QUYỂN 48

Phẩm thứ ba mươi bốn: NHƯ LAI THẬP THÂN TƯỚNG HẢI

(Từ đây trở xuống đi vào quyển thứ 48 trong kinh).

A. Ý ĐƯA RA: Phẩm trước tổng quát trình bày về pháp của Quả, phẩm này riêng biệt hiển bày về đức của Tướng, gần là giải đáp câu hỏi về Thân ở phẩm trước, xa thì giải đáp câu hỏi về sáu căn như Nhãn… ở Pháp hội Phổ Quang, bởi vì không chỉ riêng Nhãn… rộng khắp pháp giới, mà đều đầy đủ nhiều Tướng-Dụng khó nghĩ bàn.

B. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Như Lai Thập Thân là nêu ra người để hiển bày Đức, nói Tướng Hải là dựa vào người để hiển bày Tướng. Mười thân của Như Lai đều như trước giải thích. Phước báo nhờ vào hình trạng mà sáng tỏ rõ ràng gọi là Tướng, đức của Tướng sâu rộng cho nên gọi là Hải (biển), cho nên văn nói: Tướng có nhiều như số vi trần của mười Liên Hoa Tạng, thì Thể của Tướng đã rộng lớn rồi; mỗi một Dụng rộng khắp, thì Dụng của Tướng đã rộng lớn rồi; mỗi một Tướng đều khó nghĩ bàn, dung thông phù hợp lẫn nhau, thì Thể-Dụng đã sâu xa rồi.

Nếu tướng này chỉ thuộc về Viên giáo, thì dùng mười Thân để nêu lên. Vì vậy kinh Quán Phật Tam Muội Hải, biện giải về Tướng có ba loại: 1- Nói tóm lược trong tóm lược, thì có ba mươi hai tướng; 2- Nói tóm lược thì có tám vạn bốn ngàn tướng; 3- Nói mở rộng thì có vô lượng tướng. Như trong kinh Tạp Hoa, thuyết giảng cho Phổ Hiền-Hiền Thủ… Tạp Hoa tức là tên gọi khác của kinh này.

Trong ba loại: Loại thứ nhất thì bao gồm Quyền-Tiểu, bởi vì thị hiện giống như loài người, đoan chánh mà không tạp loạn; loại thứ hai thì chỉ riêng Bồ-tát Đại thừa, bởi vì tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-lamật; loại thứ ba thì chỉ riêng Nhất thừa, bởi vì Nhất thừa tu tập Vô tận hạnh.

Lại loại thứ nhất là Hóa thân, loại thứ hai là Báo thân, loại thứ ba thuộc về mười Thân. Tướng hải của mười Thân là Y chủ thích.

Lại loại thứ nhất thì phàm Thánh cùng nhìn thấy, loại thứ hai thì chỉ riêng phần vị Địa thượng, loại thứ ba thì chỉ riêng căn cơ Viên Đốn, nhưng bao gồm năm phần vị.

Nếu nói về Thể của Tướng, thì loại thứ nhất là dùng hình sắc, loại thứ hai tức là Định-Tuệ, loại thứ ba là dùng pháp giới vô tận.

Nếu nói về Nhân của Tướng, thì loại thứ ba là bao gồm ThuầnTạp, như Hội thứ nhất trình bày, bởi vì quả của mỗi một Tướng đều rộng khắp pháp giới; nhân của Tướng thuộc hai loại trước, như các luận Du Già-Trí Độ, các kinh Niết Bàn-Đại Tập.

C. TÔNG THÚ: Hiển bày về Tướng hải vô tận là Tông; khiến cho tu tập Vô tận hạnh, hiển bày về thành tựu là Thú.

D. CHÍNH THỨC GIẢI THÍCH VĂN: văn có ba phần riêng biệt: Một-Khuyên nhủ lắng nghe, nhận lời thuyết giảng; Hai- Chính thức trình bày về tướng trạng; Ba- Kết thúc tóm lược để hiển bày mở rộng.

Phần một: Khuyên nhủ lắng nghe, nhận lời thuyết giảng. Sở dĩ Phổ Hiền thuyết giảng, là bởi vì Tướng hải rộng khắp tất cả, khiến cho thực hành các hạnh rộng khắp, mà đạt được tướng rộng khắp. Phổ Hiền chính là Hội chủ, thuyết giảng trước đây đã hết, cho nên ở đây lại thuyết giảng. Hoặc là bởi vì cuối phẩm trước, kinh đưa ra chưa hết, cho nên lại riêng biệt giải đáp câu hỏi về Quốc độ…

Phần hai: Từ “Phật tử, Như Lai đảnh thượng…” trở xuống là chính thức trình bày về tướng trạng, sơ lược nêu ra chín mươi bảy tướng, văn nối thông có năm: 1- Dựa vào nơi chốn; 2- Nêu ra tên gọi; 3- Thể trang nghiêm; 4- Nghiệp dụng; 5- Kết luận về số lượng.

Hoặc là tóm lược không đầy đủ, đến văn sẽ biết. Hoặc là thêm vào trở thành nhiều, thâu nhiếp trong nghiệp dụng. Nhưng tên gọi dựa vào Thể-Dụng để thiết lập, đều dùng Thể-Dụng để giải thích tên gọi. Hoặc là chỉ thuận theo Thể-Dụng, hoặc là cùng thuận theo hai loại, tùy theo văn suy nghĩ về điều đó. Hoặc là tên gọi cùng với Thể-Dụng, nghĩa không tương tự, là bởi vì văn tóm lược mà nghĩa hàm chứa vậy thôi. Luận tường tận về một tướng đều dựa vào một nơi chốn, thì làm thành chín mươi bảy đoạn, Kinh tự nhiên nêu lên theo thứ tự. Nay dùng chủng loại ví dụ thuận theo nhau, dựa vào mười chín nơi chốn, tức là mười chín mục, bắt đầu từ đỉnh đầu, cuối cùng đến bàn chân. Đây chính là thuận theo quán sát về Tướng hải.

Trong mục một- Dựa vào đỉnh đầu, có ba mục: 1- Dựa theo nơi chốn tổng quát nêu lên; 2- Từ “Kỳ trung…” trở xuống là riêng biệt nêu ra tên gọi của tướng; 3- Từ “Phật tử…” trở xuống là tổng quát kết luận làm trang nghiêm.

Mục 1- Dựa theo nơi chốn tổng quát nêu lên. Trang nghiêm bằng vật báu, bao gồm hiển bày về Thể trang nghiêm, bởi vì vật báu thuộc về Sự thì nói đều là Ma-ni… làm trang nghiêm; cũng hiển bày vật báu thuộc về Trí, bởi vì trang nghiêm thanh tịnh tròn vẹn. Trong mỗi một tướng đều có Sự trang nghiêm-Lý trang nghiêm, giải thích tùy theo thích hợp. Tướng đại nhân, là tướng của bậc Đại Nhân.

Trong mục 2: Là riêng biệt nêu ra. Có ba mươi hai tướng, văn đều chỉ có bốn mục, bởi vì một mục dựa vào nơi chốn đã tổng quát nêu lên. Nơi chốn ở đây chỉ có ba mươi hai, Lý thật thì thuận theo nhiều để hiển bày về viên dung, bởi vì một tức là tất cả, trong một đỉnh đầu đã có đủ ba mươi hai số của Quyền giáo. Nếu như vậy thì còn lại sao không như vậy? Bởi vì hiển bày về đỉnh đầu là cao quý thù thắng (Tôn thắng). Kinh Thiện Sinh nói: “Phước của tất cả thế gian, không sánh bằng công đức một sợi lông của Như Lai. Công đức của tất cả sợi lông, không sánh bằng công đức của một vẻ đẹp. Công đức của tất cả vẻ đẹp, không sánh bằng công đức của một tướng tốt. Công đức của tất cả tướng tốt, không sánh bằng công đức của tướng lông trắng giữa chặng mày (Bạch hào). Công đức của tướng lông trắng giữa chặng mày, lại không sánh bằng công đức của tướng Vô kiến đảnh.” Vì vậy biết là thù thắng. Đây là dựa theo tướng tốt đối lập với nhau để trình bày. Nếu dựa theo người có đủ vẻ đẹp làm thù thắng, thì tướng của vẻ đẹp ẩn kín nơi con người hơn hẳn chư Thiên, cho nên những nơi chốn còn lại nói vẻ đẹp là vi tế.

Trong tướng thứ 1 có bốn mục: 1- Nêu ra tên gọi, tên gọi thuận theo Dụng mà thiết lập; 2- Từ “Nhất thiết diệu bảo…” trở xuống là Thể trang nghiêm; 3- Từ “Nhất nhất…” trở xuống là nghiệp dụng; 4- Từ “Thị vi nhất…” trở xuống là kết luận về số lượng. Tướng khác đều dựa theo đây.

Trong tướng thứ 2: Từ “Dĩ Ma-ni…” trở xuống là Thể trang nghiêm, tức là giải thích về nghĩa của ánh sáng. Từ “Kỳ quang…” trở xuống là nghiệp dụng, giải thích về nghĩa của mắt Phật, bởi vì mắt Phật không có gì không soi chiếu. Còn lại đều dựa theo suy nghĩ.

Tướng lông trắng (Hào tướng) phát ra ánh sáng, như phẩm Hiện Tướng trình bày, nghĩa của mây cũng như Hội thứ nhất.

Trong tướng thứ 8: Ma-ni trang nghiêm bên trong gọi là Ý, cho nên không giống với Như ý.

Trong tướng thứ 11: Từ “Như thị giai tùng…” trở xuống là phân rõ về nhân của nghiệp dụng, cũng là nghiệp dụng thâu nhiếp.

Trong Dụng của tướng thứ 14: Nói bốn hạnh của Bồ-tát, phần Bồtát Địa trong luận Du Già nói: “Tất cả Bồ-tát tóm lược có bốn hạnh: 1Hạnh thuộc về Ba-la-mật; 2- Hạnh thuộc về pháp phần Bồ-đề; 3- Hạnh thuộc về Thần thông; 4- Hạnh thành thục cho hữu tình.”

Tướng thứ 19: Nói đầy đủ ngàn vòng tròn (Thiên luân), bản tiếng Phạn nói: “Vòng tròn đầy đủ ngàn tia (Thiên phúc luân).”

Tướng thứ 21: Nêu ra ánh sáng của Thân-Trí, cùng hiển bày về Trí tuệ.

Trong tướng thứ 26: Thể trang nghiêm nói mắt thanh tịnh của Như Lai làm trang nghiêm, đây là bao gồm mười mắt. Từ “Quang chiếu…” trở xuống là hiển bày về nghiệp dụng, cũng bao gồm ánh sáng của Thân-Trí. Mắt thanh tịnh và ánh sáng là giải thích về soi chiếu rộng khắp trước đây, hiện rõ đồ vật trang nghiêm là nghĩa của Luân trên đây, tức là Pháp luân.

Từ tướng thứ 27 đến tướng thứ 31, đều lược qua không có trang nghiêm, cũng bởi vì trong tên gọi đã bao gồm.

