QUYỂN 15

Đoạn 5: Phước điền thậm thâm

Thứ nhất, trong phần hỏi, có hai: Một: Nêu ra nói cho biết, bởi vì phước điền là soi chiếu dẫn dắt chúng sinh, lại Bố thí là đi trước dẫn đường của các Độ, cho nên hỏi Mục Thủ. Hai: Hiển bày về sự việc thưa hỏi, phân ba: 1- Nêu ra pháp dựa vào để xác định, Phật là ruộng (Điền) phát sinh phước đức, gọi là ruộng phước(Phước điền). Đức của ruộng không hai, gọi là bậc nhất, Lý này cùng nhau thừa nhận. 2- Từ “Vân hà…” trở xuống là chính thức hiển bày về nghi ngờ chất vấn, nói ruộng đã là một thì gieo trồng phước thích hợp như nhau, Báo của bố thí có sai khác do đâu mà khởi? Trước thì giống nhau mà ở đây khác nhau thì duyên và quả trái ngược nhau, riêng biệt hiển bày về mười sự việc, văn đều có thể biết. 3- Giải thích thành tựu về chất vấn trước đây nói rằng: Ruộng tuy là như nhau, mà tâm có cao thấp, cho phép có thể có khác nhau; tâm đã không có khác nhau, suy nghĩ về Báo vì sao khác nhau?

Thứ hai, phần giải đáp có nhiều ý: Một: Dựa theo chúng sinh, bởi vì căn khí có lớn-nhỏ, tâm có nặng-nhẹ, cho nên cảm được Báo có sai khác, không phải là lỗi của Như Lai. Hai- Dựa theo Phật thì phù hợp với tất cả căn cơ sai biệt, mới gọi là bình đẳng, nhiều sai khác ngay nơi một mà không trái với giống nhau, một giống nhau ngay nơi nhiều mà không ngăn ngại sai khác, bởi vì tâm bình đẳng không có riêng tư mới có thể tùy ý hiện rõ nhiều quả, cuối cùng khiến cho giải thoát cùng một vị, đâu từng khác nhau!

Mười kệ nêu ra mười Dụ, dụ cho các nghĩa trên: Một kệ đầu là tổng quát dụ về con dấu thành tựu; chín kệ sau là riêng biệt hiển bày về nguyên cớ.

Trong một kệ đầu: Câu đầu nói về con dấu như nhau là duyên như nhau, đôi bên cùng thừa nhận; câu tiếp nói về con dấu khác nhau chính là nhân khác nhau, giải đáp về nguyên cớ sai khác; câu tiếp nói về không có khác nhau tư duy đích xác như đã nhìn thấy; câu cuối cùng là tổng quát hợp lại.

Trong chín kệ sau là riêng biệt, đều nửa kệ trước là Dụ, nửa kệ sau là Hợp.

Kệ một là Dụ về nước, đồ vật có lớn-nhỏ, cho nên vuông-tròn tùy theo đồ vật.

Kệ hai là Dụ về huyễn ảo, phương tiện ở ngoài Thể, quý ở chỗ lại làm cho tâm vui vẻ.

Kệ ba là Dụ về nhà vua, phương tiện ở trong Thể, cuối cùng có được niềm vui thật sự. Hai Dụ trên là dụ cho Phật phương tiện khéo léo phù hợp với căn cơ chúng sinh.

Kệ bốn là Dụ về gương soi, dựa theo chúng sinh, nghĩa là tùy theo đẹp-xấu mà hình ảnh khác nhau, tâm cao-thấp mà quả báo sai khác, cùng với dụ về gương soi trước đây thì nhân duyên không giống nhau, nghĩa còn lại không có gì khác nhau. Năm kệ sau đều dựa theo Phật để trình bày.

Kệ năm là Dụ về vị thuốc, một ngay nơi nhiều mà đầy đủ trăm vị, cho nên loại bỏ tất cả phiền não độc hại khắp nơi.

Kệ sáu là Dụ về mặt trời, nhiều ngay nơi một mà không có tối tăm nào không chiếu sáng, bóng tối lớn-nhỏ đều trừ diệt.

Kệ bảy là Dụ về ánh trăng soi chiếu khắp nơi, Phật bình đẳng lướt qua các dấu tích trước đây, tuy thuận theo căn cơ để hiện bày mà chủ yếu là không có gì riêng tư.

Kệ tám là Dụ về gió lớn chấn động khắp nơi, lay chuyển tất cả căn cơ chúng sinh.

Kệ chín là Dụ về lửa lớn đốt cháy khắp nơi, cuối cùng trở về tịch diệt.

Lại năm Dụ này, dụ cho diệt trừ Hoặc chướng và Trí chướng, đến nơi của Trí bình đẳng làm lay động tất cả các cõi, đều chứng được Vô vi. Bốn kệ trước tức là phương tiện khéo léo tùy theo căn cơ, năm kệ này thì cuối cùng khiến cho thành tựu cao nhất, lẽ nào không như nhau hay sao?

Đoạn 6: Chánh giáo thậm thâm.

Thứ nhất, trong phần hỏi: Một: Nêu ra người hỏi, bởi vì phá trừ lười nhác cho nên hỏi Cần Thủ. Hai: Trong phần chính thức hiển bày về sự việc thưa hỏi, có bốn: 1- Giáo pháp của Phật là một, là nêu ra pháp dựa vào để xác định, một (Nhất) có hai nghĩa: a- Nghĩa là đoạn trừ Tập của phiền não, chứng được Diệt của giải thoát, nghĩa này không khác nhau, đôi bên cùng thừa nhận; b- Nghĩa là nhiều người cùng thấy, pháp đã thấy không khác nhau. 2- Từ “Chúng sinh…” trở xuống là chính thức thiết lập nghi ngờ chất vấn, chất vấn cũng có hai: a- Đối với nghĩa trước, sau khi thấy được giáo pháp vì sao đã lâu mà không giải thoát, vì vậy nói rằng: Vì sao không lập tức đoạn trừ phiền não để giải thoát? b- Đối với nghĩa sau, nhiều người cùng thấy vì sao có giải thoát-không giải thoát, vì vậy nói rằng: Vì sao không biết rõ đoạn trừ phiền não mà giải thoát? 3- Từ “Nhiên kỳ…” trở xuống là giải thích thành tựu về chất vấn trước đây, chính thức giải thích về nghĩa sau, bởi vì Khổ-Tập của nhiều người đều không khác nhau. Năm uẩn là Chánh báo, ba cõi gồm chung Y báo, đây là quả của Khổ. Si-Ái làm cho thấm nhuần là nhân của Tập. Bao gồm hiển bày về nghĩa đầu, bởi vì Khổ-Tập trước sau cũng không khác nhau. 4- Từ “Thị tắc…” trở xuống là kết luận thành tựu về trái ngược nhau. Thoát ra là có lợi ích, không thoát ra thì không có lợi ích, giáo pháp của Phật là một, nghĩa ấy ở đâu?

Thứ hai, trong phần giải đáp, ý nói rằng: Tu tập có siêng nănglười nhác, Chướng ngại có cạn-sâu, Căn cơ có chưa thuần thục-đã thuần thục, Duyên có đầy đủ-thiếu hụt, Trí có sáng suốt-mê muội, Công sức có dày-mỏng, vì vậy thành tựu có nhanh-chậm, là giải đáp chất vấn đầu. Tu cùng với không tu, cho nên thấy giống nhau mà lợi ích khác nhau, là giải đáp chất vấn sau. Nghĩa riêng biệt trên đây không ra ngoài hai môn siêng năng và lười nhác.

Mười kệ phân hai: Một kệ đầu là tách ra chương mục nhận lời thuyết giảng, nghĩa là nửa kệ trước thừa nhận phù hợp với Thật mà thuyết giảng, nửa kệ sau là tách ra hai chương môn. Chín kệ còn lại là riêng biệt giải thích: Một kệ đầu giải thích về giải thoát nhanh chóng, tám kệ sau là giải thích về khó thoát ra.

Nay là một kệ đầu: Nửa kệ trước là nhắc lại nghi ngờ, nửa kệ sau là giải thích. Chịu khó (Cần) thì bao gồm thúc đẩy vạn hạnh, lìa xa tướng của thân-tâm cho nên có thể nhanh chóng thoát ra. Nhưng có năm tướng: 1- Có thế lực, bởi vì khoác giáp phục Tinh tiến, nghĩa là phát Đại thệ nguyện ở trong pháp của Phật. 2- Dũng cảm bảo vệ, nghĩa là tinh tiến không hề sợ hãi yếu hèn ở trong pháp rộng lớn. 3- Kiên quyết mạnh mẽ, bởi vì tinh tiến cho nên nóng-lạnh, ruồi-muỗi… vốn không thể nào lay chuyển. 4- Luôn luôn không rời bỏ cái ách của pháp thiện, bởi vì tinh tiến cho nên không có gì thấp kém, không có gì vui đủ. 5- Tinh tiến, bởi vì tinh tiến dựa vào gia hạnh. Nhờ vào năm tướng này phát khởi chịu khó tinh tiến, nhanh chóng chứng được tất cả trí tuệ, diệt trừ chướng ngại mà giải thoát.

Trong tám kệ sau dùng Dụ để giải thích về Chương khó thoát ra, tổng quát về tướng ngược lại với trước đều gọi là lười nhác.

Kệ một là Dụ về đốm lửa nhỏ và củi ướt, dụ cho thiện căn phát sinh và ba chướng nặng nề, tạm thời một lần được nghe giáo pháp, vừa mới tu hành đôi chút, mà nghiệp-phiền não xâm hại bên trong, khiến cho giáo pháp đã được nghe nhanh chóng mất đi, pháp thiện đã thực hành nhanh chóng bỏ dở, cho nên trở thành lười nhác khó thoát ra.

Kệ hai là Dụ về dùi cây lấy lửa nhiều lần dừng lại, dụ cho tu tập có lười nhác lui sụt.

Nhưng từ Dụ này trở xuống, phần nhiều bao gồm ba Tuệ (VănTư-Tu) để phân rõ về lười nhác. Dụ này dựa theo Văn (nghe), thì luyện tập lắng nghe nhiều lần dừng lại, hiểu biết rõ ràng không phát sinh; dựa theo Tư, thì quyết định lựa chọn nhiều lần dừng lại, trí tuệ chân thật không phát sinh; dựa theo Tu, thì Định-Tuệ nhiều lần dùng lại, Thánh đạo không phát sinh. Thánh đạo như ngọn lửa, có thể đốt cháy củi phiền não, Noãn-Đảnh trở về trước đều gọi là chưa nóng, đã nóng mà dừng lại thì ngọn lửa hãy còn không sinh ra, chưa nóng mà nhiều lần dừng lại thì tuy trải qua nhiều kiếp, cuối cùng vẫn không đạt được Lý. Vì vậy kinh Di Giáo đối với điều này, trình bày về dòng nước nhỏ chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả đá. Sáu vị Tổ của Thiền tông cùng truyền thụ về Dụ này. Mong những người học khắc sâu trong lòng luôn luôn nghĩ đến! Nếu thẳng thắn dựa vào tu hành để giải thích, thì nên dùng trí tuệ dùi mài chuyên chú vào một cảnh, dùng sợi dây phương tiện để khéo léo xoay chuyển, tâm trí không dừng lại, bốn oai nghi không gián đoạn, thì Thánh đạo có thể phát sinh. Chỉ trong giây lát khởi tâm, tạm thời không còn soi chiếu, đều gọi là dừng lại.

Kệ ba là Dụ về thiếu duyên cầu lấy lửa, vật là ngừng-dứt… Giáo pháp giải thích về Thánh đạo, giống như viên ngọc lấy lửa ấy phải cầm hướng về mặt trời trí tuệ, nương theo mà thực hành thì lửa Thánh đạo phát sinh; giữ lấy văn tự trống rỗng, không thể nào quyết định lựa chọn, tâm hành trái ngược vượt qua, đạo do đâu mà phát sinh?

Kệ bốn là Dụ về bịt mắt cầu nhìn thấy, Trí nhỏ-Thức kém dụ cho đứa trẻ kia; dựa theo Văn tuệ, thì tuy đối diện với Minh Sư mà không chịu thưa hỏi để quyết định; dựa theo Tư-Tu, thì tuy đối diện với mặt trời giáo pháp, mà mắt tâm không mở ra, lại trách móc Thánh đạo không phát sinh, mê hoặc quá rồi!

Kệ năm là Dụ về tâm rộng thiếu duyên, dụ cho người ngu không có cánh tay của Tín thanh tịnh, để giữ lấy cây cung của Định, lại không có đủ giới pháp để cự tuyệt nơi chốn của phiền não, dùng mũi tên Văn tuệ yếu kém, muốn bắn phá tất cả nơi chốn sâu dày của nghiệp-phiền não, uổng công mong muốn khó mà thành công!

Kệ sáu là Dụ về mảy lông chấm lấy nước biển rộng, nghĩa là dùng một chút Văn-Tư, muốn suy lường biển rộng giáo pháp, tùy tiện sinh lòng mong mỏi thì lười nhác càng sâu.

Kệ bảy là Dụ về một chút nước dập tắt lửa, kiếp lửa hừng hực khắp nơi dụ cho tiếp xúc với cảnh mà tăng thêm phiền não, phần ít của ba Tuệ lẽ nào có thể dập tắt hết được?

Kệ tám là Dụ về không lay động mà đi khắp mọi nơi, dụ cho tuy nhận biết tánh Không, Trí chưa trải qua, mà nói chứng được tất cả, cũng là hạng người tăng thượng mạn.

Đoạn 7: Chánh hạnh thậm thâm.

