tức là phần nhiều nhằm vào đối trị ác. Văn rõ ràng, có thể nhận biết.

-Sớ câu: “Như Đồng tử Thiện Tài ở nơi Dạ thần nói”: Tức là kinh Hoa Nghiêm quyển thứ bảy mươi ba, Dạ thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lựa, thiện Tài lần đầu được gặp, đối nơi bậc Thiện tri thức ấy cùng phát khởi mười Tâm, liền đạt được vô số Hành nhiều như số lượng vi trần trong cõi Phật, đó là “đồng niệm”, vì tâm luôn nhớ nghĩ đến mười phương chư Phật trong ba đời. Là “đồng tuệ”, vì tâm luôn phân biệt, quyết định tất cả pháp v.v… Diễn rộng như đoạn kinh ấy đã nêu bày. Từ đây trở xuống có mấy đoạn đều như văn nơi kinh Thập Địa.

-Sớ câu: Nửa trước là phương tiện, nửa sau là thanh tịnh”: Là do các câu tiếp dưới đều có nói đến Phương tiện, Thanh tịnh.

Nói “Đều thấy câu trên là quả, câu dưới là nhân”: Tức theo đa phần mà nói thì Phương tiện là Nhân, Thanh tịnh là Quả. Nếu nói chung thì đầu chung cả Nhân Quả. Phương tiện là căn cứ nơi Nhân thì sự thiện xảo xuất phát nơi cõi. Phương tiện căn cứ nơi Quả thì nghiệp dụng y chính là tướng của cõi Tịnh. Thanh tịnh căn cứ theo Nhân thì lìa mọi thứ che phủ, chướng ngại. Thanh tịnh căn cứ theo Quả thì không có ba đường ác tám nạn.

-Sớ câu: “Trong năm đối thì đối một và đối hai là tùy theo loại kia”: Như Phật ứng hiện nơi cõi Sa-bà chỉ thích hợp với thân tướng một trượng sáu. Nếu sinh nơi thế giới Cực Lạc thì thân tướng là vô lượng do tuần. Chẳng thể đem Như Lai với thân tướng là vô lượng do tuần để hóa độ chúng sinh với thân tướng ba thước. Phật với thân tướng một trượng sáu hóa độ con người thọ lượng với thân tướng vạn trượng cũng thế. Sống nơi cõi nầy chẳng đầy một trăm năm, còn thọ mạng của người dân nơi cõi Phật Di Đà đều là vô lượng. Nhưng một đối nầy cũng chung cho tính chất nhiều ít của căn cơ được hóa độ.

Câu: “Tiếp theo là tính chất rộng hẹp của một duyên”: Duyên rộng thì cõi rộng, như cõi của Văn Thù, Phổ Hiền. Duyên hẹp thì cõi hẹp như quốc độ của Ca Diếp, Quang Đức.

Bốn là thích ứng với việc lãnh hội về ba Thừa, thì chỗ báu vi diệu của Nhất Thừa còn là bí mật. Thích nghi với việc lãnh hội Nhất Thừa thì phế bỏ các thứ xe nhỏ là xe dê và xe nai.

“Năm là căn tánh thành thục, chưa thành thục”: Tức giáo hóa nhiều như sự giáo hóa của Thích Ca. Chưa thành thục thì giáo hóa ít như Tu- phiến-đa. Như Lai cũng là duyên rộng hẹp trong Nhân.

-Sớ từ câu: “Một niệm cùng với kiếp” tiếp xuống: Là giải thích về nghĩa phương tiện theo duy tâm. Nhưng nói “Một niệm cùng với kiếp đều do tâm tưởng” là có hai ý:

Một: Do có sự tưởng niệm. Tức là có Sát-na, ấy tích chứa sát na

này, rốt cuộc thành kiếp. Tâm tưởng nếu diệt, thì sanh tử tuyệt dứt mãi.

Đây là thuận theo kinh văn.

Hai: Tất cả cảnh giới đều dựa nơi vọng niệm mà có sai biệt.

Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới, đây là thuận theo ý của kinh, thành “duy tâm quán”, vì thế văn nơi bản Sớ giải viết: “Tâm tưởng chẳng sinh thì dài ngắn sao tồn tại? Không dài không ngắn tức thể của Tâm thanh tịnh”. Do vậy nên kinh nói: “Dùng toàn bộ phương tiện đều thanh tịnh”. Đây là căn cứ theo chân tánh. Câu thứ ba là nghĩa chẳng hủy hoại tướng. Tướng tánh không ngăn ngại là nghĩa Sát hải (vô lượng vô biên cõi).

-Sớ câu: “Hai là chỉ căn cứ nơi kiếp trụ mọi người ở trong ấy có thiện ác”: Lại có hai nghĩa:

Một: Căn cứ nơi nhân vốn có dẫn dắt của chúng sanh.

Hai: Căn cứ nơi tác dụng của chư Bồ tát ở trong ấy, tâm thuần thiện, nên nhiễm tịnh dung hợp, thấu triệt.

-Sớ câu: “Một là gặp phải duyên xấu ác nên tịnh biến thành nhiễm”.

Tức là chúng sinh cấu nhiễm trụ trong kiếp ấy. Kinh Hoa Nghiêm, quyển thứ bảy mươi hai có đoạn:

“Thời xưa thành ấy nầy

Lúc chưa có đại vương

Chẳng được mảy may vui

Giống như chốn quỷ đói

Chúng sinh sát hại nhau

Trộm cướp cùng dâm dật

Hai lưỡi lời dối trá

Câu thô ác vô nghĩa

Tham cầu của cải người

Giận dữ tâm độc ác

Tà kiến, chẳng hành thiện

Mạng chung đọa cõi ác

Do những chúng sinh ấy

Bị ngu si che phủ

Ở trong kiến điên đảo…” 

Trên là duyên xấu ác.

“Trời chẳng hề ban hành

Mưa gió không thuận hợp

Lúa thóc đều chẳng sinh

Cỏ cây thảy khô héo

Đời chưa có đại vương

Sông hồ đều khô cạn

Thây người đầy nơi vườn

Xem như chốn đồng hoang…”

Tức là kiếp biến chuyển.

-Sớ câu: “Lúa thóc tự nhiên sinh”: Tức là phần tiếp theo của đoạn kinh trên. Kinh viết:

“Đại vương lên ngôi báu

Rộng cứu khắp muôn loài

Mây mát phủ tám phương

Mọi nơi chốn mưa xuống…”

Tức là chuyển hóa mười ác thành mười thiện. Sự chuyển hóa về trộm cắp cho thấy:

“Các chúng sinh ngày trước

Bần cùng, quần áo thiếu

Dùng cỏ tự che thân

Gầy xấu như quỷ đói

Đại vương đã xuất hiện

Lúa thóc tự nhiên sinh

Trong cây hiện y phục

Nam nữ đều xinh đẹp…”

Tức là sự việc ấy.

-Sớ câu: “Ba tức là trước địa”: “Tín giải” là tên gọi chung của hàng “trước địa”, cũng gọi là “Hành trụ thắng giải”. Tức chưa chứng đắc Chân như, chỉ dựa nơi diệu lực của sự hiễu rõ (Giải) mà tu tập, hành trì.

-Sớ câu: “Hoặc dùng nhiều trang nghiêm để làm nghiêm tịnh một cõi”: Như phần Hồi Hướng thứ năm, tức nguyện thâu tóm khắp mười phương, ba đời các cõi Phật hiện có với tất cả mọi thứ trang nghiêm để trang nghiêm nơi một cõi. Một cõi đã vậy thì tất cả cõi cũng thế. Đến bậc địa thứ nhất thì mới có thể theo nguyện thành tựu, như đã nêu trong tám địa, thập Địa.

Nói “Hoặc dùng một thứ trang nghiêm mà làm nghiêm tịnh nhiều cõi”:

Phần Hồi Hướng thứ hai nói:

“Dùng một trang nghiêm, nghiêm hết thảy

Cũng chẳng nơi pháp sinh phân biệt

Khai ngộ các chúng sinh như thế

Tất cả Không tánh không chốn quán”.