Tướng thứ 32: Trước là tên gọi, tiếp từ “Tối xứ…” trở xuống là Thể trang nghiêm. Tướng này chỉ hiển bày về nơi riêng biệt ở đỉnh cao nhất, cho nên nói là ở chính giữa (Xứ trung), thì biết những tướng khác đều vòng quanh tướng này, lược qua không trình bày mà thôi. Từ từ nổi lên cao, là chính thức hiển bày về tướng ấy. Trí Luận quyển thứ 5 nói: “Đỉnh đầu của Như Lai có xương búi tóc như nắm tay.” Kinh Quán Phật Tam Muội nói như nắm tay hợp lại, tức là tướng nổi lên cao.

Mục hai- Giữa chặng mày có một tướng. Từ đây trở xuống bởi vì đều có mục dựa vào nơi chốn, cho nên văn đều có năm mục: 1- Dựa nơi nơi chốn. 2- Hiển bày tên gọi. 3- Từ “Ma-ni…” trở xuống là Thể trang nghiêm, nghĩa là tướng này nếu thu lại thì vòng về phía bên phải như che phủ cái chén Lưu-ly, nếu mở ra thì có đủ mười cạnh, có ánh sáng lớn trang nghiêm, chỉ một vật báu mà ánh sáng đầy đủ nhiều màu, ở giữa biểu hiện đều Không, tức là rỗng rang thông suốt. 4- Từ “Kỳ quang…” trở xuống là nghiệp dụng. Từ “Phục xuất…” trở xuống tức là ánh sáng của pháp, bởi vì ánh sáng này phần nhiều thuận theo Dụng mà thiết lập. 5- Kết luận về số lượng, có thể biết.

Mục ba- Mắt, có một tướng.

Mục bốn- Mũi, có một tướng.

Mục năm- Lưỡi, có bốn tướng: 1- Tướng lưỡi rộng dài, ở trong Thể trang nghiêm nói: Thành tựu pháp thiện vốn có, đây là nêu ra nhân trang nghiêm. Chỉ một tướng này nói về nhân, là bởi vì khiến cho ca ngợi thuyết giảng về Nhất thừa. Lưỡi ấy dài rộng tức là nói về Thể của lưỡi, người phước đức thì lưỡi dài đến chót mũi, Quyền Phật thì lưỡi dài đến chân tóc. Trong các kinh Đại Thừa khác trình bày về hiện rõ thần túc thì lưỡi mới dài lên đến cõi Phạm Thế, hoặc che phủ Tam Thiên thế giới. Nay nói thẳng về Thể thì đã che phủ tất cả. Từ “Như Lai…” trở xuống là phân rõ về nghiệp dụng, thuyết pháp là giải thích về âm thanh, hiện rõ Phật là giải thích về ảnh tượng. 2- Tướng lưỡi như bàn tay, bàn tay nghĩa là gần với căn. Từ “Kỳ quang…” trở xuống là hiển bày về nghiệp dụng, ánh sáng soi chiếu các thế giới, khiến cho người cần phải hóa độ không chờ đợi quán sát rõ ràng, tập hợp lại tự nhiên hiểu rõ, chỉ do vi trần hợp lại mà thành, tánh gì là có? Hai tướng 3-4 cùng ở đầu lưỡi, hoặc ở bên phải-bên trái, hoặc ở trên-dưới. Quán sát về văn của nghiệp dụng chỉ có mở rộng-thu vào không giống nhau, trước thì thu nhận thế giới của chư Phật ở đầu lưỡi, sau thì mở rộng thế giới của chư Phật nơi pháp giới.

Mục sáu- Hàm răng trên có một tướng, hàm trên đã có thì hàm dưới cũng phải có; có lẽ là bản tiếng Phạn bỏ sót?

Mục bảy- Răng lớn có bốn tướng, nghĩa là bốn răng cửa bên phảibên trái và trên-dưới, cho nên Đức Phật nhập Niết-bàn, bốn răng cửa không vỡ nát. Xương má (Phụ giáp), cũng nói là Giáp Xa Cốt. Hai xương má-hai răng trên gọi là Di Lự, bởi vì hiển bày về núi Diệu Cao. Trong bốn răng cửa có ba dòng sữa pháp (Pháp nhũ)…, cùng dựa theo một pháp thuyết giảng để giúp cho Pháp thân gọi là dòng sữa (Nhũ), soi chiếu rõ ràng vạn cảnh gọi là ngọn đèn (Đăng), khiến cho Pháp thân thanh tịnh viên mãn là Thật, tức là thuyết giảng về pháp thuộc ba đức của Niết-bàn, cũng thành tựu lợi ích thuộc ba đức của Niết-bàn.

Mục tám- Răng, có một tướng.

Mục chín- Môi, có một tướng.

Hai mục tám-chín đều thuận theo phân ra trên-dưới. Trước từ “Phóng Diêm-phù…” trở xuống là Thể trang nghiêm, bởi vì môi có màu sắc đỏ tươi đẹp đẽ, như cánh sen hồng lúc mặt trời mới mọc. Sau từ “Chiếu vu…” trở xuống là nghiệp dụng.

Mục mười- Cổ, có một tướng.

Mục mười một- Vai, có năm tướng, vai phải có hai tướng, vai trái

có ba tướng, có lẽ cũng sót.

Mục mười hai- Ngực, có mười một tướng, đầu là một tướng ở chính giữa, bên phải-bên trái đều có năm tướng. Tướng ở giữa, chữ Vạn(#) chính xác phiên ra là Cát Tường Hải Vân, bởi vì dựa vào hình dạng mà thiết lập tên gọi. Đầu là nêu lên hình tướng; sau từ “Ưng hồi an danh…” trở xuống là bởi vì thuộc về Thể thâu nhiếp không có trái ngược. Trước-sau, trái-phải có thể biết.

Mục mười ba- Tay, có mười ba tướng, phân ba: Đầu là chín tướng nói thẳng về tướng của tay, tay phải có năm tướng, tay trái có bốn tướng, có lẽ tay trái sót một tướng, hoặc là biểu thị cho tay phải vốn thường sử dụng; mà tướng vai trước đây thì vai phải có hai tướng, vai trái có ba tướng, tướng nối thông với Chánh Đẳng. Bên phải hợp với tướng sáu mươi sáu, nói thành tựu màng lưới biến hóa, là ánh sáng giáo hóa làm màng lưới. Bên phải hợp với tướng bảy mươi hai, nói màng lưới Nhânđà-la làm trang nghiêm, tức là tướng của màng lưới căng lên, bởi vì trải qua hòa vào lẫn nhau. Tiếp là hai tướng ngón tay bên phải-bên trái, có thể biết. Sau là hai tướng bàn tay bên phải-bên trái, đều có ngàn bánh xe, bánh xe đầy đủ ba bộ phận là ổ trục-nan hoa và vành xe, tự nhiên thành tựu không cần đến công sức của người.

Mục mười bốn- Âm tàng, có một tướng, giống như Ngựa chúa.

Mục mười lăm- Chỗ ngồi, có hai tướng.

Mục mười sáu- Bắp đùi, có hai tướng. Bắp đùi trái nói là tùy thuận an trú, bởi vì bắp đùi đi lại cử động nhiều, cần phải nhiều vật báu tùy thuận mà trang nghiêm.

Mục mười bảy- Cánh tay, có ba tướng. Tướng thứ ba là lông cánh tay bao gồm hai cánh tay. Nếu dựa theo bản kinh thời Tấn nói thẳng là đầu sợi lông, thì bao gồm tất cả lông toàn thân. Nghĩa thuận theo như xưa, thì nơi chốn trở thành mười chín.

Mục mười tám– Bàn chân, có mười ba tướng, tất cả phân làm bảy: 1- Một tướng dưới bàn chân lược bớt không có trái-phải, mà bản kinh thời Tấn thì sau tướng mu bàn chân, tách biệt có tướng vòng tròn ngàn tia dưới bàn chân, bởi vì tướng này nhất định phải cùng có. Phẩm sau trình bày về tướng vòng tròn dưới bàn chân, gọi là Phổ Chiếu Vương. Kinh này nói là Thiên Luân, chính là ở giữa các ngón chân. Hoặc là bởi vì thường xuyên trình bày dễ dàng nhận biết, giữa các ngón chân có khác nhau, cho nên nêu ra mà thôi. Gọi là an trú, bởi vì dưới bàn chân bằng phẳng an toàn, tất cả chạm đất mà không dung nạp gai nhọn. 2- Trên bàn chân. 3- Giữa các ngón chân. 4- Gót chân. 5- Mu bàn chân. 6- Xung quanh bàn chân, Nhân-đà-la Ni-la, Trung Hoa nói là Đế Thanh. 7- Đầu ngón chân. Sáu tướng trên đây đều có bên trái-bên phải là hai, văn hiển bày có thể biết.

Trên đây sơ lược nêu ra chín mươi bảy tướng theo thứ tự số lượngtên gọi, người dịch sắp xếp đã không nói ra hết, lẽ nào không đầy đủ một trăm hay sao? Dưới bàn chân thiếu một tướng, môi và hàm răng không tách ra. Giả sử hợp với hai tướng này thì sáu căn đều phân rõ mà thôi, đâu chỉ thiếu như vậy? Nếu thêm vào hai tai và một tướng dưới bàn chân, thì tròn số một trăm, để hiển bày về vô tận, lẽ nào không là tuyệt vời hay sao? Huống hồ trong này đã nêu ra, đối với ba mươi hai tướng hãy còn có tướng chưa tận cùng, lẽ nào lực của Phổ Hiền không đạt tới một trăm hay sao?

Bản kinh thời Tấn có để sót, chỉ có chín mươi bốn tướng, cũng không có số lượng theo thứ tự, cho nên biết rằng kể ra chín mươi bảy tướng, phối hợp thuộc về các pháp không quyết định bởi tình thức của chúng sinh.

Phần ba: Từ “Phật tử…” trở xuống là kết thúc tóm lược để hiển bày mở rộng, riêng biệt thuyết giảng khó mà hết được, vì vậy cần phải kết thúc tóm lược; không phải tóm lược mà có thể tận cùng, vì vậy cần phải hiển bày mở rộng. Tướng như vi trần của một Hoa Tạng đã là vô biên, huống là mười Hoa Tạng thì vô tận-vô tận, không phải là Phổ Nhãn thì làm sao có thể nhìn thấy được? Ba mươi hai tướng Quyền-Thật đã không giống nhau, bởi vì có lẫn nhau-không có lẫn nhau, cho nên không hợp lại để giải thích.

Phẩm thứ ba mươi lăm: NHƯ LAI TÙY HẢO QUANG MINH CÔNG ĐỨC

A. Ý ĐƯA RA: Phẩm trước là trình bày về Tướng, phẩm này là phân rõ về vẻ đẹp (Hảo), Tướng-Hảo tuy khác mà đều dùng để trang nghiêm cho thân. Bởi vì giải đáp câu hỏi về Thân và Nhãn…, bao gồm Tự tại trước đây, vẻ đẹp dựa vào tướng mà có, đức yếu kém so với tướng, cho nên tiếp theo trình bày về vẻ đẹp. Dụng của đức yếu kém, dùng để thành tựu lợi ích nhanh chóng, vượt qua hiển bày về đức của tướng lớn đã khó suy nghĩ rồi.

B. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Như Lai là nêu lên con người để biểu thị về đức. Tùy Hảo (vẻ đẹp kèm theo tướng)… là hiển bày về đức dựa vào con người, Tùy Hảo là Thể tùy theo tướng lớn, bởi vì tăng thêm vẻ đẹp. Quang Minh là Dụng. Công Đức là Đức. Nghĩa là từ vẻ đẹp phát ra ánh sáng, ánh sáng có thể làm lợi ích cho chúng sinh, hiển bày về đức của vẻ đẹp, cho nên dùng làm tên gọi. Những vẻ đẹp của Như Lai, cũng là Như Lai có những vẻ đẹp, bao gồm hai cách giải thích.

C. TÔNG THU: Trình bày về đức thù thắng của vẻ đẹp làm Tông, khiến cho chúng sinh cung kính tu tập làm Thú.

D. CHÍNH THỨC GIẢI THÍCH VĂN: có hai: Trước là tóm lược, sau là mở rộng.

Trong phần trước là tóm lược, có hai: Một- Nêu lên vẻ đẹp của quả; Hai- Từ “Phật tử, Ngã vị…” trở xuống là nêu ra nhân để so sánh hiển bày.

Phần một: Nêu lên vẻ đẹp của quả. Đức Phật tự mình thuyết giảng, có hai ý: 1- Cuối cùng của nhân trải qua A-tăng-kỳ, phẩm này là quả cao nhất, hai pháp đều là Đức Phật thuyết giảng; 2- Dụng của vẻ đẹp yếu kém so với tướng, mà Dụng khó nghĩ bàn, e rằng chúng sinh không tin tưởng, cho nên Đức Phật tự mình thuyết giảng.

Nói cho Bảo Thủ biết, cũng có hai nghĩa: 1- Nói Thủ là vẻ đẹp tùy theo, bởi vì vị ấy là Chủ của môn này; 2- Khiến cho ngay nơi Bảo trở lại lại phát khởi niềm tin đối với Thủ.

Có vẻ đẹp tùy theo, là tổng quát về tướng nêu ra, ngay nơi vẻ đẹp dưới bàn chân cùng với tên gọi sau này giống nhau, Đức Dụng đầy đủ tất cả cho nên nói là viên mãn, thâu nhiếp làm lợi ích tự tại thù thắng nhất gọi là Vương, ánh sáng tên gọi rực rỡ (Xí thạnh) là đầy đủ đức như mặt trời, vì vậy lại có thể thâu nhiếp các quyến thuộc. Trăm vạn… là hiển bày về nhiều. Lại nói là bảy, bởi vì thanh tịnh bảy Chi, tu tập bảy Giác, soi chiếu bảy Địa.

Phần hai: Là nêu ra nhân để so sánh hiển bày, bởi vì hiển bày về thù thắng, phần này có nhiều lớp:

1. Bởi vì đức của tướng sâu rộng, ngôn từ không thể nào nói đầy đủ, cho nên gác lại mà thuyết giảng về vẻ đẹp.

2. Đức của vẻ đẹp lại nhiều, bởi vì ba mươi hai tướng đã có tám mươi vẻ đẹp tùy theo, tướng hảo của mười Liên Hoa Tạng lại càng nhiều hơn, cho nên tạm thời nêu ra một vẻ đẹp.

3. Trong một vẻ đẹp gác lại thù thắng chỉ thuyết giảng về yếu kém, cho nên trình bày về dưới bàn chân.

4. Một vẻ đẹp dưới bàn chân, lại có nhiều ánh sáng, mà chỉ nói đến một ánh sáng.

5. Một ánh sáng của quả vị cũng không thể nói hết, cho nên dựa vào nhân để hiển bày thành tựu lợi ích thuộc về ánh sáng của nhân, ba lớp lập tức tròn vẹn, huống hồ một ánh sáng của quả? Như vậy lần lượt chuyển tiếp, huống hồ đối với các tướng? Huống hồ trở lại tổng quát nói về các đức của Như Lai? Quả vô lượng vô biên bặt dứt ngôn từ cũng là nghĩa này.

Trong văn có hai: 1- Phạm vi giới hạn soi chiếu của ánh sáng, tức là phát ra ánh sáng trong vẻ đẹp viên mãn trước đây, không riêng biệt nêu lên nơi chốn phát ra, mà không phải là vẻ đẹp của ánh sáng trước đây vốn đầy đủ nhiều ánh sáng. 2- Từ “Bỉ thế giới…” trở xuống là do ánh sáng mà thành tựu lợi ích.

Trong phần 2 có hai: a- Lợi ích về thanh tịnh thiện căn đời trước khiến cho lìa xa đau khổ; b- Từ “Tùng bỉ mạng…” trở xuống là lợi ích về chuyển báo sinh lên cõi trời, được nghe giáo pháp.

Trong phần b có ba mục: Một- Nêu ra nhân của đời trước, nghĩa là xưa gần gũi Thiện hữu nhất định phải nghe pháp rộng khắp, thành tựu chủng tử Kim Cang, tâm không buông lung là hiển bày đã từng tu tập thực hành, gieo trồng các thiện căn bao gồm thấy nghe… Hai- Từ “Tỳlô…” trở xuống là hiển bày về duyên hiện tại. Ba- Từ “Ư bỉ…” trở xuống là kết luận về nhân thuộc quả.

Văn thuận theo tóm lược, cho nên kết luận là sinh lên cõi trời. Lý thật thì chấm dứt đau khổ và thanh tịnh ánh mắt…, đều nhờ vào nhân duyên này. Vậy thì biết ánh sáng của Đức Phật soi chiếu bình đẳng, không gieo trồng nhân thiện thì không có lợi ích thù thắng này. Vì sao một ánh sáng lập tức thành tựu lợi ích này? Bởi vì đã hiển bày vô tận công đức, đã phát sinh rộng khắp pháp giới, không giống như tám mươi vẻ đẹp tùy theo của Quyền giáo, chỉ trang nghiêm cho hình tướng làm phát sinh niềm tin mà thôi. Trong này lược bớt không có nhân rơi vào địa ngục, nghĩa là tuy tu tập nương theo Giới mà Hạnh rộng rãi.

Phần sau từ “Phật tử, Bồ-tát túc…” trở xuống là mở rộng phân rõ, chỉ mở rộng đối với nhân mà quả thì khó nói hết. Trong văn cũng có hai: Một-Mở rộng về lợi ích làm thanh tịnh thiện căn đời trước; hai-Từ “Ký sinh Thiên…” trở xuống là mở rộng về lợi ích nghe pháp.

Phần một: Mở rộng về lợi ích làm thanh tịnh thiện căn đời trước. Phá tan đau khổ của nẽo ác bên dưới, phát ra ánh sáng từ tướng bánh xe dưới bàn chân. Bốn mươi ánh sáng, biểu thị cho bốn mươi phần vị, bởi vì không có gì không soi chiếu, trong đó có một loại gác lại mở rộng để nói về tóm lược. Từ “Năng chiếu…” trở xuống là phạm vi giới hạn soi chiếu vượt qua trước đây. Từ “Tùy chư…” trở xuống là làm thanh tịnh phiền não mà thành tựu về đức. Ánh sáng trước đây nhận lấy tên gọi như thanh tịnh…, là dùng nặng so sánh với nhẹ để nêu ra A-tỳ địa ngục mà thôi.

Trong phần hai: Là mở rộng về lợi ích nghe pháp, văn dài phân làm sáu: 1- Tóm lược nêu lên khuyên nhủ dạy dỗ; 2- Từ “Nhĩ thời chư Thiên tử…” trở xuống là nghe rồi sinh lòng nghi ngờ; 3- Từ “Thị thời Thiên cổ…” trở xuống là tổng quát nêu ra nguyên nhân; 4- Từ “Chư Thiên tử như thuyết…” trở xuống là chính thức trình bày về khuyên nhủ chỉ dạy; 5- Từ “Thời chư Thiên tử văn thị âm…” trở xuống là y theo lời khuyên đi đến chỗ Phật; 6- Từ “Thuyết thị pháp thời…” trở xuống là lợi ích sâu xa của thấy nghe.

Ba phần trước (1-2-3) có thể biết.

Trong phần 4 Chính thức nêu rõ về sự khuyên dạy, có bốn mục:

Mục một- Lấy mình để dụ cho Phật không có Ngã, không có đến.

Mục hai- Từ “Chư Thiên tử, thí như nhữ…” trở xuống là lấy người khác để dụ cho mình, hiển bày đến tức là không có đến, văn có ba Dụ, đều hiển bày có thể biết. Nhưng ác nghiệp-thiện căn là nhân duyên của đến, nhân duyên là Vô tánh cho nên đến tức là không có đến, không phải trước có pháp ở trong mười phương để từ đó mà đến. Bởi vì nhân duyên tức là Trí tuệ, pháp của Trí tuệ vốn không phải là nhân duyên, vì sao suy nghĩ nói là có nhân duyên gì?

Mục ba- Từ “Chư Thiên tử, thí như ức Na-do-tha…” trở xuống là lấy mình để ví với cảnh giới khó nghĩ bàn của Phật. Trong Hợp nêu ra vẻ đẹp tùy theo của tay, là riêng biệt nêu ra để hiển bày về thù thắng.

Trước là cứu giúp nẽo ác bên dưới, cho nên nêu ra ánh sáng dưới bàn chân; nay dựa theo hiện bày thần thông cho nên nói về bàn tay.

Mục bốn- Từ “Chư Thiên tử, nhữ đương…” trở xuống là chính thức khuyên nhủ đi đến, can ngăn không nên chờ đợi.

Trong mục này cũng có hai: 1- Tổng quát khuyên nhủ nhắc nhở; 2- Từ “Trước ngũ dục…” trở xuống là mở rộng giải thích.

Trong mục 2 cũng có hai: a- Giải thích về can ngăn trước đây, có Pháp-Dụ-Hợp; b- Từ “Chư Thiên tử…” trở xuống là giải thích về khuyên nhủ.

Trong mục b có sáu tiết: Một- Giải thích thuận theo, bởi vì báo ân. Hai- Từ “Chư Thiên tử, kỳ hữu…” trở xuống là giải thích ngược lại. BaTừ “Chư Thiên tử, nhữ đẳng…” trở xuống là nêu ra tướng của ân đức ấy. Bốn- Từ “Nhữ đẳng kim giả…” trở xuống là khuyên nhủ đi đến để tăng thêm điều thiện. Năm- Từ “Chư Thiên tử, như Ngã Thiên cổ phi nam phi nữ…” trở xuống là nêu ra pháp khiến cho tu tập, nghĩa là nói về hai Không, Dụ về không phải nam-nữ để hiển bày về Nhân Không, Dụ về không sinh-diệt để hiển bày về Pháp Không. Sáu- Từ “Nhữ đẳng nhược năng…” trở xuống là khuyên nhủ tu tập thành tựu lợi ích. Nói không có dựa vào phù hợp, là đã hiểu biết rõ ràng về Vô sinh, thì chủ động-thụ động đều bặt dứt, tự nhiên không dựa vào, cho nên nói là không có dựa vào; bởi vì Trí phù hợp này, nhất định phù hợp với vạn pháp, không thu nhận-không thâu nhiếp, tùy theo tâm tự nhiên an trú, cho nên gọi là Tam-muội.