Thứ nhất, trong phần hỏi: Một-Hỏi Pháp Thủ, là bởi vì pháp thực hành. Hai-Trong phần hiển bày về sự việc thưa hỏi, có ba: 1- Nêu ra Thánh giáo, Thọ nghĩa là tâm tiếp nhận nghĩa lý, Trì nghĩa là ghi nhớ mà không quên. 2- Từ “Hà cố…” trở xuống là nói rõ về những nghi ngờ, Phật dạy có thể đoạn trừ, nay có người không đoạn trừ, tức là giáo và hành trái ngược nhau. Trước là nêu ra trái ngược nhau, từ “Tùy tham dĩ…” trở xuống là nêu ra đã không đoạn trừ, từ “Thế lực dĩ…” trở xuống là kết luận thành tựu về không đoạn trừ, nghĩa là có người thọ trì giáo pháp không những không diệt trừ phiền não xưa kia, mà lại tùy theo hiểu biết mới có tăng thêm mười một loại Hoặc, do thế lực mà xoay chuyển. Bốn loại trước là phiền não Căn bản, bảy loại sau là Tùy phiền não, đều nói là Tùy, thì trong luận Tạp Tập quyển thứ 7 nói các phiền não đều là Tùy phiền não, có Tùy phiền não mà không phải là phiền não. Vì vậy ở đây chính là hiển bày về phiền não Căn bản, cũng có thể gọi là Tùy, bởi vì tùy theo nơi khác sinh ra. Tổng quát giải thích về Tham… như trong Địa thứ chín. Nay hạn chế dựa vào pháp mới khởi lên mà nói, tức là tham cầu danh lợi, do sân mà không hiểu biết, mê muội theo Tự hành, cậy vào pháp tự cao, che giấu khuyết điểm của mình, bắt bẻ luận điểm của đối phương sinh ra tức giận, kết thành thù hận nghĩ cách đáp trả, ganh ghét người khác hơn mình, bủn xỉn tri thức của mình, không hiểu rõ lời lẽ giải thích, bỏ pháp đuổi theo tình. 3- Từ “Năng thọ trì…” trở xuống là kết luận thành tựu về chất vấn, Phật dạy thọ pháp có thể đoạn trừ phiền não, nay thọ pháp mà còn khởi lên phiền não trước  kia là vì sao?

Thứ hai, phần giải đáp, ý nói rằng: Pháp là thuốc pháp, chủ yếu là do thực hành phù hợp, phù hợp và không phù hợp, có đoạn trừ và không đoạn trừ, không phải là lỗi của thầy thuốc. Vì vậy phẩm Thập Hạnh nói: Như thuyết giảng có thể thực hành, như thực hành có thể thuyết giảng.

Trí Luận nói: “Có thể thực hành thuyết giảng là chính, không thực hành thì thuyết giảng cái gì? Nếu thuyết giảng mà không thể nào thực hành thì không gọi là người Trí, cho nên như thuyết giảng mà thực hành thì mới đạt được pháp của Phật, không bởi vì miệng nói mà có thể thanh tịnh.”

Mười kệ phân hai: Một kệ đầu là khuyến khích khen ngợi sơ lược thuyết giảng: Câu đầu là khuyến khích lắng nghe, xa lìa ba loại tạp nhiễm là cao ngạo-khinh mạn-khiếp nhược, mới gọi là khéo léo lắng nghe, bởi vì cầu tỏ ngộ hiểu biết, tâm chuyên nhất hướng về, nghe âm thanh tập trung vào tai, gột sạch tâm ấy, thâu nhiếp tất cả các tâm, mới gọi là lắng nghe chăm chú. Câu tiếp là khen ngợi thưa hỏi, hiển bày về hành phù hợp với lý, cho nên gọi là đúng như thật. Nửa kệ sau là sơ lược thuyết giảng: Nói không những, là chủ yếu bao gồm tu hành, chỉ dùng Đa văn thì không thể nào chứng nhập, cho nên các kệ sau đều nói: Đối với pháp không tu hành, thì Đa văn cũng như vậy. Đây gọi là lỗi của không thực hành, không phải hủy bỏ Đa văn, nếu không có Đa văn thì thực hành không có nơi nương tựa, vì vậy không thực hành là lỗi lầm, như Điều Đạt-Thiện Tinh; thực hành là đạt được, như A Nan-Thân Tử. Thực hành Tự lợi-Lợi tha đều cần phải thấu triệt rõ ràng, thệ nguyện cùng tận biển rộng giáo pháp làm nhân của Chủng trí, chỉ thuận theo nghĩa thiện, đừng đắm theo ngôn thuyết.

Luận Bà Sa quyển thứ 2 nói: “Đa văn có thể biết rõ pháp, Đa văn có thể lìa tội lỗi, Đa văn rời bỏ không có nghĩa, Đa văn được niềm vui Niết-bàn.”

Kinh Tịnh Danh nói: “Đa văn tăng trưởng cho trí tuệ, lấy làm âm thanh của Tự giác.” Sau kinh mở rộng về phương tiện Độ sinh, cho đến không lìa xa Đa văn khéo léo.

Trên đây chỉ hiển bày về Văn, kinh Niết Bàn nói bốn Sự làm nhân duyên gần, tức là Văn và Hành đều hoàn thiện.

Trí Luận nói: “Đa văn-Trí rộng ngôn ngữ cùng tốt đẹp, khéo léo thuyết giảng các pháp chuyển tâm người, hành pháp-tâm chánh không nơi nào nương tựa, như mây cuộn sấm rền tuôn cơn mưa lớn.” Giáo lý vô lượng vô biên như vậy, sợ rằng nhiều quá tạm thời dừng lại.

Chín kệ còn lại trình bày về Dụ, đều nửa kệ trước là Dụ so sánh, nửa kệ sau là Pháp kết hợp.

Kệ một là Dụ về người sợ chìm mà chết khát, dụ cho lỗi ham theo văn nghĩa, nghĩa là tâm ấy trôi nổi bập bềnh trên sóng lớn của Nghĩa môn, lo mình và người khác chìm đắm, không có thời gian rỗi để tu hành, tự mình đoạn tuyệt Tuệ mạng, cho nên gọi là chết khát.

Kệ hai là Dụ về người bày biện thức ăn mà tự mình chịu đói, dụ cho lỗi thuận theo thuyết giảng mà phế bỏ tư duy, thuyết pháp cho người thì phần nhiều mong cầu danh lợi, không tư duy về pháp vị, làm hại đến Pháp thân.

Kệ ba là Dụ về thầy thuốc không tự cứu mình, dụ cho người khéo léo nhận biết về pháp đối trị mà không tự chữa trị cho mình.

Kệ bốn là Dụ về người nghèo đếm vật báu cho người khác, dụ cho người thuyết giảng về công đức của Phật Bồ-tát, mà không có thể mong cầu đối với thân-tâm mình, cho nên không có phần.

Kệ năm là Dụ về Vương tử mà chịu đói rét, nghĩa là Vương tử làm trái với luật lệ của Vương pháp, ở trong đó gây nên lỗi lầm mà chịu đói rét; người học cũng như vậy, sinh ở trong cung điện giáo pháp của bậc Pháp Vương, thực hành bên cạnh giáo pháp của Phật mà khởi lên nghiệp-phiền não xấu xa, bởi vì không có chiếc áo Nhẫn nhục của Tàm quý, thì lẽ nào được ăn món ăn Thiền duyệt của Pháp hỷ, cho nên chịu đói lạnh.

Kệ sáu là Dụ về người điếc tấu nhạc làm vui người khác, dụ cho lỗi không hiểu biết mà tự mình thuyết giảng, nghĩa là chân thật nóinghe thì nhất định phải quên hết người nói-người nghe, chạy theo ngôn ngữ mà thuyết giảng là chính mình không nghe.

Kệ bảy là Dụ về người mù vẽ đường chỉ cho người khác, dụ cho lỗi tự mình không nhìn thấy nghĩa.

Kệ tám là Dụ về người lái thuyền mà chết chìm giữa biển, nghĩa là dẫn dắt mọi người đi đến biển Phật pháp, cậy vào những hiểu biết của mình, không thận trọng đối với việc làm của thân, mà bị pháp làm cho chìm đắm.

Kệ chín là Dụ về người khéo léo nói năng mà không có đức, nghĩa là cũng nói đến tu hành, hoặc là nói về đức của mình, bên trong không có Thật đức mà chỉ có lời lẽ trống rỗng.

Chỉ riêng một kệ này có ba câu trước là Dụ, văn kết hợp chỉ nói: Không thực hành cũng như vậy, càng hiển bày về ý không hủy bỏ Đa văn. Lại chín kệ này cũng có thể riêng biệt hướng về các nghĩa Tùy tham…, như lý nên suy nghĩ!

Đoạn 8: Chánh trợ thậm thâm.

Thứ nhất, trong phần hỏi: Một: Hỏi Trí Thủ, là bởi vì hiển bày về Trí làm Thể của Chánh đạo mà bao gồm tất cả Trợ đạo. Hai: Trong phần chính thức hiển bày về sự việc thưa hỏi, có ba: 1- Nêu pháp dựa vào để xác định, nghĩa là đoạn trừ Hoặc-chứng được Lý, dẫn dắt Hànhđạt được Quả, chỉ là Đại Trí, đôi bên cùng thừa nhận. 2- Từ “Như Lai…” trở xuống là chính thức thiết lập nghi ngờ chất vấn, nói Trí đã là đứng đầu, thì lẽ ra chỉ ca ngợi về Trí, vì sao cũng ca ngợi những điều khác? Đây là chất vấn về Chánh-Trợ trái ngược nhau. 3- Từ “Nhi chung…” trở xuống là kết luận thành tựu về chất vấn trước đây, trước đây chất vấn rằng: Trí là đứng đầu đã thuận theo không nên ca ngợi những điều khác, huống hồ không phải là dùng một pháp để thành Phật, hẳn nhiên là không nên ca ngợi thiên lệch, bởi vì cần phải dựa vào nhiều, bởi vì chỉ dùng đến Trí, hay là bởi vì tùy theo một hạnh đều được thành Phật? Nếu tùy theo một hạnh mà được thành Phật, thì cũng trái với Trí là đứng đầu, tiến lùi đều gây trở ngại.

Thứ hai, ý trong phần giải đáp phù hợp với trước-sau, giải thích về phần giữa, nói Trí là đứng đầu đích xác như đã nói, Trí như vị vua sáng suốt, làm vị cai quản của dân chúng, cho nên kinh Đại Phẩm nói: “Bát-nhã như mắt, năm Độ như mù.” Phù hợp với nghĩa sau nói: Cuối cùng không chỉ là dùng một pháp, thật sự Như Lai ca ngợi ba đời chư Phật đều thuyết giảng đầy đủ, bởi vì dùng vạn hạnh khác để giúp đỡ cho Trí.” Giải thích phần giữa, riêng biệt ca ngợi chính là có nhiều ý, nghĩa là bởi vì tùy theo tâm niệm mà làm cho vui mừng, bởi vì tùy theo thời gian mà phát sinh điều thiện, bởi vì đã chữa trị lỗi lầm khác nhau, bởi vì tìm được lối vào không giống nhau, bởi vì chúng sinh không thể nào tiếp nhận tất cả. Văn sau sẽ đưa ra. Lại trong Trí Luận nói: “Bátnhã chắc chắn đầy đủ tất cả các hành, vì thế cho nên ca ngợi một hành tức là ca ngợi các hành, ca ngợi các hành tức là ca ngợi Trí.”

Mười kệ giải đáp, phân hai: Một kệ đầu khen ngợi thưa hỏi nhận lời thuyết giảng; chín kệ còn lại chính thức giải đáp những chất vấn, tóm lược phân làm hai: Trước là hai kệ tách ra hai Chương môn; sau là bảy kệ cùng giải thích về hai Chương.

Nay trước là hai kệ tách ra hai Chương môn: Kệ đầu nêu ra Chương nói về nhiều hành thành tựu quả, nghĩa là Chánh-Trợ dựa vào nhau thì tất nhiên vạn hạnh cùng nhau tu, cho nên chư Phật cùng thuyết giảng. Nói không có thuyết giảng một pháp là chắc chắn thuyết giảng đầy đủ.

Kệ sau nêu ra Chương nói về tùy theo căn cơ riêng biệt khen ngợi, văn có đủ bốn Tùy của kinh Tọa Thiền Tam Muội (Thiền kinh): Câu đầu tức là tùy theo ưa thích (Tùy lạc). Muốn bảo vệ ý kia phù hợp với tâm của họ vui thích, bởi vì tánh không giống nhau, tức là tùy theo thích hợp (Tùy nghi). Dựa theo sự luyện tập của đời trước khiến cho dễ dàng thọ trì thực hành, luyện tập mãi đã trở thành tánh cho nên phân biệt không giống nhau, tức là tùy theo đối trị (Tùy trị). Quán sát căn bệnh nặng-nhẹ, đưa ra vị thuốc nhiều-ít, nghĩa là phần Tham nhiều thì dạy cho quán Bất tịnh…, tùy theo thích hợp mà hóa độ tức là tùy theo nghĩa lý (Tùy nghĩa). Đạo pháp và căn cơ đến lúc chín muồi thì nghe liền tỏ ngộ.

Sau là bảy kệ cùng giải thích về hai Chương, có hai: Ba kệ đầu giải thích Chương nói về tùy theo căn cơ riêng biệt khen ngợi; bốn kệ sau giải thích Chương nói về nhiều hành thành tựu quả.

Trong ba kệ đầu, có hai: Trước là hai kệ rưỡi riêng biệt giải thích về tùy theo đối trị; sau là hai câu kết thúc phần trước sinh khởi phần sau.

Trong hai kệ rưỡi: Nhưng sáu Độ thành tựu về hành, bốn Đẳng rộng mở về tâm; bốn Đẳng phần nhiều dựa theo Lợi tha, sáu Độ phần nhiều trình bày về Tự lợi; sáu Độ như Hội thứ nhất đã nói, bốn Đẳng như văn sau sẽ nói. Nhưng đều bao gồm bốn Tùy, tóm lược nêu ra một Tùy về đối trị mà thôi. Kinh Niết Bàn nói: “Trước mặt người bủn xỉn không được ca ngợi về bố thí.” Tức là ý tùy theo ưa thích.

Sau là hai câu kết thúc phần trước sinh khởi phần sau, câu trước là kết luận về phần trước, câu sau là sinh khởi phần sau.

