ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

 

Phẩm 23: SƯ TỬ HỐNG

Phần 1

  • Nêu mười một việc để giải thích nghĩa Sư tử hống.
  • Sáu câu hỏi Sư tử hống, hỏi về Phật tánh.
  • Đáp câu hỏi thứ nhất.
  • Đáp câu hỏi thứ hai.
  • Đáp câu hỏi thứ ba.
  • Đáp câu hỏi thứ tư.
  • Nói lên chúng sinh không thấy Phật tánh, vì bị vô minh che lấp, lại chưa thể vượt qua con sông mười hai duyên, giống như thỏ, ngựa.
  • Nói về nghĩa nhân quả sâu nặng của mười hai nhân duyên.
  • Nói về Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không đoạn, không thường, người Nhị thừa chẳng thấy được.
  • Nói trí thấy được mười hai nhân duyên có bốn thứ.
  • Nói mười hai nhân duyên tức là Trung đạo Phật tánh.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật đáp câu hỏi thứ ba mươi bốn. Đối với tất cả các pháp đều có tánh yên vui, cúi mong Đấng Đại Tiên phân biệt giảng nói cho chúng con nghe. Về nghĩa của Trường Thọ, Kim Cương, Nhân quả, Năm hạnh và Mười Công Đức đã nói trên, có nhiều đường, nhưng nói chung không ngoài Niết-bàn, nhân quả và Phật tánh.

Nay, nói về tánh, dù danh từ là đồng, nhưng về tướng nhân quả thì khác, nhận thức thì không trái nhau, là như Sư Tử Hống hỏi. Không biết thì trái, là sau Bồ-tát Ca-diếp hỏi.

Đức Phật nói pháp đã lâu, tâm người đã uể oải, nên Đức Thế tôn bảo đại chúng hãy hỏi, mà Sư Tử Hống khéo hỏi về Phật tánh, là lấy người hỏi đặt tên phẩm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây, thứ nhất nói về lý, giáo của kinh, là chánh kinh của kinh. Giáo, lý đã tròn đầy, có công năng diệt ác, sinh thiện. Công dụng của năng lực càng rộng bao la thì càng vượt hơn các kinh điển khác, nên thứ hai là khen rộng. Đã làm lợi ích tốt đẹp như vậy, đâu thể không nương vào kinh này để tu hành, nên thứ ba là nói rộng về năm hạnh mười công đức. Nói về sự do hạnh sinh ra để soi rọi cảnh. Sự tốt đẹp trong cảnh, chỉ là Phật tánh.

Từ đây trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba mươi bốn: “Đối với tất cả các pháp đều có tánh yên vui?”

Nói về ảnh hưởng lẫn nhau của bậc Thánh, biết lúc đáp là ở đây, nhân căn cơ, mà đặt câu hỏi, phát ngôn. Dù đối với Sư Tử Hống, mà ý chỉ của kinh đã được Phật chỉ ra, thật là Phật đáp câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sư tử Hống, Ca-diếp, đồng đáp câu hỏi thứ ba mươi bốn. Trên đã nói về thể của hạnh. Nay, kế là nói về thể đã phát ra duyên của hạnh. Nếu không biết đúng về tánh nhân, quả thì sẽ không thành Trung đạo, nên kế là y theo “Duyên” để nói về hạnh.

Nay, nói rộng về thể tánh của nhân quả, làm sao cho chúng sinh nhận thức mà thực hành để sớm ra khỏi sinh tử.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ ba là đoạn lớn của kinh, nói lại nghĩa Phật tánh. Đại khái có chia ra tám đoạn:

  1. Đặt ra sáu câu hỏi và đáp, để giải thích Phật tánh.
  2. Nói về Trung đạo.
  3. Nói về ràng buộc, giải thoát.
  4. Nói về tu đạo.
  5. Nói về chuyển chướng.
  6. Khuyên.
  7. Nói về không lui sụt.
  8. Khen rộng.

Minh Tuấn xét:

Năm hạnh, mười công đức là nói rộng về hạnh. Từ đây trở xuống, hai phẩm nói rộng về cảnh, đại khái chia ra tám đoạn, không khác với giải thích này.”

“Bấy giờ, Phật bảo tất cả đại chúng” cho đến “Nếu có người nào đến hỏi Ta không thể đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói nhân, quả đều gọi là Phật tánh. Nếu không nói là biết khác thì nhân quả đều mờ mịt, mờ mịt thì sinh nghi ngờ, nghi ngờ thì hữu, vô chưa phân cho nên Phật bảo phải giải quyết tâm nghi ngờ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì sắp nói về cảnh của Phật tánh, nhân quả, nên trước nêu rộng về điều nghi, khuyến khích thưa hỏi.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phát ngộ khác nhau, cơ duyên chẳng phải một. Nay, phải bảo khắp, nói là đạo của mọi người, nêu lâu các pháp môn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại khái phán quyết về lời Sư Tử Hống nói chỉ có mười đoạn:

1. Sư tử Hống có sáu câu hỏi, Đức Phật có sáu câu đáp. Trước lần lượt nói rõ, quyết định về thể tánh của nhân quả. Vì nếu tu đạo, mà tâm không có chỗ y cứ thì hạnh cũng khó tiến bộ, nên trước phải nói về thể tánh của nhân quả, sao cho kim chỉ nam.

2. Khuyến tin: Nếu đối với tánh nhân quả, đối với kẻ có lòng tin chưa quyết định, thì khuyên họ nên nương theo mười hai bộ kinh, y cứ vào ứng thân Phật, quán nhân quả, quán hai nghiệp thân, miệng của Như Lai, do đó mà hiện. Nếu vì chúng sinh, không vì bản thân mình mà Bồ-tát xuất hiện ở đời, thì sẽ biết được trong thiên hạ đã có quả cực kỳ tốt đẹp, đó là lý tất nhiên, giúp cho chúng sinh được tướng và tu nhân để thú hướng.

3. Nói về ràng buộc, giải thoát: Nếu lòng tin không lập đối với tánh chất nhân quả này thì gọi là sự ràng buộc. Ngược lại, nếu yên định đối với lý Đại thừa, sinh lòng tin quyết định, thì gọi là giải thoát.

4. Nói về tu đạo: Nếu muốn từ ràng buộc được giải thoát, thì phải nhờ tu đạo, nên kế sau ràng buộc, giải thoát, là nói có đạo để tu.”

5. Nói về chuyển chướng: Chỉ vì chúng sinh nghe lời nhiệm mầu này, khó được dụng tâm. Nếu không dùng việc gần để khuyến dụ, thì sẽ không được tiếp nhận nhập lý, nên nói rằng: “Phải tu giới thân, tuệ tâm mới chuyển được nghiệp nặng, cảm thọ nghiệp nhẹ ở cõi trời, cõi người. Nếu không như vậy, thì nghiệp nhẹ sẽ lại thọ.

6. Cho nên là nói về khuyến tu. Muốn được lìa bỏ nhanh chóng chướng nặng, thì phải tu đạo. nếu không thực hành như thế, thì sẽ khó được lìa chướng.

7. Nêu ra người có khả năng tu đạo. Chúng sinh đã nghe nói có người tu đạo, nhưng vì chưa biết được phương pháp tu ra sao, nên nay sẽ nói về tướng của phương pháp tu đạo đó.

8. Khen công đức của người tu đạo: Tâm chí của phàm phu cạn hẹp, cho rằng: “Mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo, khổ sở gian nan mà chịu đựng được. Cho nên kế sẽ nói về công đức của người này, nói về hành pháp được vị, không biết mệt nhọc, ở ngay trong cảnh khổ mà vẫn dìu dắt, hóa độ chúng sinh, như vui ba thiền.

9. Khen ngợi kinh: Tự mình không học theo kinh này thì công hạnh sẽ không nhờ đâu mà được thành tựu, có công đức không thể suy nghĩa bàn luận.

10. Khen ngợi câu kinh của Phật: Đức Phật ở ngôi vị chủ hóa độ, có khả năng giúp cho chúng sinh, nhờ pháp được vui, với ân đức của Phật như vậy đâu thể không khen ngợi.”

“Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ-tát” cho đến “Đức Như Lai Đại từ bi đã cho phép.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù Phật không bảo Đại chúng nêu câu hỏi nhưng kế đã đến lúc ban xuống ý chỉ từ bi, Bồ-tát liền nghe và vâng lệnh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại chúng đương thời được tỏ ngộ, phải do Bồ-tát Sư tử Hống, cho nên ứng cơ mà xuất hiện.”

“Phật bảo các đại chúng rằng” cho đến cho nên nay ở trước ta muốn sống lên tiếng rống sư tử. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nếu “Không nói về công đức của người hỏi, thì người nghe sẽ không đến, nên phải khen ngợi trọng hậu. Muốn sư tử Hống: Sư tử là danh hiệu không sợ, chỉ Phật mới có đủ, Bồ-tát Thập địa có đủ ba hạnh, có thể học Phật Hống, đức không cạn cợt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sở dĩ ở trước Phật khen khuyên đại chúng hãy cung kính, cúng dường là vì muốn cho chúng sinh tiếp nhận tỏ ngộ, phát tâm hết lòng kính trọng.”

“Này người thiện nam! Như sư tử đầu đàn, tự biết năng lực của thân mình” cho đến “Có thể rống như sư tử, thật là sư tử đầu đàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu nghĩa rống của Phật. Đầu tiên trí lực của thân là quả, ba hạnh là gốc của thân trí lực. Phật có đủ các đức này, nên có khả năng rống. Bốn chân sư tử là giới, ba hạnh ví dụ cho hang núi. Vẫy đuôi phát ra tiếng rống là phát ra sự nghiệp đại bi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thân là pháp thân. Lực là mười lực. Răng, nanh là công dụng của trí Nhất thiết chủng. Bốn chân là bốn như y túc. An trú trong hang núi là Bốn thiền sâu lắng. Vẫy đuôi phát ra tiếng là Đại từ bi.”

“Sáng sớm, sư tử vừa bước ra khỏi hang, liền vươn vai, nhìn khắp bốn phía, phát ra tiếng rống pháp sư Tăng Lượng nói: Bốn đức này là tướng nói lên lợi ích sắp rống.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ đây trở xuống chính là nói về sự nghiệp ứng hiện ba cõi, hóa độ chúng sinh của Như Lai. Sáng sớm:

Là căn cơ chúng sinh mới phát ngộ. Phó cảm chúng sinh kia, là ra khỏi hang bốn thiền. Thường vươn vai là phát ra ánh sáng, làm rung chuyển mặt đất. Ngáp là nói pháp, nhìn khắp bốn phía: Là dụ cho bốn trí vô ngại.”

“Làm mười một việc, mười một việc ấy là” cho đến “Các voi đầu đàn sợ chạy té phân.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói vì việc lợi ích.”

Này các người thiện nam! “Như loài chồn hoang kia” cho đến “Không bao giờ thể rống lên tiếng rống như sư tử được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu Thanh văn không có tiếng rống của sư tử.”

“Này người thiện nam! Như Lai Đẳng Chánh Giác, trí tuệ là nanh vuốt” cho đến “An trụ trong hang thanh tịnh bốn thiền.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với việc trong hang ở trước.”

“Vì các chúng sinh mà rống như sư tử, phá dẹp quân ma.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ nhất, hiện làm sư tử.”

“Chỉ rõ cho đại chúng biết về mười Lực”:

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ hai, là thử năng lực của thân mình.”

“Mở rộng những việc mà Phật đã làm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ ba, vì chúng sinh mà làm cho trụ xứ thanh tịnh.”

“Vì các tà kiến mà làm chỗ quy y.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ tư, vì bảo cho các sư tử con biết chỗ ở của mình.” “Vỗ về chúng sợ hãi sinh tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ năm, vì làm cho đàn sư tử con không có tâm hoảng sợ.”

“Giác ngộ chúng sinh ngủ say trong vô minh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ sáu, vì làm cho người ngủ được thức giấc.”

“Vì làm cho người gây ra điều ác, sinh tâm ăn năn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ bảy, vì muốn cho các thú buông lung không còn buông lung.”

“Mở ra, tà kiến cho tất cả chúng sinh thấy, làm cho họ biết sáu vị giáo chủ ngoại đạo không phải là tiếng rống sư tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ tám, vì làm cho các thú khác đến nương tựa.”

“Vì phát tâm kiêu hãnh, ngạo mạn của Phú-lan-na… ”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ chín, vì điều phục voi đầu đàn.”

“Vì làm cho người Nhị thừa sinh tâm ăn năn” cho đến “các Bồ-tát, v.v… sinh tâm đại lực.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ mười.”

“Vì làm cho chúng sinh của bốn bộ chánh kiến” cho đến “Bồ-tát bốn bộ chúng không cảm thấy sợ hãi đối với đồ chúng tà kiến.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ thứ mười một.”

“Nên từ hang của Thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh” cho đến “Như Lai thường trụ, không có thay đổi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với bốn ví dụ sau. Nói pháp đã rống, nói nanh vuốt, hợp với nghĩa.”

“Này người thiện nam! Các Thanh văn, Duyên giác dù là theo” cho đến “mà cũng không thể làm tiếng rống Sư tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ chồn hoang.”

Nếu“Bồ-tát Thập trụ! tu hành được ba hạnh này, phải biết rằng các Bồ-tát đó có khả năng rống tiếng rống của sư tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với con của sư tử, ba tuổi, chắc chắn có thể rống.”

“Này các người thiện nam! Bồ-tát Sư tử Hống này” cho đến “Cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu thí dụ, tổng kiết, khuyên cung kính.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Sư tử Hống” cho đến “Nếu ông muốn hỏi, nay hãy tùy ý.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khen ngợi đã xong, khuyên hỏi lại.”