Trong phần 5 là y theo lời khuyên đi đến chỗ Phật, phân năm mục: Một- Hiến cúng không gặp. Hai- Từ “Thời hữu…” trở xuống là nghe ở nơi đó. Ba- Từ “Thời chư Thiên…” trở xuống là quán sát thấy sinh ở cõi dưới. Bốn- Từ “Chư Thiên tử chúng…” trở xuống là phát tâm muốn hướng đến. Năm- Từ “Thời Thiên cổ trung xuất thanh cáo…” trở xuống là chỉ dạy nghi thức thấy Phật.

Trong mục năm: Có hai: 1- Chỉ dạy nhận biết về thọ sinh, khiến cho rời bỏ nhận thức không hợp lý; 2- Chỉ dạy phát tâm sám hối lỗi lầm, khiến cho nhận thấy rõ ràng lỗi lầm.

Mục 1- Chỉ dạy nhận biết về nơi thọ sinh. Bởi vì trước đây không gặp, sau nhìn thấy sinh ở cõi dưới không lìa xa có-không có, tình còn phân biệt nơi này-nơi kia, cho nên nêu ra Thể-Dụng, hiển bày về Vô sinh mà hiện Sinh. Trong văn có Pháp-Dụ-Hợp.

Trong Pháp: Trước là nhắc nhủ về nhận thức không hợp lý; sau từ “Đản dĩ…” trở xuống là nêu ra nhận thức đúng đắn về điều đó, là nhận biết do Phật hóa hiện mà sinh chứ không phải mất rồi sinh.

Từ “Chư Thiên tử, như Ngã…” trở xuống là Dụ.

Từ “Bồ-tát…” trở xuống là Hợp, trong đó có hai: Trước là trình bày về Pháp thân Vô sinh, thị hiện khắp nơi mà không thể thấy được. Sau từ “Nhi năng…” trở xuống là Ứng thân không có nơi nào không sinh, tức là mọi nơi đều có, có cảm thì trong cõi này cũng thấy, đâu cần phải trở lại cõi Diêm-phù.

Từ “Ly phân biệt…” trở xuống là hiển bày về đức của ứng hiện thọ sinh, loại bỏ những nhận thức không hợp lý, dùng Trí không có phân biệt mà sinh, không phải là có chọn lựa về nơi thọ sinh, tuy ở trong Vương cung mà không có kiêu mạn, chư Thiên vây tròn xung quanh mà không có nhiễm trước.

Trong mục 2- Từ “Chư Thiên tử, nhữ đẳng ưng phát…” trở xuống là chỉ dạy phát tâm sám hối lỗi lầm, có ba: Một-Nêu lên chỉ dạy sám hối; hai-Đưa ra hỏi về phương pháp sám hối; ba-Như pháp đích thực chỉ dạy.

Muốn sám hối lỗi lầm, cần phải hiểu biết về mười tâm thuậnnghịch, nghĩa là trước phải hiểu biết về mười loại tâm thuận theo sinh tử, dùng làm pháp đã đối trị: 1-Vọng chấp về nhân-ngã, khởi lên Thân kiến. 2-Bên trong đầy đủ phiền não, bên ngoài gặp phải duyên xấu, tâm Ngã dấy lên càng nhiều. 3-Bên trong và bên ngoài đã đầy đủ, diệt mất việc làm của tâm thiện, không vui với việc thiện của người. 4-Buông thả mặc ý ba nghiệp, không có điều ác nào không làm. 5-Việc làm tuy không nhiều mà tâm ác có khắp mọi nơi. 6- Tâm ác nối tiếp nhau ngày đêm không gián đoạn. 7- Che giấu lỗi lầm không muốn người khác biết. 8- Bắt người làm tùy tùng thay mình đánh phá, không sợ đường ác. 9Không hề có xấu hổ, không sợ gì phàm-Thánh. 10- Bài bác không có nhân quả, gây ra nghiệp nặng Vô gián.

Tiếp theo khởi lên mười loại tâm trái với sinh tử, phá bỏ ngược lại từ phía sau: 1- Sáng suốt tin sâu vào nhân quả; 2- Tự xấu hổ chê trách chính mình; 3- Sợ hãi đường ác; 4- Không che giấu lỗi lầm; 5- Đoạn trừ tâm ác nối tiếp nhau; 6- Phát tâm Bồ-đề; 7- Tu tập công đức bù cho lỗi lầm; 8- Tùy hỷ đối với điều thiện của người; 9- Nghĩ đến chư Phật mười phương; 10- Quán sát tánh của tội lỗi vốn trống rỗng.

Nay ba tiết này, văn đều đầy đủ mà bởi vì thứ tự không giống nhau, trước đây dùng thứ tự của tâm khởi lên, ở đây dùng thù thắng-yếu kém mà nói:

Trong tiết một- Nêu lên chỉ dạy sám hối, văn có bốn tiết, đối trị

sáu lỗi lầm ấy.

Tiết 1- Phát tâm Bồ-đề làm chỗ dựa cho sám hối, bởi vì là căn bản của Hạnh thâu nhiếp các đức, cho nên trình bày đầu tiên. Trái với tâm ác xưa kia có khắp mọi nơi, dành yên ổn cho mình, nguy khốn thì đẩy cho người; nay tâm Bi che khắp pháp giới, làm nhiều lợi ích cho hữu tình.

Tiết 2- Từ “Tịnh trị…” trở xuống là khiến cho ba nghiệp thanh tịnh, làm Thể chủ động sám hối. Đối trị làm thanh tịnh tâm ý là hành dừng lại của ý. Trú vào oai nghi của thiện, nghĩa bao gồm dừng lại và thực hiện (Chỉ-tác), nghĩa là nên phát lộ, không che giấu lỗi lầm, và đoạn trừ tâm ác nối tiếp nhau, vượt qua hai tâm thứ 6-thứ 7 trước đây.

Tiết 3- Từ “Sám trừ nhất thiết…” trở xuống là khiến cho sám hối diệt trừ bốn chướng, tức là sai trái đã diệt trừ, nghĩa là phiền nãonghiệp-khổ, hai chướng của Nghiệp-Báo dựa theo nhân-quả phân ra khác nhau. Đã sám hối về chướng của Báo thì sợ hãi đường ác, bởi vì trái với không sợ hãi, các Thiên tử mới từ nơi ấy đến, cho nên không mở rộng trình bày. Ở trong phiền não, nhanh nhạy và chậm chạp phân ra hai; bởi vì Tà kiến đoạn mất điều thiện thật là đáng sợ, cho nên riêng biệt trình bày về chướng của Kiến. Vả lại, Sở tri chướng cũng là chướng của Kiến. Còn lại như riêng biệt trình bày.

Tiết 4- Từ “Dĩ tận pháp giới…” trở xuống là tâm vận dụng rộng khắp mọi nơi, khiến cho không có nơi nào không tận cùng. Bởi vì xưa kia khởi lên lỗi lầm đã rộng khắp các cảnh giới, nay sám hối những điều sai trái xưa kia, cho nên ba nghiệp vận dụng rộng khắp giống như chúng sinh giới. Trước mỗi một Đức Phật và trước chúng sinh, đều phát lộ sám hối. Đã đều hướng về trời-người-phàm-Thánh mà sám hối, thì tự xấu hổ chê trách chính mình, trái với tâm không hề có xấu hổ. Bởi vì ý vận dụng rộng khắp, khiến cho thân-khẩu rộng khắp, đầu tức là cúi đầu lễ lạy bao gồm thân làm tổng quát, năm phần của thân thể rạp lạy sát đất.

Ở đây nói rộng khắp, là vì sao mà rộng khắp? Tiếp theo sau nói ba nghiệp thiện rộng khắp, đây chính là tu tập công đức bù cho lỗi lầm, trái với tâm buông thả tùy theo ba nghiệp.

Tiết hai- Từ “Thời chư Thiên tử…” trở xuống là đưa ra hỏi về phương pháp sám hối, trước đây nói hãy còn tóm lược, nghĩa còn lại chưa nói hết, cho nên tiếp theo đưa ra.

Tiết ba- Từ “Nhĩ thời Thiên cổ…” trở xuống là như pháp đích thực chỉ dạy, đích thực chỉ dạy quán sát về tánh của tội lỗi vốn trống rỗng, bao gồm hiển bày về bên ngoài gặp phải duyên xấu, bài bác không có nhân quả, vọng chấp về nhân-ngã.

Trong văn phân hai: Trước là trình bày về nhân của âm thanh phát ra, sau từ “Chư Thiên tử…” trở xuống là chính thức thuyết giảng chỉ dạy.

Tiết sau phân năm: Một- Riêng biệt quán sát về nghiệp Không; hai-Tổng quát quán sát về bốn chướng; Ba- Riêng biệt quán sát về Kiến hoặc; Bốn- Đối với nghiệp quán sát về Báo; Năm- Tổng quát kết luận về lợi ích của sám hối.

Một- Riêng biệt quán sát về nghiệp Không: Nghiệp là nhân của Báo, bởi vì đứng đầu ba chướng. Không phải là Thể có trước đây, mà từ mười phương xuất hiện. Chính thức hiển bày về nghĩa của Không, chỉ do điên đảo sinh ra. Giải thích nguyên cớ của Không, là bởi vì vô số nghiệp chướng, từ vọng tưởng sinh ra cho nên không có tự tánh. Khiến cho Tuệ về Không này tương ưng với tâm, thì quyết định không nghi ngờ gì. Có thể nhận biết như vậy thì gọi là Bồ-tát.

Hai- Từ “Chư Thiên tử, như ngã Thiên cổ…” trở xuống là tổng quát quán sát về bốn chướng, tức là Dụ về trống trời thuyết pháp mà Vô thuyết, để dụ cho Tục có-Chân không có.

Trước là trong Dụ: 1- Nêu ra pháp đã đối trị, đó là hai chướng của Nghiệp-Báo. 2- Nói về năm loại như Hành…, tức là pháp có thể đối trị, đó là thực hành điều thiện, dừng lại điều ác, hoan hỷ với người, sắp xếp cho người, an trú trong Định.

Sau từ “Chư Phật…” trở xuống là Hợp, trong đó: 1- Tùy theo Tục nói về có, nói về Ngã-Ngã sở tức là chướng của Kiến, nói về ThamSân-Si tức là chướng của Phiền não. 2- Từ “Nhi thật…” trở xuống là Thắng nghĩa thật sự không có. Hai văn nói về có-không có thì ba chướng phỏng theo tóm lược. Đã không có Ngã sở thì trở lại phá bỏ tâm Vọng chấp về nhân-ngã.

Ba- Từ “Thí như Ngã thanh…” trở xuống là riêng biệt phá bỏ Kiến hoặc, Kiến hoặc sâu xa nguy hiểm cho nên mở rộng phá bỏ về điều đó. Văn có ba Dụ:

1. Dụ về trống không có sinh diệt mà tùy theo nghe, dụ cho nghiệp tuy không có sinh mà tùy theo tu tập cảm đến Báo, nghĩa là trước đây quán sát về nghiệp Không là loại bỏ về chấp có, bởi vì nếu nói là Không thì chư Phật không hóa hiện. Nay hiển bày không phải đoạn mất không có, là trở lại phá bỏ tâm bài bác không có nhân quả.