Câu: Như trên kim khẩu hòa quang gọi mời chúng hội tức nơi kinh Hoa Nghiêm quyển thứ sáu: Chư vị Bồ tát đã đến chúng hội, hiện diệu dụng tự tại, như thế đều an tọa xong xuôi. Chư vị Bồ tát ấy, trong lỗ chân lông nơi thân, mỗi mỗi lỗ đều hiện bày tất tả các báu nhiều như số vi trần của mười Thế giới Hải, với đủ thứ đủ loại màu sắc, ánh sáng. Trong mỗi mỗi luồng ánh sáng hiện bày các vị Bồ tát nhiều như số vi trần nới mười Thế Giới Hải. Mỗi vị Bồ tát đều an tọa trên tòa sư tử của Tạng Liên Hoa. Chư vị Bồ tát ấy đều có thể biến hiện khắp đến tất cả Pháp giới. Với số lượng vi trần hiện hữu trong các “An Lập Hải”, trong mỗi mỗi vi trần đó đều có các cõi rộng lớn nhiều như số vi trần nơi mười thế giới Phật. nơi mỗi mỗi cõi ấy đều có chư Phật Thế Tôn trong ba đời. Chư vị Bồ tát kia thảy đều có thể biến hiện đến khắp các cõi để gần gũi, cúng dường chư Phật …” tức là trang nghiêm các cõi trong vi trần.

-Sớ: “Phật diệt độ một trăm năm, sữa chẳng sánh bằng nước”:

Tức nơi kinh A dục Vương nói: Vua A dục thường cúng dường các bậc Thánh Tăng. Có vị Thượng Tọa ăn hơi nhiều sữa. Vua thưa: Sữa nếu ăn nhiều sợ sinh các thứ bệnh tật. Vị Thượng Tọa nói: Sữa nầy đâu có diệu lực gì! Chẳng sánh bằng nước thời đức Thế Tôn còn tại thế. Nay Phật đã diệt độ, tất cả mọi thứ tinh thuần đều chìm sâu nơi đất. Vua A dục nguyện được thấy nước thời Phật tại thế. Vị Thượng Tọa bèn đưa cánh tay ấn mạnh vào đất lấy ra nước. Vua A dục nếm thử thì đúng là hơn cả sữa…” Nên biết rõ là con người phước đức đã mất thì cũng có thể khiến cho sự vật cũng mất theo. Một trăm năm hãy còn như thế, huống chi là hiện nay đã cách Phật gần hai ngàn năm, phước đức của con người lại càng mỏng kém.

Câu: “Huống chi đối với thời “Giảm cực”, gạo xấu là món ăn bậc nhất, Sắt là thứ dùng để trang nghiêm bậc nhất” tức như các kinh Khởi Thế đã nêu giảng.

-Sớ câu: “Tám, chư Phật Di Lặc hiện ra”: Là nơi kinh Di Lặc Hạ Sinh. Kinh có đoạn: “Phật nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: Nước nơi bôn biển lớn dần còn ba ngàn do tuần, bấy giờ đất ở Diêm Phù đề dài mười ngàn do tuần, rộng tám ngàn do tuần, đều bằng phẳng như gương. Các thứ hoa đẹp, cỏ mềm che phủ khắc mặt đất. Vô số các loại cây cỏ hoa trái sum suê, tươi tốt. Những thứ cây kia thảy đều cao ba mươi dặm. Thành quách thôn ấp nối tiếp nhau, san sát. Thọ mạn của con người là tám vạn năm, trí tuệ, uy đức, hình sắc, sức lực đều gồm đủ, an ổn vui sướng. Có một thành lớn tên là Sí đầu Mạt để, dài mười hai do tuần, rộng bảy do tuần. Thành đều làm bằng bảy báu, trên có lầu gác với các thứ cửa chính, cửa sổ mái hiên đều có các loại châu báu giăng phủ. Hòa quanh thành rộng mười hai dặm. Ngã tư, đường lớn, ngõ hẹp, nơi nơi đều có các trụ cao bằng ngọc báu sáng ngời, chốn chốn đều có chỗ tích tụ vàng bạc. Các vật nhơ uế đều được mặt đất nứt ra để nhận vào, rồi hợp lại như trước. Cũng không có các việc suy thoái buồn khổ, các nạn về binh đao, lữa nước, mật mùa đói kém, độc hại bức bách. Nơi vườn rừng, ao hồ, nước gồm đủ tám thứ công đức, hoa đẹp, hương lạ tỏa xông khắp nẻo. Chẳng sinh các loài cỏ tạp dơ uế. Lúa chỉ một lần gieo trồng mà thu hoạch bảy lần, hương vị ngon thơm tuyệt vời, càng tăng thêm sức mạnh cùng sắc thân cho con người…” Rộng diễn như nơi kinh ấy.

-Sớ câu: “Kinh Tịnh danh nói về việc đức Thế Tôn dùng ngón chân ấn mạnh xuống đất”: Tức là Phẩm Phật Quốc nói: “Tùy nơi tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất vâng theo uy thần của Phật, suy nghĩ: “Nếu Bồ tát tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Vậy đức Thế Tôn của ta đây lúc còn hành đạo Bồ tát, tâm ý há chẳng tịnh, tại sao quốc độ nầy bất tịnh đến như thế?” Đức Phật liền đáp: “Quốc độ nầy của Như Lai thì thanh tịnh mà Tôn giả không thấy”. Lúc ấy, đức Thế Tôn liền dùng ngón chân xuống đất, tức thì cả Tam thiên đại thiên thế giới, với bao nhiêu trăm ngàn châu báu trang nghiêm nơi cõi. Hết thảy đại chúng đều tán dương là sự việc chưa từng có, và ai cũng tự thấy mình ngồi trên hoa sen báu…”

-Sớ câu: “Kinh Pháp Hoa với ba lần biến hóa về cõi Tịnh”: Là nơi Phẩm Bảo Tháp xuất hiện, Bồ tát Đại Nhạo Thuyết xin được mở cửa nơi tháp báu. Phật bảo: cần phải tập hợp các Phân thân. Bồ tát Đại Nhạo Thuyết xin được nhìn thấy Phân thân Phật nơi tập hợp. Đức Thế Tôn liền phóng hào quang mời gọi đến phương xa. Vì nhằm thọ nhận Phân thân Phật, nên lần một là biến hóa nơi thế giới Sa bà. Lần hai là ở nơi tám phương, đều lại biến hóa hai trăm vạn ức na do tha quốc độ, thảy đều thanh tịnh, chỗ Phật an tọa chưa đủ. Lần ba, lại biến hóa hai trăm vạn ức na do tha quốc độ, đều khiến thanh tịnh. Cho nên gọi là ba lần.

-Sớ: “Nghĩa là chín phần trước biện giải về các thế giới, căn cứ nơi tướng chẳng giống nhau”: Cho đến đều biến hiện khắp, nên đều nêu tên gọi để giải thích. Trong phần nầy gồm ba:

Một: Căn cứ nơi Tánh, Tướng cùng đối nhau. Tướng thì có sai biệt, còn Tánh thì không sai biệt.

Hai: Từ câu: “Lại, căn cứ nơi quyền biến” tiếp xuống: Là dựa theo quyền, thật cùng đối nhau. Thật thì không sai biệt.

Ba: Từ câu: “Lại nữa, đều là chổ dụng của chư Phật” tiếp xuống: Là gồm thâu sai biệt cùng không sai biệt, đều quy về chỗ dụng của Quả. Hai đối nêu trước là Tánh Tướng, Quyền Thật là hai, chẳng tương tức. Còn nay thì dung thông, tương tức.

Nói “Sai biệt của không sai biệt”: Là “Hành bố” của “Viên dung”. “không sai biệt của sai biệt” là Viên dung của hành bố. nếu lìa Viên dung thì không thể có sai biệt. còn như lìa sai biệt thì cũng không thể có viên dung. như thâu gồm cái riêng để thành cái chung, chẳng phải là lìa hẳn cái riêng mà có cái chung ấy. Phần nêu dẫn kinh Pháp Hoa chính là nhằm nêu rõ hai cái ấy chẳng lìa nhau.

Từ câu “do dựa nơi nghĩa ấy” tiếp xuống: Là hiển bày mười tám thứ viên mãn do đấy mà thành tựu.