Đại Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Đây là “Hỏi về thể của Phật tánh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ nhất là hỏi về thể của Phật tánh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Gồm có sáu câu hỏi, ba câu hỏi trước là hỏi về tánh nhân quả, ba câu hỏi sau là hỏi về nghĩa kiến để chứng minh hữu. Đây là hỏi về tánh quả, quả là tông chỉ cùng cực. Cho nên phải nói là hỏi trước, lời đáp sau đây là để biết rõ về thần tuệ. Thể tướng không thay đổi là tánh, lý thiên chân vốn có ở bên ngoài của muôn hóa. Hạnh đầy soi khắp, mới hội nhập lý này, không lìa thần tuệ mà nói là tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là hỏi về tánh nhân, là nghĩa không thay đổi, có thể được quả, mà trong nhân dùng lý gì mà khen ngợi ư?”

“Vì sao gọi là thường, lạc, ngã, tịnh?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Từ “vì sao cho nên đến đây là câu hỏi thứ hai, đã hỏi về Phật tánh, lấy hạt giống nảy mầm làm nghĩa. Vì nếu sinh diệt, nên hỏi rằng, vì sao lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba, lý do được gọi bốn nghĩa như Thường… ?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hỏi về nhân quả chung.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hỏi riêng về tánh quả, vì sao lại gọi riêng là thường, lạc, ngã, tịnh?”

“Nếu tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Tất cả chúng sinh, đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu Phật tánh không thể dứt được, thì tức là đã có tác dụng của năng lực mà gần gũi ở thể của con người, đáng lý thấy được, vì sao không thấy ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ tư: “Nếu trong thân chắc chắn có Phật tánh, thì vì sao không tự thấy?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu việc thấy để nói về nghĩa hữu, vô.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là hỏi về pháp chướng ngại. Nếu quyết định “có” Phật tánh thì vì sao không thấy?”

“Bồ-tát Thập Trụ trụ trong pháp nào mà không thấy rõ ràng? Đức Phật trụ trong pháp nào mà thấy rõ?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không nghi ngờ Bồ-tát không hiểu rõ, mà là ngờ vực thấy được Phật tánh. Phật tánh tuyệt diệu, phải đầy đủ các điều lành mới thấy. Bồ-tát trụ trong pháp nào mà thấy được Phật tánh ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây có hai câu hỏi, đồng làm sáng tỏ về nghĩa thấy, mà câu hỏi này lại y cứ vào hạnh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi này hỏi về dứt trừ pháp chướng.”

“Bồ-tát Thập trụ dùng mắt nào mà thấy rõ Phật tánh? Đức Phật dùng mắt nào mà thấy rõ?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đã nói là được thấy thì dùng mắt nào để thấy? Là do Phật đáp.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Câu hỏi thứ sáu”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trước, y cứ vào hạnh để nói về thấy, ở đây lại y cứ vào mắt, chính là vì sự khác nhau của nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hỏi vì sao không hiểu rõ. Thập địa dùng mắt nào mà không thấy rõ? Dùng mắt nào trong năm mắt của Phật mà được thấy rõ?”

“Phật bảo: “Này người thiện nam! Lành thay ! lành thay!” cho đến “Chư Phật, Thế tôn dùng mắt nào để thấy?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa phước đức, trí tuệ có ngắn, dài. Vì sao? Vì nói về kẻ gây ra tội, thì từ tình là dễ, còn tu phước là trái với tâm là khó. Khó thì tự mình cố gắng mới thành, còn dễ thì không thực hành mà tự khởi, vì khổ dứt thì vui sinh, nghĩa là phước do được không mất là đức, qua đó người hiểu rõ chân, được gọi tên riêng là tuệ, là do địa Vô học đều được đủ cả hai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước, sau đều khen, vì lòng người khi phát.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói đủ về sự trang nghiêm này, chính là nhận thức được lý nhân quả này.”

“Bồ-tát Sư tử Hống thưa: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Thế nào gọi là phước đức trang nghiêm?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói về tướng của phước đức ấy, nên nêu câu hỏi để phát khởi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thỉnh Phật giải thích ý chỉ, để nêu câu hỏi sau.”

“Này người thiện nam! Tuệ trang nghiêm” cho đến “Cho đến Bátnhã, chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi địa là hạnh, đều dùng lý giải để gọi, đều là tuệ, phàm phu chấp tướng phước, không thể vượt qua sinh tử, chẳng phải phước, cho đến chẳng phải Bát-nhã.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây, có ba lớp giải thích: Đây là lớp thứ nhất, vì Thập trụ trở xuống là phước, Thập trụ trở lên là trí tuệ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất, từ Sơ địa đến Thập địa, lấy quên tướng trong “Duyên”, chánh quán vô lậu “Không” giải làm tuệ trang nghiêm. Lấy trí quán của Thập địa làm phước đức trang nghiêm, chính là song yếu, là từ nghĩa mà phán quyết.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Tuệ trang nghiêm là” cho đến “Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Cửu trụ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hàng Thanh văn đến Cửu địa có chướng nặng” cho đến “Chưa dứt hết, ít thấy Phật tánh, nên không được gọi là tuệ. Trên là nói phàm phu, ở đây nói bậc Thánh.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Phước đức trang nghiêm” cho đến “Không có quả báo vô vi, vô ngại, thường trụ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Học pháp là phước đức, Vô học là trí tuệ.”

“Này người thiện nam! Nay, ông đã có đủ hai pháp trang nghiêm này” cho đến “Phật cũng có đủ hai thứ trang nghiêm này, nên có khả năng giải đáp những nghĩa ấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kiết hai pháp trang nghiêm, bắt đầu hỏi đáp.”

“Đại Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng:” cho đến “Một thứ, hai thứ là tướng phàm phu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói duyên “Có” gọi là phước đức, là pháp của phàm phu. Nếu thế thì không có hai trong các pháp, đủ cả hai, không nên hỏi, huống chi là đáp được ư?”

Phật bảo:“Này người thiện nam! Nếu có Bồ-tát” cho đến “Thì có thể hiểu biết một thứ, hai thứ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có thể biết một thứ, hai thứ: Một là Niết-bàn, hai là sinh tử, đều y theo hai thứ khác nhau trong cái “Có”, mới thấy rằng, chẳng nên nói “Có” đều là điên đảo.”

“Nếu nói các pháp không có một, hai” cho đến tất cả các pháp không có một, không có hai.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nói hữu vô đều là thế đế khác nhau.

Này người thiện nam! Nếu nói một hai cho đến. “Người có đủ hai thứ trang nghiêm thì mới có khả năng hỏi, có khả năng đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu chẳng thấy thường, chẳng thấy vô thường.”

“Này người Thiện nam! Ông hỏi: “Thế nào là Phật tánh?” cho đến “Ta sẽ phân biệt, giải thích cho ông hiểu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ đáp câu hỏi, trước hết là Đức

Phật nêu câu hỏi, nhằm khuyên răn hãy khéo lắng nghe.”

“Này người thiện nam! Phật tánh gọi là Bậc nhất nghĩa không.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đây là đáp câu hỏi về thể của Phật tánh. Phải trước, thấy bất không, sau đó thấy “Không”, thì mới là Bậc nhất nghĩa “Không”, bậc nhất nghĩa vì đã có bất không, chỉ có Phật mới thấy, cho nên chỉ có Phật là Phật tánh. Bồ-tát Thập trụ cũng được gọi là thấy, dưới đến người học Đại thừa cũng được gọi. Sở dĩ nêu “Bậc nhất nghĩa” “Không” là Phật tánh vì so sánh nghĩa thì đồng, mà bao gồm học dưới, nhằm tiến đến môn đồ sau này, không câu nệ nghĩa thường, mà đều là thường, tất nhiên, đáp được những câu hỏi về không sợ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cảnh của trí Phật là tánh nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phật đáp câu hỏi đầu. Trước là hỏi về quả. Nay đáp: “Do biết rõ là Phật, không thay đổi, gọi “Tánh”, là Bậc nhất nghĩa Không. Nêu cảnh để nói về dụng của Quả trí. Cảnh dưới chỉ là thường do vô thường. Vì Thường là pháp cùng cực trong Lý, nên gọi là Bậc nhất nghĩa “Không”, nghĩa là Kim cương, vì thể này là khổ, tập, vì không tránh khỏi trạng thái hư hoại, nên có thể không.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ nhất có hai ý, đáp ở đây cũng có hai phần. Vả lại, trước nêu ra tánh của quả, quả Phật “Như như”, dùng pháp tánh làm thể, không có tất cả tướng, vì vượt ngoài “Trăm phi” nên gọi là “Bậc nhất nghĩa không”.

“Bậc nhất nghĩa “Không” gọi là trí tuệ.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không thấy cả hai thì không gọi là trí tuệ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trí chiếu cảnh của Phật là tánh của quả. Sở dĩ nêu cả Cảnh, Trí là vì Trí lấy chiếu cảnh làm năng. Nếu cảnh không sâu, thì sẽ không do đâu để làm sáng tỏ công năng của trí. Nếu trí soi không sáng suốt thì sẽ không do đâu để nói lên chỗ sâu sắc của cảnh. Do đó, phải do cảnh và trí phát khởi lẫn nhau, thì công dụng của trí mới tỏ bày.

Nghĩa bậc nhất là Niết-bàn. Niết-bàn chân, tục đều là thật, gọi chung là Bậc nhất nghĩa. “Không” là sinh tử. Sinh tử là tục, đều luống dối, gọi chung là “Không”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đã nêu Cảnh, nay nói khéo biết Bậc nhất và “Không” thì gọi là trí tuệ năng chiếu của quả Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã hiểu rõ tánh của quả, giờ đây trước là nêu thể để lấy trí. Nếu không y theo dụng để giải thích thể, thì không lấy gì để nói lên sự khác nhau của tánh nhân quả, nên nói về các đức của quả Phật, chỉ lấy Bậc nhất nghĩa “Không” làm thể.”

“Nói không là chẳng thấp không và bất không.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Lấy riêng câu trước thì chẳng phải nghĩa bậc nhất.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích cảnh không, sinh tử lấy si mê làm gốc, vì không thấy biết!”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phân biệt với người Nhị thừa. Người Nhị thừa vào lúc vô sinh bình đẳng, cũng được gọi là bậc nhất, là lạm dụng lẫn nhau, cho nên phải lựa chọn, nghĩa là người Nhị thừa đều chẳng thấy “Không” và bất “Không”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thể của quả Phật tròn đầy, kiến giải Trung đạo rốt ráo, bấy giờ không còn thấy “Không” và bất không là khác nhau. Nhưng nhất tướng là vô tướng, không và bất không chẳng thể khác nhau. Cho nên nói chỉ có người trí mới thấy không và bất không. Giải thích sáu hạnh đều như thế.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói thấy cả hai.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghĩa bậc nhất của Cảnh.

Niết-bàn lấy trí làm chính. Vì dứt trừ điên đảo, cho nên bất không.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nhận thức cả hai lý, gọi là Phật, Bồ-tát.”

“Không, là tất cả sinh tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Giải thích lại về “Không”.

Sinh tử thật ra là vô tánh. Tục thì vô thường, nên gọi là không.”

“Bất không” là Đại Niết-bàn” cho đến “Ngã” là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích lại Bậc nhất nghĩa.” Niếtbàn thật cũng vô tánh, vì tục thì thường trụ, nên gọi là bất không.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giáo xưa nói Thế đế là “Có”, do nghĩa đế Bậc nhất là vô. Nay nói sinh tử là hư giả, không vô tự thể, nên gọi là “Không”. Niết-bàn là chân thật “Diệu hữu”, nên gọi “Bất không” vì thế một nhà giải thích: Hai thời sinh tử là “Không có”, Niết-bàn cũng có hai thời bất vô. Vì sao? Vì ngày câu kiết nhân, ngay thể là luống dối và đến quán giải, soi rọi không có một thứ nào là thật, nên tìm kiếm cả hai thời suy tìm đều không có tự tánh, đều là điên đảo giả có. Hiện nay, thần giải của chúng sinh do thời đã có, do tu đạo mà dứt trừ, tục hết thì chân hiện, cả hai thời đều bất không, nên gọi Niết-bàn là Bất không, sinh tử là không.”

“Thấy tất cả không, bất không là bất không” cho đến “Không thấy ngã, không gọi Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thấy không nghiêng lệch, là thể của Phật tánh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích trí Phật, trước nói về cái thấy nghiêng lệch, nghĩa là chẳng phải Phật dùng đúng, sai, để nói lên cái đúng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói về mặt lý thì đâu có người nào không biết? Nói theo giáo thì chỉ một bề hiểu về “không”, vì hiểu nghiêng lệch, nên không gọi là Trung đạo.”

“Trung đạo gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu cái thấy không nghiêng lệch, để nói lên sự chiếu soi cùng khắp, nên gọi là Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ cho tánh của quả địa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật tánh của quả Phật, mới là hiểu lý Trung đạo.”

“Do nghĩa này, nên Phật tánh thường hằng, không thay đổi.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không nghiêng lệch thì đều là chân.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kiết trí cho nên là Phật. Chiếu khắp thì “Hoặc” hết, hoặc đã hết, thì không có thay đổi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tức là thể tánh của quả. Trước đã nói “thấy tất cả là không, chẳng thấy bất không, chẳng gọi Trung đạo.” Sau đây là nêu Nhị thừa không thấy để đối lại.”

“Vì bị vô minh che khuất, nên làm cho các chúng sinh không thể thấy được.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Chẳng thể do không thấy là vô thường.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba. Cảnh giới là thường có, vì vô minh che lấp nên không thấy.”

“Thanh văn, Duyên giác thấy tất cả là không” cho đến “Vì không có Trung đạo, nên chẳng thấy Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Rõ ràng là người không thấy, vì không thấy Cảnh, nên trí cũng đều mất.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quán đạo của ba thừa nghiêng lệch không thấy Bậc nhất nghĩa “Không”, nên không thực hành Trung đạo.