2. Dụ về âm thanh không có đến-đi, dụ cho quay về Trung đạo, nhất định là có thì chấp Thường, nhất định không có thì chấp Đoạn, bởi vì Thường-Đoạn cũng là hai, cho nên cùng phá bỏ hai Kiến, hiển bày về lìa xa Đoạn-Thường.

Trong văn: Trước là Dụ; sau từ “Chư Thiên tử, nhược hữu…” trở xuống là Hợp, bởi vì nếu có thể đến thì chính là Thường, đi mà không đến thì Đoạn, cho nên tuy Không mà không Đoạn, tuy có mà không Thường.

3. Dụ về tiếng trống tùy theo tâm, dụ cho Phật do tâm mà thấy, loại bỏ nhất định chấp rằng ở ngoài tâm, sám hối chính là khiến cho tâm mình thực sự nghĩ đến chư Phật mười phương, trở lại phá bỏ tâm bên ngoài gặp phải duyên xấu.

Bốn- Từ “Như Pha lê…” trở xuống là đối với nghiệp quán sát về Báo. Văn có hai Dụ:1- Dụ về Thể của cảnh tượng trong gương trống rỗng, dụ cho tuy có mà không có, nghĩa là cảnh tượng trong gương dựa vào gương mà hiện rõ, cảnh tượng không có đến-đi, Báo từ nghiệp sinh ra sao có đến-đi? 2- Dụ về nhà ảo thuật làm cho mắt mê lầm, dụ cho Nghiệp dẫn đến Báo, tuy không có mà có, lại Nghiệp cũng như huyễn, lại huyễn không phải là có-không có, thì đã là Trung đạo.

Năm- Từ “Nhược như thị…” trở xuống là tổng quát kết luận về lợi ích của sám hối, có thể biết.

Trong phần 6 là lợi ích sâu xa của thấy nghe, có hai mục: MộtTrình bày về lợi ích của chúng khác, bởi vì lực của Tam-muội cho nên âm thanh nghe ở khắp nơi; Hai- Từ “Nhĩ thời…” trở xuống là chính thức phân rõ về lợi ích của căn cơ nơi ấy.

Trong mục hai có hai: 1- Lợi ích thuộc về một tầng; 2- Từ “Kỳ chư hương vân…” trở xuống là lợi ích lần lượt chuyển tiếp.

Trong mục 1, cũng có hai: a- Lợi ích đạt được pháp; b- Từ “Dĩ chúng sinh…” trở xuống là lợi ích được thấy Phật.

Trong mục a- Lợi ích đạt được pháp. Đều có chữ Cố, nghĩa là tựa như nhắc lại trước đây làm nhân, thì được thấy Phật là lợi ích, mà từ trước đến nay chưa có được ở Thập Địa… Vì sao mà nhắc lại? Chính là bởi vì bản kinh thời Tấn đều không có chữ Cố, cần phải nói là nghe thuyết giảng về hồi hướng rộng lớn của Phổ Hiền, cho nên liền đạt được Thập Địa, đạt được các Lực trang nghiêm của Tam-muội. Câu trước là đạt được phần vị, câu sau là thành tựu về Hạnh, bởi vì đạt được từng phần của Thập Lực làm trang nghiêm.

Trong mục b, là trình bày về lợi ích được thấy Phật, có ba: Một-

Trình bày về nhân được thấy; Hai- Từ “Tức kiến…” trở xuống là chính thức trình bày về được thấy Phật; Ba- Từ “Nhĩ thời…” trở xuống là tâm cung kính phát khởi cúng dường.

Nói từ trước, là bởi vì trước đây mang hoa đến chỗ Phật, mà hãy còn chưa rải lên để cúng dường. Lỗ chân lông tự nhiên hiện ra hoa, bởi vì đã đạt được phần vị của Địa. Hoa ở đầu tiên, cho nên tóm lược nêu ra điều đó. Trước là trong hoa đã mang đến vốn có hương và tán che…, sau thấy hương-thấy tán che, tất cả đều thành tựu lợi ích.

Trong mục 2, là lợi ích lần lượt chuyển tiếp, có hai: a- Lợi ích về nghe được mùi hương; b- Lợi ích về thấy được tán che. Đều dựa vào cúng dường trước đây mà thành tựu.

Mục a- Lợi ích về nghe được mùi hương, có Pháp-Dụ-Hợp.

Trong Pháp: Bởi vì thoát khỏi chướng ngại, cho nên đạt được niềm vui giải thoát, Dụ về bốn Thiền không có tám tai họa. Từ “Nhược hữu…” trở xuống là Hợp, bởi vì diệt trừ chướng ngại, cho nên đạt được thiện căn thanh tịnh. Chính là tướng của lợi ích.

Trong văn: Trước là hiển bày về pháp đã diệt trừ, tức là tám vạn bốn ngàn phiền não. Xưa có hai cách giải thích: Một- Nói rằng phiền não căn bản của chúng sinh có mười, nhưng sức mạnh của một phiền não (Hoặc) lại đều có mười, tức là trở thành một trăm. Xét ra phải phân làm chín phẩm, nay chỉ riêng phẩm Thượng là nặng mà tách ra làm ba phẩm, phẩm Trung-Hạ nhẹ cho nên đều làm một phẩm, hợp lại làm thành năm trăm. Lại khởi lên đối với cảnh trong-ngoài, nghĩa là năm Trần nơi Tự làm trong, lấy năm Trần nơi Tha làm ngoài, mỗi một Trần đều có năm trăm, tức là trở thành năm ngàn. Mê mờ riêng biệt về bốn Đế thì trở thành hai vạn, cọng với một ngàn căn bản thì có hai vạn một ngàn. Dựa vào Đẳng phần của ba Độc thì trở thành tám vạn bốn ngàn. Văn kinh tự nhiên đầy đủ.

Hai- Có người nói rằng: Lấy mười ác làm căn bản, lần lượt chuyển tiếp tác thành lẫn nhau, mỗi một loại đều có mười mà trở thành một trăm. Mê lầm về năm Trần nơi Tự-Tha làm thành một ngàn, chính là mê lầm về pháp môn của mười Đế, đó là bốn Đế-ba Đế, hai Đế-một Đế. Hoặc là mê lầm về mười Đế như Thuyết đế-Thành đế…; hoặc là mê lầm về mười Thiện, cho nên trở thành một vạn. Nhưng mê lầm về mười Đế thuộc về Không-Hữu không giống nhau, phân ra trở thành hai vạn. Hoặc là mê lầm về hai Đế của mười Thiện, cũng phân ra trở thành hai vạn, cọng với một ngàn căn bản.

Còn lại như kinh phân rõ. Nhưng hai cách giải thích đều có lý, loại bỏ hay chọn lấy tùy theo tình thức. Lại có cách giải thích khác, như kinh Hiền Kiếp…, không phải là ý của kinh này.

Sau từ “Liễu tri…” trở xuống là pháp có thể diệt trừ, nghĩa là biết rõ phiền não vốn trống rỗng mà lại không sinh khởi. Bản kinh thời Tấn nói: “Các phiền não này thảy đều trừ diệt, trừ diệt cho nên thanh tịnh, phiền não không còn mà Trí hiển bày, tức là thành tựu thiện căn sáng ngời tự tại.” Nói làn hương-cột cao và áng mây, tức là thiện căn của Địa thứ chín, đến văn sau sẽ trình bày.

Mục b- Từ “Nhược hữu chúng sinh kiến kỳ cái…” trở xuống là trình bày về lợi ích thấy được tán che, trong đó có hai: Một- Chính thức trình bày về lợi ích đạt được; Hai- Từ “Phật tử, Bồ-tát trú thử…” trở xuống là trình bày về lợi ích chuyển tiếp thâu nhiếp giáo hóa.

Tiết một- Chính thức trình bày về lợi ích đạt được. Dựa theo bản kinh thời Tấn nói: “Thiện căn đã gieo trồng của một Hằng hà sa Chuyển Luân Thánh Vương, đó gọi là lưới giăng quý báu sáng ngời của những Luân vương.” Vậy thì nhiều vị Luân Vương, không phải là nhiều điều thiện của một Luân Vương. Bản tiếng Phạn cũng như vậy.

Nhưng nói lưới giăng bằng vàng thanh tịnh, dựa theo kinh Anh Lạc quyển Thượng, vòng báu bằng vàng (Kim luân) thuộc về Thập Hồi Hướng, từ Địa thứ nhất trở lên đều là vòng báu bằng lưu ly (Lưu ly luân), mà số lượng vật báu tăng lên làm sai khác, thì biết xưa dịch là lưới giăng quý báu, là lưới giăng bằng vàng thù thắng (Kim võng).

Bởi vì kinh ấy nói: “Hoan Hỷ Địa có tướng vòng tròn là bảy vật báu (Tướng luân), Anh lạc là trăm vật báu, một vạn người con của Tứ Thiên Vương làm quyến thuộc, trăm Pháp thân làm trăm vị Phật trong quốc độ, giáo hóa các thế giới hệ (Thiên hạ) khắp nơi mười phương.”

Về sau lược bớt không có phạm vi giới hạn của giáo hóa. Số lượng vật báu ở mỗi một Địa đều tăng lên, đến Địa thứ bảy có tướng vòng tròn là mười ba vật báu, Địa thứ tám chỉ nói tướng vòng tròn là vật báu Đại Ứng, Địa thứ chín nói tướng vòng tròn là vật báu Bạch Vân, Địa thứ mười nói tướng vòng tròn là ngọc báu Vô úy, Anh lạc sáng ngời bằng vật báu trăm vạn thần thông.

Nếu thuận theo bản kinh thời Tấn, nói Bạch Tịnh thì chính là Địa thứ chín, tức là làn hương-cột cao và áng mây tự tại sáng ngời trước đây. Nếu như vậy thì lợi ích đạt được ấy chỉ là những vật phụ thuộc, thì lưới giăng bằng vàng không có gì sai. Nếu chọn lấy Địa thứ mười làm lưới giăng bằng vàng thanh tịnh, thì chính là Địa thứ mười dùng ngọc Vô úy làm nghĩa của thanh tịnh; nhưng phạm vi giới hạn thâu nhiếp giáo hóa, giống với quả Nhiếp Báo ở Địa thứ mười trước đây, thì rõ ràng đã chứng đến Địa thứ mười rồi. Vì vậy sau Luân Vương này phát ra ánh sáng, người gặp được cũng bước lên Địa thứ mười.

Nói một Hằng sa, nghĩa là từ Địa thứ chín trở về sau, cho đến Trú thứ mười là vòng tròng bằng đồng (Đồng luân). Bởi vì phạm vi giới hạn đã giáo hóa của Địa thứ mười này, so với trước đây đã như Hằng sa rồi, cho nên bản kinh thời Tấn nói là lưới giăng quý báu của những Luân Vương, chữ Những (Đẳng) là chọn lấy trước đây.

Trong tiết hai là trình bày về lợi ích chuyển tiếp thâu nhiếp giáo hóa, có hai: 1- Trình bày về lợi ích đạt được phần vị; 2- Từ “Phật tử, như đắc Sơ thiền…” trở xuống là lợi ích về thành tựu đức.

Tiết 1- Trình bày về lợi ích đạt được phần vị, có Pháp-Dụ-Hợp.

Trong tiết a là Pháp: Trình bày thẳng vào phạm vi giới hạn của thâu nhiếp giáo hóa, như trước đã giải thích.