-Sớ câu: “Tức tận cùng số vi trần của Hải, một vi trần, Một cõi đã là nghĩa thâu tóm, bao hàm”: Do nơi kinh nói: “Trong mỗi mỗi Thế giới hải có thế giới không sai biệt nhiều như số vi trần trong Thế giới Hải.

Nghĩa là mỗi một Thế giới Hải lại có số thế giới nhiều như số lượng vi trần trong Thế giới Hải. tức nghĩa chính một vi trần là một thế giới trọn vẹn. chỉ dựa theo một câu ấy đã làm rõ tính chất thâu tóm, dung thông, giải thích nghĩa không sai biệt khéo thành tựu. Nếu cõi cõi cùng đối chiếu để bàn về tính chất không sai biệt, thì không sai biệt hoàn toàn là ít. Nay trong mười câu, câu câu đều nói đến cảnh giới của Thế giới Hải, tức trong một Hải đã có số lượng cảnh giới không sai biệt của mười thế giới Hải. Cho nên theo hướng thâu tóm, dung thông mà suy xét.

-Sớ: “Nhưng ở trước chỉ căn cứ nơi chỗ bình đẳng, rộng khắp không sai biệt”. Tức như phần văn xuôi viết: “Trong mỗi mỗi Thế giới Hải hiện có chư Phật với uy lực không sai biệt”. Nay thì đều cho rằng: “Trong mỗi mỗi cảnh giới vô lượng ánh sáng v.v… tức lá tính chất không sai biệt là trùng điệp vô tận”.

-Sớ từ câu: “Như nói dựa nơi chỗ cùng đồng sự”: Tức là tóm kết, nhận xét về ý kiến của người xưa. Nghĩa là kinh nêu mười sự đều căn cứ nơi tính chất thâu tóm, dung thông. Nếu dựa theo nghĩa của kiến giải đã từ trước thì tại sao không nói “Trong mỗi mỗi Thế giới hải, nhiễm tịnh không sai biệt.” Mỗi mỗi Thế giới Hải do chúng sinh thọ khổ không sai biệt, do trong Thế giới Hải đều có nhiễm, có khổ. Cho nên văn nơi bản Sớ giải kết luận: “Há trong Thế giới Hải hoàn toàn không có điều ấy sao!” Nay kinh không nói tới, nên biết rõ là căn cứ nơi tính chất thâu tóm dung hơp không sai biệt.

 

Phẩm 5: THẾ GIỚI HOA TẠNG

(Hết hội thứ nhất, phần đầu Phẩm Danh Hiệu Như lai).

-Sớ câu: “Bản tiếng Phạm gọi đầy đủ là”: Là phần giải thích tên của Phẩm. Tiếng Phạm gọi: Câu-Tô-ma (Hoa) Đa-la (Tạng) Nhiêu kha (Trang nghiêm) A-lăng-già (Vật dùng để trang nghiêm) Lỗ-ca-đàđô (Thế giới) Tam-mâu-đạt-la (Hải) Bát-lý-thâu-đà (Thanh tịnh biến hiện khắp) Cụ-nẵng (Công đức) Tam-mâu-đạt-la (Hải) A-la-bà (trên) Sa (Quang minh) Bát-lý-vật-đa (Phẩm). Ở đây gọi đủ là: “ Phẩm Hoa Tạng trang nghiêm với vật dùng trang nghiêm nơi Thế giới Hải thanh tịnh biến hiện khắp, với ánh sáng nới công đức hải”. Văn nơi bản Sớ giải có bốn phần:

Một: Nêu tên theo tiếng Phạm.

Hai: Từ câu: “Dịch giả ngại nhiều chữ” tiếp xuống: Là bàn rộng về chỗ nghĩa được giải thích.

Ba: Từ câu: “ Bản tiếng Phạm gọi là” tiếp xuống: Là giải thích về gốc tiếng Phạm ở trước.

Bốn: Từ câu: “Căn cứ nơi Sự thì có thể như thế”: Là xét kỹ về nguồn gốc. Chẳng làm cách giải thích nầy đâu thể hiểu hết nguyên do xuất hiện của “Sát Hải”.

Câu: “Ba là Tông Thú”: Là phần ba, bàn về Tông, Thú của Phẩm.

Nói “Lại có mười đức”: Tức như Phẩm trước đã nêu dẫn về bốn văn.

-Sớ câu: “Một là biện minh về Nhân Quả tự Thể của Hoa Tạng”: Là phần một trong ba phần thuộc phần Giải thích văn. (Hai phần sau là: Hai là biện minh về sự an bố trang nghiêm của Tạng Hải. Ba là, nêu rõ về đối tượng được duy trì chỗ sai biệt của lưới cõi.)

Nhưng nơi phần hai là biện minh về sự an bố (sắp đặt bày biện) trang nghiêm cũng là nói về Tướng của Quả. Cho nên đối với Quả để phân Nhân, gồm lại có hai đoạn:

Một là biện minh về Nhân của cõi.

Hai làm sáng tỏ về Tướng của Quả.

Do trong đoạn thứ nhất phần văn xuôi đã nêu đủ Nhân Quả. Nơi phần kệ đã cùng nêu rõ về Nhân Quả, nên hợp nơi Nhân, thuộc về Tự Thể.

-Sớ từ câu: “Tức là chỉ rõ Sát Hải nầy là bổn sư của ta” tiếp xuống “Là bàn về tính chất sâu rộng của nhân. Văn nơi bản Sớ giải gồm hai:

Một: Giải thích chung về kinh văn.

Hai: Tùy theo chỗ khó mà giải thích riêng.

Một: Sớ câu: “Chẳng phải chỉ là Phật Thắng Quán, Thích Ca v.v…”

Tức nơi Luận Câu Xá, quyển thứ mười tám nói:

“Nơi ba vô số kiếp

Đều cúng dường bảy vạn

Lại theo đấy cúng dường

Năm sáu bảy ngàn Phật

Mãn ba vô số kiếp

Ngược thứ gặp Thắng Quán Phật Nhiên Đăng,

Bảo kế Đầu Thích Ca Mâu Ni”.

Giải thích: Trong hai kệ nầy, kệ một nêu rõ về việc cúng dường các đức Phật. nghĩa là, trong vô số kiếp thứ nhất đã cúng dường bảy vạn năm ngàn Phật. Nơi vô số kiếp thứ hai đã cúng dường bảy vạn sáu ngàn Phật. Vô số kiếp thứ ba cúng dường bảy vạn bảy ngàn Phật. Bài tụng sau ý nêu rõ việc cúng dường các Phật nào.

Nói “Nghịch thứ” (Ngược với thứ lớp) tức là từ vô số kiếp thứ ba hướng về trước để biện minh. Tức là mãn vô số kiếp thứ ba được gặp Phật Thắng Quán. Mãn vô số kiếp thứ hai được gặp Phật Nhiên đăng. Mãn vô số kiếp thứ nhất được gặp Phật Bảo Kế. Thời kỳ đầu tiên phát tâm thì được gặp Phật Thích Ca Mâu Ni, phát thệ nguyện: “Nguyện tôi sẽ được làm Phật, hoàn toàn như đức Thế Tôn hiện nay. Đức Phật Thế Tôn kia, khi xuất hiện ở thế gian vào kiếp sau cùng, chánh pháp an trụ một ngàn năm. Nay, tôi là Như Lai, mỗi mỗi đều giống như đức Phật kia”. Cho nên hiện tại bản Sớ giải đã viết như thế.

Nói “Chẳng phải chỉ là Phật Thắng Quán”: Là nêu lên trường hợp vị Phật được gặp khi mãn Vô số kiếp thứ ba.

Nói “Phật Thích Ca”: Là nêu lên vị Phật được gặp trong thời kỳ đầu.

Mà nói “Vân vân” (trong câu Phật Thắng Quán, Thích Ca v.v…) thì có ba nghĩa:

Một: Vân vân là chỉ cho Phật Nhiên Đăng, Bảo Kế.

Hai: Vân vân là chỉ cho số lượng Phật đã cúng dường.

Ba: Vân vân là chỉ về chỗ biện minh của các Giáo khác.