Hạnh Trung đạo đã không thành, thì làm sao thấy được Phật tánh ư?”

“Này người thiện nam! Người thấy Trung đạo” cho đến “Hai là hạnh Định lạc, ba là hạnh Khổ lạc.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ba hạng đều được cho là đã thấy Trung đạo. Người có chân kiến, tự phân biệt rõ ràng.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về tánh của chánh nhân, duyên nhân. Phàm phu, Nhị thừa, ngay nơi tình là thấy, chẳng phải thấy. Nói nhân có chánh, tà, cũng có xa, gần, do ba loại khác nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi thứ hai. Trong phần đáp, thông thường có ba thứ: Một là nói về chánh nhân; hai là nói về “Duyên” nhân; ba là nói về nhân của cảnh giới.

Câu hỏi ở trước rằng: “Sinh tử vô thường, vì sao cũng gọi là tánh?”

Nay trước gồm ba hạng người ở nhân địa. Thần minh ở đây cùng tận. Do họ có nghĩa chánh nhân, cho nên có lý thành Phật, chẳng phải gỗ, đá! Trong nhân nói quả, cũng gọi là tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ hai, là lại nêu ra thể của tánh hai nhân: Duyên nhân và Chánh nhân. Nay, Đức Phật nêu ra ba thứ Trung đạo:

1. Hạnh Định lạc.

2. Hạnh Định khổ.

3. Hạnh Khổ lạc. Rằng: “Ba người này đều gọi là thấy Trung đạo, nên Bồ-tát, người ở hạnh Định lạc, hiểu gọi là hai đế chân tục, cuối cùng dứt khổ, được vui, cứu giúp sáu đường, hạnh nhân duyên thành tựu, được chánh vị, mà phàm phu sống trong khổ, tâm không có nhàm chán, làm sao thấy Trung đạo ư? cho nên một nhà giải thích rằng: “Nói về Trung đạo có hai đường: Tự có Trung đạo trong hai đế và tự có Trung đạo trong lý. Hiểu biết Trung đạo trong hai đế tức là tánh duyên nhân. Trung đạo trong lý, tức là tất cả chúng sinh đều muốn tránh khổ tìm vui, là hiểu Phật tánh của chánh nhân. Nghĩa Trung đạo vốn là tâm xứng lý, nhưng người có thần thức, chẳng có sát-na nào mà trong tâm không có kiến giải này. Khổ trong thiên hạ thật ra có thể tránh, vui thật ra có thể mong cầu. Đã có sự dụng tâm, chẳng lẽ không phải Trung đạo ư? Nếu khổ không thể tránh, mà gắng gượng nhàm chán thì vui không thể được, mà muốn gắng gượng mong cầu thì điều này trái với lý Đại thừa, sao lại không phải là kiến giải, chỉ vì kiến giải này là dụng trong cảnh, chứ không phải cái biết để tạo ra duyên, cũng chẳng phải nhân của thiện, ác mà sinh ra, hoặc nhân của thiện mà sinh? Chỉ lẽ ra “Có” trong cõi trời, người, ba đường lẽ ra “Không có”, nếu nhân của điều ác mà sinh thì lẽ ra ba đường có riêng, trời, người lẽ ra “Không có”, mà nay, bất luận sáu đường trời, người, vì không có một sát-na thì sẽ không có được kiến giải này, nên biết kiến giải này chính là dụng khác của diệu bổn, không có tâm thay đổi. Cho nên kinh Thắng Man chép: “Xuất hiện Như Lai tạng với tự tánh thanh tịnh tâm, thầm lãnh hội ý chỉ này”. Nhưng, mỗi kinh đều y theo sự sâu kín, về lý tự sáng tỏ.”

Hạnh Khổ lạc,là các Thanh văn, Duyên giác, người Nhị thừa đều chẳng phải không nhàm chán, vì ý cầu xuất thế, nên gọi là vui. Chấp chặt ở tâm, không khỏi sinh tử, nên gọi là khổ, chỉ hiểu Trung đạo trong hai đế không thành, tất cả đều là điều thiện, nên thuộc về “Duyên” nhân, vì tánh của chánh nhân tự phải có như vậy. Ở đây nêu ra ba thứ Trung đạo dùng làm thể của hai nhân. Hai nhân lại đồng dùng chân như làm thể. Nay, chỉ được nói theo dụng.”

“Hạnh Định lạc: Cái gọi là Đại Bồ-tát” cho đến “Địa ngục A-tỳ, như cái vui ở ba thiền.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy Niết-bàn là thường, lạc, biết sinh tử là huyễn hóa, luống dối, vì hóa độ yên ổn, nên cho là khổ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Từ Sơ địa cho đến Thập địa, cứu khổ cho chúng sinh, tâm các Ngài thường vui như vui Cam lộ ở ba thiền.”

“Định khổ hạnh, là nói các phàm phu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không biết vui chân thật, không giác ngộ “Hoặc”, khổ, thường thực hành điên đảo, nhận lầm là đạo.”

“Hạnh Khổ lạc, là nói các Thanh văn, Duyên giác” cho đến “Thực hành khổ vui mà cứ tưởng là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người Nhị thừa so sánh với phàm phu là vui, Bồ-tát mới là khổ. Đối với hai khoảng này, vì về tình cho là đủ, nên nói nghĩ là Trung đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ khổ pháp nhẫn cho đến “Duyên” nhất giác, vì người Nhị thừa không thể ở yên trong sinh tử để hóa độ chúng sinh, nên nói là khổ, vì Nhị thừa đã hiểu được tánh khổ là không, nên vượt hơn phàm phu. Cũng là hóa độ chúng sinh, nên nói là hạnh khổ lạc.”

“Do nghĩa này, nên dù có Phật tánh mà không thể thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kiết Nhị thừa, phàm phu, dù có Phật tánh nhưng không thấy.”

Này người thiện nam! “Như ông hỏi do nghĩa gì?” cho đến “Phật tánh chính là Vô thượng Bồ-đề của tất cả Chư Phật, là hạt giống Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tất cả Chư Phật đều từ Phật sinh ra, vì Đức Phật trước là hạt giống của Đức Phật sau.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói hai tánh nhân quả. Nay, sẽ giải thích lý do được chung hai tánh, là đáp câu hỏi thứ hai.” Tánh có hai nghĩa: Một là chủng loại sinh nhau; hai là giữ phần vị không thay đổi. Nay, nói hạt giống, nghĩa là nói chung về tánh của nhân, cũng chung là hạt giống.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu câu hỏi rồi đáp. Trước đã nói ba thứ tâm có công năng sinh ra công phu của Bồ-đề, nên gọi là tánh, vì chẳng phải quả nên gọi là tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, có hai lớp: Đầu tiên là đáp thẳng lý do của tánh nhân, quả. Kế lại nói về ba người trên. Giải thích lý do có ba ý khác nhau, đây là lớp thứ nhất: Trước nói về quả. Kiến giải về Trung đạo Phật tánh, về mặt lý rất chu toàn, là hạt giống Trung đạo. Kế là, đáp về duyên nhân của chánh nhân, nghĩa hạt giống sẽ được quả. Trước đã nói lý do của tánh nhân quả. Nay, nói về lý do của “duyên” nhân và chánh nhân.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Đạo có ba bậc là Hạ, Thượng, Trung.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước đã nói ba thứ Trung đạo, chỉ lấy thấy cả hai làm thể của Phật tánh, mà vì chính giữa, tất nhiên có thể đi suốt qua nên nói là đạo. Nay, nói về ba đạo, dùng công năng thông suốt của đạo để nói về chân đạo là có.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Giải thích chung hai nhân, hai quả. Bậc hạ là chánh nhân, bậc thượng là “Duyên” nhân, bậc trung là Bồ-tát của thân sau và quả Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đã nói về chánh nhân đã xong. Nay gồm việc lành của nhân địa, là nói về “Duyên” nhân. Phàm phu là phẩm hạ. Nhị thừa là phẩm thượng. Bồ-tát là phẩm trung.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ hai, kế là mở ra hai thứ nhân quả, nhằm nói về người đã thấy Trung đạo nói trên. Nếu chấp Phạm thiên là thường, cho nên những hướng về chắc chắn là hành nhân khổ. Nếu chấp Tam bảo là vô thường thì đây là người tu hành hướng về khổ, vui.

“Phẩm Trung, là người tu hành hướng về niềm vui từ định.”

“Phẩm hạ là Phạm thiên vô thường, thấy lầm là thường.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trái với đạo, chẳng phải thật, gọi là phàm phu. Vì phàm phu nên thuộc về phẩm hạ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng nghĩa chìm đắm ven dòng chảy làm phẩm hạ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã nói chấp lầm, thì đâu được nói là thiện? Nay lấy làm “Duyên” nhân, nghĩa là vì họ chế phục kiết, tu sáu hạnh, nhiếp tâm trong đạo thiền. Đây chẳng phải đạo cao siêu, phải có nghĩa thiện. Vì thế chẳng thể không lấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phàm phu hoàn toàn ở trong cảnh khổ, chỉ có chánh nhân.”

“Phẩm thượng là sinh tử vô thường” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trái với chân, nếu là thật thì sự sinh tử quả là không có gì trên, vì nghĩa của nó được gọi là bậc thượng.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người Nhị thừa vì không nhận thấy quả vị Phật là thường, nên đối với sinh tử vô thường không thể bị lầm. Hiểu rõ sai là đúng nghĩa là chấp sinh tử là thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là giải thích về người Nhị thừa. Nhận lầm là thường. Họ đã hết chánh sử, chỉ còn tập khí. Nói theo giáo thì Nhị thừa vẫn còn thói quen của tám điên đảo, như trong ba tu đã nói. Nay không lấy nghĩa tập khí làm “Duyên” nhân, mà chính là lấy thiện vô lậu làm “Duyên” nhân. Phẩm thượng, là hai địa vị Phàm, Thánh. Phàm là phẩm hạ, thì Thánh này phải nói là phẩm thượng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hạnh Nhị thừa không được Trung đạo, nhưng chẳng phải không có tánh “Duyên” nhân. Nếu họ thay đổi chấp nhân thì sẽ được quả bậc thượng.”

“Bậc trung được gọi là Bậc nhất nghĩa “Không”, bậc này cho vô thường là vô thường, thường cho là thường.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người không có được nghĩa “Không” Bậc nhất nên chẳng gọi là phẩm hạ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy được lỗi lầm của ba cõi, thấy Niết-bàn là thường, vì không đến, nên ngược dòng là phẩm thượng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát biết nghĩa “Không” Bậc nhất cho nên nói là phẩm trung, vì lìa bậc hạ của phàm phu, nên không phải là bậc thượng của Nhị thừa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích về người tu hành vui từ định nói trên. Bồ-tát đã nhận hiểu một cách xứng đáng, cuối cùng dùng nghĩa “Không” Bậc nhất này làm thể.”

“Nghĩa “Không” Bậc nhất chẳng gọi là bậc hạ. Vì sao? Vì đây là pháp mà tất cả phàm phu đều không được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu vì xuôi theo dòng chảy, là bậc hạ cho nên không được. Đối với phàm, không gọi là bậc thượng, chứng tỏ chẳng phải bậc hạ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về Nhị thừa không thể lãnh hội được Bậc nhất nghĩa “Không” này, nên chẳng gọi là Trung đạo. Nếu phát kiến giải chân thật thì mới được Bồ-đề Vô thượng. Phàm phu vì không thể được, nên không gọi là bậc hạ.”

“Không gọi là bậc thượng. Vì sao? Vì chính đây là thượng.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đạo trên không phải trên, từ ý là trên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì ngược dòng lên tận nguồn, nên gọi là bậc thượng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã vượt khỏi hai lớp, chẳng khác với Phật, cũng có nghĩa là được bậc thượng, vì hiểu Trung đạo, nên gọi là bậc trung.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ Sơ địa trở lên, có kiến giải đương phần, không khác với giải của Phật, chỉ khác ở chỗ chưa đầy đủ. Người Nhị thừa chưa có kiến giải này, đâu được đồng gọi là bậc thượng?

“Đạo mà Chư Phật, Bồ-tát tu hành, không trên, không dưới, nên gọi là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bậc nhất nghĩa “Không” chỉ có Đức Phật mới thấy. Nay, gồm lấy bậc Bồ-tát, vì thân sau cùng của Bồtát ít thấy Phật tánh, đến Cửu địa mới gọi là người thấy Trung đạo.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Bờ mé sinh tử” cho đến “Khổ sinh, già, bệnh, chết, đó gọi là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ngay sinh tử là Trung đạo: là nói về bản hữu (sẳn có).”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là nhân của cảnh giới, chỉ nói sinh tử, không nói Niết-bàn là khác. Vô minh là gốc khổ hiện tại. Ái là gốc khổ vị lai. Nói về khổ hai đời, lấy “Hoặc” làm gốc, đủ tất cả “Không”, đó gọi là Trung đạo, ba thứ là Trung đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây sẽ giải thích về tánh cảnh giới. Ý theo đây, có tám lượt nói về nghĩa. Sau đây là lượt thứ nhất, tức là đáp câu hỏi thứ ba.”

Lược nêu nhân của hai đời, mà trong đời quá khứ chỉ lấy vô minh, trong đời hiện tại chỉ lấy hữu, ái. Vô minh là bờ mé của hiện tại, hữu ái là bờ mé của vị lai. Nhân quả này tức là Trung đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba, trước giải thích chúng sinh, cho nên không thể thấy ý Trung đạo, chính vì vô minh, hữu, ái, nên sống chết không dứt, đó là gọi Trung đạo; gọi là mười hai nhân duyên.”