Trong tiết b là Dụ: Trước là giáo hóa không có gián đoạn, dụ cho giáo hóa chúng sinh trong Pháp trước đây; sau là nếu có người nghe đến tên gọi thì chắc chắn sinh về quốc độ ấy, dụ cho gặp được ánh sáng này thì đạt được phần vị Thập Địa trong Hợp ở văn sau.

Trong tiết c là Hợp: Câu đầu là tổng quát hợp lại. Dựa theo bản kinh thời Tấn, từ “Diệc phục như thị…” trở xuống, thiếu câu ánh sáng tự tại phát ra từ hoa Mạn-đà-la; kinh này phỏng theo trong Hợp ở Dụ sau. Nếu nói thẳng là gặp được ánh sáng này, ở văn trước không có nơi chốn phát ra ánh sáng, thì gặp được là nơi nào?

Nói đạt được Địa thứ mười, bởi vì phẩm này tổng cộng có ba lớp, đều đạt được Địa thứ mười, cho nên gọi là lợi ích lần lượt chuyển tiếp: Một- Các Thiên tử nghe trống trời thuyết pháp, đạt được Địa thứ mười; Hai- Lỗ chân lông của Thiên tử này hiện ra mây-tán che và hoa, người thấy đạt được phần vị Luân Vương, tức là Địa thứ mười; Ba- Luân Vương phát ra ánh sáng, người gặp lại đạt được Địa thứ mười.

Ba phần vị này đều như nhau, cùng một lúc nhanh chóng thành tựu, đều có nhiều loại như số vi trần. Toàn bộ là lực của một ánh sáng trong một vẻ đẹo tùy theo, ánh sáng của những vẻ đẹp khác lại càng khó nói hết.

Nói dùng lực của thiện căn đã tu tập thực hành trước kia, là hiển bày về nhân của lợi ích nhanh chóng, bởi vì tu tập thiện căn rộng khắp là nhờ vào nghe pháp rộng khắp.

Trong tiết 2 là lợi ích về thành tựu đức: a- Dụ; b- Từ “Bồ-tát…” trở xuống là Hợp.

Trong tiết a là Dụ: Ý nói cõi Dục tu tập đạt được Định cõi Sắc, dùng Nhãn của cõi Dục nhìn thấy cảnh của cõi Sắc, dụ cho nhờ vào lực của pháp mà Bồ-tát lập tức chứng thấy cảnh của Địa thứ mười khi chưa chuyển thân phàm phu. Vậy thì ba A-tăng-kỳ có thể trong một niệm mà đến, là trình bày về một thâu nhiếp tất cả. Một phần vị trải qua vô số kiếp không tận cùng, là trình bày về tất cả thâu nhiếp một. Nhanh chậm tự tại như vậy, là Viên giáo này chứ không phải là Tông khác.

Trong tiết b là Hợp: Trước là chính thức trình bày về lợi ích đạt được; sau từ “Phật tử, giả sử…” trở xuống là hiển bày về phạm vi giới hạn của cảnh.

Trong tiết trước: Nói đạt được Địa thứ mười của Bồ-tát, giống như là nhắc lại trong Hợp trước đây, bởi vì đức dựa vào Địa mà thành, cho nên nhắc lại. Không như vậy thì trở thành hai lần phát ra ánh sáng đều đạt được Địa thứ mười.

Nói thành tựu Nhục nhãn thanh tịnh như vậy, nghĩa là các đức thuộc về mười Nhãn trước đây, đều dựa vào Nhục nhãn của thân phàm phu mà thành tựu, cho nên dựa vào đó để kết luận.

Trong tiết sau là hiển bày về phạm vi giới hạn của cảnh, tức là hiển bày về cảnh giới rộng lớn của Nhục nhãn, Nhục nhãn hãy còn như vậy, thì những Nhãn còn lại huyền diệu không thể nói hết.

Trong văn có ba: Một- Giả thiết ví dụ, để hiển bày về nhiều cảnh giới; Hai- Chính thức trình bày về pháp có thể nhìn thấy; Ba- Kết luận về đức có nơi quay về.

Một- Giả thiết ví dụ, để hiển bày về nhiều cảnh giới, phân ba: 1- Trình bày về một lớp rộng lớn. 2- Từ “Bảo Thủ, ư nhữ ý…” trở xuống là hỏi-đáp để hiển bày về rộng lớn. 3- Từ “Bảo Thủ, thiết phục…” trở xuống là lại nhân lên số lượng trước đây, trở lại hiển bày về rộng lớn.

Hai- Từ “Như thị nhất thiết…” trở xuống là chính thức trình bày về pháp có thể nhìn thấy, có ba: 1- Thấy vô số thế giới rộng lớn trước đây, Nhục nhãn có thể nhìn thấy đã là siêu việt thù thắng, huống hồ trong một niệm hay sao? 2- Từ “Diệc kiến…” trở xuống là trình bày về nhìn thấy nhiều Đức Phật. 3- Từ “Như pha lê…” trở xuống là trình bày về tướng của nhìn thấy, vốn là không có tâm, không có đến-đi.

Ba- Từ “Bảo Thủ như thị…” trở xuống là kết luận về đức có nơi quay về, quay về pháp thiện của Luân Vương. Phần trình bày về nhân quả sai biệt, xong. Phần cuối của phẩm này, kinh đưa ra chưa hết.

Phẩm thứ ba mươi sáu: PHỔ HIỀN HẠNH

(Từ đây trở xuống đi vào quyển thứ 49 trong kinh).

A. Ý ĐƯA RA Trước là tổng quát, sau là riêng biệt.

Tổng quát, nghĩa là hai phẩm trình bày về nhân-quả xuất hiện, cho nên tiếp theo đưa ra. Cũng gọi là nhân-quả bình đẳng, nghĩa là hợp với nhân sai biệt trước đây, thành tựu về nhân tròn vẹn của Phổ Hiền ở đây, hợp với quả sai biệt, thành tựu về quả xuất hiện của Tánh Khởi. Lại bởi vì trước là dựa theo Tu mà phát sinh (Tu sinh), ở đây dựa theo Tu mà hiển bày (Tu hiển). Nếu như vậy thì vì sao lại không có thưa hỏi riêng biệt? Lại vì sao cuối cùng của quả sai biệt mà không có điềm lành chứng minh, cuối cùng của nhân bình đẳng thì lại có điềm lành xuất hiện? Tức là dùng nghĩa này để hiển bày là hợp với trước đây, nếu lại thưa hỏi riêng biệt thì có ngăn cách, bởi vì muốn hợp với trước đây cho nên không dùng điềm lành ngăn cách, pháp rộng khắp đặc biệt hiếm lạ thì nhân quả đều có điềm lành. Lại trước phải có điềm lành, bởi vì kinh đưa ra chưa hết, cho nên không có mà thôi.

Riêng biệt, nghĩa là phẩm này nhân trước-quả sau, vốn là nghĩa theo thứ tự. Cũng là giải đáp xa câu hỏi về những công hạnh ở đầu Hội thứ hai trước đây, và câu hỏi về Bổn nguyện nghĩ đến thưa thỉnh ở phẩm Bất Tư Nghị. Trước tuy đã giải đáp, mà hai phẩm sau rất vi diệu cho nên trở lại trình bày về điều đó; cũng giống như vẻ đẹp tùy theo của vô lượng tướng tốt, mà lại vi diệu ở trong vi diệu, Cổ đức tách riêng làm thành một đoạn về nhân-quả.

B. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Đầu là tổng quát hiển bày về tên gọi-ý nghĩa của hai phẩm, dựa vào Tánh khởi Tu, dựa vào Tánh khởi Dụng, tướng sai biệt không còn thì Thể của nhân quả như nhau, cho nên nói là nhân-quả bình đẳng. Lại nhân là nhân của quả, lượng rộng khắp pháp giới; quả là quả của quả, cảnh giới như hư không. Nhân quả đều cùng tận vị lai làm lợi ích yên vui cho Hàm thức, cho nên gọi là xuất hiện.

Riêng biệt thì Phổ Hiền là tên gọi của phẩm, tức là nêu lên người để hiển bày pháp, trình bày về pháp của Hạnh này không phải là pháp theo thứ tự, Hạnh là hiển bày về pháp chứ không phải là người, Phẩm là trình bày về những công hạnh chứ không phải là nói về Thể của người. Đức rộng khắp pháp giới là Phổ, rất thuận với điều hòa thuần thiện gọi là Hiền, dựa vào Tánh thành tựu về Tu gọi là Hạnh. Nhưng Hạnh Phổ Hiền, phần nhiều các kinh có tên gọi ấy, trong phẩm tuy mở rộng, mà nay sơ lược hiển bày về mười nghĩa, để biểu thị cho Vô tận.

1. Đã mong cầu rộng khắp, nghĩa là bởi vì cần phải mong cầu chứng được pháp bình đẳng mà tất cả Như Lai đã chứng.

2. Đã giáo hóa rộng khắp, bởi vì ở đầu một mảy lông có nhiều chúng sinh mà đều giáo hóa tất cả.

3. Đã đoạn trừ rộng khắp, bởi vì không có một phiền não nào mà không đoạn trừ.

4. Đã thực hành về Hạnh thuộc Sự rộng khắp, bởi vì không có một Hạnh nào mà không thực hành.

5. Đã thực hành về Hạnh thuộc Lý rộng khắp, bởi vì ngay nơi Hạnh thuộc Sự trên đây, đều đầy đủ tánh mà xuyên suốt nguồn cội của Lý.

6. Hạnh vô ngại rộng khắp, bởi vì hai loại trên xuyên suốt đan xen với nhau.

7. Hạnh dung thông rộng khắp, bởi vì tùy theo mỗi một Hạnh mà thâu nhiếp dung thông vô tận.

8. Dụng đã khởi lên rộng khắp, bởi vì Dụng không có gì không thuận theo, không có gì không đầy đủ.

9. Nơi chốn đã thực hành rộng khắp, bởi vì tám môn trên đây có khắp vô số thế giới như lưới giăng của Đế Thích, mà tu tập thực hành tất cả.

10. Thời gian đã thực hành rộng khắp, bởi vì tận cùng thời gian ba đời, niệm-kiếp viên dung mà không có kỳ hạn cuối cùng.

Mười Hạnh trên đây đan xen mà không lẫn tạp, hòa vào với nhau trùng trùng, Thiện Tài đi vào một sợi lông của Phổ Hiền, mà pháp môn đã đạt được, vượt qua các Thiện hữu bội lần không thể nói hết. Lại mười Hạnh trên đây tổng quát thu vào làm hai: Nếu Phổ Hiền sau phần vị, thì đạt được quả không rời bỏ nhân, xuyên suốt tận cùng thời gian vị lai là Hạnh Phổ Hiền, dùng người để làm sáng tỏ về pháp là Hạnh của Phổ Hiền. Nếu Phổ Hiền trong phần vị-trước phần vị, thì dùng đức để thành tựu người, chỉ tu tập về Hạnh rộng khắp thì gọi là Phổ Hiền, cũng bởi vì Phổ Hiền tức là Hạnh, cho nên chỉ thuận theo tên gọi của Hạnh. Nếu chỉ riêng Phổ Hiền sau phần vị, thì Hạnh của Phổ Hiền không có thiết lập ở phần vị dưới.