Ví như nói “Cúng dường ba mươi sáu hằng sa, ba mươi tám hằng sa Phật v.v…, đều chưa đủ để gọi là nhiều.

– Sớ Câu: “Chẳng những chỉ làm nghiêm tịnh nơi một pháp Vô sinh”.

Như Trí Luận viết: “Dùng năm cành hoa cúng dường Phật Nhiên

Đăng, đạt được pháp Nhẫn Vô sinh. Cho nên kinh Kim Cương có đoạn: “Nếu có một ít pháp có thể đạt được thì Phật Nhiên đăng đã không thọ ký cho ta v.v…”

Vì không có pháp nào có thể đạt được là tướng Vô sinh.

Mà nói “Vân vân” (đẳng) là chỉ cho các pháp môn khác. Phần tụng của Luận Câu Xá nêu:

“Chính do bi thí khắp

Bị nhục tâm không giận

Tán dương Phật Để Xa

Tiếp Vô thượng Bồ đề

Sáu Ba-la-mật đa

Nơi bốn vị như thế

Một hai lại một hai

Tuần tự tu viên mãn.”

Giải thích: Bốn câu của phần đầu tức là bốn quả vị. Vị thứ nhất viên mãn một pháp là bố thí khắp thành Đàn Ba-la-mật. Vị tiếp theo viên mãn hai pháp tức là Thi và Nhẫn. Bị hủy nhục không đáp trả nên có thể viên mãn được Thi Ba-la-mật. Do trong tâm không giận nên thành tựu nơi NhẨn. Trong vị thứ ba chỉ viên mãn một độ là tinh Tấn Ba-la-mật. Nơi vị thứ tư thì cả Định, Tuệ cùng viên mãn. Cho nên gọi là: “Một, hai lại một hai”

Nói “Để sa”, đây gọi là Viên mãn. Kệ tán Phật có câu:

“Trời đất cõi nầy, bậc đa văn.

Rời cung chốn trời, mười phương không

Trượng phu, Ngưu vương, đại Sa môn

Tìm nơi núi rừng, không gì hơn”…

“Bảy ngày bảy đêm quên … cho đến

Một bước khen để sa

Nên vượt hơn Di Lặc

Chín kiếp thành Phật trước”.

Trong Trí Luận cũng đồng với thuyết nầy. Cho nên sáu độ viên mãn, trước sau chẳng nhiều. Nay, kinh nêu, nơi mỗi mỗi chốn Phật đều dốc tu với nguyện lớn nhiều như số vi trần nơi Thế giới Hải huống chi nhiều Phật, nhiều kiếp ư? Nên văn nơi bản Sớ giải kết luận: “Do ba lớp nêu trên nên gọi là sâu rộng”.

-Sớ từ câu: “Nhưng Luận Du Già, Luận Khởi Tín” tiếp xuống:

Là phần thứ hai tùy theo chỗ khó mà giải thích riêng. Tức là lại giải thích về ba A-tăng-kỳ. Căn cứ nơi ba Thừa, một Thừa dùng để thông hợp.

Nói “Bao quát chung mười phương”: Tức là đối nơi nghi thức giáo hóa của một phương nêu trên mà nói.

“Cùng cảnh giới về cây cối, hình tướng v.v…”: Là đối hợp với một loại thế giới nêu trên. Vả lại, như một kiếp của thế giới Sa-bà thì nơi cõi An dưỡng chỉ là một ngày. Thế giới An dưỡng trải qua ba mươi số ngày thì nơi cõi Cà Sa Tràng chưa qua hết một năm. Huống chi đối với các cõi càng về sau thì dùng kiếp làm ngày. Vì thế chẳng thể lấy một phương một loại nầy để xác địng đối với vô số lượng kiếp khi thành Phật.

Hai là Cõi khác loại, tức ở nơi một cõi liền có đủ các cõi, đều chẳng cùng thấy nhau. Thời, kiếp cũng khác, thì đâu rõ được dài ngắn. Cho nên “ Nắng sớm mai còn chẳng biết về đầu tháng cuối tháng, huống là biết về mùa Xuân mùa Thu ? Huống nữa là đối với thọ mạng của cây Đại thủy ?”

Nói “Kinh Bảo Vân”, tức kinh ấy có đoạn viết: “Thiện nam ! Bồ tát chẳng thể tư duy bàn luận về cảnh giới của Như Lai. Cảnh giới của Như Lai là chẳng thể nghĩ bàn, chỉ vì hàng chúng sinh thiển cận mà nói về ba A-tăng-kỳ tu tập đạt được đạo quả Bồ đề. Nhưng thật sự thì từ khi phát tâm trở đi chẳng thể tính kể về số lượng”.

Đại sư Hiền Thủ giải thích: “Chẳng thể tính kể tức là chẳng thề tính kể về vô số A-tăng-kỳ”. Trong sách “Nghĩa Phân tề” (tức tác phẩm “Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương” của đại sư Hiền Thủ) viết: “Ba A-tăng-kỳ theo Thủy giáo chẳng giống với mười nơi mười số của Tiểu Thừa. Đây tức là số lượng càng gấp gấp lên.” Nhưng nói một trăm kiếp tu tập về tương tốt v.v… thì Luận đại Trí Độ đã đả phá sự tu tập riêng về tướng tốt ấy, chẳng chấp thuận ngoài ba A-tăng-kỳ có sự tu tập riêng. Tức là ý của Thật giáo. Tuy nhiên, ý của Thật giáo tự có hai nghĩa:

Một: Xác định. Ba A-tăng-kỳ là nghi thức giáo hóa của một phương. Lại là Phật thật. Luận Khởi Tín viết: “Hoặc chỉ rõ siêu vượt các địa mau thành chánh giác. Do vì hàng chúng sinh yếu kém, nên hoặc nói Như Lai, ở nơi vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tu tập sẽ thành tựu Phật đạo. Do vì chúng sinh biếng trễ, kiêu mạn, nên có thể thị hiện vô lượng phương tiện chẳng thể nghĩa bàn như thế. Nhưng thật sự thì căn trí chủng tánh của Bồ tát là bình đẳng, phát tâm thì bình đẳng, đối tượng được chứng đắc cũng như nhau, không có pháp nào vượt hơn” do tất cả Bồ tát đều trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp nên ở đấy là sự xác định.

Hai: Chẳng định. Phần nầy gồm hai ý:

Thứ nhất: Là chung cho loại thế giới khác, như Thắng Thiên Vương nói: “Tức chính là các cõi “Thọ Hình” (Hình tướng cây cối)”.

Thứ hai: Căn cứ vào đức thật vô hạn của Phật, như kinh Bảo Vân đã nêu.

Nếu là Luận Du Già nói thì có hai thứ vô số kiếp:

Một: Như ngày đêm, nửa tháng, một tháng cùng với cac phương tiện để hiển bày thời vô lượng.

Hai: Như cách thường nêu bày.

Nếu dựa theo nghĩa một thì trải qua vô lượng kiếp. Còn như dựa nơi nghĩa hai thì chỉ là ba A-tăng-kỳ kiếp.

Nhưng dựa nơi cách giải thích nầy thì chẳng giống với kinh Bảo Vân. Kinh Bảo Vân chẳng nói “Vì chúng sinh thiển cận mà nêu giảng về đại kiếp. Vì bậc thù thắng sâu xa thì nói về Nhật nguyệt kiếp”. Rõ biết là ý khác nhau. Vậy thì Luận Du Già cũng chỉ là chỗ thuyết giảng thích hợp của một phương.

-Sớ từ câu: “Lại nữa, Thời không khác với Thể” tiếp xuống: Là nói về tính chất thâu tóm dung thông theo Nhất Thừa Biệt giáo. Như Tiên nhân Tỳ Mục cầm lấy tay đồng tử Thiện Tài thì thời gian trải qua là nhiều kiếp, mà nơi chốn cũng trãi rộng đến vô biên, nên không thể dùng tư duy dài ngắn để phân định. Nếu nhằm hiển bày chỗ thù thắng siêu vượt, thì một đời tức khắc viên mãn. Còn như căn cứ nơi chỗ hết mực sâu xa thì nhiều kiếp chẳng cùng. Cho nên gọi là “chẳng có thể chấp giữ cố định, quý ở chỗ là hội nhập nơi chốn huyền diệu”.