Trong bốn kệ sau giải thích Chương nói về nhiều hành thành tựu quả, đều nửa kệ trước là Dụ, nửa kệ sau là Hợp. Nhưng có hai nghĩa: Một: Dựa vào nghĩa dần dần đầy đủ trước đây thì có thể giải thích thành tựu về Trí là đứng đầu; hai: Chính thức trình bày về đã sử dụng không giống nhau, vì vậy cần phải bao gồm đầy đủ. Nhưng mà Nhiếp Luận quyển thứ trình bày về thiết lập sáu Độ, tất cả có ba ý: Một: Bởi vì loại trừ phiền não; hai: Bởi vì sinh khởi giáo pháp của Phật; ba: Bởi vì thành thục chúng sinh. Đoạn trước có đủ ý một, đoạn này đầy đủ tất cả ba ý, nghĩa là hai ý của hai đoạn hợp lại, bởi vì đối trị riêng biệt, trước là nền móng-sau là căn nhà… tức là dần dần đầy đủ, đều vì Lợi tha tức là thành thục.

Trong văn: Kệ một nói về hai Độ (Bố thí-Trì giới), bởi vì đối trị về nhân của không phát khởi thực hành, cho nên hợp lại nói là căn bản của

hành (Hành bổn), nghĩa là đắm theo tài sản mà không phát khởi Bố thí, đắm theo gia đình mà không phát khởi Trì giới. Cơ Đổ (nền móng-bức tường) có hai nghĩa: 1- Cơ (nền móng) tức là Đổ (bức tường), tức là Bố thí làm đầu tiên để tiến đến điều thiện, Trì giới làm đầu tiên để phòng ngừa điều ác, đều gọi là nền móng. 2- Đổ là bức tường vòng quanh, tức là Bố thí làm nền móng đầu tiên của vạn hạnh, Trì giới là phòng ngừa điều ác chưa phát khởi chứ không phải là bức tường. Cung điện là giải thoát.

Kệ hai nói về hai Độ (Nhẫn nhục-Tinh tiến), đã phát tâm tu hành, bởi vì đối trị về nhân của tâm yếu đuối lui sụt, nghĩa là không thể nào chịu đựng sự khổ đau của sinh tử, trải qua thời gian dài tu tập giúp cho phẩm thiện mà nảy sinh mệt mỏi uể oải. Nay ở trong khu thành của Nhẫn nhục để phòng ngừa kẻ địch phiền não bên ngoài, ở trên tường thành của Tinh tiến để lớn thêm dân chúng công hạnh bên trong. Nói chung thì hai Độ này đều có thể phòng ngừa bên ngoài, nuôi lớn bên trong.

Kệ ba nói về hai Độ (Thiền định-Trí tuệ), bởi vì đối trị về nhân của tâm hủy hoại mất đi, nghĩa là tán loạn làm Tĩnh lự bị hủy hoại, tà trí làm Chánh giải bị hủy hoại. Nay trình bày về Bồ-tát, dùng Định làm vắng lặng phiền não tán loạn, dùng Tuệ để soi rõ vạn pháp, vốn là Động-Tịch tự tại. Bồ-tát dựa vào đây để phát Thần thông-Trí tuệ, nhờ vào đây để chứng quả của Lý. Vị Vương ấy nhờ có năng lực, làm ổn định bốn biển, soi rõ ràng vạn cơ, cho nên khắp đất nước mang ân, thiên hạ nương nhờ phép tắc.

Kệ bốn nói về bốn Đẳng làm nhân, cho nên mình và người an vui cảm đến quả vô tận.

Đoạn 9: Nhất đạo thậm thâm, cũng gọi là Nhất Thừa.

Thứ nhất, trong phần hỏi: Một: Nêu ra hỏi Hiền Thủ, là bởi vì đạo vô cùng nhu thuận, còn Hiền giống như thẳng thắn khéo léo, Phật và Phật đều cùng một đạo thẳng thắn. Hai: Trong phần hiển bày về sự việc thưa hỏi, có ba: 1- Nêu ra Tông dựa vào để xác định, nghĩa là Phật và Phật đã dựa vào cùng quán sát về tâm tánh, vạn hạnh tu đầy đủ từ đầu đến cuối, lại không có đường nào khác, cho nên nói là Nhất Đạo, lý này cùng thừa nhận. 2- Từ “Vân hà…” trở xuống là chính thức thiết lập nghi ngờ chất vấn: Trước-Tổng quát; sau-Riêng biệt. Trong phần tổng quát, nghĩa là nhân của đạo đã một, thì quả lẽ ra không sai khác, vì sao hiện thấy những quốc độ Phật đều khác nhau? Vì quả khác nhau cho nên nhân không phải một, hay là vì nhân một cho nên không có quả khác nhau? Nếu cùng tồn tại thì nhân và quả trái ngược nhau. Trong phần riêng biệt phân rõ về mười sự việc: Một: Thế giới có nhiễm-tịnh đều khác nhau. Hai: Người cư trú có thiện-ác đều khác nhau. Ba: Các Thừa đều sai khác, mở rộng-tóm lược đều khác nhau. Bốn: Hoặc dùng ba Học để điều phục, hoặc dùng cứng rắn-mềm mỏng để chiết phục. Năm: Thọ mạng có dài-ngắn. Sáu: Ánh sáng hay là sắc tướng không giống nhau, hoặc thường phát ra đủ-thiếu, hoặc soi chiếu có xa-gần. Bảy: Tùy theo quốc độ nhiễm-tịnh mà người cư trú khác nhau, cho nên hiện bày thần thông cũng khác nhau. Tám: Chúng hội khác nhau, ở đây có ba loại, một là nhiều-ít, hai là số lượng pháp hội, ba là Phàm-Thánh-Đại-Tiểu. Chín: Nghi thức giáo hóa, như quốc độ này dùng âm thanh để giáo hóa, thế giới Hương Tích dùng các loại hương để giáo hóa… Mười: Pháp trú, bởi có lâu dài-ngắn ngủi. Đều có sai biệt, là bao gồm mười sự việc nói trên. Nhưng nếu dựa theo một vị Phật, thì mười sự việc đều không giống nhau, Đức Thủ đã trình bày, nay thưa hỏi về mười sự của chư Phật thì hướng về với nhau không giống nhau mà thôi. 3-Từ “Vô hữu…” trở xuống là kết luận thành tựu về chất vấn trước đây, nghĩa là nếu chư Phật đối với nhân, pháp thực hành có đầy đủ-không đầy đủ, thì có thể có quốc độ đều không giống nhau, nay đều đầy đủ giống nhau, những quốc độ sao sai khác, đầy đủ giống nhau tức là một đạo.

Thứ hai, trong phần giải đáp, ý nói rằng: Không phải chỉ riêng nhân giống nhau mà đức của quả cũng giống nhau, nhưng thấy khác nhau là tùy theo cơ cảm mà thôi, không phải tự phần vị của Phật mà có sai biệt. Vì sao? Bởi vì nhân quả của chư Phật đầy đủ giống nhau và khác nhau, nghĩa là biển hạnh cùng đầy đủ là nhân giống nhau; đem nhân giống nhau này hồi hướng các loại tùy theo mà điều phục, ứng với quả của căn cơ là nhân khác nhau. Nhờ vào nhân khác nhau này mà cảm đến quả sai biệt.

Nhờ vào nhân giống nhau trên đây, cùng cảm đến quả như Thân Độ Chân-Ứng…, là bởi vì dựa theo Phật thì giống nhau có thể tùy theo khác nhau, dựa theo căn cơ thì nơi chốn giống nhau mà thấy khác nhau. Bởi vì chúng sinh ngay nơi Phật tuy khác nhau mà thường giống nhau, bởi vì Phật ngay nơi chúng sinh tuy giống nhau mà thấy khác nhau. Bởi vì Phật hướng về Phật, có thể khác nhau mà chắc chắn giống nhau, điều ấy giống như tổ chim thêu trên gấm luôn luôn giống nhau-luôn luôn khác nhau. Luận Du Già quyển thứ 3 nói: “Chư Phật bình đẳng, chỉ trừ ra bốn pháp: 1- Thọ lương; 2- Danh hiệu; 3- Tộc tánh; 4- Thân tướng.” Ý trình bày là bởi vì tùy thuận căn cơ cho nên trừ ra bốn sự việc này, còn lại đều giống nhau.

Ngay trong phần quả giống nhau, Thân-Độ thuộc tự tánh luôn luôn là Thể giống nhau. Tự thọ dụng là bình đẳng không hai, tương tự gọi là giống nhau; hai Thân-Độ còn lại cũng tương tự gọi là giống nhau, mà tùy theo căn cơ cho nên thấy khác nhau. Luận Thành Duy Thức nói: “Thân-Độ thuộc tự tánh, tất cả Như Lai đã chứng giống nhau, cho nên Thể không có sai biệt. Thân tự thọ dụng và quốc độ đã nương tựa, tuy tất cả chư Phật đều biến hóa không giống nhau, mà đều vô biên không chướng ngại lẫn nhau; hai Thân-Độ còn lại, tùy theo hữu tình do các Đức Như Lai đã hóa độ, có giống nhau-không giống nhau (Cọng-bất cọng). Đã hóa độ giống nhau, là nơi chốn giống nhau-thời gian giống nhau, chư Phật đều biến hiện làm Thân-làm Độ, hình trạng tương tự không chướng ngại lẫn nhau, lần lượt chuyển tiếp đan xen với nhau làm Tăng thượng duyên, khiến cho chúng sinh đã hóa độ từ Thức mình mà biến hiện, nghĩa là ở một quốc độ có một thân Phật, vì chúng sinh mà hiện bày thần thông thuyết pháp làm lợi ích. Đối với đã hóa độ không giống nhau, chỉ có một vị Phật biến hiện, cho nên các loại hữu tình thuộc về Phật khác nhau.

Trong mười kệ hàm chứa nhiều nghĩa lý, xu thế của văn không phải là một, tạm thời phân làm hai: Hai kệ đầu là phù hợp với điều ấy mà thiết lập Tông chỉ, trình bày về Chân thân không hai; tám kệ sau là giải đáp về nghi ngờ chất vấn ấy, phân rõ về Ứng thân có khác nhau và giống nhau.

Hai kệ đầu: Trong kệ một: Câu đầu là tổng quát về phù hợp, trước là nêu ra Văn Thù, nhắc nhủ để lắng nghe tiếp nhận; pháp bình thường như vậy, là trình bày về nhân quả không có khác nhau, pháp vốn như vậy thường là quy phạm. Phần còn lại là hiển bày về tướng như nhau (Nhất tướng), sơ lược trình bày về bốn như nhau (Nhất): Câu đầu nói về Pháp như nhau, bởi vì Pháp Thường cho nên chư Phật cũng Thường; câu tiếp nói về Người như nhau; câu tiếp nói về Nhân như nhau.

Kệ hai là nói về Quả như nhau, sơ lược nêu ra năm như nhau (Nhất): 1- Thân như nhau, điều này có hai nghĩa, đó là nếu dựa theo thụ động Chứng, pháp giới làm thân, thì Thể giống nhau là như nhau; nếu bao gồm chủ động Chứng, Trí vô quái ngại làm thân, thì tương tự gọi là như nhau. Sau đã riêng biệt trình bày về Tâm-Trí, thì chính là ý đầu, nhưng Thể giống nhau mà nghĩa khác nhau. 2- Tâm như nhau, bởi vì tám Thức-Tâm vương đều không thể nào nhận biết. 3- Trí huệ như nhau, bởi vì bốn Trí-ba Trí-hai Trí-một Trí, đều không có gì sai khác. 4- Mười Lực như nhau. 5- Vô úy như nhau. Năm loại này cũng sơ lược thâu nhiếp các đức.

Trong tám kệ còn lại là giải đáp về nghi ngờ chất vấn, phân hai: Đầu là hai kệ tổng quát trình bày về tùy theo căn cơ mà thấy khác nhau. Trong đó: Kệ trước là dựa theo Phật, kệ sau là dựa theo căn cơ. Trong kệ trước là tùy theo nhân khác nhau vốn có, hồi hướng cho chúng sinh đều cảm được sai biệt, cho nên nói là như vậy, như vậy tức là nghĩa của sai biệt. Khác nhau là nêu ra ba sự việc trong mười sự việc mà thôi, tức là tùy theo chúng sinh đã hóa độ mà chọn lấy quốc độ Phật. Kệ sau là dựa theo căn cơ, dựa theo Phật thì quốc độ… đều trọn vẹn, dựa theo căn cơ thì tùy hạnh mà thấy sai khác, như tâm thẳng thắn là hạnh thì thấy được quốc độ không nịnh hót, bởi vì chủng loại của chúng sinh là Bồ-tát ở quốc độ Phật.

Sáu kệ sau là lần lượt chuyển tiếp giải thích về nghi ngờ, phân bốn:

Một: Một kệ, có người nghi ngờ rằng: Nếu đều là viên mãn thì vì sao không thấy? Ý giải đáp rằng: Chúng sinh không thấy lẽ nào có thể nói là không có? Nhưng có ba nghĩa: 1- Dựa theo Tha thọ dụng, thì chúng sinh ở phần vị phàm phu-Tiểu thừa và Địa tiền không thấy; 2- Dựa theo Tự thọ dụng, thì chúng sinh ở phần vị Đẳng giác cũng đều không thấy; 3- Nếu dựa theo ngay nơi Ứng giống như Chân thì Bồ-tát thuộc Quyền giáo không thấy.

Hai: Một kệ, có người nghi ngờ rằng: Nếu đều không thấy thì vì sao nhận biết? Có người giải thích rằng: Có thấy thì vốn cũng có ba nghĩa: 1- Từ phần vị Tịnh Ý Lạc trở đi, bởi vì lực tự tại của Nguyện, cho nên thấy được Tha thọ dụng; 2- Thanh tịnh không có tập khí trần lao, đầy đủ nguyện Phổ Hiền mới thấy được Tự thọ dụng; 3- Người hiểu biết trọn vẹn thì gọi là tâm thanh tịnh, ngay nơi Ứng thân thấy được Chân thân. Ý ở trước-sau mà nghĩa bao gồm phần giữa.

Ba: Một kệ, có người nghi ngờ rằng: Nếu Ứng thân do chúng sinh nhìn thấy thì sao gọi là quốc độ Phật? Giải thích rằng: Do uy thần của Phật, thì biết chúng sinh-Phật cùng nhau thành tựu, đã thu nhận giống nhau thì thành tựu khác nhau cũng phù hợp với Thể mà thành tựu lợi ích.