“Trung đạo này có công năng phá tan sinh tử, nên gọi là Trung.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đạo nghiêng lệch thì không thể phá bệnh. Đạo không nghiêng lệch, thì phá được bệnh. Vì phá bệnh nên gọi là trung.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cảnh này sinh trí, vì trí có công năng đã phá, nên gọi là phá.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu quán được mười hai nhân duyên sinh, hiểu biết hợp lý, thì sẽ phá được sinh tử.”

“Do nghĩa này, nên pháp của Trung đạo gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trí Trung đạo là Phật. Đạo là nhân của trí, nên nói nhân là tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã chiếu soi đúng như lý nhân duyên, phát sinh kiến giải Trung đạo, thì được gọi là Phật tánh của “Duyên” nhân.”

“Cho nên Phật tánh là thường, lạc, ngã, tịnh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vốn có hạt giống sẳn có sinh, không gọi là khởi diệt, là do thường, lạc vô vi.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trung đạo là thường, nên Phật tánh thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói Lý tánh là thường, chúng sinh bị “Hoặc” che lấp, nên chẳng được dụng thường. Dù chưa được dụng thường, nhưng chủ yếu là ở nhân thường. Kế là câu này, có thể dùng nghĩa để đáp câu hỏi thứ ba.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trí chiếu soi đã tận cùng cội nguồn, khổ sinh tử đã hết, nên nói là Thường.”

“Do các chúng sinh, không thể thấy Phật tánh” cho đến “Không có thường, không có lạc, không có ngã, không có tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì không thấy ba thứ Trung đạo, nên là vô thường.”

“Này người thiện nam! Ví như người nghèo, trong nhà có kho báu” cho đến “Người này liền được thường, lạc, ngã, tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có” mà không thấy làm thí dụ.”

“Cũng vậy, vì chúng sinh không thấy Phật tánh” cho đến “nhờ thấy Phật tánh, nên chúng sinh liền được thường, lạc, ngã, tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với thí dụ. Nghĩa đồng với ví dụ nghiệp lành.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích ý chỉ cũng không khác với ý chỉ trong phẩm Phật tánh ở trên. Đây là đáp câu hỏi thứ ba đã xong.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Chúng sinh khởi kiến” cho đến “Trí quán như thế, được gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Mười hai nhân duyên là Trung đạo.

Nói chúng sinh là sẳn có. Nếu thường thì lẽ ra không có khổ, nếu dứt thì không có lý thành Phật. Người quán Trung đạo như thế, thì sẽ thấy được Phật tánh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói cảnh giới. Ở đây nói người trí duyên nhân. Trí có công năng dứt “Bỏ” hoặc đoạn, thường, không có lỗi nhận lầm đoạn, thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ hai, nói mất kiến giải, thì đoạn, thường, được kiến giải thì không đoạn, không thường, cho nên dùng “Hoặc” để nói về thể của quán.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở trên đã đáp ba câu hỏi xong. Đoạn văn này còn có ý gì nên nêu ra giải thích của một nhà: “Gồm có hai nghĩa: Một là nói chung về chúng sinh vì không biết được bệnh nhân duyên; hai là vì nhất định tánh nhân quả có sự tồn tại. Ý ấy thế nào? Chúng sinh đã tức thân có Phật tánh, cho nên không được sử dụng, là vì không thể nhập vô vi hữu vi nên khởi lên bệnh thường…, vì hiểu lầm trong tâm, nên không thể được thường, lạc, ngã, tịnh này. Trên đây, đã nói về tánh nhân quả này, là vì không lìa mười hai nhân duyên làm cho hưu tình biết được lý, không thể tìm kiếm pháp nào ngoài nhân quả này. Chính vì có hai ý trên đây, nên kế là sẽ nói về lý này. Ý chỉ của Đại thừa là như vậy.”

Lại, y theo văn này, lược chia ra có chín ý:

1. Trước là nói về quán mười hai nhân duyên được kiết quả hay không. Nếu trước an định lý pháp tánh vô vi, lìa đoạn, thường, thì hợp với cảnh, mà biết được Phật tánh thành “Duyên” nhân. Nếu phải duyên cảnh mà không thích hợp với cảnh, không yên định vô vi, chấp đoạn, thường thì sẽ trái với hạnh Trung đạo.

2. Chính là triển khai nhân năng, quả nặng, định ra tánh nhân quả, nói nhân quả này đều không lìa mười hai nhân duyên.

3. Chính là nói thoát ra thể tướng của tánh nhân quả.

4. Phán quyết phần vị của tánh nhân quả.

5. Khen lý tánh nhân quả rất sâu của mười hai nhân duyên.

6. Nói dù chúng sinh chung với mười hai nhân duyên này, nhưng không hay không biết, chỉ có Bồ-tát Thập trụ và Phật mới có khả năng soi sáng cùng tận lý sâu mầu này, nên mới thấy rõ về nhân duyên từ trước đến sau.

7. Nói người tu hành với trí quán sâu sắc cùng cực, cắt đứt nhân duyên nối nhau của sinh tử, dứt hết quán luống dối, tức là quán suốt pháp tánh, tức dùng pháp sâu này làm thể, thì được thành linh giác.

8. Nói về trí quán nhân duyên có tầng bậc, sinh kiến giải có cạn, sâu.

9. Gồm thâu câu kiết.

Nay, từ câu “Chúng sinh khởi kiến v.v…trở xuống, là mở đầu cho ý thứ nhất. Phàm phu chính là khởi chấp đoạn thường, trái với đạo sinh diệt. Không biết pháp tướng, vì tâm vận hành ngoài lý, nên không gọi là Trung đạo. Không có thường, không có đoạn, mới gọi là Trung đạo, nghĩa là nếu nói theo bên sinh tử, nói theo đạo lý sinh, diệt của thức thì e rằng ý này không đúng! Vì sao? Vì cái “Có” luống dối của thế đế, tức thể như huyễn, cuối cùng trở về diệt vô, đâu có bất đoạn, bất thường, chỉ có diệu thể của thần minh? Pháp tánh vô vi, mới được gọi bất đoạn, bất thường, tâm “Duyên” được lý này, không chấp tướng hữu, vô mới được gọi là Trung đạo. Đã xứng với lý giải này, tức là biết nhân duyên luống dối, trí quán chiếu sinh ra, gọi là Phật tánh “Duyên” nhân. Nếu hiểu được như thế, thì gọi là được pháp.”

“Người Nhị thừa dù quán nhân duyên nhưng vẫn không được gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Diệt sinh tử gọi là Niết-bàn. Nếu nói rằng không thấy, thì đâu thể được vô? Vì có nghĩa “Được”, nên lấy “Không được” làm tên, huống chi là người không quán ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về không quán của Nhị thừa chưa dứt trừ đoạn thường thì không được gọi là thắng nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ ba, do người Nhị thừa được lý không sâu, cho nên không thể thấy được .”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tánh nhân quả là thường, vì bị vô minh che lấp cho nên không thấy.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hiểu Trung đạo trong hai đế đã không thành, thì làm sao không thấy Phật tánh ư?”

“Phật tánh dù là thường, nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp, cho nên không thấy.”

“Lại, chưa thể lội qua sông mười hai nhân duyên, giống như thỏ ngựa. Vì sao? Vì không thấy Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Như thỏ, ngựa là phép quán của Nhị thừa. Thỏ, ngựa lội qua sông, chân không được tới, huống chi chúng sinh bị vô minh che lấp, nên không thấy lý.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói quán cạn thấp. Vì không thấy nhân duyên bắt đầu, nên không dứt chấp thường. Vì không thấy nhân duyên cuối cùng, nên không dứt đoạn kiến.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai là nói ba thừa đồng quán vô sinh, chỉ thấy lý khác nhau, có khác ở chỗ sâu, cạn. Mượn thỏ, ngựa lội qua sông làm thí dụ.”

“Này người thiện nam! Trí tuệ quán mười hai nhân duyên này” cho đến “Mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tánh của mười hai nhân duyên sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trí tuệ này ở trên hai lý hữu vi, vô vi, sinh ra tánh của “Duyên” nhân, dùng trí quán nhân duyên, gọi là tánh của duyên nhân, mà hiểu thể là tránh khổ, tìm vui, gọi là tánh của chánh nhân, hai thứ đều làm rõ cả hai.”

“Này người thiện nam! Vì như rau Hồ Cô, gọi là bệnh nóng” cho đến “Mười hai nhân duyên cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ở trước nói về trí quán mười hai nhân duyên, lúc bao gồm nhân, gọi là Phật tánh, nên lấy rau Hồ cô làm thí dụ. Thật sự thấy nhân duyên, sau đó quả mới thành, chẳng phải ví dụ kia.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói nhân là hạt giống, đây là chủng tánh sinh nhau. Nay nói hạt giống là tánh, là trong nhân nói quả, cho nên là khác.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì hai nhân trên làm thí dụ. Dù rằng chẳng phải Phật, nhưng vì có khả năng được quả Phật, nên gọi là Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Phật tánh có nhân, có nhân nhân, có quả, có quả quả.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Hướng về Phật tánh gọi là trung, có nhân, có quả nên nay nói nhân quả có lệ thuộc.

Ngài Tăng Lượng nói: “Ở trên nói việc nhân quả đã xong, đều là hội nhập tông chỉ trên, chia “Không” thành hai nhân, chia quả thứ nhất thành hai quả, để nói nhân quả nối nhau, không lìa nhân duyên, đều không có tự tánh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư là có nhân”, nghĩa là mười hai nhân duyên làm tác nhân cho trí. “Nhân nhân”: Tức là trí tuệ, trí này là tác nhân của Bồ-đề. Bồ-đề là tác nhân của Niết-bàn. Đây là nhân của nhà nhân, nên nói là nhân nhân.”

Có quả, có quả quả: Bồ-đề là quả, mà Niết-bàn lại là quả của nhà Bồ-đề.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ hai, chính là quyết định tánh nhân

quả. Nói về tánh nhân quả này, tức dùng mười hai nhân duyên làm thể. Có nhân, là chánh nhân. Nói về lý, nên lấy chánh nhân làm nhân nhân, vì “Chánh” là nhân của nhân duyên. Nay, chỉ vì tánh của chánh nhân, nên Phật không thay đổi, ngay phần vị nhân mà nói là nhân. Nhân nhân: Duyên tánh nhân vì có dời đổi không cố định, nên gọi là nhân nặng. Quả, là Bồ-đề. Chủng trí là quả của muôn hạnh, nên được gọi là quả. Niết-bàn đối với sinh tử được tên gọi. Đây là lập quả ở trên quả, nên nói là quả của quả.”

“Có nhân, tức mười hai nhân duyên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì mười hai nhân duyên có công năng sinh ra trí quán, nên gọi là nhân.” “Nhân của nhân” tức là trí tuệ.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trí hiểu biết mười hai nhân duyên là Phật tánh của nhân. Nay, chia làm hai, vì lý do giải thích được, từ lý nên thành quả Phật, lý là nhân Phật. Giải” đã được lý, “Giải” là nhân của lý, đây gọi là nhân của nhân.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trí quán là nhân của Niết-bàn,, vì trí Bồ-đề là trí quán của Niết-bàn. Vì là Bồ-đề, cho nên không làm nhân nhân cho Bồ-đề, nghĩa là vì muốn trải khắp bốn pháp.” “Có quả” tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-đề là quả của trí quán.

“Quả của quả” tức là Vô thượng Đại Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thành Phật, được Đại Niết-bàn là Phật tánh. Nay, cũng chia làm hai: Thành Phật từ lý, cuối cùng là quả. Đã thành được Đại Niết-bàn, về nghĩa ở sau, đây là quả của quả.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niết-bàn là quả của Bồ-đề. Đối với trí quán mà nói, là nghĩa “Quả quả”.

“Này người thiện nam! Ví như vô minh là nhân” cho đến “Thức vừa là quả, vừa là quả quả. Phật tánh cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nhân quả đồng làm thí dụ. Tạo ra nhân quả khác nhau. Hai phần trước là bốn, đây mới là ba, đây là khác nhau.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu mười hai nhân duyên, sinh nhau là giống nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vô minh là tác nhân của hành, nên gọi là nhân. Hành này lại làm tác nhân cho thức. Nếu giống với câu trước, lại lấy hành làm “nhân nhân”: Một là vì từ nhân trước mà sinh; hai là vì làm tác nhân cho thức, nên là nhân nhân, mà câu văn nói vô minh là “Nhân nhân”, lẽ ra cũng dùng mười hai nhân duyên làm “Nhân nhân”.

Như không giống, vì tiêu tức.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Làm nhân quả, lập thí dụ.Y theo ba pháp trên so với nhau, đều có nghĩa “Nhân nhân”, “Quả quả”.”

“Này người thiện nam! Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên” cho đến “Không đến, không đi, chẳng phải nhân, chẳng phải quả.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì duyên sinh chẳng thật, nên không xuất, vì duyên chia lìa phải diệt, nên không thường. Vì trước sau, chẳng phải một, vì không lìa, nên chẳng phải hai. Nghĩa đến đi giống như sinh diệt. Vì chẳng phải tác nhân nên chẳng phải nhân. Vì chẳng phải nhân, nên chẳng phải quả.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không xuất, không diệt, là vì từ duyên nên không, Niết-bàn là không có xuất hiện. Vì không có sinh tử nên bất diệt. Dưới đây, cũng giống như vậy:

“Chẳng phải nhân, chẳng phải quả: Không có trước là nhân, không có sau là quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ năm nêu lý để thành dụng của trí quán Trung đạo. Không xuất, là không nêu ra đến hiện tại. Không diệt: không hoàn toàn đoạn diệt, vì có nghĩa nối nhau sinh ở sau. Không thường tức là không xuất, không đoạn tức là không diệt. “Chẳng phải một”: Vì nhân quả khác nhau. “Chẳng phải khác”: Vì đầu cuối nối nhau thành “Một”. Không đến không đi, nghĩa là không từ vị lai đến hiện tại, cũng không có một vật thể nào đi vào quá khứ. Chẳng phải nhân, chẳng phải quả là chẳng phải khác với nhà nhân chẳng phải nhân khác với nhà quả.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ ba ở trên nói về tánh của nhân, quả không lìa mười hai nhân duyên. Nay, kế là, phát ra thể tướng của nhân quả đó, nói mười hai nhân duyên, chính là dùng chân như, pháp tánh vô tướng, vô vi làm thể. Nếu giáo xưa một bề nói “Không”, thì e rằng Thánh chỉ sẽ không tồn tại. Nếu một bề là “không” thì đâu cần phải khen ngợi. Vì nhân duyên rất sâu, nên biết rằng đã làm rạng rỡ cho giáo nay.”