Mở rộng giải thích về Phổ Hiền, phân rõ như Hội thứ nhất.

C. TÔNG THÚ: Cũng trước là tổng quát, sau là riêng biệt.

Tổng quát, dùng hai phẩm trình bày về nhân quả bình đẳng làm Tông, hợp với sai biệt trước đây làm Thú.

Riêng biệt, dùng phẩm này trình bày về nhân tròn vẹn bình đẳng làm Tông, thành tựu quả bình đẳng không hai làm Thú.

D. TRONG GIẢI THÍCH VĂN, có hai: Phẩm này phân rõ về nhân, phẩm sau trình bày về quả.

Trong phẩm này cũng có hai: Trước là Trường hàng thẳng thắn trình bày, sau là dùng kệ trở lại hiển bày.

Trước là Trường hàng, lại có hai: Một- Chính thức thuyết giảng; Hai- Điềm lành chứng minh.

Phần một cũng có hai: 1- Trình bày về nhân thuyết giảng; 2- Từ “Phật tử, Ngã bất kiến…” trở xuống là chính thức trình bày về nghĩa này.

Trong phần 1 cũng có hai: a- Nêu lên thuyết giảng phần ít trước đây; b- Đưa ra giải thích về nguyên cớ.

Phần a- Phổ Hiền thuyết giảng, là dùng người để biểu thị cho pháp.

Nói như trước đây: 1- Gần thì nêu ra một phẩm Tùy Hảo trước đây, vì chúng sinh chướng ngại nặng nề ở địa ngục, mà sơ lược thuyết giảng về Dụng thuộc phần ít của vẻ đẹp tùy theo, mở rộng thuyết giảng thì khó suy nghĩ. 2- Tổng quát nêu ra quả đã thuyết giảng trước đây, là cảnh giới thuộc phần ít, bởi vì vô lượng vô biên quả bặt dứt ngôn từ. 3- Xa thì bao gồm nhân quả sai biệt, tuy có nghĩa của viên dung, mà bởi vì nhân quả phân ra khác nhau theo thứ tự của năm phần vị, tùy theo cơdựa vào bệnh, chưa tận cùng nguồn cội của pháp, cho nên gọi là phần ít. Bởi vì hiển bày về nhân quả bình đẳng sau này, tùy theo pháp tánh mà thuyết giảng về nhân quả viên dung, cho nên gọi là thuyết giảng rộng lớn.

Trong phần b- Đưa ra giải thích về nguyên cớ. Ý đưa ra nói: Vì sao trước đây gọi là thuyết giảng phần ít? Văn giải thích có hai ý: 1- Thành tựu phần trước, sở dĩ chư Phật Thế Tôn xuất thế, là bởi vì chúng sinh có mười lỗi lầm như Vô minh…, chưa thích hợp để mở rộng thuyết giảng, cho nên trước phải trình bày về những sai biệt. 2- Sinh khởi phần sau, nghĩa là chúng sinh đã lỗi lầm thêm nhiều chướng ngại dây dưa không có tận cùng, bởi vì một đối trị thì tất cả đối trị, một hiện rõ thì tất cả hiện rõ, chúng sinh không có tận cùng, nhân quả cũng cùng tận thời gian vị lai, tùy theo những điều trước đây bởi vì chưa tận cùng.

Nói về mười lỗi lầm: 1- Vô minh. 2- Dấy lên hành ác. Bản kinh thời Tấn gọi là các Triền, thì cũng là Hoặc. Hai loại này là tổng quát. Sáu loại tiếp đều là Vô minh. 3- Chấp Ngã và Ngã sở. 4- Đắm theo Thân kiến, Địa thứ sáu nói thế gian thọ thân đều bởi vì đắm theo Ngã. 5- Bởi vì ba điên đảo-bốn điên đảo… mà không thể nào quyết đoán. 6Trái ngược rời xa Chánh lý. 7- Biến kế phân biệt. 8- Kiết sử ràng buộc luôn luôn đi theo. 9- Trôi theo dòng sinh tử, nghĩa bao gồm NghiệpKhổ, bởi vì trôi theo nhân-trôi theo quả. 10- Cách xa đạo của Như Lai, bởi vì đi theo con đường sai trái. Đây là kết luận thành tựu về sai lầm ấy. Tên gọi của Kiết-Phược… như bình thường đã phân rõ.

Trong phần 2 là chính thức trình bày về Hạnh Phổ Hiền, có hai:

a- Trình bày về pháp thụ động đối trị rộng nhiều; b- Từ “Thị cố chư Bồ-tát…” trở xuống là chủ động đối trị rất vi diệu.

Phần a- Trình bày về pháp thụ động đối trị rộng nhiều. Một phiền não đã trở thành trăm vạn chướng ngại, thì một chướng ngại là nghĩa của tất cả chướng ngại, thì tất cả phiền não đều như vậy. Nay thuận theo loại nặng nề mà nói, trong văn có ba mục: Một- Nêu lên; Hai- Đưa ra giải thích; Ba- Kết luận thành tựu.

Mục một- Nêu lên: Tổng quát nêu lên nóng giận là nặng nề nhất, bởi vì ngoài nóng giận ra, trải qua suy xét tìm tòi khắp nơi, không có một hành ác nào nặng nề như nóng giận. Bản kinh thời Tấn nói: “Một tâm nóng giận khởi lên, trong tất cả các hành ác không có gì vượt qua hành ác này.” Kinh Quyết Định Tỳ Ni nói: “Bồ-tát thà rằng khởi lên trăm ngàn tâm tham lam, chứ không khởi lên một tâm nóng giận, bởi vì trái ngược làm hại Đại Bi không có gì vượt qua tâm nóng giận này.” Kinh Bồ Tát Thiện Giới cũng giống như ở đây nói.

Nói đối với Bồ-tát khác, là nếu khởi tâm nóng giận đối với Bồ-tát thì lỗi lầm ấy rất nặng nề, bởi vì khiến cho Bồ-tát phế bỏ Đại Hạnh. Vì vậy trong kinh Đại Bát Nhã nói: “Thiên ma thấy các Bồ-tát tranh cãi đúng sai lẫn nhau, thì vô cùng vui mừng hơn hẳn bình thường.” Mục hai- Từ “Hà dĩ…” trở xuống là đưa ra giải thích.

Trong giải thích có hai: 1- Tổng quát hiển bày; 2- Từ “Hà đẳng…” trở xuống là đưa ra. Nêu lên tuy là trăm vạn mà tóm lược nêu ra trăm môn. Người xưa dựa vào phần vị phân làm năm: Một- Chướng ngại đến Hạnh của Thập Tín; Hai- Từ “Bất lạc Phật pháp…” trở xuống là chướng ngại đến Hạnh của Thập Trú; Ba- Từ “Bất đắc Bồ-tát chư căn…” trở xuống là chướng ngại đến Hạnh của Thập Hạnh; Bốn- Từ “Lạc phỉ báng nhất thiết…” trở xuống là chướng ngại đến Hạnh của Thập Hồi Hướng; Năm- Từ “Bất lạc dữ Bồ-tát đồng trú…” trở xuống là chướng ngại đến Hạnh của Thập Địa.

Nói miệng chướng ngại như dê câm, đây là chướng ngại của Nhĩ căn, bởi vì sinh nơi biên địa không nghe đến pháp, vì thế cho nên miệng không nói được điều gì. Chướng ngại của Thiệt căn, tiếp về sau tự nhiên rõ ràng. Người xưa kết luận rằng: “Vạn hạnh của Bồ-tát không vượt qua năm phần vị này, một tâm nóng giận khởi lên thì tất cả lập tức chướng ngại.” Cách giải thích này không phải là không có lý, như tâm địa bất chính mà mong cầu giáo pháp, lẽ nào chỉ có chướng ngại đối với Địa thôi sao? Vậy thì biết bao gồm chướng ngại tất cả, phần vị Tín hãy còn không khởi lên, huống hồ phần vị sau hay sao? Lại thụ động chướng ngại đến pháp giới như lưới giăng của Đế Thích trùng trùng, chủ động chướng ngại giống như thụ động chướng ngại, cũng đều là vô tận, cho nên biết rằng trăm vạn hãy còn là tóm lược trình bày.

Mục ba- Từ “Phật tử, nhược Bồ-tát…” trở xuống là kết luận thành tựu, có thể biết.

Trong phần b là chủ động đối trị rất vi diệu, có hai mục: MộtChính thức hiển bày; Hai- Kết luận khuyến khích.

Mục một- Chính thức hiển bày, văn có sáu phần vị, mỗi phần vị đều có mười Hạnh, đầu là một phần vị bắt đầu tu tập, sau là năm phần vị thành tựu lợi ích. Năm phần vị sau lần lượt chuyển tiếp dựa vào phần vị đầu, là bởi vì đầu đã thâu nhiếp sau, một đối trị thì tất cả đối trị. Thuyết giảng có trước-sau mà đạt được thì cùng một lúc.

Phần vị thứ nhất, phân hai mục: 1- Nêu lên khuyến khích tu tập; 2- Từ “Hà đẳng…” trở xuống là đưa ra và kết luận. Trong đó, mười pháp thâu nhiếp làm thành năm cặp, phân rõ về năm loại tu tập: Hai cặp đầu dựa theo người trình bày về tu tập khiêm cung, bởi vì cung kính người trên, thương yêu người dưới. Hai cặp tiếp dựa vào pháp trình bày về tu tập chân chính, bởi vì thuận theo giáo pháp, nhận biết sự việc. Hai cặp tiếp dựa theo tâm hạnh trình bày về tu tập rộng lớn, bởi vì vui thích Đại Hạnh, vững vàng Đại Tâm. Hai cặp tiếp dựa theo Trí trình bày về tu tăng thắng, bởi vì bên trong tiến vào Trí của quả, bên ngoài khởi lên biện giải thù thắng. Hai cặp sau dựa theo Bi Nguyện trình bày về tu tập trong thời gian dài, bởi vì chúng sinh vô tận mà tâm Bi giáo hóa không mệt mỏi, thế giới vô biên mà Nguyện trú vào không tham đắm.

Phần vị thứ hai- Thanh tịnh: Dựa vào Hạnh tu tập đúng đắn trước đây, mà luôn luôn thành tựu lìa xa nhiễm. Trong văn có hai mục: 1- Tiếp theo phần trước phát khởi phần sau; 2- Đưa ra số lượng, nêu bày tên gọi. Các phần vị sau đều dựa theo đây.

Trong mục 2 là nêu bày, có mười câu theo thứ tự mười câu trước mà thành tựu:

Một- Bởi vì không rời bỏ chúng sinh, cho nên thông hiểu về pháp sâu xa thanh tịnh; bởi vì chúng sinh đều có Phật tánh, ngay nơi Vọng mà Chân, vốn là pháp sâu xa.

Hai- Bởi vì cung kính người trên, cho nên có thể gần gũi.

Ba- Bởi vì không bài báng, cho nên có thể bảo vệ.

Bốn- Bởi vì nhận biết về vô tận, cho nên hiểu rõ như hư không.

Năm- Bởi vì Hạnh của Bồ-tát không tách lìa pháp giới, cho nên tiến sâu vào.