Bốn: Có ba kệ giải thích, nghi ngờ rằng: Trên đây nói chúng sinh không thấy quốc độ thah tịnh, lại nói do thần lực của Phật khiến cho khác nhau, vì Thể của quốc độ là khác nơi chốn mà Phật có phân biệt chăng? Vì vậy giải thích rằng: Quốc độ thật sự cùng nơi chốn mà Phật cũng không có tâm, chúng sinh tự thấy khác nhau mà thôi. Trong đó: Nửa kệ đầu là hiển bày về Thật, nói quốc độ không có phân biệt, Phật không có yêu ghét, phân biệt tức là nghĩa về sai biệt. Vì vậy bản kinh đời Tấn nói: “Quốc độ Phật không có tướng khác nhau, Như Lai không có yêu ghét.” Nếu thuận theo bản kinh hiện tại (bản dịch đời Đường), thì cũng có thể hai pháp này bao gồm Phật và quốc độ. Nửa kệ tiếp trình bày về khác nhau đương nhiên là do chúng sinh. Nửa kệ tiếp trình bày về đích thực thấy quốc độ khác nhau. Nửa kệ tiếp làm sáng tỏ không phải là lỗi của Phật. Ba câu tiếp giải thích về Phật không có yêu ghét, có cảm thì hiện chứ không phải là Phật có yêu thương, không có cảm thì không thấy chứ không phải là Phật có ghét bỏ. Một câu cuối cùng là tổng quát kết luận, pháp của tất cả chư Phật đều như vậy, tùy theo căn cơ mà ẩn-hiện, Thể chân thật luôn luôn tồn tại, cũng bao gồm kết luận về một đoạn.

Đoạn 10: Phật cảnh thậm thâm. Thập Tín quán sát trọn vẹn thì thành tựu cảnh giới của Phật, trong đó cũng trước là hỏi-sau là giải đáp.

Thứ nhất, trong phần hỏi, phân hai: Một-Nêu ra người chủ độngthụ động thưa hỏi: Đại chúng cùng nhau thưa hỏi, là thâu nhiếp riêng biệt đưa về tổng quát, bởi vì tổng quát-riêng biệt vô ngại vốn là sáu tướng viên dung. Hỏi Văn Thù, bởi vì cảnh giới của Phật rất sâu xa, trừ Diệu Đức của Bát-nhã ra thì không có gì có thể thông hiểu. Bắt đầu là Tín, cuối cùng là Trí, đều dựa vào cảnh giới của Phật, cho nên không có pháp dựa vào để xác định kết luận về chất vấn, là biểu thị sự tôn kính, bởi vì nếu là người hay là pháp thì chất vấn sẽ dẫn đến hỏi vặn. Hai-Từ “Phật tử ngã đẳng…” trở xuống là chính thức bày tỏ sự việc thưa hỏi, cũng phân làm hai: 1- Kết thúc phần trước sinh khởi phần sau, thêm vào ca ngợi về biện tài tuyệt diệu, là bởi vì tôn kính bậc Thượng thủ. 2- Từ “Hà đẳng…” trở xuống là riêng biệt hiển bày về sự việc thưa hỏi, có mười một câu, câu đầu là tổng quát, còn lại là riêng biệt.

Câu 1: Hỏi về cảnh giới, có hai: a-Phạm vi giới hạn của cảnh giới, nghĩa là từ nhân của Thập Địa cho đến sau pháp của quả vị, là Phật vốn có; b-Cảnh giới đã duyên, nghĩa là cảnh mà Phật đã nhận biết, đều không phải là người nào khác mà suy lường được, tổng quát làm cảnh giới của Phật. Câu 2: Thưa hỏi về cảnh giới của Phật lấy gì làm nhân? Câu 3: Thỉnh cầu nghi thức độ sinh ở cảnh giới Phật. Câu 4: Ứng với căn cơ hòa vào tất cả thế gian. Câu 5: Trí chủ động nhận biết. Câu 6: Pháp thụ động nhận biết. Câu 7: Viên âm bắt đầu thuyết giảng. Câu 8:Nhận biết rõ ràng về Thể-Tướng. Câu 9: Nội chứng bình đẳng. Câu 10: Hiển hiện pháp gì. Câu 11: Hạn lượng lớn nhỏ. Tất cả không phải là tác dụng ở phần vị của nhân mà đạt tới được, cũng không phải là phần vị dưới có thể biết được, cho nên nói là cảnh giới Phật. Nếu dựa theo chủ động nhận biết-chủ động hóa độ…, thì đều là phạm vi giới hạn; dựa theo thụ động nhận biết… thì gọi là Sở duyên. Chủ động-thụ động cùng dung thông, khác nhau tức là không phải khác nhau, đoạn dứt lộ trình của lời nói-suy nghĩ, là cảnh giới của Phật.

Thứ hai, trong phần giải đáp, mười kệ theo thứ tự mà giải đáp, chỉ mở rộng một kệ, nghĩa chỉ nằm ở kệ đầu, cùng với tổng quát kết hợp để phân rõ, muốn hiển bày về phần lượng tổng quát khắp nơi, tức là sâu mà rộng.

Kệ một: Câu đầu là tổng quát nêu ra Thể sâu xa. Câu tiếp là phần lượng rộng lớn, luận Phật Địa dẫn kinh giải thích rằng: “Cảnh giới của chư Phật chỉ trừ ra hư không, không có gì có thể làm ví dụ.” Câu tiếp là giải thích về rộng lớn nói trên. Câu sau là giải thích về sâu xa nói trên, nhưng có ba nghĩa: 1- Dựa theo tất cả chúng sinh, tức là Như Lai Tạng, lại tiến vào nơi nào, vượt qua mê muội mà tở ngộ, cho nên nói là Chứng nhập. 2- Dựa theo lý không phải là ngay nơi ấy-không phải là khác nhau, cho nên nói là tiến vào mà không có gì tiến vào. 3- Dựa theo tâm-cảnh, tâm tiến sâu vào Chân cảnh cho nên nói là Nhập, nếu có cảnh đã tiến vào thì Trí chưa mất, lẽ nào có thể gọi là Nhập? Thật sự không có gì tiến vào mới gọi là Chân Nhập, sâu xa ngay nơi rộng lớn là nguồn gốc dấy khởi ngôn niệm, rộng lớn ngay nơi sâu xa thì lẽ nào suy lường được bến bờ ấy?

Kệ hai: Giải đáp câu hỏi về Nhân, nghĩa là nhân này không có giới hạn, tóm lược nêu ra ba nghĩa: 1- Thù thắng, bởi vì hành siêu tuyệt không có gì sánh bằng; 2- Vi diệu, bởi vì chứng lý sâu xa huyền diệu tận cùng nguồn cội của pháp; 3- Quảng đại, bởi vì nhiều kiếp thuyết giảng phần ít cũng không hết được.

Kệ ba: Giải đáp câu hỏi về Hóa độ, nghĩa là tùy theo căn khí-ý thích không giống nhau của Tâm ấy, tùy theo năng lực hiểu biết tỏ ngộ sai biệt của Trí ấy, dạy dỗ dẫn dắt tiến tới tu tập khiến cho đều được lợi ích, bởi vì tường tận khắp nơi pháp giới không có gì lầm lẫn, sai biệt khó nhận biết, cho nên nói là cảnh giới của Phật.

Kệ bốn: Giải đáp câu hỏi về Tiến vào, nghĩa là Thế gian tức là Chúng sinh thế gian, Quốc độ tức là Khí thế gian, tất cả là bởi vì khắp nơi pháp giới. Nhập có hai nghĩa: 1- Dùng Trí thân kín đáo tiến vào mà bí mật làm lợi ích cho chúng sinh; 2- Dùng Sắc thân hiện rõ tiến vào để hiển bày làm lợi ích cho chúng sinh. Trí thân khó nhận biết, cho nên trong văn chỉ hiển bày về Trí thân.

Kệ năm: Giải đáp câu hỏi về Trí, nửa kệ trước nói về Quyền trí, tất cả không gian đều nhận biết cho nên nói là tự tại, thời gian thì thông hiểu ba đời cho nên không có gì chướng ngại; nửa kệ sau nói về Thật trí, cho nên nói là cảnh giới của Tuệ bình đẳng giống như hư không, không hề có hạn lượng. Nói hư không, cũng bao gồm Dụ cho tâm vô quái ngại trước đây. Quyền-Thật vô ngại, mới là cảnh giới của Phật.

Kệ sáu: Giải đáp câu hỏi về Pháp, Pháp giới là Lý, Chúng sinh giới là Sự, thu nhận Lý thành tựu Sự, Lý thấu suốt mà Sự biểu hiện, cho nên nói là không có gì sai khác. Vì thế cho nên, Sự thì không cần phải hoại mà luôn luôn Chân, Lý thì không cần phải ẩn mà luôn luôn Tục, không những rộng lớn không có giới hạn, mà cũng chính là rất sâu xa không có bến bờ, nhận biết rõ ràng đến tận cùng, cho nên gọi là cảnh giới của Phật. Vả lại, Pháp giới là thụ động Chứng, Chúng sinh giới là thụ động hóa độ, nhận biết rõ ràng là chủ động Chứng-chủ động hóa độ, suy xét tìm theo nguồn gốc cũng không có gì sai biệt, là cảnh giới của Phật khó nhận biết.

Kệ bảy: Giải đáp câu hỏi về Thuyết giảng, tất cả ngôn từ-âm thanh tùy theo tánh-tùy theo tướng, đều nhận biết rõ ràng tất cả mà chưa từng dấy khởi tâm niệm, cho nên không có phân biệt. Bởi vì tất cả ngôn từ-âm thanh sai biệt, tức là âm thanh chuyển pháp luân của Như Lai thâu nhiếp. Bởi vì kệ này giải đáp về thuyết giảng, cho nên Thật tướng của âm thanh tức là Pháp luân.

Kệ tám: Giải đáp về nhận biết ngay nơi Thể của tâm, phân biệt rõ ràng tức là không phải nhận biết chân thật, bởi vì không phải do Thức mà nhận biết; thoáng khởi lên cũng không phải nhận biết chân thật, bởi vì không phải cảnh giới của tâm. Thể của tâm lìa xa niệm, tức là không phải có niệm để có thể không có, cho nên nói là tánh vốn có thanh tịnh. Chúng sinh đều có nhưng bị che lấp mà không nhận biết, cho nên Phật chỉ bày rõ ràng đều khiến cho tỏ ngộ tiến vào. Dụng ngay nơi Thể, cho nên dùng nhận biết để thưa hỏi; Thể ngay nơi Dụng, cho nên dùng tánh thanh tịnh để giải đáp. Một chữ Nhận Biết (Tri) là cửa vào của các pháp vi diệu, nếu có thể rỗng rang tâm địa của mình mà thông hiểu thì phù hợp với cảnh giới của Phật.

Kệ chín: Giải đáp câu hỏi về Chứng, tức là chứng đầy đủ ba đức của Đại Niết-bàn, văn có ba: 1- Nêu ra cho biết; 2- Giải thích về tướng; 3- Kết luận chỉ rõ. Không phải nghiệp ràng buộc, cho nên giải thoát. Không phải phiền não, là chuyển đổi phiền não, ngay nơi Bồ-đề là Bátnhã. Không có chúng sinh, là tướng hư giả không còn, cho nên Pháp thân hiện bày. Không có trú xứ, là thành tựu Pháp thân nói trên, bởi vì không tồn tại nơi nào. Không có soi chiếu, là thành tựu Bát-nhã nói trên, bởi vì có thể chứng được tướng vắng lặng. Không có gì thực hành, là thành tựu giải thoát nói trên, bởi vì không có Dụng của nghiệp hành. Bởi vì không có Dụng, cho nên Dụng khắp nơi pháp giới. Bởi vì không có soi chiếu, cho nên không có gì không nhận biết. Bởi vì không có tồn tại, cho nên không có nơi nào không tồn tại. Vì vậy, câu kết luận nói rằng: Bình đẳng đi vào các thế gian, là nói đến ba đức Bí Tạng thuộc cảnh giới của Phật.

Kệ mười: Giải đáp câu hỏi về Hiện bày, nửa kệ trước là nói về thụ động hiện bày, câu đầu là nói về không gian tận cùng mười phương, câu tiếp là nói về thời gian cùng tận ba đời; nửa kệ sau là nói về chủ động hiện bày, tất cả ở trong Đại viên cảnh trí của Như Lai, Vô niệm mà lập tức hiện bày, vì vậy phẩm Xuất Hiện nói: Bồ-đề hiện rõ khắp nơi các tâm hành. Tức là nghĩa này.

Trên đây phân rõ về mười loại Thậm Thâm, tức là phần trước về hỏi-đáp xong. Từ đây trở xuống là phần sau Hiện bày sự việc để kết luận nối thông.

Phần sau là nêu ra tướng kết luận nối thông, trong đó có hai: Trước là hiện bày sự việc; sau là kết luận nối thông.

Nay là phần trước: Vì sao mà hiện bày mười vị Bồ-tát cùng tên gọi là Thủ trên đây, dùng ánh sáng của giáo pháp chỉ bày rõ ràng về thân-tâm chúng sinh, nương theo Phật lực tạm thời ngay lúc đó thị hiện thân tướng mà giải đáp, khiến cho chúng sinh tận mắt nghiệm xét mà vui mừng-chán ngán. Đã hiện bày có mười: 1- Pháp, tức là pháp đã thực hành, đó là ba Học đều khác nhau; 2- Nghiệp, đó là Chánh hạnh hữu lậu-vô lậu…; 3- Nhân của Tập và quả của Khổ; 4- Thân hình chủng loại không giống nhau; 5- Căn cơ sai biệt; 6- Bốn sinh loại khác nhau; 7- Trì giới thì trời-người hơn-kém khác nhau; 8- Phạm giới thì ba đường khổ nặng-nhẹ khác nhau; 9- Quốc độ thì nơi chốn nương tựa khác nhau; 10- Thuyết pháp thì tiếp cận quả báo cõi trời Tịnh Cư, thông minh lợi trí nhanh chóng đầy đủ pháp của Phật. Văn kinh này thiếu sót, bản kinh đời Tấn có đủ.