-Sớ câu: “Thứ hai, từ câu: “Các Phật tử” tiếp xuống: Là đoạn hai làm rõ về Thể Tướng của Quả”: Văn nơi bản Sớ giải gồm bốn phần: Một: Nói về chỗ sinh khởi của Tướng chung Hai: Làm rõ về phần lượng kia.

Ba: Giải thích, nhận xét về kinh văn.

Bốn: Bàn về tính chất chung riêng nơi nghĩa đã sử dụng.

-Sớ từ câu: “Nhưng đối tượng được nương tựa là dung lượng của cõi” tiếp xuống: Là phần hai, làm rõ về phần lượng kia.

Nói: “Sự hóa hiện lớn nhỏ”: Như kinh Phạm Võng nói về một ngàn hoa xoay vòng, trên ấy lại hiện ra ngàn Phật Thích Ca; tức là sự hóa hiện lớn. Nơi một hoa có trăm ức nước, một cõi nước có một Phật Thích Ca, tức là sự hóa hiện nhỏ. Sự hóa hiện nhỏ thì chỉ một cõi gồm bốn châu thiên hạ. Sự hóa hiện lớn thì bao gồm chung cả trăm ức.

Câu: “Vả như dựa nơi một Tướng”: Tức lại dựa nơi một thứ nghĩa về Tướng, chẳng hủy hoại chỗ biểu thị của biên vực. Ngoài hoa sen thì riêng có Phật Sát Hải vv. Thật thì xứng hợp với Tánh, bề rộng thì chẳng thể kiếm tìm, nên gọi là “Pháp giới không sai biệt”. Nếu dùng Tánh dung hợp Tướng, thì trong một vi trần có vô lượng pháp giới.

-Sớ từ câu: “Tuy vậy, dựa theo chỗ hiển bày riêng tiếp dưới” tiếp xuống: Là phần ba giải thích, nhận xét về kinh văn.

Nói: “Nên có mười sự” Là dùng văn để giải thích rộng về mười sự. Trong đó, phần văn xuôi đã nêu bày tóm lược. Là do bậc cổ đức ở trong một Phẩm, trước phân ra nhân của Cõi, dựa trong tướng của Quả, tức lảm mười đoạn. Nay không dựa theo đấy, do sáu sự sau đều có phần văn xuôi và kệ tụng. Nhưng bốn sự trước chỉ toàn là văn xuôi, nên chia thành mười đoạn, thì đối với văn chẳng thuận tiện.

Nên trước phân làm ba. Ở trong phần thứ nhất là một Tự Thể của Hoa Tạng, nội dung của phần văn xuôi mới ra làm bốn:

-Sớ từ câu: “Nhưng Nhân của Cõi kia” tiếp xuống: Là phần bốn, biện minh về tính chất chung riêng nơi nghĩa đã sử dụng.

Nói “Đã thấy rõ văn nêu trên”: Tức trong phần nêu lên đủ về nhân duyên, nghĩa chung dễ nhận biết, nên chỉ rõ tướng riêng nơi phần trưng dẫn.

-Sớ câu: “Lực của gió duy trì từ xa”: Xưa có hai cách giải. Trong ấy một cách cho rằng một lớp Phong Luân duy trì một lớp sự vật. Văn nơi bản Sớ giải đã dựa nơi Phẩm Xuất Hiện nói đến mười lớp Phong Luân giữ lấy cõi Dục và Cõi Sắc, đều là sự duy trì trừ xa. Nay thì lần lược xác định.

-Sớ từ câu: “Đối tượng được duy trì là Hương Hải” tiếp xuống:

Văn nơi bản Sớ giải co hai cách giải thích:

Một: Căn cứ nơi Sự để giải thích.

Hai: Từ câu “Lại, Tạng Thức gọi là Hải” tiếp xuống: Là căn cứ theo chỗ biểu thị. Phần nầy lại gồm hai:

Một là căn cứ theo chúng sinh.

Hai là, từ câu: “Lại nữa, Phật Tánh gọi là nước” tiếp xuống: Là căn cứ chung cả Phật và chúng sinh.

Phật tánh tức là Chân Pháp tánh. Cho nên nơi phẩm nầy, Hải thứ nhất biểu thị ba nghĩa. Nay chỉ nêu lên hai, lươc bớt không nói về Bi. Câu “Kinh đại Niết-bàn cũng nói: Như có người lãnh hội mùi hương” tức thuộc nơi quyển thứ bảy, đến phẩm Vấn Minh sẽ nêu dẫn đầy đủ.

-Sớ từ câu: “Lại, chỗ xuất phát muôn hạnh” tiếp xuống Trên là căn cứ nơi Sự để giải thích. Đây là căn cứ nơi pháp được biểu thị. Chỉ thông hợp nơi Tướng để biểu thị Hành. Nếu nêu bày riêng thì lược nêu mười đức để biểu thị cho mười độ:

Một: Nở ra tươi đẹp, dùng để biểu thị cho Thí độ (Bố thí Ba-lamật).

Hai: Tự tánh không nhiễm, biểu thị cho Giới độ.

Ba: Mùi hương tỏa ra thơm ngát.

Bốn: Thân cành vững chắc.

Năm: Cánh hoa báu đều đặn, hài hòa.

Sáu: Nhụy báu như cờ phướn tỏa sáng.

Bảy: Tướng khéo thành tựu.

Tám: Hàm chứa hạt giống hoa sen.

Chín: Đài báu luôn đứng vững.

Mười: Anh sáng phóng khắp.

Tám đức sau (từ đức ba đến đức mười) theo như thứ tự để hiển bày về tám độ còn lại.

-Sớ câu: “Một là nhân đời trước hiện bày duyên, kinh chia Tụng hợp”.

Ở đây làm rõ phần văn xuôi là kinh, do dùng chỗ văn xuôi bổ sung cho phần lượt nói về chỗ nghĩa cần nêu bày, tức tướng riêng nơi Tu-đa-La.

Nói “Kinh chia, Tụng hợp”: Nhân từ trước tức hiển bày về chỗ sâu rộng của Nhân ở trước. Hiện rõ duyên, tức phần Phong Luân duy trì Hương Hải v.v… đã nêu ở trước. Hai phần nầy là làm rõ về tính chất chia. Còn “Tụng hợp” thì kệ tụng thứ nhất là chung. Nữa đầu là nói về Nhân từ trước, nữa sau là hiện bày về duyên. Kệ thứ hai, ba câu đầu là nói về Nhân từ trước, câu thứ tư là hiện bày về duyên.

-Sớ câu: “Hai là, chỗ thành tựu nơi tướng của Quả, kinh thì tóm lược, Tụng thì mở rộng”: Phần văn xuôi viết: “Thế giới Hải Hoa Tạng trụ ở trong đó”, tức là chỗ thành tựu nơi Tướng của Quả. Văn ở đây là tóm lược. Do nơi nội dung của mười kệ đều có nói về Tướng của Quả, nên gọi là “Tụng thì mở rộng”.

-Sớ câu: “Ba là, Duyên hiện bày tức Phong Luân thì kinh mở rộng. Tụng tóm lược. Nơi kinh đã nêu ra mười thứ Phong Luân. Trong phần kệ thì chỉ nói: “Lực của Phong Luân với chỗ được duy trì không dao động”.

-Sớ câu: “Bốn là núi, đất, biển, cây, Kinh có nói đến, Tụng thì không”

Phần văn xuôi viết: “Núi Kim Cang Luân lớp lớp vây quanh. Đất đai, biển rộng, các thứ cây cối đều có từng khu vực phân biệt”. Ở đây là kinh đã có nói tới. Phần tụng không nói đến, có thể nhận biết.

Trên “Nói có bốn”, tức là bốn sự đối chiếu, chỉ là một thứ tóm lược, mở rộng, nên thành một cặp. Chia hợp, có không, nên chỉ thành một sự đối chiếu. Như thành cặp (đối) thì phải là kinh hợp, Tụng chia, kinh không, Tụng có, mới thành ba đối. Bốn sự đối chiếu còn lại là hai đối, trong đó thì không, nhưng phần Tụng tiếp theo thì có.