“Này người thiện nam! Là nhân chẳng phải quả, như Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phật tánh là nghĩa hạt giống sinh, nên là nhân chẳng phải quả.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh của chánh nhân chính là bốn pháp.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là môn nhân quả thứ sáu, là

tánh cảnh giới mười hai nhân duyên.”

“Là quả, chẳng phải nhân, như Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì Niết-bàn là nghĩa rốt ráo, nên chỉ là quả chứ chẳng phải nhân.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không còn quả nữa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Quả báo cùng cực.”

“Vừa là nhân vừa là quả, như pháp do mười hai nhân duyên sinh ra.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trái với lý tạo ra có, đều là nhân duyên sinh, đều là nhân, đều là quả.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là trí quán. Đối với chánh nhân là quả, đối với Bồ-đề là nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dùng trí quán chiếu, có cả nhân, quả.”

“Chẳng phải nhân, chẳng phải quả, gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không từ nhân mà có lại không còn tạo ra.”

“Vì chẳng phải nhân, quả, nên thường hằng không thay đổi.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì tạo ra cái “Có” nên sinh diệt. Vì vốn tự nhiên, nên không sinh diệt.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh của quả Bồ-đề chẳng phải do nhân làm ra, cho nên gọi là Bậc nhất nghĩa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói là Tam-Bồ-đề. Vì chẳng phải nhân, nên chẳng phải nhân. Vì không bị sinh ra, nên không phải là quả. Do không phải là nhân của sinh mà được, cho nên thường hằng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là ý thứ tư, nói về phán quyết phần vị của tánh nhân quả. Là nhân, nghĩa là chánh nhân, chánh nhân chỉ được ở phần vị nhân, không được gọi là quả. Là quả chẳng phải nhân, nghĩa là Niết-bàn, chẳng được gọi là quả. Không được gọi là nhân.”

“Vừa là nhân vừa là quả: Tánh của duyên nhân có nghĩa tức nhân, tức quả.”

Chẳng phải nhân, chẳng phải quả: Lại khiển trách ở trước nói rằng: “Niết-bàn gọi là quả, muôn hạnh là nhân, tâm chúng sinh chấp cho là sinh nhân, sinh quả”. Nay khiển trách rằng: Thể của Niết-bàn “Trăm phi”, không thật có, chẳng sinh nhân của sinh nhân. Lại, chẳng phải là quả của sinh nhân. Không có danh, không có tướng, đâu phải là nhân là quả ư?

“Do nghĩa này nên trong kinh Như Lai nói” cho đến “Mà các Thanh văn, Duyên giác không thể sánh bằng.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Về nghĩa nhân quả có đủ ở trong mười hai nhân duyên. Bồ-tát Thập trụ vẫn còn các chứng bệnh, huống chi người Nhị thừa ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì giải thích nghĩa của hai môn “Không” “Hữu” ở trên, đều chẳng phải việc mà người Nhị thừa suy lường được! Nêu việc mà giáo xưa đã nói, để chứng minh cho lý nhân duyên rất sâu:

  1. Khen ngợi lý rất sâu.
  2. Chúng sinh không biết.
  3. Chỉ có Phật mới hiểu rõ. Dưới đây, sẽ giải thích riêng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ bảy, người Nhị thừa chẳng thể thấy biết, nên nói là không biết, không thấy.”

“Vì sao lại rất sâu, rất sâu?” cho đến “không có lo biết, hòa hợp mà có.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ nhất, là chứng minh rất sâu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích nghĩa rất sâu: Vì nối nhau nên không dứt, vì diệt nên không thường, cho nên có thể giải thích về quả. Dù mỗi niệm diệt, nghĩa là vì chủng loại giống nhau, tức là có một tác dụng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ năm là khen ngợi lý sâu của mười hai nhân duyên. Vốn khen lý sâu sắc này chính là ý ở chân thể thần minh. Không nói về sinh tử, sinh tử là sự cấu kiết không thật, đâu có gì là rất sâu? Sở dĩ chỉ khen mười hai nhân duyên, không khen năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới… là vì đẳng nhân này đã thành giả gọi là pháp môn, chẳng phải đầu cuối nối nhau. Vì mười hai nhân duyên là pháp môn đầu cuối, cho nên y cứ vào pháp môn này để khen.

Không biết, không thấy: Lý đã sâu xa, đâu dễ gì thấy biết! Chỉ có Đức Phật muôn hạnh tròn đầy, được tri kiến đầy đủ, còn Bồ-tát Thập trụ chỉ thấy lờ mờ. Chẳng thể tư duy: Lý pháp tánh sâu kín, chỉ cho cảnh giới của Phật, không phải cảnh mà Nhị thừa hạ địa suy nghĩ được! Do nghĩa này, nên nói là rất sâu.

Sau đây, chính là giải thích về thể của nhân duyên. Cho nên ý rất sâu là vì để nói về hành nghiệp của chúng sinh là không thường, không đoạn, mà quả báo lại không quên. Nếu chúng sinh tạo nghiệp, trực tiếp dùng thần minh luống dối làm thể, thì phải là ba tướng vô thường. Nếu chính ba tướng đã tạo ra nghiệp lành, nghiệp dữ thì làm sao được tồn tại để rồi khởi nghiệp về sau, trải qua hằng trăm, ngàn muôn kiếp, do tự chịu quả báo, nên biết được có pháp tánh đứng đầu thần “Giải” thường kế thừa chân thật bất diệt. Thể nó không có thịnh, suy, thì dụng đâu thể diệt? Nếu được kiến giải về sau, thì tác dụng si mê mới “Không”. khi chưa có kiến giải thì thường si mê, cho nên là nghiệp, nghiệp tức là si che lấp trí, gọi là phiền não. Vời sinh cảm quả, do đó thành nghiệp, tức một thể mà nghĩa phân chia. Dù niệm niệm diệt, nhưng không mất đi. Nghĩa là đã chân, tục cùng chung là thần minh. Bên tục mới có thể là ba tướng diệt, y cứ bên chân lấy dĩ vãng, vì nghĩa si mê thường còn, cho nên không mất. Dù không có tác giả tuy không có tác giả như thần nhã, mà đều tạo nghiệp. Dù không có thọ giả, là dù không có như thần ngã thọ giả của mười sáu tri kiến, mà có nhân thì sẽ được quả. Không có lo biết do hòa hợp mà có thì cũng không có người biết hòa hợp, là thần ngã mà ngoại đạo đã chấp, nhưng vì có nhân nên dẫn đến quả. Về lý thường cảm vời nhau. Như các ngoại đạo kia không có pháp tánh này làm thể thì sau khởi nghiệp, họ sẽ gởi nghiệp vào chỗ nào? Kinh xưa nói rằng: “Nếu có lời nói thành tựu thì chắc chắn thành tựu?”

“Tất cả chúng sinh dù cùng với mười hai” cho đến “Vì không thấy, biết nên không có đầu cuối.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không từ tạo ra mà có, thì đâu có bắt đầu? Đã không thấy biết thì đâu có sau cùng”

“Bồ-tát Thập trụ chỉ thấy sau cùng, không thấy bắt đầu của mười hai nhân duyên.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Bồ-tát Thập trụ thấy lờ mờ chung cuộc của mười hai nhân duyên? Bắt đầu không có bờ mé, nghiên cứu lý mới thấy.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh không thấy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì đến lúc Kim cương dứt, thì sau cùng của mười hai nhân duyên kia mới dễ hiểu rõ. Tìm kiếm nguồn gốc của mười hai nhân duyên thì không thể nào biết được.”

“Chư Phật, Thế tôn thấy đầu, thấy cuối. Do nghĩa này, nên Chư Phật được thấy Phật tánh rõ ràng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Điểm bắt đầu không có cội nguồn mà soi chiếu, chính vì bắt đầu ở chỗ không có bắt đầu, như Tịnh Danh nói: “Từ si có ái, đâu biết được bắt đầu? Kinh Thắng Man cũng nói: “Vô minh, vô thỉ”.

“Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh không thể thấy mười hai nhân duyên cho nên trôi lăn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu sự tai hại không thấy mười hai nhân duyên để kiết luận.”

“Này người thiện nam! Như con tằm kéo kén tự sống, tự chết” cho đến “trôi lăn sinh tử, giống như đánh trái cầu lông.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì người không thấy nên phải thí dụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ sáu dù cho chúng sinh cùng chung với lý này, nhưng vì không hay biết, nên tạo nhân chịu khổ, không cùng tột, không thôi dứt, chỉ có Chư Phật, Bồ-tát đã giác biết lý này, tu nhân cảm quả, nghiên cứu cùng tận về nhân duyên này, nên biết đầu, biết cuối. Nay, nói Bồ-tát Thập Trụ biết cuối, mà không biết đầu, e rằng đây chẳng phải thật luận. Vì sao? Vì đạo Phật đã đầu cuối đều không thấy, đâu cho Thập trụ chỉ biết cuối, không biết đầu, lẽ ra cũng lờ mờ như đều, mà nay, chỉ nói biết cuối, không chưa biết đầu, đây chính là vì thử nghiệm người không hành đạo, nói rằng, Bồ-tát Thập trụ đã tu hành đại nghiệp trong suốt ba A-tăng-kỳ, vẫn còn biết đầu, huống chi người không tu hành mà biết được? Nếu thực hành theo sự, thì có cuối để y cứ, còn đầu đã, nhỏ nhiệm khó xét tìm, nên chỉ biết cuối. Nói về lý, tức là đầu cuối đều lờ mờ. Phải biết rằng, chỉ có Đức Phật hiểu rõ cùng cực, xem xét mười hai nhân duyên này, được thấy Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Cho nên trong các kinh Như Lai đã nói” cho đến “Mười hai duyên, tức là thấy pháp.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Pháp là danh của lý thật, thấy mười hai duyên mở đầu là thấy thường, vô thường, là thấy pháp.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu kinh xưa để chứng minh lợi ích của người nhận thấy mười hai nhân duyên, vì diệt khổ là Phật, cho nên nói rằng, chính là thấy Phật.”

“Thấy pháp, tức là thấy Phật.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Pháp thể là Phật, Pháp tức Phật”.

“Phật là Phật tánh. Vì sao? Vì tất cả Chư Phật đều lấy Phật tánh này làm tánh.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nói về pháp thể, nghĩa là thầm hợp tự nhiên tất cả Chư Phật, đều như vậy, cho nên pháp là Phật tánh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nay, nêu thuyết nhằm lãnh hội ý chỉ xưa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ bảy nói về hiểu thấu cùng tận cội nguồn. Nếu sinh tử hết ngay thì gọi là thấy chân pháp. Vì thấy chân pháp này, nên gọi là thấy Phật. Đại giác hiện ở trước, không còn bóng tối che khuất nữa, tức dùng chân như, pháp tánh này làm thể, thành trí nhất thiết chủng. Nếu thần minh không dùng pháp tánh này làm cội nguồn, thì kinh đâu được nói là thấy mười hai duyên, tức gọi là thấy pháp. Nếu thấy pháp sinh tử, quả Phật thường trụ, thì đâu được nói rằng: “Dùng pháp tánh này làm thể” Nếu sinh tử là không thì như giáo thuở xưa, lẽ ra đồng với nguội thân bặt trí. Lại, không thể gọi là thường. Pháp thường lại là nghĩa Vô thỉ sinh, nên biết “Thần giải” dùng pháp thường này làm gốc, trực tiếp dứt trừ luống dối, hiển bày ra ý chỉ chân thường này. Việc đó như nói ví dụ ngoại đạo Phú-lan-na dưới đây”.

“Này người thiện nam! Trí quán mười hai duyên” cho đến đắc “Đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu không thấy mười hai duyên, nên làm cho mình phải chịu đau khổ, mà thấy có cạn, sâu, khổ diệt khác nhau. Không thấy Phật tánh: Trung đạo là Phật tánh. Người Nhị thừa thấy nghiêng lệch, không thấy Trung đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lượt thứ tám, nói bốn hạng người quán cạn sâu, chỉ có quán thượng thượng mới cùng tận, nên biết là sâu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ tám, kế là nói về tướng giai cấp nhất định của trí quán mười hai duyên. Trước nói về lý sâu của mười hai nhân duyên, không biết, không thấy, chỉ có Phật mới thấy biết tận cùng và xem xét đầu cuối của mười hai nhân duyên kia. Vì thế, nay kế là nói về Phật hàng phục ma vương trở lại, cũng được quán lý này, chỉ quán mà chưa đạt được, nên phát kiến giải có sâu, cạn, về tầng bậc có bốn lớp khác nhau:

  1. Trí bậc hạ, được đạo Thanh văn.
  2. Trí bậc trung, được đạo Duyên giác.
  3. Trí bậc thượng, được địa vị Thập trụ. Nhưng trí bậc Thượng thượng, vì thấy nhân duyên cùng cực, nên thành đạo Vô thượng. Ở đây nói được đạo Thanh văn, e rằng chẳng phải là người thực hành. Nếu mượn lời nói để dẫn dắt người ngu, nên không có nghi ngờ.”