Vả lại, ở đây cũng có thể phối hợp với mười loại Thậm Thâm, bởi vì đều là thị hiện thân tướng mà giải đáp: 1- Pháp Thủ là nói về Chánh giáo thậm thâm; 2- Bảo Thủ là nói về Nghiệp quả; 3- Cần Thủ là nói về lười nhác uể oải khó thoát ra; 4- Tài Thủ là nói về các pháp quán sát nội thân…; 5- Đức Thủ là nói về pháp của Phật cùng một ý vị tùy theo căn cơ mà thuyết giảng khác nhau…; 6- Giác Thủ là nói về hướng đến nẽo thiện-ác; 7- Trí Thủ là nói về sáu Độ thuận theo thực hành, Thần thông là quả của trì giới; 8- Mục Thủ là nói về ruộng phước của Phật bình đẳng, nhưng phạm giới-bố thí mà đạt được quả sai biệt; 9- Hiền Thủ là nói về tùy theo tâm niệm mà thế giới có sai biệt…; 10-Bản kinh đời Tấn đã có Thuyết pháp thậm thâm, tức là thuyết giảng về pháp thuộc cảnh giới của Phật.

Phần sau từ “Như thị…” trở xuống là kết luận nối thông rộng ra khắp nơi, trong đó có hai: Một: Kết luận về phương Đông; Hai: Từ “Nam-Tây…” trở xuống là tương tự chín phương còn lại, cũng hiện bày mười sự việc, bởi vì ở nơi này thuyết pháp thì hiện bày sự việc nối thông với mười phương, ở nơi khác thuyết pháp cũng thuận theo tương tự ở nơi này, toàn bộ làm thành một Đại hội thuộc pháp giới. Suy nghĩ điều này! Phẩm Vấn Minh phân rõ về Giải trong Tín, xong.

Phẩm thứ mười một: TỊNH HẠNH

(Đi vào quyển thứ 1 trong kinh).

Giải thích một phẩm này, có năm môn phân biệt:

A. Ý ĐƯA RA: Nói đến mong muốn bước lên phần vị tuyệt diệu thì nhất định phải có hạnh thù thắng giúp đỡ, bởi vì có Giải mà không có Hạnh thì chỉ uổng phí Đa văn, cho nên phẩm trước trình bày về Giải (hiểu biết), phẩm này phân rõ về Hạnh (công hạnh). Lại phẩm trước trình bày về thực hành quán sát tiến vào Lý, phẩm này phân rõ về những pháp thực hành tùy theo Sự. Lại phẩm trước là Hạnh, phẩm này là Nguyện, đều là nghĩa theo thứ tự, cho nên tiếp theo đưa ra.

B. GIẢI THÍCH TÊN GỌI: Tiếng Phạn nói là Cụ-chiết-la, Trung Hoa nói là Sở Hành; tiếng Phạn nói là Ba-lợi, Trung Hoa nói là Giai-là Biến; tiếng Phạn nói là Thú-luân-luật-đề, Trung Hoa nói là Thanh Tịnh. Nghĩa là ba nghiệp tùy theo Sự trải qua duyên gọi là Nguyện khéo léo đã thực hành phòng ngừa sai trái lìa xa lỗi lầm mà thành tựu phẩm đức, gọi là thanh tịnh. Lại Bi-Trí cùng vận dụng gọi là Sở Hành, công hạnh vượt lên trên phàm phu-Tiểu thừa cho nên gọi là thanh tịnh. Bởi vì Nhị thừa vô lậu, không thể nào bao gồm lợi ích, không phải là Chân Tịnh. Đạt được ý này, thì đưa chân lên-đặt chân xuống đều là tâm Văn Thù, thấy nghe hiểu biết đều là hạnh Phổ Hiền. Tâm Văn Thù vốn là tâm không có cấu trược tạp loạn, cho nên nói là thanh tịnh. Hạnh Phổ Hiền vốn là công hạnh tu tập xưa kia của Phật, giống như những công hạnh của chư Phật Bồ-tát. Những công hạnh tức là thanh tịnh, là Trì nghiệp thích.

C. TÔNG THÚ: Dùng Nguyện khéo léo tùy theo Sự phòng ngừa tâm không phân tán, làm tăng trưởng Đại Hạnh Bi-Trí của Bồ-tát là Tông; thành tựu Thật đức của Phổ Hiền là Thú.

D. GIẢI TRỪ TRỞ NGẠI: Hỏi: Trong văn chỉ phân rõ về hơn một trăm Nguyện, đâu có nói đến Hạnh? Đáp: Trong văn phân rõ về Hạnh tóm lược có mấy lớp, nghĩa là ngay trong sự việc đã trải qua, bắt đầu từ xuất gia-cuối cùng ở ngủ thức, đều là Hạnh thuộc về Sự. Nhận biết về tánh Không của gia đình, là Hạnh thuộc về Lý. Tiếp xúc với cảnh mà không mê lầm, khéo léo thông hiểu về Sự-Lý, là Hạnh thuộc về Trí. Dùng Nguyện dẫn dắt Trí không đắm vào Tự lợi, là Hạnh thuộc về Đại Bi. Hai loại nói trên không hai, là Hạnh thuộc về Bi-Trí vô ngại. Gặp cảnh thuận-nghịch mà tâm không rong ruổi phân tán, là Hạnh thuộc về Chỉ. Trí không chìm đắm, là Hạnh thuộc về Quán. Ngay nơi Chỉ-Quán, là Hạnh cùng vận hành.

Vả lại, đối với cảnh thuộc về Sự, khéo léo hiểu rõ về Tà-Chánh, nên nguyện cho chúng sinh, đều là Giả quán; nhận biết thân là rỗng lặng, tâm không có gì nhiễm trước, là Không quán; thấy rõ Lý đúng như thật, là Trung quán; hoặc là trước Không-sau Trung, hoặc là trước Giả-sau Không, hoặc là một-hoặc là hai, hoặc là một niệm lập tức đầy đủ. Đây là Hạnh thuộc về Quán khéo léo thông hiểu ba Đế.

Lại nữa, do tạo tác mà thành tựu Hạnh đều bố thí cho chúng sinh, không khởi tâm của Nhị thừa; an nhẫn trong hai cảnh cứng rắn-mềm mỏng chỉ tăng thêm phẩm thiện, tâm không khác với duyên mà khéo léo thông hiểu về tánh Không; phương tiện khéo léo xoay chuyển, đều nguyện làm lợi ích cho chúng sinh, cùng hướng đến Bồ-đề; Nhị thừaThiên ma vốn không thể nào làm cho lay động; khéo léo nhận biết về vị thuốc-căn bệnh quyết đoán không có gì sai sót. Chính là Hạnh thuộc về mười Độ cùng tu.

Lại nữa, đều là nguyện làm lợi ích chúng sinh, đều thành tựu đức của Phật, thấy điều ác cần phải khiến cho điều ác ấy đoạn trừ, thấy điều thiện cần phải khiến cho điều thiện ấy đầy đủ, tức là Hạnh thuộc về bốn thệ nguyện rộng lớn. Vì vậy, Trí Thủ tổng quát nêu ra các đức, bởi vì mong cầu nhân ấy; Văn Thù khiến cho khéo léo dụng tâm thì nhanh chóng đạt được các quả, nhưng nói chỉ mong (Duy nguyện) lẽ nào không cảm hay sao?

Lại có người hỏi rằng: Nói đến Diệu hạnh, thì tất cả chỉ là Vô niệm; nay thấy thiện-thấy ác mong lìa xa-mong thành tựu, làm cho thântâm mệt mỏi, lẽ nào đó là đạo hay sao? Đáp: Nếu thấy điều này, thì lìa xa Niệm mà cầu mong Vô niệm, hãy còn chưa đạt được Vô niệm chân thật, huống hồ Niệm-Vô niệm vô ngại. Vả lại, Vô niệm chỉ là một phần của Hạnh, lẽ nào thành tựu một Niệm nhanh chóng đầy đủ, như trên đã trình bày hay sao? Mong người thực hành tu học khéo léo lưu tâm!

E. TRONG PHẦN GIẢI THÍCH VĂN, có hai: Trước là Trí Thủ thưa hỏi, nêu ra đức để chứng minh về nhân; sau là Văn Thù giải đáp, nêu ra đức để hiển bày về nhân.

Nay phần trước là Trí Thủ thưa hỏi, cũng có hai: Một: Nêu ra người thưa hỏi-giải đáp; Hai: Trình bày thưa hỏi về những điều nghi ngờ.

Phần một, hai vị Bồ-tát này làm người thưa hỏi và giải đáp, là Nguyện khéo léo trải qua Sự thì chắc chắn Trí là dẫn dắt, cho nên Sự gần mà ý nghĩa xa, vốn chỉ là Diệu Đức. Văn Thù là Bát-nhã quán Không, Trí Thủ là phương tiện trải qua Sự. Trải qua Sự nhưng không mê lầm đối với Lý, cho nên tuy Nguyện mà không giữ lấy gì; quán Không nhưng không bỏ sót đối với Sự, cho nên tuy Tịch mà không chứng đắc. Đó là Quyền-Thật đan xen với nhau, dựa vào đó để thưa hỏi và giải đáp.

Trong phần hai, trình bày về những điều thưa hỏi, có hai mươi Vân hà (vì sao), tổng quát làm thành mười một đoạn, mỗi đoạn đều có mười câu, thành ra có một trăm mười loại đức: 1- Trình bày về ba nghiệp lìa xa lỗi lầm mà thành tựu đức; 2- Đạt được pháp khí có thể truyền bá; 3- Thành tựu về các Tuệ; 4- Đầy đủ nhân duyên của đạo; 5- Phương tiện khéo léo đối với pháp; 6- Tu tập về nhân Niết-bàn; 7- Đầy đủ hạnh Bồ-tát; 8- Đạt được trí Thập Lực; 9- Mười vị vua cung kính bảo vệ; 10- Có thể làm nhiều lợi ích; 11- Tôn quý thù thắng vượt lên trên.

Trong mười một đoạn này, nếu dựa vào tướng hiển bày thì: Đoạn 2- và , ba đoạn này chỉ là nhân; đoạn và 11, hai đoạn này chỉ là quả; còn lại đều bao gồm nhân-quả.

Hoặc thâu nhiếp làm thành bốn cặp về nhân quả: Một: Hai mươi câu đầu hỏi về nhân của Phước-quả của Phước, trước là nhân-sau là quả. Hai: Hai mươi câu tiếp hỏi về nhân của Tuệ-quả của Tuệ, trước là quả-sau là nhân. Ba: Hai mươi câu tiếp hỏi về nhân của khéo léo hiểu biết và quả của thực hành quán sát. Bốn: Có năm đoạn, hỏi về nhân của các hành và quả của đức thành tựu, một đoạn đầu là nhân, bốn đoạn còn lại là quả.

Hoặc phân làm hai: Đầu là mười Vân hà, thưa hỏi về Thể của hành thanh tịnh, là hỏi về nghĩa của nhân. Sau là mười Vân hà, thưa hỏi về hành đã thành tựu, là hỏi về nghĩa của quả. Bởi vì khéo léo tu tập về bảy Giác chi…, cũng là công năng của hành thanh tịnh, cho nên đều nói Vân hà đắc (vì sao đạt được), là tu hạnh gì mà đạt được điều ấy? Mười mục đầu hướng về sau cho nên nói là nhân, hướng về Nguyện khéo léo trải qua duyên mà thành tựu Thể của hành thanh tịnh, tức là đối với quả chưa phải là quả tròn vẹn, mà là quả thuộc một phần, cho nên trước đây tổng quát nói là nêu ra đức để chứng minh về nhân.

Nay phân làm hai: Một đoạn đầu là tổng quát thưa hỏi về quả ấy; mười đoạn sau là riêng biệt trình bày.

Đoạn đầu, mười câu đạt được mười loại thuộc ba nghiệp này, thành tựu mười quả sau: Bởi vì ba nghiệp không có sai lầm, cho nên tôn quý thù thắng vượt lên trên. Bởi vì không nóng giận làm hại, cho nên thường làm nhiều lợi ích. Bởi vì không còn phiền não sót lại, không thể nào chê trách, cho nên mười vị vua cung kính bảo vệ. Bởi vì duyên xấu ác không thể phá hoại, cho nên đạt được mười Lực của Phật. Bởi vì tu hành không thối chuyển, cho nên đầy đủ hạnh của Bồ-tát. Bởi vì xa lìa các tướng, Như Như bất động, cho nên thành tựu về nhân của Niết-bàn. Bởi vì đức hành thù thắng, cho nên phương tiện khéo léo đối với pháp. Bởi vì Thể thanh tịnh giống như hư không, cho nên thành tựu đầy đủ duyên của đạo. Bởi vì trải qua cảnh mà không có gì đắm nhiễm, cho nên đạt được pháp khí có thể truyền bá. Bởi vì Trí dẫn đường, cho nên thành tựu về các Tuệ.

Lại nhờ vào mười đoạn sau cho nên có thể thành tựu mười loại này, bởi vì mười loại ba nghiệp vĩnh viễn không có sai lầm…, chỉ riêng Phật là không giống nhau (Bất cọng), từng phần-từng phần không có sai lầm, như nhau nối thông với nhân. Lại mười câu này, một câu đầu là tổng quát hiển bày về không có sai lầm, tám câu tiếp là riêng biệt hiển bày về không có sai lầm, một câu sau cuối là tổng quát nêu ra nhân ấy, nếu dùng Trí tuệ để dẫn đường, thì nghiệp thân-ngữ-ý luôn luôn không có sai lầm. Lại ở trong tám câu: Hai câu trước là lìa xa sai lầm, sáu câu sau là thành tựu về đức. Lại trong chín câu sau: Không tùy theo Sân cho nên không làm hại, không tùy theo Mạn cho nên không thể nào chê trách, không tùy theo Ác kiến cho nên không tổn hoại, không tùy theo Nghi cho nên không lui sụt thay đổi mà luôn luôn tu hạnh thù thắng, không tùy theo Tham cho nên thanh tịnh không hề cấu nhiễm, không tùy theo Si cho nên Trí là pháp dẫn đường, những việc làm phù hợp với Chân. Các nghiệp như thế vì sao mà đạt được?