-Sớ câu: “Là biên vực của Vô biên chẳng ngăn ngại Lý, mà tức là Sự”: Ý nhằm nêu rõ Lý không có phân hạn nên gọi chung là Vô biên. Sự thì có phân hạn nên gọi là Hữu biên. Nếu Lý thành Sự thì tánh của Lý hoàn toàn Ẩn giấu, thì Vô biên tức là Biên vực. Nếu hợp Sự quay về Lý thì tướng của Sự hoàn toàn mất, thì biên vực tức là Vô biên. Nay thì chẳng phải thế. Chẳng mất Lý mà Sự hiển bày, gọi là Biên vực của Vô biên. Không hủy hoại Sự mà Lý hiển hiện, thì gọi là Vô biên của Biên vực. Đây là nghĩa “Sự Lý vô ngại”, chẳng phải là Tương Tức. Nghĩa về Tương tác theo đấy mà suy xét.

-Sớ từ câu: “Chỉ gọi là các thứ trang nghiêm” tiếp xuống: Câu nầy hơi dài, nên nhắc lại chỗ giải thích: “Tức từ các thứ vật dụng để trang nghiêm tiếp xuống là câu thứ chín. Ngọc báu Ma Ni tiếp xuống đều là câu thứ mười.

-Sớ câu: “Dựa theo chủng loại của cõi tiếp dưới cùng trong Phạm bản đều có mười chẳng thể nói”: Do trong một Hải giữ lấy mười Hải, mà Hải ấy đếu nêu bày theo một đường, nên tóm kết có “Số lượng Hương thủy Hải nhiều như số vi trần trong các cõi Phật không thể nói hết. Mười đường đều như vậy. Cho nên một chủng loại của một Hải có mười “chẳng thể nói”.

Nói “Phần dưới nêu về chủng loại, nơi chốn cũng thế”: Phần nêu lên nói: “Các Phật tử! Trong số Hương Thủy Hải nhiều như số vi trần nơi số cõi Phật chẳng thể nói ấy có số chủng loại thế giới nhiều như số vi trần nơi số lượng cõi Phật chẳng thể nói…”

Giải thích: Đây tức là nêu về chủng loại, nơi chốn, không có chữ “Mười”, cũng đối chiếu kết hợp để có.

-Sớ câu: “Phân-đà-lợi tức là Hoa sen trắng”: Đây là theo cách phiên dịch của Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (602-664) cùng các vị đại sư mà nói. Câu “Cũng là chính lúc hoa nở”: Tức là ý của pháp sư La Thập, đại sư Tăng Duệ nơi bài Tựa của bản dịch kinh Pháp Hoa đã viết: “Hoa có tên gọi khác nhau của ba thời. Hoa lúc chưa nở gọi là Quật-mala. Tàn tạ sắp rơi rụng gọi là Ca-ma-la. Vào lúc nở ra đẹp đẽ, trọn vẹn nhất thì gọi là Phân-đà-lợi”.

Đại sư Đạo Sinh cũng nói: “Dáng sắc tươi dẹp không gì hơn hoa sen. Cái đẹp nhất của hoa sen là ở chỗ mới nở ra. Thời điểm trọn vẹn, đầy đủ nhất của hoa mới nở thì hạt giống đủ đầy trong sự viên mãn của sắc, hương, vị. Là Hoa Phân đà Lợi trong các loại hoa”. Về ý cũng giống như trên. Nay giữ lại hai cách dịch đều là một nghĩa. Vì chữ Phạm vốn hàm chứa nhiều nghĩa nên cùng giữ lại cả hai.

-Sớ câu: “Tức tùy nơi mỗi mỗi tâm, đồng thời tương ưng với công đức tràn trề”: Biển lớn đã dụ cho Tạng Thức, biển nhỏ lại biểu thị cho chủng tử. Cả hai đều là Tâm vương. Sông thì biểu thị cho Tâm đồng thời. Đó là pháp Thiện nơi mười một Tâm Sở Biển Hành và hai pháp trong Tâm sở Biệt cảnh. Là ngàn dòng sông phước đức tràn trề nơi cõi Tâm.

-Sớ từ câu: “Sự việc trang nghiêm trong chỗ trang nghiêm đều không sai biệt”: Là giải thích về phần thứ hai, biện luận về sự trang nghiêm. Văn nơi bản Sớ giải gồm hai:

Một: Giải thích tóm lược.

Hai: Tóm kết về mười câu. Có thể nhận biết.

Nay, trước là nêu ra mười câu, sau là chỉ rõ cách giải thích riêng.

Mười câu là:

Một: Thể của bờ bến (giải thoát) là kim cương.

Hai: Từ câu “Ánh sáng thanh tịnh” tiếp xuống: Là ngọc ma ni trang nghiêm nơi bờ bến ấy.

Ba: Từ câu: “ Thường hiện bày” tiếp xuống: Là hiện bày màu sắc hào quang của Phật.

Bốn: Từ câu: “Cùng những” tiếp xuống: Là phát ra âm thanh cùng loại.

Năm Từ câu: “Sông kia” tiếp xuống: Hiện ra hình ảnh dòng nước cuồn cuộn, quanh co.

Sáu: Từ câu: “Ngọc ma ni” tiếp xuống: Là lưới chuông rung giăng phủ.

Bảy: Từ câu: “Các thế giới” tiếp xuống: Là hiển bày chung về nhiều thứ trang nghiêm.

Tám: Từ câu: “Mây ma ni báu” tiếp xuống: Là mây báu phủ khắp bên trên.

Chín: Từ câu: “Lại phát ra âm thanh vi diệu” tiếp xuống: Là liên tục phát ra âm thanh vi diệu.

Mười: Từ câu: “Nước hương thơm kia” tiếp xuống: Là từ nước vọt lên vô số ánh sáng.

Do văn dễ nhận biết nên phần văn xuôi không dẫn ra, chỉ trong phần kệ thì mới nêu đầy đủ.

Nay, chỉ rõ phần giải thích tóm lược: Văn nơi bản Sớ giải nói “Thể báu” là câu thứ nhất. Trang nhiêm bằng vật báu là câu thứ hai. Chỗ tập hợp nhũng sự hành hóa của bậc Thánh linh, tức là câu ba, bốn, năm. Vô số ánh sáng cùng phản chiếu, soi tỏ là câu sáu, tám. Cùng với mười vạn hình tượng hiện lên sáng rõ là hai câu bảy, chín.

-Sớ câu: “Như rừng lá kiếm”: Tức cây cối nơi rừng ấy có lá giống như đao kiếm. Phần tiếp theo là kẻ bị quả báo của nghiệp ác.

Nói “Như cây Thiên ý”: Tức nơi kinh đại Bát Niết Bàn quyển thứ ba, trong bốn mươi hai câu hỏi của Bồ tát Ca Diếp, đó là câu hỏi hai mươi bốn: “Làm thế nào để xem cây Tam bảo cũng như cây Thiên ý? “Gọi là cây Thiên ý, là tùy theo ý của chư thiên mà chuyển biến theo. Đến quyển thứ chín mới bắt đầu đáp lại câu hỏi nầy. Kinh viết: “Lại nữa, Thiện nam! Như cây Am La cùng cây Diêm Phù, một năm có ba lần biến đổi. Có lúa sinh hoa màu sắc tươi đẹp, rực rỡ. Có khi sinh lá um tùm, xanh tốt. Có lúc thì tàn rụng giống như chết khô. Này Thiện nam! Ý ông thế nào, câu ấy có thật là khô chết chăng? Thưa Thế Tôn! Cây ấy không phải chết. Nầy Thiện nam! Như Lai cũng như vậy. Ở trong ba cõi thị hiện ba thứ thân, có lúc mới sinh, có thời kỳ trưởng thành, có thời kỳ nhập Niết-bàn. Nhưng thân của Như Lai thật sự chẳng phải là vô thường”.

Giải thích: Ý nhằm nêu rõ Tam bảo tùy theo muôn loài mà có sự chuyển biến, nhưng thật sự là thường còn. Như cây Thiên ý tùy theo ý của chư Thiên mà chuyển biến, nhưng thật sự không chết. “Tùy theo ý của chư Thiên” nêu rõ là nghiệp thiện.