“Do nghĩa này, nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh” cho đến “Phật gọi là Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa “Không Bậc nhất” gọi là Trung đạo, trở lại kiết tông chỉ trên. Phật tánh, Niết-bàn này nói chung là Niết-bàn sinh tử. Trí cảnh không nghiêng lệch, đều gọi là Trung đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghĩa là tánh của cảnh giới, nghĩa không bậc nhất là trí chiếu cảnh, gọi là Trung đạo, nghĩa là trí chiếu không nghiêng lệch. Trung đạo gọi là Phật tánh, nghĩa là thắng giải tròn đầy, trở thành quả cùng cực, “Tức Niết-bàn” là quả của quả.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là ý thứ chín, Gom chung, kiết hội nhập, nói về bốn thứ Phật tánh đều không lìa mười hai nhân duyên. Đã nói cùng tận lý này được thành Phật. Nhân quả, Phật tánh, đâu được lìa mười hai duyên, gọi là Phật tánh. Phật tánh tức nghĩa “Không” Bậc nhất chính là kiết xa về quả Phật trên, kiến giải về trung đạo Phật tánh đã mãn, muôn đức đều đủ, chỉ dùng Bậc nhất nghĩa “Không” này làm thể. Nếu muốn lấy chung kiết bốn thứ Phật tánh thì đều dùng nghĩa “Không” Bậc nhất này làm thể. Nhưng ý kiết luận này, e rằng nói theo tánh quả.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Sư tử Hống” cho đến “Thì tất cả chúng sinh cần gì tu đạo?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý nói: “Nếu nhân cũng là Phật tánh, quả cũng là Phật tánh, thì danh nghĩa không khác nhau, cần gì tu hành đạo nghiệp để mong cầu thành Phật ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cho nên Bồ-tát Sư Tử Hống nêu lên câu hỏi này là do trên đây, Đức Phật đã nói: “Thấy pháp tức là Phật, Phật tức Phật tánh”. Tình người mới sinh nghi ngờ về lời nói đó của Phật, rằng “Nếu Phật và Phật tánh không khác, thì tức là có tánh, tức có Phật, thì cần gì phải tu đạo?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là giải thích nghi ngờ nói trên, mà sinh ra câu hỏi. Nỗi nghi ngờ này dựa vào đâu mà khởi? Do Phật đáp ba câu hỏi trên, về sau, nhất định tánh của nhân quả, chúng sinh bèn sinh nghi: “Nếu nhân quả, Phật tánh đều không lìa mười hai nhân duyên, thì tức là tánh nhân và tánh quả, cuối cùng tự chúng không khác nhau. Nếu không khác nhau, thì cần gì phải tu đạo? Đã sinh nghi có hai, nên Phật đáp dưới đây cũng là hai pháp không khác nhau, cho là một câu hỏi: “Cần gì phải tu đạo?” Vì là câu hỏi thứ hai nên Đức Phật đáp dưới đây, sẽ mở ra thành ba câu đáp. Hai câu hỏi tức là hai đoạn. Đáp câu hỏi thứ hai, là Phật khuyên bảo chúng sinh hãy quên nghi ngờ. Nay, nói nghĩa này không đúng, vì trước kia, Đức Phật đã khiển rách rồi.”

“Phật bảo: “Này người thiện nam! Lời ông vừa nói” cho đến “Nhưng chúng sinh đều chưa đầy đủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về mảy may tri kiến đều là lý Phật chưa đủ, gọi là tánh nhân, đầy đủ thì gọi là tánh quả. “Tánh danh” dù đồng, nhưng có đủ, không đủ khác nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y cứ trong phần đáp có năm. Văn giải thích dù là đương tánh, nhưng vẫn phải tu đạo.”

“Này người thiện nam! Ví như có người với lòng dạ ác độc hại mẹ mình” cho đến “Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nói là “Có”, vì vị lai chắc chắn được nên gọi là có chẳng phải nay “Có”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ nhất, vì nhờ nghiệp hiện nay có, sẽ chiêu cảm quả đương lai. Phật tánh cũng giống như vậy, sao lại không cần tu đạo ư?”

“Do ý nghĩ này, nên ta đối với kinh này” cho đến “Sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu kệ xưa để làm chứng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai là nêu kệ để so sánh nhân quả không đồng đều: Hễ còn phiền não thì sẽ không có Niết-bàn, đâu được không cần tu đạo ư?”

“Này người thiện nam! Như có người trong nhà hắn có sữa, có lạc” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hễ người có tâm, nghĩa là trước kia nói chắc chắn được. Nay nói hễ người nào có tâm cầu vui, cầu thì đều được, chỉ chậm hay mau là điều đáng nói thôi!”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, sữa sẽ sinh ra lạc, cho nên phải có rượu nồng, nhiệt độ ấm…, mới có lạc. Do đó nên phải tu đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước Phật đáp câu hỏi đầu, nhằm nói rằng, Phật và Phật tánh dù không khác nhau, nhưng chủ yếu là chưa đầy đủ, phải đến khi thành Phật, mới không khác nhau, còn hiện giờ, chưa được thành Phật, thì làm sao không khác được? Cho nên, dưới đây liền mượn ví dụ để nói về nghĩa sẽ có ở vị lai. Trong thời gian hiện tại không có quả đương lai, nên nói “Có”, chẳng phải là cái “Có” của “Đã có”. Chúng sinh cũng vậy, đều có tâm: Văn dưới nói: “Chánh nhân, nghĩa là chúng sinh, mà trong đây nói là tâm. Nếu dụng tâm với mục đích tránh khổ, tìm vui thì hiểu là Chánh nhân. Nếu vì hội thông đoạn văn này thì đều tự có đối đãi. Ở đây nói rằng tâm là đối nói theo chủng trí của quả địa, nói là chúng sinh ở đây nghĩa là khi đối với Phật, người tu hành mà nói. Nếu nói về địa vị chính đáng của tâm kia thì do lấy “Dụng giải” tránh khổ, tìm vui làm địa vị.”

“Này người thiện nam! Rốt ráo có hai thứ” cho đến “Vì bị các kiết sử che lấp, nên chúng sinh không thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đây nói chắc chắn sẽ được Bồ-đề, rốt ráo được Bồ-đề. Nay nói là chẳng những được quả mà còn được nhân. Trang nghiêm là nhân, mà cũng là thế gian. Nhất thừa: Trí Phật là sự rốt ráo của thừa, gọi tên là thừa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ tư, mượn nhân để so sánh với quả. Trang nghiêm rốt ráo vẫn còn ở trong nhân. Chúng sinh đã thành tựu lý nhân, đâu so sánh với tánh quả. Ở ngoài sinh tử, sẽ không cần tu đạo ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai, nói phải tu đạo, trang nghiêm rốt ráo, nghĩa là tâm kim cương. Rốt ráo rốt ráo: là quả Vô học. Thế gian rốt ráo: Lại là lúc tâm kim cương, thể do chưa khỏi khổ, vô thường nên nói là thế gian.

Xuất thế rốt ráo: Lại là quả Vô học, thể vì đã lìa khỏi ba tướng, nên nói là xuất thế.

Trang nghiêm rốt ráo: Y cứ muôn hạnh để nói.

Rốt ráo rốt ráo: Nói chúng sinh được nhất thừa quả Phật, chỉ chúng sinh có nhất thừa quả Phật này, vì bị vô minh che lấp, nên không thể thấy được chân lý. Nếu khẩn cấp như thế, thì nên tu đạo, đâu được hỏi rằng: “Không cần tu hành đạo nghiệp ư?”

“Này người thiện nam! Phật tánh” cho đến “Thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Về nghĩa Phật tánh hiện, không gì có trước Phật tánh này, nên dùng để làm tên.”

“Này người thiện nam! Tam-muội Thủ lăng nghiêm” cho đến “Định Thủ lăng nghiêm, gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh quả gọi là quả tùy, vì có công năng nên đặt tên chẳng phải một. Nói theo văn, năm tên gọi này đều là Vô học.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói Thủ lăng nghiêm là mẹ của Chư Phật ba đời, chủ thể sinh ra trí Nhất thiết chủng. Nói chúng sinh cũng có, chỉ vì không tu tập, nên không được thành Vô thượng Bồ-đề. Thủ lăng nghiêm có năm tên gọi, nghĩa là theo nghĩa thành năm giai vị:

  1. Dùng sự bền chắc làm tên.
  2. Dùng trí tuệ để gọi.
  3. Dùng năng lực bẻ dẹp để được tên gọi.
  4. Dùng điều phục chúng sinh để so sánh.
  5. Lấy giác sát làm ý chỉ.

Chính là một tâm Kim Cương, vì theo nghĩa khác nhau, nên có nhiều tên gọi.

“Này người thiện nam! Một thuở nọ, Ta ngự bên sông Ni-liênthiền” cho đến “Vì chúng sinh nên nói là “Ngã”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Danh từ Ngã vốn phát ra từ thường còn không dứt. Phật tánh không dứt, tức là vì lấy nghĩa đó để đặt tên, chứ chẳng phải thật.”

“Này người thiện nam! Vì có nhân duyên, nên” cho đến “Mà nói là vô ngã, vì được tự tại.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì thường cho nên tự tại, là nghĩa “Ngã”. Cảm ứng không có đầu mối, tự tại này sinh ra từ “Ngã” đó. Vì vốn chẳng phải “Ngã”, nên còn gọi là “Vô ngã”.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước nói nhân chẳng phải tánh, mà nói là tánh. Nay nói chẳng phải “Ngã” mà nói là “Ngã”. Lạc, tịnh cũng giống như vậy. Phật tánh thật sự chẳng phải “Ngã”. Nghĩa là nhân không tự tại, nên chẳng phải là “Ngã”. Có nhân duyên, cho đến chẳng luống dối. Hoặc bị dứt bỏ trước kia, sau, bỏ điên đảo chấp thường, đều không phải luống dối. Vì thế giới, vì dứt trừ cái “Ngã” gạo, mè của người đời.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là chứng minh nghĩa sẽ có, bấy giờ, Phạm chí nghe nói nghĩa “Sẽ có”, đều phát đạo tâm, há không được tu đạo ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Một hôm, ta ngự bên sông Ni-liênthiền…” trở xuống là văn thứ ba, Phật khuyên chúng đương thời, hãy quên chấp pháp. Lời Phật nói không có phương hướng, nên không thể nghe một bên rồi chấp đắm. Như thuở xưa, Đức Phật vì Phạm chí nói chánh nhân Phật tánh là “Ngã”, thật ra Phật tánh chẳng phải “Ngã”. Chính là dùng phương tiện khéo léo ứng với căn cơ chúng sinh, làm cho chúng sinh tỏ ngộ được đạo, đâu thể nghe nói tánh của chánh nhân này là “Ngã” mà sinh ra chấp ư?”

Nếu vậy, “Ngã” mà ta nói, vì chúng sinh sẽ thành Phật, nên nói “Có” mà không chứng đắc, bèn chấp rằng: “Chúng sinh có Phật tánh, chẳng cần tu đạo.”

 

Phần 2

  • Đáp câu hỏi thứ năm, nói về Bồ-tát Thập Trụ thấy không rõ ràng, Chư Phật thấy rõ ràng.
  • Nói rộng về tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân.
  • Nói về mười hai hạnh Đầu-đà.
  • Giải thích câu hỏi của Bồ-tát Sư tử Hống, về nghĩa giới không có nhân, Niết-bàn không có quả.
  • Giải thích rộng ý nghĩa nhân nặng, quả nặng.
  • Nói về nghĩa Niết-bàn chẳng phải nhân mà là quả
  • Nói về nghĩa Phật tánh không phải quả.
  • Nói về nghĩa Sinh nhân, Liễu nhân.

“Bấy giờ, Đại Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật” rằng: cho đến “Tất cả chúng sinh không thể thấy được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại ý hỏi: “Phật tánh mạnh mẽ, ví như lực sĩ Kim cương. Tự thân đã có, vì sao không thấy? Để chứng minh là không.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu câu hỏi thứ tư, để thỉnh Phật đáp cho.”

“Phật dạy: Này người thiện nam! Ví như sắc pháp” cho đến “Vì năng lực Tam-muội, nên được sáng suốt rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm phu không có mắt, đối với mắt không phân biệt rõ ràng. Bậc Thánh có đạo, mầu nhiệm xa có thể thấy. Đức Phật dùng hai người thấy để chứng minh có Phật tánh. Y cứ vào lời đáp này có tám lượt, đây là lượt thứ nhất nói Phật tánh là có, vì bị phiền não che lấp, nên tuệ nhãn không mở, không thể thấy được!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, sẽ thứ lớp đáp câu hỏi thứ tư.

Trong y cứ đáp câu hỏi này có ba lần nói về nghĩa:

  1. Nói trực tiếp về pháp thể, vì chướng che lấp nên không thấy.
  2. Mượn mười hai nhân duyên để chứng minh rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.
  3. Giáo hóa chúng sinh lìa chấp.

Nay, từ “Ví như sắc pháp trở xuống là đoạn thứ nhất, nói Phật tánh dù có nhưng bị phiền não ngăn che, nên không thấy được. Nếu phá được ba thứ “Hoặc” kiến đế tư duy vô minh trụ địa, phiền não đều hết thì sẽ thấy Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Nếu có người thấy tất cả pháp” cho đến định Thủ lăng nghiêm, gọi là rốt ráo.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoạn thứ hai nói: Nếu như Trung đạo mà thấy, thì thấy Phật tánh. Nếu trái với Trung đạo thì không thấy, nhưng chẳng phải “Không có”, đây là lý.”