Trong mười đoạn sau là riêng biệt trình bày: Một: Một đoạn đầu nói về quả Dị thục; Hai: Bốn đoạn tiếp nói về quả Sĩ dụng; Ba: Hai đoạn tiếp nói về quả Ly hệ; Bốn: Một đoạn tiếp nói về quả Tăng thượng; Năm: Hai đoạn sau cuối nói về quả Đẳng lưu.

Một: Một đoạn đầu nói về quả Dị thục, tức là căn khí Tu đạo, bởi vì Bồ-tát lúc phát khởi tu hành cần phải đầy đủ mười pháp này, mới thành tựu hạnh Tự lợi-Lợi.

Trong luận Du Già giải thích đầy đủ: “1- Thường sinh ở trung tâm đất nước, nơi có giáo pháp của Phật; 2- Chủng tộc tôn quý, không phải là hạng hạ tiện; 3- Sinh trong nhà tu thiện có niềm tin hướng về Tam Bảo, không sinh trong nhà của các ngoại đạo; 4- Hình sắc đoan nghiêm, không phải là xấu xí khó coi; 5- Đầy đủ tướng trượng phu, các căn không thiếu sót; 6- Chánh niệm không quên, niệm vốn có cũng hiện rõ trước mắt; 7- Tuệ tỏ ngộ cao vời sáng suốt, khéo léo hiểu rõ các pháp thế gian; 8- Nhu hòa điều phục tốt lành, lìa xa lỗi lầm tu hành; 9- Chí lực kiên cường cho nên không có gì khiếp nhược; 10- Tánh tự mở mang hiểu biết, không nhiễm pháp thế gian.”

Lại Vô úy, dựa vào luận Trí Độ: “Bồ-tát có bốn loại Vô úy: 1- Vô úy thuộc về Tổng trì, đối với pháp ghi nhớ giữ gìn không sợ quên mất; 2- Vô úy thuộc về nhận biết căn cơ, nhận biết căn cơ để trao cho pháp không sợ sai lầm; 3- Vô úy thuộc về quyết đoán nghi ngờ, tùy theo câu hỏi có thể giải đáp, không sợ mình không có khả năng; 4- Vô úy thuộc về giải đáp chất vấn, có chất vấn đều thông suốt, không sợ nghi ngờ vướng mắc.” Nay đều đạt được cho nên nói là đầy đủ.

Lại mười sự việc này, nếu dựa theo pháp, thì sinh trong nhà của Phật là nơi sinh đầy đủ… Suy nghĩ điều này! Lại đầy đủ, là chỉ riêng một mình Đức Phật…

Hai: Từ “Thập Tuệ…” trở xuống là trong bốn đoạn trình bày về quả Sĩ dụng: 1- Tuệ nghĩa là lựa chọn; 2- Lực nghĩa là tu tập; 3- Thiện xảo nghĩa là Trí; 4- Đạo phẩm giúp cho tu tập, đều dùng ba nghiệp mà được thành tựu.

Nay là đoạn 1: Nói đến Tuệ, tức là Thể của đạo. Trong mười loại: 1- Bởi vì hơn hẳn thế gian; 2- Bởi vì vượt quá Nhị thừa; 3- Bởi vì lựa chọn Quyền giáo; 4- Bởi vì Phật quả vượt lên trên nhân. Bốn loại trên là lựa chọn yếu kém, sau loại còn lại là Đương Thể: 1- Không có phạm vi hạn lượng; 2- Không có số lượng nhiều ít; 3- Vượt lên trên nói năng suy nghĩ; 4- Không có gì sánh được; 5- Khó so sánh; 6- Chỉ tương ưng với Chứng. Muốn nói Tuệ ấy có thì Tuệ không có tướng-không có hình, muốn nói Tuệ ấy không có thì đó là linh hồn của bậc Thánh, muốn nói Tuệ ấy có-không có thì Tuệ không có hai Thể, muốn nói Tuệ ấy không có cả hai thì tất cả đều giải thích rõ ràng, cho nên không thể nào nói được.

Ba: Nói về Lực, tức là đầy đủ nhân duyên của đạo. Đều nói là Lực, bởi vì mười loại này đều có công năng giúp đỡ cho đạo:

1: Lực của Nhân, tức là chủng tánh, nghĩa là đã có tập khí chủng tử không có trái ngược, nghe huân tập hợp với chủng tử của tánh, cho nên gọi là nhân. Lương Nhiếp Luận nói: “Đa văn huân tập hòa hợp với tánh hiểu biết trong Thức A-lại-da, tất cả Thánh nhân lấy đây làm nhân.” Vô Tánh Nhiếp Luận nói: “Huân tập cái nghe này, tuy là hữu lậu mà là tánh của chủng tử thuộc về tâm xuất thế.”

2: Lực của Dục, bởi vì có ham muốn vui thích thù thắng mong mỏi Đại Bồ-đề, và khởi hạnh.

3: Phương tiện, đó là Lực của tu tập thành tựu, dựa vào sáu phương tiện mà thành tựu Bi-Trí: Một: Từ Bi luôn chú ý không quên; hai: Nhận biết rõ ràng về các hành; ba: Vui mừng với Diệu trí của Phật; bốn: Không rời bỏ sinh tử; năm: Luân hồi không nhiễm trước; sáu: Tinh tiến hừng hực. Trong Nhiếp Luận giải thích rộng.

4: Lực của Duyên, đó là sự khuyến khích phát khởi của thiện hữu.

5: Lực của Sở duyên, tức là cảnh của Bi-Trí đã quán sát.

6: Căn, đó là Tín-Tiến…

7: Quán sát, đó là đối với mình-người mà khéo léo lựa chọn SựLý, vị thuốc-căn bệnh.

8: Xa-ma-tha, Trung Hoa nói là Chỉ.

9: Tỳ-bát-xá-na, Trung Hoa nói là Quán. Các luận như Du GiàKhởi Tín…, các kinh như Giải Thâm Mật-Niết Bàn…, mở rộng phân rõ về tướng ấy, đầy đủ như Chương riêng biệt. Nay sơ lược hiển bày về tướng ấy, dùng làm mười Môn: Môn một-Tâm hành phù hợp với Lý thâu nhiếp tán loạn, gọi là Chỉ. Môn hai-Chỉ không đắm vào vắng lặng, không trở ngại đến Sự thuộc về Quán. Môn ba-Nhờ vào Lý-Sự đan xen thấu suốt mà cần phải hòa hợp, liền khiến cho Chỉ-Quán vô ngại mà cùng vận hành. Môn bốn-Lý và Sự so sánh làm mất lẫn nhau mà đều không còn, Chỉ-Quán cùng mất mà bặt dứt nương tựa. Môn năm-Bặt dứt cảnh vô ngại của Lý-Sự, cùng với phai mờ tâm vô ngại của Chỉ-Quán, hai mà không hai bởi vì tâm-cảnh không ngăn ngại mà cùng một vị, không hai mà hai bởi vì không hủy hoại một vị mà tâm-cảnh khác nhau. Môn sáu-Bởi vì Sự ngay nơi Lý mà thu nhận tất cả các pháp, Quán ngay nơi Chỉ cũng thấy tất cả. Môn bảy-Bởi vì Sự này tức là Sự kia, do đó khiến cho Chỉ-Quán thấy tâm này tức là tâm kia. Môn tám-Bởi vì trong phần trước, môn sáu là một-nhiều hòa vào nhau mà không phải là một, môn bảy là một-nhiều ngay trong nhau mà không phải là khác, hai môn này không hai mà cùng một pháp giới, Trí của Chỉ-Quán không hai mà lập tức nhìn thấy, tức là hai môn trước cùng một pháp giới mà không có gì phân tán-thay đổi. Môn chín-Bởi vì Sự là Chỉ-Quán trùng trùng vô tận, cũng là Phổ Nhãn cùng soi chiếu. Môn mười-Ngay nơi Trí của Phổ Môn này làm chủ, cho nên lập tức soi chiếu pháp giới Phổ Môn thì chắc chắn thâu nhiếp tất cả làm bạn vô tận cho đến vô tận. Đây là Chỉ-Quán đã mong cầu của Hoa Nghiêm.

10: Tư duy, là suy nghĩ tính toán về việc nên làm-không nên làm.

Bốn: Phương tiện khéo léo đối với pháp, đều dựa theo lưu chuyển để trình bày về Thể lưu chuyển của bốn đoạn trước đây, ba cõi là nơi chốn lưu chuyển, ba đời là thời gian lưu chuyển. Nghĩa của ba Khoa sơ lược như trước giải thích, mở rộng như Chương riêng biệt. Duyên khởi mở rộng trình bày ở Địa thứ sáu, ba cõi-ba đời như trước-sau giải thích. Đều nói là phương tiện khéo léo: 1- Khéo léo nhận biết về pháp Không ấy, vốn không hề có; 2- Khéo léo nhận biết về pháp phân biệt không làm hỏng giả danh; 3- Phương tiện khéo léo hòa vào nhau có thể thâu nhiếp vô tận khắp nơi.

Năm: Tu tập về nhân Niết-bàn, bảy Giác-ba Không, nói mở rộng ở phẩm Thập Địa.

Sáu: Đầy đủ hạnh Bồ-tát. Hai loại dưới đây là trình bày về quả Ly hệ, đầu là tu tập sáu Độ-bốn Đẳng tức là Sĩ dụng, đầy đủ tức là Ly hệ, bởi vì đối trị các loại che lấp.

Bảy: Đầy đủ Thập Lực, đều thấy ở văn trước đây.

Tám: Mười vị vua cung kính bảo vệ, là quả Tăng thượng.

Chín: Từ “Vân hà đắc dữ nhất thiết chúng sinh vi y…” trở xuống là hai đoạn trình bày về quả Đẳng lưu, bởi vì lực của Bổn nguyện là nơi nương tựa-cứu giúp…, bởi vì lực của Bổn hạnh là bậc nhất… Nay trước là có thể làm nhiều lợi ích, mười câu như nương tựa…, như đầu phẩm Hồi Hướng.

Mười: Từ “Vi đệ nhất…” trở xuống là tôn quý thù thắng vượt lên trên, như luận Thập Địa giải thích.

Nay dựa vào quả Phật, sơ lược giải thích về tướng ấy, nghĩa là biển công đức của Như Lai tròn đầy, lại không có gì thiếu, cho nên gọi là bậc nhất. Đây cũng là câu tổng quát. Đại là Thể vốn bao gồm pháp giới. Thắng là Tự lợi vốn viên mãn. Tối Thắng là Lợi tha vốn cứu cánh. Diệu là Phiền não chướng vốn không còn. Cực Diệu là Sở tri chướng vốn không còn. Thượng là hướng xuống dưới vốn không có gì sánh được. Vô Thượng là hướng lên trên lại vốn không có gì. Vô Đẳng là hướng xuống dưới vốn không có bằng nhau. Vô Đẳng Đẳng là hướng về bằng nhau vốn đều là không có bằng nhau. Vì lẽ đó mở rộng nêu ra các đức, là muốn hiển bày về hạnh thù thắng. Trên đây là phần thưa hỏi, xong.

Trong phần sau là Văn Thù giải đáp, văn phân làm hai: Một: Khen ngợi thưa hỏi thành tựu lợi ích. Nhiêu ích là lợi ích. An ẩn là an lạc. Lợi lạc tức là hai nghĩa trước. Luận Phật Địa quyển thứ 7 có năm 0 lớp giải thích, nghĩa của Lợi lạc đã thấy ở phẩm Quang Minh Giác. Hai: Từ “Phật tử…” trở xuống là chính thức giải đáp những câu hỏi ấy, trong đó có hai: 1- Nêu ra nhân thành tựu đức để giải đáp về đức nêu ra ấy; 2- Dựa vào sự việc hiển bày về nhân để giải đáp chứng minh cho nhân ấy.

Nay là phần 1: Trước là nêu ra nhân ấy, nghĩa là khéo léo vận dụng tâm ấy, tâm hiểu rõ về tâm sâu xa của tinh thần sáng suốt, chính là vạn đức thu nhận quy về một mối. Nói khéo léo vận dụng, tức là về sau Nguyện khéo léo trải qua duyên, tiếp xúc với cảnh tiến vào sâu xa, đã phân rõ như trên. Sau từ “Tắc hoạch…” trở xuống là hiển bày về đức đã thành tựu: a- Tổng quát; b- Riêng biệt.

1. Tổng quát, nói là tất cả công đức thắng diệu, đều nhờ vào vận dụng một trăm mười môn của tâm, đức nào đủ để chất vấn được. Có thể nói một lời che phủ tất cả. Thắng, nghĩa là một mình tôn quý; Diệu, nghĩa là lìa xa tướng. Lại tất cả các đức đều đầy đủ, nói là Thắng; tất cả chướng ngại đều không còn, gọi là Diệu. Đây là câu tổng quát, cũng chính là giải đáp về câu tổng quát của mười loại thuộc ba nghiệp trước đây.

2. Chín câu còn lại là riêng biệt hiển bày, câu tuy có chín mà nghĩa cũng có mười, như thứ tự giải đáp về đức của mười đoạn trước đây.

Một: Tâm không có gì ngăn ngại đối với pháp của chư Phật, tức là đầu tiên về đức thứ nhất đạt được pháp khí có thể truyền bá, bởi vì Niệm-Tuệ-Giác ngộ đều đầy đủ.

Hai: Trú trong đạo của chư Phật quá khứ-hiện tại và vị lai, tức là trước đây nói thành tựu về các Tuệ, bởi vì chư Phật ba đời chỉ dùng Tuệ của Phật làm nơi nương theo.

Ba: Tùy theo chúng sinh an trú, luôn luôn không rời bỏ, tức là trước đây nói đầy đủ nhân duyên của đạo, phương tiện tùy theo ham muốn vui thích mà thành tựu chủng tánh, bởi vì thường lấy chúng sinh làm sở duyên.

Bốn: Như tướng của các pháp, đều có thể thông đạt, tức là mười nghĩa về phương tiện khéo léo không có gì mê hoặc.

Năm: Đoạn trừ tất cả pháp ác, tức là bảy Giác-ba Không, lựa chọn loại bỏ pháp ác, bởi vì không có gì vượt qua pháp này.

Sáu: Đầy đủ các pháp thiện, tức là sáu Độ-bốn Đẳng.