-Nói “Rừng nam nữ”, tức nơi kinh Lăng Già, nơi câu hỏi thư một trăm lẻ sáu của Bồ tát Đạo Tuệ: “Thế nào là Rừng nam nữ ?” Câu hỏi thứ nhất trăm lẻ bảy là: “Thế nào là rừng Ha-lê-lặc, rừng A-ma-lặc ?”

Giải thích: Nghĩa là khiến người tu tập xem thế gian như Rừng nam nữ. Dựa nơi Luận Lập Thế A-Tỳ-đàm, quyển thứ nhất nói: “Ngoài rừng Diêm-phù-đề có hai rừng: Một gọi là Ha-lê-lặc, hai tên là A-ma- lặc. Phía sau hai rừng nầy lại có bảy khu rừng, trong đó có Rừng người. Trong “Rừng người” ấy, hình tướng của quả giống như người. Như chủng tộc vua chúa, Thánh nhân nơi cõi Diêm-phù-đề; nếu là nam thì mười sáu tuổi, nữ thì mười lăm tuổi, khỏe mạnh, đẹp đẽ, đúng tuổi lấy vợ gả chồng. Quả nơi Rừng người kia đáng yêu mến cũng giống như thế. Nơi núm quả kia hình giống như búi tóc trên đầu người. Người chưa lìa dục, khi nhìn thấy quả ấy liền sinh tâm ái dục. Các hàng ngoại đạo có người đã lìa dục, nếu trông thấy quả nầy liền mất hết thiền định, tâm ái dục phát sinh trở lại. Quả ấy khi chín thì chỉ có chim tranh nhau ăn. Phần chim ăn còn dư rơi rớt xuống đất, như nơi rừng Thi đà hết sức đáng chán ghét. Những người đã bị mất thiền định, trông thấy hình tướng kia thì từ nơi thâm tâm phát sinh sự chán lìa, trở lại đạt được định như trước.

Ý nhằm biểu thị cho hàng nam nữ ở thế gian, cũng như Rừng với chỗ thấy là xanh tốt, sầm uất, thảy đều như huyễn ảo, cùng với sự việc nầy không khác. Do “Biến kế sở chấp” vọng tưởng cho là thật. Chư Bồ tát quán các pháp ấy đều không có thật. Cho nên kinh Lăng Già có đoạn: “Xem các chúng sinh như thây người chết, không còn tri giác”. Do vọng tưởng nên thấy có vãng lai. Nếu lìa bỏ vọng tưởng, thì như thây chết kia không có ma nhập vào, gọi là tự tại.

Có kinh nói rằng: “Bồ tát với sự nhận thấy về tài sản nơi thế gian không trái với thật tướng”, chính là ở nghĩa nêu trên.

-Sớ câu: “Ba kệ sau là tóm kết về chỗ tạo nhân của sự trang nghiêm”: Văn nơi bản Sớ giải gồm ba phần:

Một: Biện minh chung.

Hai: Từ câu: “Nhưng ba kệ nầy” tiếp xuống: Là giải thích riêng.

Ba: Từ câu: “Mới hiển bày sự trang nhiêm của Hoa Tạng” tiếp xuống: Là kết luận, tán thán.

Trong phần Hai, chỉ rõ về tướng khó nghĩ bàn, gồm có sáu lớp. Trong sáu lớp đều chung một kệ mà đều chọn lời trong một câu. Lại nữa, bốn câu ấy đều là một nghĩa. Như nơi kệ thứ nhất thì câu đầu nói về cảnh giới của đối tượng được hiện bày. Câu bốn là nhân của chủ thể hiện bày. Phần tiếp dưới là hai sự so sánh.

Tuy nhiên, về lớp thứ nhất nhận định về chỗ hiện bày, thể hiện bày về ba thế gian. Nay đều nêu lên một nên gọi là tóm lược. Chẳng phải chỉ là nghĩa nầy mà cả sáu lớp đều tóm lược.

-Sớ từ câu: “Lại như, một biện minh về một quả có thể hiện bày” tiếp xuống: Là lớp thứ hai, căn cứ nơi xứ hiện có để nêu rõ, kệ đầu là câu thứ hai, hai kệ sau đều là câu thứ nhất.

-Sớ từ câu: “Lại nữa, đầu tiên là biện minh về Phật lực” tiếp xuống: Là lớp thứ ba, căn cứ nơi nhân sai biệt của chủ thể hiện bày, cùng làm rõ một nhân, đều là câu thứ tư.

-Sớ câu: “Hơn nữa, trước là Quả, sau là Nhân, Nguyện thì chung cả Nhân, Quả”: Là lớp thứ tư, cũng căn cứ nơi Nhân hiện có để biện minh về chỗ khác nhau. Giải thích lần nữa về câu thứ tư mà căn cứ nơi Nhân Quả chẳng đồng.

-Sớ từ câu: “Lại nữa, trước là Sự, sau là Tha” tiếp xuống: Là lớp thứ năm, cũng căn cứ nơi Nhân của chủ thể hiện bày, câu cũng là câu thứ tư, căn cứ nơi tự lợi, lợi tha chẳng giống nhau.

-Sớ từ câu: “Thứ nhất là biện minh tức Tánh Vô tánh gốc của thể là chẳng sinh” tiếp xuống: Là lớp thứ sáu, căn cứ nơi tánh tướng của đối tượng được hiện bày để làm rõ chổ sai biệt. Ba kệ đều là câu thứ ba, do cùng thấy chỗ chẳng đồng nơi Thể đồng không đến đi. Một nghĩa nầy lại cần được giải thích, nghĩa là, nếu thuận theo cách giải thích trên, đã từ nơi Nhân của Phật lực v.v… Thể của đối tượng được hiện bày tức không sinh.

Hai là câu nầy cũng là chủ thể hiện bày. Do Thể là không sinh nên hiện bày mà không thể nắm giữ. Xứng hợp với Tánh mà đến nên là không đến, đi. Tùy theo cơ duyên Ẩn giấu, hiển bày nên đều thấy chẳng giống nhau.

-Sớ câu: “Dùng Nhân đối chiếu với Quả nên thành bốn câu”: Văn nơi bản Sớ giải chỉ nêu ra hai câu (câu một, hai). Câu ba là một nhân một quả. Văn giải thích đã dùng. Câu bốn là nhiều nhân nhiều quả, tùy chỗ tu tập một Hạnh mà không đức nào là không tiếp cận. Quảng diễn như nơi Phẩm Vấn Minh cùng Phẩm Lên Cõi Trời Đâu-suất. Bốn câu cùng dung thông nên mỗi mỗi đều khó nghĩ bàn.

-Sớ câu: “Năm tướng của Quả trang nghiêm, một là khiến chu cấp nhiều cho tất cả”: Kệ thứ tư nói về tất cả Sát Hải (vô số cõi) hàm chứa sự biến hiện khắp là khiến chu cấp cho kẻ khác. Trong kệ thứ hai không hề có sự dừng nghỉ tạm thời. Trong kệ thứ ba luôn nghe thấy là khiến được Thường. Trong kệ thứ ba, âm thanh vi diệu kia là khiến được diệu. Nơi kệ thứ mười không gì hơn, không sinh, không có tướng là xứng hợp với Tánh. Kệ thứ tám, có thể ở trong tất cả vi trần, hiện bày khắp thân kia nơi các cõi thanh tịnh. Kệ thứ chín rong một Sát na thảy có thể hiện bày, đều tự tại.

-Sớ câu: “Nữa sau thì Bi ứng hợp, là nghiêm trang của Không”: Tức là Tha Thọ dụng cùng với cõi Biến Hóa thanh tịnh. Trong một kệ bốn cõi gồm đủ.

-Sớ từ câu: “Nêu lên hai chương, nghĩa là chủng loại cùng với

Cõi” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải gồm ba:

Một: Nêu tên gọi, giải thích chung.

Hai: Từ câu “Nhằm làm rõ về thế giới ” tiếp xuống: Là cùng hiển bày về danh tướng.

Ba: Từ câu “Nhưng nói thế giới vô biên” tiếp xuống: Là đối với vấn nạn để giải thích, thông tỏ. Phần nầy gồm hai:

Một là, Thông tỏ vấn nạn về thế giới vô biên.