Sáu- Bởi vì nhận biết tâm Bồ-đề sánh bằng hư không, cho nên vô biên.

Bảy- Bởi vì quán sát Bồ-tát đều giống nhau, quán sát này có thể tiến vào Phật lực, cho nên gọi là Căn.

Tám- Bởi vì tinh tiến tu tập không lơi lỏng, cho nên không đắm theo kiếp số.

Chín- Bởi vì giáo hóa không hề thỏa mãn, cho nên quán sát chúng sinh đã giáo hóa-chưa giáo hóa… trong ba đời.

Mười- Bởi vì Nguyện trú trong thế giới, cho nên có thể tu tập tất cả các pháp của Phật.

Phần vị thứ ba- Trí rộng lớn: Cấu nhiễm đã loại bỏ, Trí căn bản tự nhiên sáng ngời, nhận biết xứng với Tánh-Tướng, cho nên nói là rộng lớn. Cũng thuận theo mười câu trước đây và theo thứ tự mà thành tựu, nhưng có tách ra và hợp lại, e rằng phiền phức cho nên không phối hợp, tùy theo thích hợp mà thuyết giảng.

Phần vị thứ tư- Tiến vào khắp nơi: Sự tùy theo-Lý dung thông, xưa nay ngay trong nhau-hòa vào nhau, Trí hiểu rõ pháp vốn như vậy, không có cảnh nào không thông suốt, cho nên thân tâm đều hòa vào nhau. Cũng thuận theo ba phần vị trước sinh ra, có thể dùng ý hiểu được. Không phải là căn, bởi vì Cảnh-Thức và Lý đều không phải là căn.

Phần vị thứ năm- Tâm thù thắng vi diệu: Dựa vào pháp nhận biết trước đây vốn dung thông, thì Sự-Lý không có ngăn ngại, ứng với căn cơ thành tựu lợi ích, gọi là tâm thù thắng vi diệu. Thuận theo bốn phần vị trước sinh ra, cũng có thể dùng ý hiểu được.

Phần vị thứ sáu- Trí phương tiện khéo léo: Dựa vào Sự-Lý không có ngăn ngại trước đây, nay thì Quyền-Thật quyết đoán, gọi là Trí phương tiện khéo léo. Văn có mười một câu, hai câu sau hợp lại làm một, còn lại đều như thứ tự, thuận theo mười câu trước mà thành tựu:

Một- Bởi vì ngay nơi ngôn ngữ không còn ngôn ngữ, cho nên trở thành rất sâu xa.

Hai- Bởi vì không có nương tựa, cho nên rộng lớn.

Ba- Bởi vì như dựa vào Không mà sinh ra Sắc, cho nên có thể thuyết giảng đủ loại.

Bốn- Bởi vì trú vào không có hai bên, cho nên chứng được bình đẳng.

Năm- Bởi vì hiểu rõ Chủng Trí sâu xa bí mật, cho nên hiểu rõ sai biệt.

Sáu- Bởi vì không có sai khác, cho nên hoàn toàn giống nhau.

Bảy- Nếu không có nghi ngờ mê hoặc, thì trang nghiêm cho pháp của Phật.

Tám- Bởi vì bình đẳng, cho nên thành tựu phương tiện như nhau.

Chín- Pháp ba đời dựa theo môn sai biệt làm thành vô lượng phương tiện.

Mười- Bởi vì trú trong Phật lực, có thể nhận biết vô biên chư Phật, cho nên tự lực không lui sụt.

Thuận theo mười câu trước đã như vậy, thì thuận theo phần vị trước cũng như vậy. Như vậy lần lượt chuyển tiếp không tách lìa phần vị bắt đầu tu tập, tùy theo một pháp đã đầy đủ tất cả rồi.

Mục hai- Từ “Phật tử, Bồ-tát…” trở xuống là kết luận khuyến khích, một Hạnh có thể đầy đủ tất cả các Hạnh, cho nên nhanh chóng đạt được Bồ-đề.

Trong phần hai- Từ “Nhĩ thời Phật…” trở xuống là chứng minh thành tựu, có hai: 1- Hiện rõ điềm lành chứng minh, trong đó: Trước là thế giới này; sau từ “Như thử…” trở xuống kết luận nối thông. 2- Từ “Nhĩ thời chí thập phương…” trở xuống là các Bồ-tát chứng minh, cũng: Trước là nơi quốc độ này; sau từ “Như thử…” trở xuống là kết luận nối thông.

Nói thọ ký pháp sâu xa, là bởi vì sử dụng một ít công sức mà mau chóng đạt được Bồ-đề. Cùng tên gọi Phổ Hiền, là bởi vì đều có Hạnh này. Cảnh giới thù thắng rộng khắp, là bởi vì dựa vào pháp rộng khắp này thật là thù thắng. Cột cao tự tại rộng khắp, là bởi vì Hạnh này thành tựu về quả cao vượt lên không có gì ngăn ngại.

Trong phần sau là dùng kệ trở lại hiển bày, có hai: Một- Tự thuật; hai-Chánh tụng.

Phần một- Tự thuật, cũng có hai: 1- Nghi thức thuyết kệ; 2- Từ “Dục khai…” trở xuống là ý thuyết kệ, phần này có mười ý, trong kệ đều đầy đủ, văn hiển bày có thể biết.

Trong phần hai- Chánh tụng, có một trăm hai mươi mốt kệ, phân

hai: 1- Có hai mươi bốn kệ, tụng phần hiển bày về phạm vi giới hạn của thuyết giảng; 2- Chín mươi bảy kệ còn lại đều chính thức phân rõ về tướng của Hạnh Phổ Hiền. Đây là kệ tụng (Già-đà) cùng với Trường hàng trước kia, đan xen với nhau cùng hiển bày về Hạnh của Phổ Hiền, trước là sơ lược trình bày về mười pháp lần lượt chuyển tiếp sinh khởi lẫn nhau, ở đây thì mở rộng hiển bày về các môn, lược bớt không có lần lượt chuyển tiếp. Lại trước là phần nhiều hiển bày về Thể, ở đây thì nhiều phân rõ về Dụng.

Trong phần 1- Có hai mươi bốn kệ, phân hai: a- Có một kệ, tụng về phần khuyên nhủ lắng nghe, nhận lời thuyết giảng; b- Hai mươi ba kệ còn lại, tụng về phần chính thức nêu ra phạm vi giới hạn.

Trong phần b phân hai mục: Một- Có chín kệ, tụng phần nhận lời thuyết giảng về Hạnh Bồ-tát quá khứ. Hai- Từ “Ư nhất Hiền kiếp…” trở xuống, tụng phần nhận lời thuyết giảng về Hạnh Bồ-tát của chư Phật ba đời.

Trong mục hai, có hai: 1- Có ba kệ, tụng phần nêu ra nơi chốn-thời gian thuyết giảng, hai kệ đầu nói về thời gian, một kệ sau nói về nơi chốn. 2- Có mười một kệ, tụng phần trình bày về Hạnh đã thuyết giảng, trong đó: Bốn kệ trước, tụng về Hạnh xuất thế của chư Phật, tức là Hạnh Phổ Hiền, cho nên gọi là nhân quả viên dung; bảy kệ sau, tụng về Hạnh thuộc Nguyện Trí là ba Luân của Bồ-tát, tức là Hạnh Phổ Hiền.

Phần 2- Từ “Ư nhất vi trần…” trở xuống là chính thức hiển bày về Hạnh Phổ Hiền, có chín mươi bảy kệ, phân hai: a- Có sáu mươi bảy kệ, tụng phần trình bày về Hạnh là Đại Trí ngay nơi Bi; b- Từ “Vị an giả…” trở xuống có ba mươi kệ, tụng về Hạnh là Đại Bi ngay nơi Trí.

Phần a- Có sáu mươi bảy kệ, tụng phần trình bày về Hạnh là Đại Trí ngay nơi Bi, có mười loại Hạnh:

Một- Có năm kệ, tụng về Hạnh khéo léo tiến vào Đế võng.

Hai- Có mười bảy kệ, tụng về Hạnh vi tế tiến sâu vào thời giannơi chốn.

Ba- Từ “Thế giới cập Như Lai…” trở xuống có ba kệ, tụng trình bày về Hạnh bí mật hiểu rõ tâm Phật: Một kệ rưỡi trước thâu nhiếp phần trước phát khởi phần sau, một kệ rưỡi sau chính thức hiển bày về có thể hiểu rõ điều khó hiểu rõ.

Bốn- Có mười kệ, tụng về Hạnh hiểu rõ sự thâu nhiếp giáo hóa của chư Phật ba đời.

Năm- Từ “Xuất sinh…” trở xuống có hai kệ, tụng về Hạnh của sáu căn vô ngại.

Sáu- Có ba kệ, tụng về Hạnh như giáo hóa không có giới hạn.

Bảy- Từ “Chư Phật thậm thâm…” trở xuống có mười kệ, tụng về Hạnh tự tại đối với ba thế gian, sự huyền diệu trong này nên suy nghĩ kỹ càng.

Tám- Có sáu kệ, tụng phần riêng biệt trình bày về Hạnh tự tại đối với Trí chánh giác thế gian.

Chín- Từ “Như Lai Pháp thân tạng…” trở xuống có năm kệ, tụng về Hạnh không phải Thân mà thị hiện Thân. Pháp thân tạng, tức là Tạng thân trước đây thuộc về Tự Thể của Bồ-tát Phổ Hiền, ngôn từ rộng khắp cũng giống như vậy.

Mười- Có sáu kệ, tụng về Hạnh không phải Lượng mà thị hiện Lượng.

Trong phần b- Hạnh là Đại Bi ngay nơi Trí, có ba mươi kệ, cũng có mười Hạnh:

Một- Có bốn kệ, tụng về Hạnh không có trú vào mà thâu nhiếp giáo hóa.

Hai- Có bốn kệ, tụng về Hạnh không phải Thân mà thị hiện Thân.

Ba- Có một kệ, tụng về Hạnh phân bố Xá-lợi.

Bốn- Có hai kệ, tụng về Hạnh nhận biết Đại tâm của Phật.

Năm- Có ba kệ, tụng về Hạnh thuộc Pháp luân tiến sâu vào.

Sáu- Từ “Vô lượng vô biên…” trở xuống có năm kệ, tụng về Hạnh nhận biết rõ ràng căn khí.

Bảy- Có ba kệ, tụng về Hạnh hiểu rõ nghiệp-phiền não của thế gian.

Tám- Có năm kệ, tụng về Hạnh thông hiểu Căn-Cảnh vô ngại.

Chín- Có một kệ, tụng về Hạnh nhận biết bốn loại thuyết pháp, mà thuyết giảng về thế giới…, tóm lược có ba nghĩa: 1- Dựa theo Lực nối thông; 2- Dựa theo dung thông, bởi vì một thuyết giảng thì tất cả thuyết giảng; 3- Dựa theo Lý hiển bày, là thuyết giảng về Bồ-tát tiếp xúc với cảnh đều nhận biết rõ ràng, thì tiếp xúc với chủng loại mà thành tựu giáo hóa, như cơm thơm…

Mười- Hai kệ cuối cùng, tụng về Hạnh thâu nhiếp giáo hóa trong ba đời.

Trình bày về nhân bình đẳng, xong.