Bảy: Thích hợp như sắc tượng bậc nhất của Phổ Hiền, vì vậy cho nên được mười vị vua cung kính bảo vệ.

Tám: Tất cả hạnh nguyện đều được đầy đủ, tức là trước đây nói thành tựu Thập Lực, bởi vì đạt được quả vị Phật mới đầy đủ; bản kinh đời Tấn không có một câu này, mà có câu “Thành tựu Nhất thiết chủng trí của Như Lai.” Đây là mười loại Trí lực, chắc chắn không có gì nghi hoặc. Chỉ riêng một đoạn này hướng về trước không theo thứ tự, bởi vì bên trong đầy đủ Chủng trí-bên ngoài đầy đủ Sắc tướng, hai loại này đều thuộc về quả tròn vẹn, cho nên trước-sau không có, hoặc là người dịch không quay lại.

Chín: Bởi vì tất cả đều tự tại đối với tất cả các pháp, cho nên có thể làm nơi nương tựa-làm nơi cứu giúp-làm ngọn đuốc-làm ánh sáng cho chúng sinh.

Mười: Mà làm bậc Đạo Sư thứ hai cho chúng sinh, tức là văn trước đây nói thù thắng vượt lên trên mọi người. Trước đây mong cầu bậc nhất chỉ riêng một mình Đức Phật, nay vừa mới phát tâm thì đạo đứng sau bậc Chí Tôn, cho nên nói là thứ hai. Nhưng trong bản kinh cũ cũng nói mà làm bậc Đạo Sư thứ nhất cho chúng sinh, vì vậy biết rằng thứ hai là ý của người dịch.

Phần 2: Từ “Phật tử vân hà…” trở xuống là dựa vào sự việc hiển bày về nhân, trong đó có ba: a- Tổng quát nêu ra; b- Riêng biệt hiển bày; c- Tổng quát kết luận về thành tựu lợi ích.

Trong phần b là riêng biệt hiển bày, có năm môn phân biệt:

Một: Tổng quát trình bày về đại ý, trong văn tổng cọng có một trăm bốn mươi mốt nguyện, Đại nguyện của Bồ-tát sâu rộng như biển, thuận theo như hồi hướng không phải chỉ có như vậy. Ở đây là đại khái nêu ra thể thức, còn lại đều phỏng theo đây. Vả lại, không phải là không có biểu hiện, một trăm là Thập Tín viên dung, mỗi một Tín đều có đủ mười; bốn mươi mốt tức là bốn mươi mốt phần vị, trình bày về các phần vị này vốn có Hoặc chướng, dựa vào đây có thể làm thanh tịnh các hạnh thù thắng vốn có, từ đó có thể thực hành.

Hai: Tổng quát hiển bày về ý nghĩa của văn. Nhưng các nguyện này, câu văn tuy có bốn sự việc mà chỉ có ba nghĩa, tách ra làm sáu.

Nói ba nghĩa của sự việc, đó là câu đầu nói về việc làm là chỗ dựa của Nguyện, câu tiếp nói về cảnh là việc làm của Nguyện, hai câu sau là Nguyện và cảnh thành tựu lợi ích.

Tách ra làm sáu: Sự việc đầu có hai loại: Một là bên trong, đó là Căn-Thức… thuộc về tự thân của Bồ-tát, bởi vì kinh nói là Bồ-tát…; hai là bên ngoài, đó là thân của người khác, hoặc là Y báo-Chánh báo, vật dụng cung cấp cho đời sống…, bởi vì kinh nói là Tại gia… Sự việc tiếp theo cũng có hai loại: Một là người chủ động phát nguyện; hai là nguyện vì chúng sinh, bởi vì kinh nói Nên nguyện cho chúng sinh. Sự việc sau cũng có hai loại: Một là lợi ích cho mình, nhờ vào các nguyện này mà thành tựu các đức trước đây; hai là lợi ích cho người, dựa vào phát nguyện này mà nguyện vì chúng sinh.

Hai câu sau này: Hoặc câu trước là nhân-câu sau là quả, như nói: Những công hạnh không có gì trái ngược, thành tựu Nhất thiết trí… Hoặc hai câu đều là nhân, như nói: Khéo léo hầu hạ Sư trưởng, luyện tập thực hành pháp thiện… Hoặc hai câu đều là quả Phật, như nói: Vĩnh viễn xa lìa phiền não, hoàn toàn vắng lặng… Hoặc hai câu bao gồm nhân quả, như nói: Dùng pháp để tự vui, hiểu rõ kỹ nữ không phải là thật… Hoặc hai câu ba-bốn cùng làm thành một câu, như nói: Diễn thuyết các loại không có pháp nào tranh cãi trái ngược… Cũng có thể trong hai câu sau, câu đầu là pháp đã tiến vào, như nói: Nhận biết gia đình là tánh Không…; câu sau là lợi ích đã thành tựu, như nói: Tránh khỏi bức bách… Bởi vì không nhất định phải đầy đủ cho nên hợp lại làm một.

Ba: Riêng biệt tách ra nghĩa loại. Nhưng trong ba sự việc trên: 1Việc làm là chỗ dựa của Nguyện, tuy có nhiều loại mà không ra khỏi thiện ác-y chánh-trong-ngoài, tùy nghĩa mà dựa theo. 2- Cảnh là việc làm của Nguyện, mỗi một Nguyện ấy đều bao gồm pháp giới, bởi vì tất cả hữu tình không giống nhau, Quyền-Tiểu nói thì có mà Tạng thì không có. Vả lại, Nguyện tức là Hạnh, mà thành tựu Hồi hướng, mỗi một Nguyện đều thành tựu hành của nghiệp thiện thanh tịnh đã thực hành, như nói: Nhận biết gia đình là tánh Không, thì tâm của Bồ-tát chắc chắn đã đạt đến Không. 3- Trong thành tựu lợi ích về Cảnh là việc làm của Nguyện, là bởi vì nguyện cho người khác thành tựu các loại đức, tự mình đạt được công đức như trước đã nói. Nhưng có hai nghĩa: Một là tổng quát, hai là riêng biệt.

Tổng quát là tùy theo mỗi một Nguyện mà thành tựu các đức trên đây. Đây là ý chính.

Riêng biệt hiển bày, như: 1- Nguyện cho người khác đạt được thân kiên cố, tâm không có gì khuất phục, thì tự mình chắc chắn thành tựu về đức của mười loại thuộc ba nghiệp lìa xa lỗi lầm mà thành tựu đức. 2Nguyện cho người khác đầy đủ, thành tựu đầy đủ tất cả pháp thiện, thì tự mình thành tựu pháp khí có thể truyền bá. 3- Nguyện cho người khác tiến sâu vào Kinh Tạng, trí tuệ như biển, thì tự mình thành tựu về các Tuệ. 4- Nguyện cho người khác đầy đủ các phương tiện, đạt được pháp tối thắng, thì tự mình thành tựu đầy đủ nhân duyên của đạo. 5- Nguyện cho người khác đầy đủ ngữ nghiệp khéo léo có thể diễn thuyết, thì tự mình thành tựu về mười đức thuộc phương tiện khéo léo. 6- Nguyện cho người khác đạt được ý thiện, mong muốn rửa sạch phiền não cấu trược, thì tự mình thành tựu bảy Giác-ba Không. 7- Nguyện cho những việc làm của người khác đều thành tựu đầy đủ pháp của chư Phật, thì tự mình thành tựu đầy đủ đức thuộc hạnh của Bồ-tát. 8- Nguyện cho người khác rời bỏ các tụ pháp thành tựu Nhất thiết trí, thì tự mình thành tựu mười loại Trí lực của Như Lai. 9- Nguyện cho người khác đều đoan chánh trang nghiêm như Phổ Hiền, thì tự mình thành tựu được mười vị vua cung kính bảo vệ. 10- Nguyện cho người khác đứng đầu quan tâm Đại chúng, tất cả không ngăn ngại, thì tự mình thành tựu đức thuộc về nhiều lợi ích làm nơi nương tựa cứu giúp. 11- Nguyện cho người khác đạt được địa vị bậc nhất, tiến vào pháp bất động, thì tự mình thành tựu đức thuộc về siêu việt thù thắng bậc nhất.

Dùng mười một loại này phối hợp với mười một đoạn tổng quátriêng biệt trong phần giải đáp trước đây, văn đều có thể biết. Tổng quát-riêng biệt đan xen với nhau, nên làm thành bốn câu phân biệt, đó là tất cả các nguyện thành tựu một đức, tất cả các nguyện thành tựu tất cả các đức… Bởi vì dựa vào Nguyện một-nhiều ngay trong nhau, cho nên thành tựu đức cũng một-nhiều dung thông hòa hợp.

Bốn: So sánh phân rõ làm thành ví dụ, nghĩa là nếu dùng hai sự việc trước-sau đối lập với nhau để phân rõ ví dụ, thì tóm lược có mười ví dụ (Lệ): 1- Ví dụ thông hiểu Sự giống như Lý, như Bồ-tát tại gia là Sự, tánh Không là Lý. 2- Ví dụ ở trong nhiễm mà vượt qua nhiễm, như nếu có được năm Dục là nhiễm, nhổ bỏ mũi tên của Dục là vượt qua nhiễm. 3- Ví dụ tương tự giống nhau, như nếu có những gì bố thí, thì khiến cho tất cả chúng sinh có thể bố thí… 4- Ví dụ thế gian giống với xuất thế gian, như lên cao trên lầu gác, nguyện cho chúng sinh lên cao trên lầu Chánh pháp… 5- Ví dụ lấy nhân giống với quả, như lúc chính thức xuất gia, nguyện giống như sự xuất gia của Phật… 6- Ví dụ rời bỏ Giả trở về Thật, như lúc mang chuỗi ngọc, nguyện đạt đến nơi chân thật… 7- Ví dụ lấy người giống với pháp, như thấy người bệnh, nguyện lìa xa tranh cãi trái ngược…8- Ví dụ lấy cảnh thành tựu hành, như thấy suối tuôn chảy, nguyện cho thiện căn không có tận cùng… 9- Ví dụ lấy Vọng trở về Chân, như thấy Bà-la-môn, nguyện lìa xa pháp ác… 10- Ví dụ lấy gần giống với xa, như được Hòa thượng dạy bảo, nguyện đạt đến nơi không có nương tựa…

Năm: Chính thức giải thích văn kinh, trường hàng phân làm mười: 1- Có mười một nguyện, trình bày về nguyện lúc còn tại gia. 2- Có mười lăm nguyện, trình bày về nguyện vào lúc xuất gia thọ giới. 3- Có bảy nguyện, trình bày về nguyện ngay lúc tọa thiền-quán sát. 4- Có sáu nguyện, trình bày về nguyện vào lúc mang hành trang sắp sửa lên đường. 5- Có bảy nguyện, trình bày về nguyện vào lúc rửa mặt-súc miệng. 6- Có năm mươi lăm nguyện, trình bày về nguyện vào lúc đi đường khất thực. 7- Có hai mươi hai nguyện, trình bày về nguyện vào lúc đến thành ấp khất thực. 8- Có năm nguyện, trình bày về nguyện vào lúc trở về tắm rửa. 9- Có mười nguyện, trình bày về nguyện vào lúc học tập-đọc tụng-kinh hành-lễ bái. 10- Có ba nguyện, trình bày về nguyện vào lúc thức-ngủ, nghỉ ngơi.

Nay là phần 1: Tại gia có mười một nguyện: Đầu là một nguyện tổng quát nêu ra tại gia, bởi vì gia đình là nơi va chạm ràng buộc do tham ái, nếu hiểu rõ tánh Không thì tuy chung sống ở gia đình mà gia đình không thể nào bức bách. Tiếp là một nguyện về tại gia thực hành hiếu thảo, bởi vì là nguồn gốc của mọi đức hạnh, cho nên trình bày đầu tiên. Kinh Đại Tập nói: “Thế gian nếu không có Phật thì cố gắng phụng thờ cha mẹ, phụng thờ cha mẹ tức là phụng thờ Phật, bởi vì cha mẹ là người giác ngộ trước tiên cho mình. Nay trở lại khiến cho phụng thờ Phật, là bởi vì sinh ra và nuôi lớn Pháp thân. Bảo vệ phụng dưỡng tất cả, bởi vì tất cả chúng sinh đều là con Ta cho nên bảo vệ, bởi vì tất cả nam nữ đều là cha mẹ Ta cho nên phụng dưỡng, đời đời thọ thân tất cả đều từ đó, cho nên bình đẳng tôn kính, bởi vì đó là Pháp thân Phật.” Tiếp là bốn nguyện về tiếp nhận gia thất… Nhưng năm Dục bắn vào tâm giống như mũi tên trúng đích, Vương hầu có Cung, còn lại đều gọi là Thất. Tiếp là năm nguyện về sự nghiệp đã làm ở gia đình… Ở nơi cổ gọi là Anh, ở nơi thân gọi là Lạc, Lạc dùng để giữ áo, Anh dùng để buộc mũ. Tất cả đều rời bỏ cũng là rời bỏ tâm, hiểu rõ pháp tụ Vô tánh mà thành tựu trí Phật.