Hai là, Từ câu: “Như thế là chủng loại” tiếp xuống: Là giải thích vấn nạn về chủng loại là không Thể tánh.

Từ câu “Tuy dựa nơi chủng loại” tiếp xuống: Là giải thích, thông tỏ. Phần nầy có hai:

Một: Chính thức giải thích.

Hai: Tóm kết, xác nhận.

Một: Trước là hình thành về Hải nên chọn lấy chủng loại, lược không nói về thể riêng. Nay nêu dụ riêng về các lỗ ra vào nơi thân cây của con ong để làm rõ là có Thể tánh. Các lỗ trống để ong ra vào như Cõi, một lỗ nơi thân cây ấy như chủng loại, tức hiển bày về cá, Rồng nên thành phần dụ.

-Sớ từ câu: “Tức dựa nơi nghĩa sau” tiếp xuống: Là phần hai, tóm kết, xác nhận. Văn nơi bản Sớ giải phân làm hai:

Một: Hợp cùng với Tấn kinh (kinh Hoa Nghiêm, bản dịch vào đời Đông Tấn) để xác nhận nghĩa chủng tánh. Chủng có hai nghĩa: Một là Loại, hai là Tánh, dùng cây lúa dụ cho chủng, dùng hạt gạo dụ cho Cõi. Cây lúa có thể sinh ra lúa gạo nên có nghĩa là Tánh.

Hai: Từ câu: “Do sợ lẫn lộn về Thể Tánh” tiếp xuống: Là làm rõ ý của kinh hiện nay (bản dịch vào đời Đường), cũng là nhằm thông tỏ chỗ vấn nạn. Vấn nạn nêu: “Nếu có nghĩa của Chủng phát sinh thì sao chẳng dựa theo kiến giải đã có từ trước là Tánh của Thế giới?” Nên ở đây cần được thông tỏ: Tức “Chủng” thì gồm hai nghĩa. Nay kinh đã giữ lại.

-Sớ từ câu: “Nay nói về phần một, rõ ràng là mười môn nầy có sự khác biệt nơi chủng loại của cõi” tiếp xuống: Văn nơi bản Sớ giải phân làm bốn:

Một: Hiển bày chỗ nương dựa của chủng loại.

Hai: Đối chiếu với trước để giải thích, dung hợp.

Ba: Theo văn để giải thích.

Bốn: Chỉ rõ riêng về nghĩa nơi môn.

-Sớ từ câu: “Đối tượng được nêu bày là mười sự” tiếp xuống: Là phần hai đối chiếu với trước để giải thích, dung hợp. Phần nầy cũng gồm bốn:

Một là: Hiển bày chung về chỗ chẳng giống nhau.

Hai là: Từ câu: “Nếu cùng đối chiếu từng phần riêng” tiếp xuống: Là nêu ra chỗ đồng, dị.

Ba là: Từ câu: “Đều hiển bày về mười” tiếp xuống: Là làm sáng rõ lý do của sự hỗ tương.

Bốn là: Từ câu: “Do đâu mà dấy khởi đầy đủ? Trước Có đây Không” tiếp xuống: Là lặp lại câu hỏi. Giải thích về sự thành tựu nơi bậc Thánh tức là nêu câu hỏi. Ý của câu hỏi cho rằng: “Một chủng loại dấy khởi đủ cùng năm câu, đây Không trước Có. Phương, Sở cùng với năm câu thì đây Có trước Không”.

Từ câu: “Đoạn trước là biện minh chung” tiếp xuống: Là phần giải đáp. Trong phần đáp, đối hợp với trên để nhắc lại câu hỏi về “Dấy khởi đầy đủ”. Nhưng nơi đoạn tiếp theo tóm kết: “ Phần còn lại có thể theo đấy mà suy xét”. Tức là tóm kết, đối chiếu với bốn phần khác, chỉ dùng câu “ Những gì là Thế giới trụ” để thông tỏ chung về phần về năm vấn nạn. Kiếp trụ tức là Quả dấy khởi đầy đủ, là Nhân. Chỗ chung ở đây dễ lãnh hội. Bốn phần còn lại cũng như vấn nạn. Nghĩa là, Phật thanh tịnh xuất hiện nơi kiếp trụ, chuyển biến, chính là tướng của Quả, chính thức biện giải về Quả trụ, sao cho có thể là hoàn toàn không? Nay cho là không, tức phương tiện thanh tịnh cũng là căn cứ nơi Nhân. Lại nữa, chẳng chung nơi nhiễm, nay thì chung cả nhiễm. Thêm nữa, chẳng nói nhân nơi thanh tịnh xuất hiện nơi kiếp trụ, chuyển biến, chính là tướng của Quả, chính thức biện giải về Quả trụ, sao cho có thể là hoàn toàn không? Nay cho là không, tức phương tiện thanh tịnh cũng là căn cứ nơi Nhân. Lại nữa, chẳng chung nơi nhiễm, nay thì chung cả nhiễm. Thêm nữa, chẳng nói nhân nơi Phật trụ là căn cứ theo người, nay ở đây biện giải về cõi nên cũng cho là không. Kiếp trụ, chuyển biến, hai điều nầy là biện minh theo chiều dọc (Thời gian). Nay gọi là “Hiện trụ”, cũng chẳng phải là điều thiết yếu, nên lượt bớt không nêu ra.

-Sớ từ câu: “Tuy nhiên, cùng với trước là đồng” tiếp xuống: Là phần ba theo văn để giải thích riêng. Chính là giải thích năm câu.

Nói “Như phương, sở viên mãn”: Giải thích năm câu ấy đều là ý ở trong mười tám thứ viên mãn. Phần tiếp dưới sẽ biện minh. Ở đấy mỗi câu đều có hai nghĩa. Hai nghĩa của Phương, Sở: Thì Phương Sở viên mãn tức là Tự Thọ dụng. Tức Phương Sở như trên đã dẫn Luận Duy Thức để biện minh về Tướng của cõi Tự Thọ dụng. Phương Sở tùy nghi, tức là Tha Thọ dụng cùng với cõi Biến Hóa thanh tịnh.

Nhưng dựa nơi mười tám thứ viên mãn của Phật địa thì chỉ căn cứ vào Tha Thọ dụng mà nói. Nay căn cứ theo tính chất viên thông nền cùng hội nhập nơi Tự Thọ dụng bao quát cả phần biến hóa tiếp theo.

-Sớ câu: “Dựa nơi môn để hướng tới chỗ hội chập”: Kia đã có môn sự tức như vừa nêu bày.

Hai là căn cứ nơi Pháp làm môn, nay chỉ ra môn nầy.

Câu: “Lại nữa, hỗ tương để hiện bày về hội nhập”: Là căn cứ theo Tông nầy để biện giải về nghĩa của môn, đều như phần tiếp theo đã nêu. Sách “Giáo Nghĩa Phân Tề” phân làm hai: Phương Sở tùy nghi tức là Tha Thọ dụng. Căn cứ nơi Phật tức cõi Tự Thọ dụng. Thứ lớp bày biện cùng với phần Gia trì thứ mười đều căn cứ nơi Sự, Pháp mà phân làm hai.

Hỏi: “Phương Sở viên mãn” cho rằng không nơi chốn nào mà không hiện hữu. Còn “ Phân Tề viên mãn” thì mười phương không biên cực, hai tướng khác nhau ra sao?

Đáp: Nếu nhận biết về Phương Sở tùy nghi, Phân Tề tùy nghi, tức rõ hai tướng viên mãn chẳng đồng. Nghĩa là, về Phương Sở tùy nghi, thì cõi Tịnh nầy, ở trong mười phương là tại phương nào? Như Cực Lạc là ở phương Tây, Diệu Hỷ là ở phương Đông v.v… Nói “Phân Tề” thì cõi Tịnh nầy rộng hẹp ra sao? Hoặc cùng một với thế giới Sa bà, hoặc cùng với trăm ngàn là “Phân Tề”. Như vậy là Phương Sở viên mãn nêu rõ không nơi chốn nào là chẳng hiện hữu, tức biến hiện khắp nơi tất cả xứ. Còn Phân Tề gọi là mười phương không biên cực, tức là dung lượng trùm khắp Pháp giới.