“Này người thiện nam! Ví như trăng mùng một, dù không thể thấy” cho đến “Cũng không được nói không có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ ba nói về lý Phật tánh rất sâu xa, chẳng phải là pháp mà người bình thường hiểu được, như trăng mùng một kia chẳng thể nói là không có trăng.”

“Này người thiện nam! Phật tánh là mười Lực” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh tử vô thường, gọi là tất cả. Vì Tam bảo là thường, nên không gọi là “Tất cả”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn thứ tư, ở trên dù nói “Sẽ có”, nhưng vẫn chưa biết cái gì là Thể? Nay sẽ nói ra thể đó, chính là ngoài sinh tử. Về lý thì sâu xa, nếu muốn thấy, mà chính mình chẳng phá tan ba chướng “Hoặc” nặng nề, thì sẽ không do đâu mà thấy được Phật tánh. Ba “Hoặc” là kiến đế tư duy vô minh trụ địa.”

“Này người thiện nam! Mười hai nhân duyên, tất cả chúng sinh” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vừa nội: Nghĩa là chánh kiến; vừa ngoại nghĩa là tà kiến. Đồng có, nghĩa là “Có” ở vị lai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Mười hai nhân duyên có chung, là đoạn văn thứ năm, mượn việc gần để so với cái xa. Nói đủ mười hai, nghĩa là đầu cuối làm lời nói. Nếu đã chết trong thai, thì sẽ không có mười hai, mà nói là đủ, là vì thành tựu. Vừa nội: Nghĩa là hiện tại có. Ngoại: nghĩa là vị lai chưa có tác dụng, nghĩa gọi là ngoài. Vào thai: Năm phần, bốn căn chưa đầy đủ, ý nói nhập thai, có năm ấm, vì lúc bốn căn chưa đầy đủ, lúc này chỉ có “Danh, sắc”. Tập nhiễm một “Ái” gọi là “Thọ”: Phải biết rằng “Ái” tức phần “Thọ” các kinh thường cho là vô ký vì năng lực cảm quả yếu. Trong, ngoài tham cầu. Vì lấy: Nghĩa là tham đắm bên trong thân và bên ngoài thân. Do tham này sinh ra bốn thủ, nên gọi là lấy. Lấy, nghĩa là lấy ở quả sau. Vì việc trong, ngoài khởi lên miệng nghiệp là “Hữu”, nghĩa là nhân trước kia tham cầu, khởi ái tăng thượng, vận chuyển dụng động tác ở thân tâm, nói là “Nghiệp”. Thức hiện tại được gọi “Sinh” ở vị lai, nghĩa là khác đời mà thôi. Ngoài ra đều gọi là già chết.”

Chúng sinh cõi Sắc không có ba thọ: Không có khổ thọ, nên nói là không. Ba xúc: Khổ va chạm, ba thứ ái: như lạnh được lửa, bệnh ưa thuốc thang, đều là nhân duyên khổ. Ái là nói cõi trên không có. Ái như thế, chỉ có Xả, ưa sinh ái của cõi trên. Không có già, bệnh: Là có niệm niệm già, đâu có tóc bạc, mặt nhăn, cũng không có bốn đại hư hoại, chết, vì phàm phu kia là đạo hàng phục kiết sử. Về sau, lại lui sụt. Lúc sinh cõi Dục sẽ có đủ mười hai, Phật tánh cũng giống như vậy.”

“Này người thiện nam! Ở núi Tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn nhục” cho đến “Không thể nói rằng chẳng có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Núi Tuyết dụ cho Phật, cỏ dụ cho kinh Niết-bàn. Ở trên nói chướng điên đảo, nên không thấy Phật tánh. Nay, nói cho nên bị chướng che lấp là vì không đọc kinh Niết-bàn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ sáu, ở trên dù đã nói mười lực, vô úy, nhưng quả cách con người rất xa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ hai, chúng sinh dù đương thời có đủ và không đủ nhưng phải là đầu cuối trải qua lìa. Trong ba đời được nói là đều thành tựu có mười hai, nói Phật tánh cũng giống như vậy, sẽ có trong đương lai.”

“Này người thiện nam! Phật tánh cũng là sắc” phi sắc cho đến “Chẳng phải cảnh giới mà Thanh văn, Duyên giác biết được.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ bảy, nói về Thập trụ sở dĩ không thấy Phật tánh là vì lẽ đó, vì thành lập nghĩa này, nên giả lập tướng trạng, cũng không dễ gì biết được? Cũng là sắc: Hiện thân trong sáu đường. “Chẳng phải sắc”: Lý dứt bặt hình sắc. Chẳng phải sắc, “Chẳng phải phi sắc”: Nghĩa là bỏ cả hai. Cũng một, là về lý thì không hai. “Chẳng phải một” nghĩa là nói ba thừa. Trong văn tự, có giải thích đủ.”

“Này người thiện nam! Phật tánh chẳng phải ấm, giới, nhập” cho đến “Vô biên công đức đều được thành tựu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh Niết-bàn nói: “Phật tánh như vậy, không đọc tụng thì không thấy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tám, lại mượn ví dụ để làm rõ lý chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì phiền não che lấp, nên chẳng phải trong. Vì “Hoặc” hết mới thấy, nên chẳng phải ngoài.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ ba là khiển trách chấp. Hễ người muốn học thì đừng bao giờ theo tiếng mà mê đắm. Nếu nghe nói sắc là Phật tánh thì không được nói chỉ có sắc là đúng mà tâm là sai. Lại, nghe nói bốn ấm là Phật tánh, cũng không được nói chỉ có tâm đúng mà sắc là sai. Chỉ có bậc Thánh nói pháp, tùy thời điểm theo nhu cầu cần thiết của chúng sinh, đâu thể chấp nhất định ư?”

“Bấy giờ, Đại Bồ-tát Sư tử Hống” cho đến “Thành tựu từng ấy pháp để được thấy rõ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Nêu câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ năm. Bồ-tát Ca-diếp lại nêu câu hỏi ở trước để xin Phật giải đáp.”

“Này người thiện nam! Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười pháp” cho đến “Dùng Đại Niết-bàn để giáo hóa chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nay, nói thành tựu mười pháp, thảy đều là hạnh, chỉ vì chưa đầy đủ, nên không thấy mà thôi. Có năm lớp giải thích, đây là lớp thứ nhất, nói mười pháp cạn sâu là khác.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là, nêu câu hỏi thứ năm, để xin Phật giải đáp. Phật dạy: “Bồ-tát chính là thực hành mười pháp này, vì chưa đầy đủ, nên thấy không rõ ràng. Phật được mười pháp này, vì đã đầy đủ, nên thấy Phật tánh rõ ràng. Đã hỏi pháp trừ chướng, nên sau đây Phật sẽ có năm lượt giải thích rộng về mười pháp này, lại không có nghĩa nào khác.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Dù thấy Phật tánh, nhưng không rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mười pháp; tám pháp trước cũng là tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Hai pháp sau: Một là khen ngợi giải thoát; hai là dùng Niết-bàn để giáo hóa là khác mà thành mười, có năm lượt, đây là lượt thứ nhất.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Người xuất gia” cho đến “Dù thấy Phật tánh nhưng không rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ hai, nói về niềm vui của người xuất gia, bởi người xuất gia ở trong rừng núi, lìa tục, việc xao lãng đều xa lìa, chỉ có chánh thể, những thứ khác đều không phải. Niềm vui vắng lặng: được thiền định, niềm vui vắng lặng hẳn, là được vô lậu.

Niềm vui rốt ráo: Là được hai Niết-bàn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ hai, y cứ riêng vào môn quán để nói về mười pháp.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Dù thấy Phật tánh nhưng không rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ ba, tùy theo thiên hạnh, đây gọi là chánh định, do đây mới biết bốn thiền là thiên hạnh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ ba, y cứ vào Tỳ-kheo tu hành kinh này để nói về mười pháp.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Nói về ít muốn” cho đến “Dù thấy Phật tánh nhưng chưa rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ tư, là dùng mười hai Đầuđà làm hạnh ít muốn, chuyển biến trừ diệt.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư là lìa thôn xóm, để nói về mười pháp.”

“Này người thiện nam! Vì nặng về dục nên” cho đến “Dù thấy Phật tánh, nhưng chưa rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là lượt thứ năm. Năm thứ: Là giải thoát năm dục lạc.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ năm, y cứ vào hiện tướng để nói về mười pháp.”

“Này người thiện nam! Như ông vừa nói, Bồ-tát Thập trụ” cho đến “Thấy Phật tánh được rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Nêu câu hỏi thứ sáu. Nay nói: “Nhờ Phật nhãn nên thấy rõ ràng. Bồ-tát vì dùng tuệ nhãn, nên chưa thấy rõ ràng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như ông vừa nói: “Bồ-tát Thập trụ dùng mắt nào để thấy mà chưa rõ ràng. Dưới đây sẽ đáp theo thứ lớp câu hỏi thứ sáu. Phật nói Bồ-tát chỉ có bốn thứ nhãn. Vì dùng tuệ nhãn để thấy, nên chưa rõ ràng.

Đức Phật có đủ năm nhãn, soi rõ cùng tận cội nguồn, nên thấy Phật tánh rõ ràng. Dưới đây sẽ giải thích lại có số. Bồ-tát Thập trụ vì Bồ-đề mà làm các công hạnh, nên thấy Phật tánh chưa rõ ràng. Bồ-tát Thập trụ chỉ tự biết được thành Phật, không biết người khác có Phật tánh, cũng là lời không liễu nghĩa. Phiền não vốn che lấp trí tuệ. Bồ-tát Thập trụ dứt hoặc sắp hết, đâu chấp nhận chỉ tự biết được thành Phật mà không biết người khác có Phật tánh. “Hoặc” của người khác cũng không thể che lấp trí của ta, điều đó không hợp lý. Nay, cho nên có lời nói này là vì giải thích về sự khó dễ, nói do người thành Phật được gọi là dễ biết, người chưa thành đạo, sự tích sâu kín khó biết, cho nên có thuyết này.”

“Này người thiện nam! Vì tuệ nhãn thấy, nên chưa được sáng rõ” cho đến “Tâm không sinh niềm tin, thì không gọi là, thấy nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi là câu hỏi thứ sáu: “Đức Phật dùng mắt nào để thấy? Đầu tiên, được gọi là tuệ đầy đủ, Phật là Bồ-đề. Người tu hành hướng về trước gọi là hành. Người trụ trong Thập trụ: Đáng lẽ đi mà không đi, gọi là đứng. Đứng mà không đứng, là không đáng đi mà đứng chẳng phải đứng. Lại nói: “Không đi, không đứng.” Vì Thập trụ ở cảnh sinh diệt, nên có đi, đứng. Đức Phật không sinh, không diệt, nên không đi, không đứng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo phần đáp có bốn lượt:

1. Nói Phật và Bồ-tát thấy Phật tánh có rõ và không rõ.

2. Nói cho đến Thập địa còn chưa thấy rõ ràng, huống chi là người khác?

Chí cực dù là diệu tuyệt, chẳng phải thường tình mà quan sát, nếu y theo dấu vết để tìm gốc thì sẽ biết được.

3. Tu giới, định làm nhân, tức là lý ấy.

4. Kiết lý thấy nghe, để hiểu rõ tông chỉ trước, đây là lượt thứ nhất.

“Này người thiện nam! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào” cho đến “Phải quán thế nào để biết được?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có sáu thứ hỏi đáp, đây là môn quán thứ hai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là lượt thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là lượt thứ hai của đoạn lớn Sư Tử Hống. Sáu câu hỏi, sáu lời đáp ở trên, đã quyết định tánh nhân quả, giúp cho chúng sinh nhận thức được nhân quả, tu đức, tập nghiệp. Nếu thích ứng với lý sâu kín này, mà vẫn chưa lãnh ngộ, lòng tin chưa lập, thì hãy khuyên bảo họ y cứ vào ứng thân Phật, nương theo nhân quả của mười hai bộ kinh giáo, y theo sự để sinh niềm tin. Gồm mở ra năm môn, dưới đây là quả của quán thứ nhất.”

“Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh thật sự không thể biết” cho đến “Một là mắt thấy, hai là nghe thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước quán tánh quả, là quán thô.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật dù khuyên quán, nhưng vì tâm chúng sinh không hiểu, nên Bồ-tát Sư tử Hống mới hỏi, để nói lên tất cả chúng sinh thật không thể suy lường mà biết được tướng tâm của Như Lai, phải làm thế nào để biết được? Phật đáp: “Phải dựa vào hai pháp:

  1. Mắt thấy thân nghiệp Như Lai.
  2. Nghe giáo pháp mà Phật đã nói.

Chỉ y theo hai việc này, sẽ biết được tướng tâm của Như Lai. Nếu thấy thân nghiệp của Như Lai có ba mươi hai tướng, vận động ở đời, làm vì chúng sinh hay làm vì lợi dưỡng? Nếu thấy nói pháp hoàn toàn chúng sanh, không tự vì mình, biết được người này đáng tôn trọng, thì chắc chắn chẳng phải là quả báo do sinh tử gây ra. Nếu không có diệu cực này đến ứng, thì làm sao chúng sinh được thân này ở đời để cứu khổ, tất nhiên là đáng tin. Quả đã như vậy, thì phải có nhân nhiệm mầu. Đó là lý do Đức Phật khuyên con người nương vào mười hai bộ kinh, y cứ vào ứng thân Phật, quán dụng tâm của Như Lai, sẽ được tin biết về tánh của nhân quả, chỉ vì văn có mười phần, về ý nghĩa của việc rất rõ ràng.”