Phần 2: Từ “Xả cư gia…” trở xuống là lúc xuất gia thọ giới, có mười lăm nguyện: Đầu là một nguyện chính thức rời bỏ ngôi nhà thế tục. Tiếp là ba nguyện nói về phương tiện xuất gia. Tăng-già-lam, Trung Hoa nói là Chúng Viên. Chúng có sáu pháp hòa hợp là Sự-Lý cùng một vị, cho nên không có tranh chấp. Đại Sư nghĩa là Phật, là bậc thầy của Đại chúng. Tiểu gọi là Hòa thượng, là vị dạy dỗ cho mình. Nếu dựa theo thời gian cuối (Mạt thế), thì Tam Sư là Đại, Thất Chứng là Tiểu. Tất cả đều có bắt đầu, ít hạn định có kết thúc, cho nên mong mỏi không lui sụt. Tiếp là bốn nguyện về lúc chính thức xuống tóc xuất gia. Cà-sa là áo không còn màu sắc chính, cũng nói là nhuộm(Nhiễm) màu sắc, biểu thị cho pháp quan trọng nhuộm vào tâm, không có gì nhuộm mới nói là nhuộm. Nhưng nhuộm của Nhị thừa cũng không phải là chân thật nhuộm, nhất định phải là tâm nhuộm pháp Đại thừa, cho nên nói là đầy đủ đạo của Đại Tiên, là đối với Chánh pháp diệt trừ kiết sử ấy, mới là cứu cánh tịch diệt. Sau khi xuống tóc-khoác y là chính thức xuất gia. Bảy nguyện còn lại là lúc thọ học giới. Đầu là Tam tự quy, ngày Phật còn tại thế, là một trong năm thọ. Sau khi Phật diệt độ, là thọ năm giớitám giới, nhất định phải dựa vào Tam quy. Quy y ba pháp quan trọng, là vượt qua tà sư-tà giáo và tà chúng của ngoại đạo kia, giống như thầy thuốc giỏi-thuốc tốt và người khám bệnh, bởi vì chữa lành bệnh phiền não, bởi vì làm duyên niệm cho chúng sinh. Nghĩa về Tam Bảo đến phần sau sẽ giải thích. Thọ học giới, tức là mười giới, cũng bao gồm năm giới. Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói: “Muốn thọ giới Bồ-tát, trước nên thọ tất cả năm giới-mười giới-hai trăm năm mươi giới. Nếu là Ni, thì thọ sáu sự và năm trăm giới.” Thọ nghĩa là thọ giới, Học tức là tùy giới. Trong nguyện tức là Chỉ trì và Tác trì. Xà-lê, Trung Hoa nói là Chánh Hạnh, quỹ phạm-giáo thọ cho nên nói là đầy đủ oai nghi. Hòa thượng, Trung Hoa nói là Thân Giáo, cũng nói là Lực Sinh, bởi vì đạo lực từ vị ấy mà phát sinh. Vì vậy phiên dịch nói là Nhập vô sinh trí, dựa vào đó đạt được giới cho nên phiên dịch là Vô y. Nói là Cụ Túc giới, nghĩa hàm chứa hai loại: Một là giới của Đại Tỳ-kheo, hai là giới của Bồ-tát, cũng hạn định về ý địa mới là Cụ Túc.

Phần 3: Từ “Nhược nhập đường…” trở xuống có bảy nguyện, trình bày về nguyện ngay lúc tọa thiền-quán sát: Đầu là bốn nguyện về phương tiện tu tập, tiếp là hai nguyện về chính thức tu tập Chỉ-Quán, sau cùng là một nguyện về việc tu hành hoàn tất.

Phần 4: Từ “Túc hạ trú thời…” trở xuống có sáu nguyện, trình bày về nguyện vào lúc mang hành trang sắp sửa lên đường: Quần (Hạ y) là che kín phần thô lậu cho nên nguyện có được hổ thẹn (Tàm quý), áo (Thượng y) tức là áo lót trong-áo khoác ngoài. Trước đã phân rõ về Càsa, ở đây nói thẳng là Tăng-già-lê. Tăng-già-lê, nghĩa nói là hòa hợp, mới thì có hai loại, cũ thì có bốn loại, chủ yếu đem chồng lên mà thành cho nên nói là hòa hợp, tức là y thứ nhất trong ba y.

Phần 5: Từ “Thủ chấp dương chi…” trở xuống có bảy nguyện, trình bày về nguyện vào lúc rửa mặt-súc miệng. Năm lợi ích của nhành dương thì gọi là Diệu pháp, trừ bỏ cấu uế là Tịnh. Tây Vức đều nói trong sáng sớm nhai nhành dương, tịnh-uế không xen tạp lẫn nhau, đây là phép tắc thông thường, hễ muốn luyện tập đọc tụng phân biệt thì cần phải sử dụng.

Phần 6: Từ “Thủ chấp tích trượng…” trở xuống là trình bày về nguyện vào lúc đi đường khất thực, toàn bộ có năm mươi lăm nguyện, lại phân làm ba: Đầu là mười hai nguyện nói về đi lại trên đường; tiếp từ “Kiến chúng hội…” trở xuống có mười chín nguyện, nói về cảnh vậtsự việc đã nhìn thấy; sau từ “Kiến nghiêm sức…” trở xuống có hai mươi bốn nguyện, nói về người-vật đã gặp.

Đầu là mười hai nguyện: Tích (tích trượng) là nhẹ nhàng, là sáng tỏ. Cầm cây gậy này thì nhẹ dần về phiền não, mà sáng tỏ về pháp Phật. Lại có nhiều nghĩa đầy đủ như kinh phân rõ. Nay sơ lược trình bày về hai công dụng: 1- Cầm gậy là oai nghi đi lại trên đường; 2- Làm rung động để mà khất thực. Nguyện tương tự phát khởi, đạo không có gì nương tựa là đạo chân thật, hướng về pháp không sót lại gì là Niết-bàn chân thật, pháp giới thanh tịnh chân thật do tâm mà thực hiện. Đường nguy hiểm có hai: 1- Nhiều giặc cướp-ma quỷ-thú dữ; 2- Đường hẹp trở ngại cách tuyệt. Đầu nói đến phiền não-nghiệp-tội lỗi-khổ đau là con đường nguy hiểm của phàm phu, sau nói đến tự mình điều phục đắm vào vắng lặng là con đường nguy hiểm của Nhị thừa, đều là nơi khó khăn. Không đoạn sinh tử mà tiến vào pháp giới đích thực của Niết-bàn.

Tiếp là mười chín nguyện về cảnh vật-sự việc nhìn thấy: Một là nhìn thấy mọi người tụ tập, nghĩa là mọi người tụ tập bàn tán nhiều điều vô nghĩa, mà nguyện thuyết giảng về pháp sâu xa, tâm mọi người thay đổi trái ngược mà khiến cho hòa hợp. Hai là trụ lớn, bản kinh xưa nói là cây lớn, tiếng Phạn nói là Tát-đảm-bà (Thanh khứ nói nhẹ), Trung Hoa nói là Thụ; Tát-đảm-bà (Thanh nhập nói nặng), Trung Hoa nói là Trụ. Do hai vật này âm đọc lạm xen với nhau, xưa nay phiên dịch khác nhau. Trụ có công năng gánh vác vật nặng, một ngôi nhà nhờ đó mà đứng vững, vượt qua điều này nguyện lìa xa tranh cãi về chủ thể của Ngã, căm hờn do đâu mà phát sinh? Ba đức giống như rừng cây rậm rạp cao vút đáng cung kính. Mười một là Bi Trạch (ao đầm), nơi chứa nước gọi là Bi, không tụ tập các dòng chảy mà nguyện cùng một vị. Mười hai là Thuyết Văn, chọc thủng đất nối thông với nước gọi là hồ, Chiểu tức là hồ nước; chọn lấy đầy tràn mà dẫn dắt dòng chảy của giáo pháp, cũng có thể khéo léo suy nghĩ xuyên suốt mà có thể có thuyết giảng. Mười ba là Cấp (múc nước), tức là chọn lấy, biện tài thuyết giảng giáo pháp giống như dây gàu múc nước để dùng. Rừng vô ưu là nơi quên hết ưu phiền.

Sau từ “Kiến nghiêm sức…” trở xuống có hai mươi bốn nguyện, nói về người-vật đã gặp: Nguyện sáu nói đạt được Trí căn bản diệt trừ các khổ, là nếu đạt được Trí căn bản vô phân biệt của Kiến đạo, thì đoạn trừ Vô minh-nghiệp của đường ác; khổ của ba đường ác đã diệt trừ, thì ba khổ-tám khổ cũng đều diệt theo. Tử và Thủ uẩn, thẳng đến Trí căn bản sau Kim Cang, thì có thể vĩnh viễn đoạn trừ. Nguyện bảy là tiến vào Tuệ chân thật vĩnh viễn không có bệnh làm cho buồn phiền, ở đây có hai loại: 1- Dựa theo Tuệ của Kiến đạo tiến vào chân thật, đoạn trừ khổ não của thân bệnh và bệnh của phiền não, nghĩa là các phẩm phiền não của tất cả các nẽo ác, vốn có thô nặng là do phân biệt khởi lên, cũng là nhân xa của thân bệnh, đến trong phần vị Kiến đạo chân thật của Địa Hoan Hỷ, một sát-na đoạn trừ, lập tức chứng được Chân Như thuộc bốn Đế của ba cõi, thân bệnh và phiền não vĩnh viễn không còn phát sinh. 2- Dựa theo Tuệ thuộc tâm Kim Cang lập tức đoạn trừ tất cả các bệnh phiền não và tập khí tùy miên, chứng được Thắng nghĩa chân thật viên mãn đến cùng, các phiền não vĩnh viễn không còn. Dựa vào cách giải thích trên thì Tuệ chân thật tức là Trí căn bản, nhưng dựa theo phiền não-khổ đã diệt trừ thì không giống nhau mà thôi. Nguyện tám là bốn Đại trái ngược nhau mà thành bệnh, nhận biết về Không thì vĩnh viễn không có gì trái ngược. Đối với Phật Bồ-tát có thể nhận biết về ân đức, bởi vì chư Phật Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, duyên với tất cả chúng sinh, thực hành những khổ hạnh, làm những việc khó làm, không tiếc gì thân mạng, ứng hiện ở sáu đường tùy theo chúng sinh. Thấy chúng sinh tạo ra nghiệp ác, giống như cắt xẻ thân thể của mình. Đến khi thành tựu Chánh giác thì ẩn kín đức thù thắng ấy, dùng pháp mà người nghèo hèn ưa thích để dạy dỗ thâu nhiếp cứu giúp. Thấy chúng sinh kiêu ngạo phóng túng thì thị hiện dấu tích Niết-bàn, giữ lại những giáo pháp phước đức để cứu giúp tai ách khốn khổ. Vì vậy, từ đầu đến chân, từ sinh đến tử, đều là sự che chở của Phật. Ân đức này sao có thể báo đáp? Nhận được ân nhỏ của người, trong lòng thường mong báo đền to lớn. Người không biết đến ân đức, phần nhiều gặp phải cái chết bất ngờ. Vì vậy kinh nói: “Giả sử đội trên đầu trải qua muôn kiếp, thân làm giường ghế khắp ba ngàn thế giới, nếu không truyền pháp làm lợi ích chúng sinh, thì cuối cùng không có năng lực báo ân.” Vì vậy, chỉ có Tự lợi-Lợi người, đúng như thuyết tu hành, là báo đáp ân đức của Phật mà thôi. Sa-môn, Trung Hoa nói là Chỉ Tức (Chấm dứt), chấm dứt hoàn toàn chỉ riêng Đại Niết-bàn. Giáp trụ của thế gian thuận theo quân xoay vòng, giáp trụ của Tinh tiến-Nhẫn nhục hướng về Vô Sư. Có thể lìa xa năm Tà mới là Chánh mạng, năm Tà: 1- Lừa dối hiện bày lạ lùng; 2- Tự nói công đức của mình; 3- Bói tướng lành dữ; 4- Lớn tiếng hiện bày uy quyền khiến cho người khác kính sợ; 5- Vì người khác mà thuyết pháp. Thực hành năm điều này, nếu vì lợi dưỡng thì đều là Tà mạng. Câu thứ ba gồm chung nguyện xa lìa năm Tà, câu thứ tư chỉ lìa xa một Tà thứ nhất. Quyết đoán sáng suốt mới gọi là Trưởng giả. Giữ gìn chánh pháp của vua mới gọi là Đại thần.

Phần 7: Từ “Nhược kiến thành quách…” trở xuống có hai mươi hai nguyện, nói về nguyện vào lúc đi đến thành ấp khất thực: Đầu là ba nguyện tổng quát về nơi chốn, Vương đô là nơi tụ hội của những người có tài đức, rừng rậm là nơi quy về của mọi đức. Tiếp là ba nguyện nói về lúc vào nhà-chưa vào nhà, là sai biệt về các nhà, vào rồi chỉ là một chứ không có nhiều, như tiến vào Phật thừa thì không có Nhị thừa-Tam thừa. Tiếp là tám nguyện nói về lúc khất thực có được-không được. Tiếp là bảy nguyện nói về lúc có được thức ăn, chính thức thọ thực. Sau cuối là một nguyện nói về thọ thực xong thuyết pháp, cũng bởi vì đáp trả ân tình của thí chủ. Trong đó nói: Cất giữ bảo vệ các căn. Luận Du Già nói: “Khéo léo giữ gìn căn môn.” Kinh Tịnh Danh nói: “Sắc đã nhìn thấy cùng với mù như nhau.” Cho đến nói: “Nhận biết về tướng của các pháp như huyễn ảo.”

Phần 8: Từ “Tùng xá xuất…” trở xuống có năm nguyện, trình bày về nguyện vào lúc trở về tắm rửa trong thời tiết nóng bức-mát mẻ, có thể biết.

Phần 9: Từ “Phúng tụng…” trở xuống có mười nguyện, trình bày về nguyện vào lúc học tập-đọc tụng-kinh hành-lễ bái: Bên phải là bởi vì thuận theo nghĩa, kinh Phổ Diệu quyển thứ 2 cũng nói: “Bồ-tát giáng thần từ hông bên phải.” Bởi vì những công hạnh không có gì trái ngược. Công đức của Phật, nghĩa là Thập Lực… của Như Lai.

Phần 10: Từ “Nhược tẩy túc…” trở xuống có ba nguyện, trình bày về nguyện vào lúc thức-ngủ, nghỉ ngơi: Tất cả trí giác, không những ba đời đều sáng tỏ, mà cũng là thấu hiểu cả mười phương, một ngày từ đầu đến cuối đã như vậy, thời gian còn lại tương tự như vậy.

Phần c: Từ “Phật tử, nhược chư Bồ-tát…” trở xuống là kết luận ca ngợi do nhân ấy mà thành tựu lợi ích, nếu có thể như trên là tâm khéo léo vận dụng. Nếu vận dụng tâm này thì đức bên trong đều tròn vẹn, cho nên bên ngoài không thể nào lay động; bởi vì tâm dạo trong Đại Trí, cho nên trời-người không thể nào lay động; bởi vì tâm thâu nhiếp Đại Bi, cho nên Nhị thừa không thể nào lay động. Không lay động có hai: Một là lúc tu hành, những điều này không thể nào làm cho mê hoặc tán loạn; Hai là không mong mỏi những điều ấy.