“Nếu thấy Như Lai có thân nghiệp” cho đến “Vì ai mà thọ thân? Đó gọi là mắt thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế nào là thọ thân? Có hai thứ:

Tự tại và không tự tại, biết Như Lai tự tại, vì sao lại thọ thân? Biết Như Lai vì chúng sinh cho nên thọ, vì ai mà thọ thân? Vì trong đó có bình đẳng, không bình đẳng, nói Như Lai bình đẳng với chúng sinh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Làm thế nào mà thọ thân này? Là biết được đạo cảm ứng, mà không biết được lý do vì sao như vậy? Nghĩa là do tâm đại bi, cho nên thọ thân.”

“Nếu quán Như Lai nói pháp như thế nào?” cho đến “Nên phải dựa vào hai nhân duyên này.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không phá phiền não, nghĩa là chân đế, chẳng phải không phá, nghĩa là thế đế. Trong chân tục, chẳng phải phá, chẳng phải không phá là chân đế, cũng là tục đế. Vì sao? Vì chẳng phải đều phá được. Năm người có thể phá nên chẳng phải không phá. Sau đây, đều nói là chân, tục, Trung đạo, không tự nói là thầy, cũng có thể là Trung đạo tục đế.

Hai thứ đầu làm sao biết? Nghĩa là môn quán thứ hai, quán “Duyên” nhân. Nhân thành tựu, gọi là mắt thấy. Cũng là nhân nghe thấy không thành tựu, nên dù biết được Phật, nhưng không gọi là mắt thấy, cũng chẳng phải nghe thấy.

Hai thứ: Ngoài tế trong thô và trong tế ngoài thô, thiện ác khó biết.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chỉ dựa vào hai nhân duyên này, thì không thể biết được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ ba là nhân duyên. Nhân thành tựu gọi là mắt thấy, cũng là nghe thấy. Nhân không thành tựu, nghĩa là dù biết Phật không gọi là mắt thấy, cũng chẳng phải nghe thấy. Hai thứ: Ngoài tế trong thô và trong tế ngoài thô, thiện ác khó biết.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn văn thứ hai y theo công việc mà đệ tử Phật đã thực hành mà quán sát nhân: Đức Phật chỉ cho quả cùng cực, không có nhân để quán sát. Nếu không nêu việc làm của đệ tử thì sẽ không thể lấy gì để xét. Nếu quả Phật không chân thì đâu được tin ở lời Phật nói, nghĩa là vì đều được kiến giải chân thật, nên biết được lý ấy tất nhiên đáng tin.

Nay, Bồ-tát Sư Tử Hống, trước là nêu quả Am-la ở trên dụ cho bốn hạng người để xem xét: Nếu người trong, ngoài đều thành thục, trong ngoài đều sinh, thì điều này cũng dễ phân biệt. Còn ngoài chín, trong sống, ngoài sống, trong chín, thành thục, hai hạng người này làm sao biết được? “Phật nói: “Vấn đề này thật khó biết.” Dù nói là khó biết, nhưng nếu dùng bốn pháp để xét, thì sẽ biết được chân thật. Nếu nói về bốn pháp này, thì chính là trí tuệ cộng trụ (ở chung), chia cộng trụ thành hai. Vì trí tuệ là hai, nên thành bốn câu. Nếu dùng bốn pháp này, thì sẽ biết được trì giới, phá giới.”

Phật bảo: “Này người thiện nam! Tốt đẹp thay!” cho đến “Mới

biết là trì giới, phá giới.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn người thường gần còn không biết được, huống chi Như Lai, mà suy lường được hay sao?

“Này người thiện nam! Giới có hai thứ, người trì giới cũng có hai” cho đến “Vì lợi dưỡng hay trì rốt ráo?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do nhân duyên, nên thọ trì giới cấm: hoặc vì độ mình, hoặc vì trời, người. Nếu không vì rốt ráo thì chẳng phải trì giới rốt ráo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là lượt thứ ba, phải tu giới rốt ráo, mới thấy được.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là dùng rốt ráo, không rốt ráo này để chứng minh rằng giới thành tựu hay không thành tựu. Nếu là người trì giới rốt ráo, thì gọi là mắt thấy nghe thấy, nếu không rốt ráo trì giới trì cũng không gọi là mắt thấy, nghe thấy. Tự tín đứng đầu năm căn, lập do người trên, đều thuộc về số rốt ráo trì giới. Nếu từ một giới về sau, cuối cùng, vào nội phàm phu, nối nhau không xả bỏ, cho đến thành Phật, cũng gọi là giới rốt ráo.”

“Này người thiện nam! Giới của Như Lai không có nhân duyên” cho đến “Trì giới rốt ráo, trì giới rốt ráo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh không phải ác, tự nhiên được giới, là giới rốt ráo. Người không sinh sân, si, cũng là tánh không phải ác.”

“Này người thiện nam! Một thuở nọ, ta cùng Xá-lợi-phất” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xuất xứ chứng minh trong nhân không có điều ác, quả có năng lực này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chứng minh Như Lai trì giới tốt đẹp hơn hết.”

“Có hai hạng: Một là vì lợi dưỡng” cho đến “Kể cả người trì giới của Như Lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích lại, người vì chánh pháp là rốt ráo.”

“Có hai hạng: Tánh tự năng trì” cho đến “Và Như Lai cũng gọi là nghe thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tức là không có giới nhân duyên. Tu tập nhiều đời, tâm ác dứt hẳn, điều lành thành tánh (bản chất). Lại “Có hai hạng: Một là giới Thanh văn” cho đến “Có thể thấy Phật tánh, Như Lai, Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thanh văn nhàm chán sinh tử, thực hành trái với Niết-bàn, chẳng thấy được pháp.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vì sao? Vì pháp tánh như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghĩa rốt ráo. Cũng nói từ giới sinh pháp, cuối cùng, đến Niết-bàn, đều là nghĩa nhân duyên. Nói là tìm nhân, có mười một lớp tướng để giải thích.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Làm sao được gọi là ngã, lạc, tịnh ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói trì giới” cho đến tướng nhân, quả của Niết-bàn là nương sinh nhân, liễu nhân, nhưng vẫn chưa nói Niết-bàn từ nhân nào mà có, nên mới thưa hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý câu hỏi là muốn vì giới tắc vô nhân cho nên thường, vì Niết-bàn có nhân nên vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giới trước đây đã vô nhân, lẽ ra là thường, Niết-bàn lấy giải thoát làm nhân, tức lẽ ra vô thường?”

“Phật nói: Lành thay! Này người thiện nam!” cho đến “Hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ giải thích cho ông hiểu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp đáp câu hỏi, trước, Đức Phật nêu việc trong dĩ vãng, để chứng minh được lý mà diệt mất.”

“Giới cũng có nhân, nhân nghe chánh pháp” cho đến “Một là nghe pháp; hai là suy nghĩ nghĩa.

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giới là hữu vi, từ nghe pháp mà sinh, là “sinh nhân”.”

“Này người thiện nam! Lòng tin” cho đến “Vừa là nhân, vừa là nhân nhân, vừa là quả vừa là quả quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cũng là nhân: Nghe pháp là nhân của lòng tin. Nhân nhân: Lòng tin lại là nhân của nghe pháp. Nay, làm nhân cho nhân, gọi là nhân nhân.

Cũng là quả: Lòng tin là quả của nghe pháp, cũng là quả quả: Nghe pháp là quả của lòng tin, cùng quả được sinh lẫn nhau, vì đều là nhân, là quả, nên gọi là hữu vi.”

Này người thiện nam! “Ví như Ni-kiền Tử dựng ba cây tréo để chiếc bình tròn lên, làm nhân quả lẫn nhau, không lìa nhau được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lòng tin và nghe pháp làm nhân quả lẫn nhau, không được lìa nhau. Chỉ y cứ vào hai thứ nhân quả này để làm nhân nhân, quả quả.”

“Này người thiện nam! Như vô minh “Duyên” hành” cho đến

“Vừa là nhân, vừa là nhân nhân, vừa là quả vừa là quả quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mượn vô minh, hành này để nói lên nghĩa làm nhân quả lẫn nhau: Vô minh là nhân, hành làm quả. Từ sau “hành” “Hữu” lại khởi phiền não nhẹ, gọi là vô minh, tức là nói nhẹ nặng, trước sau sinh khởi lẫn nhau, làm nhân quả lẫn nhau, được nghĩa nhân nặng, quả nặng.”

“Này người thiện nam! Pháp sinh có công năng sinh ra pháp” cho đến “sinh sinh không tự sinh, lại nhờ sinh nên sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mượn nghĩa của các nhà Tỳ-đàm, nhờ nói về ý nghĩa sâu xa của nhân nặng, quả nặng. Tiểu sinh chỉ sinh một pháp, đại sinh mới sinh ra tám pháp. Đây là đại sinh của tiểu sinh, làm nhân quả lẫn nhau, cũng có nghĩa nhân nặng, quả nặng, không thể tự sinh, nghĩa là đại sinh có ba thể, không thể tự sinh.

Do sinh sinh ra sinh: Do tiểu sinh cho đến sinh ra thể nhân quả kia. Sinh sinh không tự sinh: sinh ra sinh của đại sinh không tự sinh, cũng nhờ đại sinh nên sinh.”

“Cho nên hai sinh vừa là nhân vừa là nhân nhân” cho đến “Lòng tin nghe pháp cũng giống như vậy.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu một việc có hai nghĩa, cho là giải thích giống nhau.”

“Này người thiện nam! Là quả chẳng phải nhân” cho đến “Gọi là quả phiền não: gọi là quả quả.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở trên nói giới, v.v… là nhân là quả, thể chúng là hữu vi. Giờ đây nói Niết-bàn là quả, không phải nhân, chẳng phải hữu vi, nên không từ nhân mà có. Vì quả trên, nghĩa là người mong cầu không có khổ, do không có khổ là trên. Vì quả Sa-môn: Dứt sinh tử, lỗi lầm trong lỗi lầm: đều nói là pháp khổ. Phiền não là lỗi lầm. Lại, vì sinh ra khổ, cho nên là lỗi lầm trong lỗi lầm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước kia đã đáp hai pháp: Giới, tín, làm nhân quả lẫn nhau, cho nên là vô thường. Nay, nói Niết-bàn là quả của “liễu nhân”, cho nên thường. Là quả trên, là giải thích lý do vượt hơn này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã phán quyết giới cũng có nhân, nên biết giới chẳng phải thường, không nhất định tức là phần vị. Niết-bàn chỉ được gọi là quả, vì không còn làm nhân cho người khác nữa, nên là quả, chẳng phải nhân.”

“Này người thiện nam! Niết-bàn không có nhân mà thể của nó là quả” cho đến “Vì không có nhân, nên gọi là Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp hữu vi vì là nhân, là quả, nên khổ. Niết-bàn vì là quả, không có nhân, nên chẳng phải khổ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Không có sinh nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thể là quả, là quả của liễu nhân.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Như lời Phật đã nói” cho đến “Có lúc không có nhân nên gọi là Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý câu hỏi: Vì không dùng bất thiện làm nhân, nên nói “Không có”, chứ chẳng phải tất cả là “Không”. Cho nên ý cứ hữu, vô trong sáu thứ vô.

“Phật nói: “Này người thiện nam! Nay ông đã nói” cho đến “Vì lẽ gì gọi là nhân? Vì là liễu nhân.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một việc có hai nghĩa đã nêu kia đều là tướng chung hữu vi, hình đối lập với chân ngã Niết-bàn, không thể so sánh với vô ngã. Do nghĩa này nên, là nhân: Tức hai nhân trên, là quả, tức là hai quả trên. Niết-bàn là quả chứ chẳng phải nhân. Phật tánh là nhân, chẳng phải quả. Nếu Niết-bàn chỉ là quả mà chẳng phải khổ, thì Phật tánh cũng chỉ là nhân chẳng lẽ là khổ. Chẳng phải quả Sa-môn, nghĩa là chẳng phải hai quả kia, chẳng phải không là quả khác, là khổ. Là liễu nhân: Chẳng phải hai nhân kia, nói liễu nhân là liễu nhân, chứ chẳng phải sinh nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nên biết thể của Niết-bàn rốt ráo vô nhân, như vô ngã, vô ngã sở. Dù dẫn câu đầu để đáp, câu sau, liền quở trách. Nói Niết-bàn không đồng với pháp thế tục, cho nên thường.

Nhân này chẳng phải quả: Lại y cứ vào Phật tánh của chánh nhân. Chánh nhân chỉ trụ ở nhân vị, không được gọi là quả. Vì chẳng phải nhân sanh, nên chánh nhân là Phật tánh. Đã không phải được sinh ra bởi nhân thiện, ác, chỉ một công dụng không dời đổi, cho đến thành Phật không đổi dời. Vì đến địa vị Phật không lay động, nên chẳng phải pháp do nhân sinh. Thể đã chẳng phải do nhân sinh ra, cũng chẳng phải là quả của nhà dứt tâm.

Vì liễu nhân: không phải chỉ duyên nhân là liễu nhân, mà chánh nhân cũng là liễu nhân. Vì sao? Vì nếu chúng sinh không có tâm chán khổ, tìm vui thì một niệm lành cũng không thể thực hành. Do có kiến giải này, nên được quả thành thục. Do đó, chánh nhân cũng xa tạo nên liễu nhân thành Phật.”

“Này người thiện nam! Nhân có hai thứ” cho đến “Đất, nước, phân… đó gọi là liễu nhân.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đều là pháp tạo tác, cũng so sánh với nhau mà nói thôi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói chung tất cả nghĩa “Duyên” nhân và chánh nhân, chỉ làm cho sức quả mạnh mẽ, tức là sinh nhân, còn yếu thì thuộc về liễu nhân.”

“Lại có sinh nhân, chính là sáu Ba-la-mật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sau đây là nói đều chẳng phải pháp tạo tác, nhưng về nghĩa sinh, liễu thì rõ ràng ở đây, do sáu độ mà thành Bồ-đề, nên nói là sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sáu độ vì lấy sức mạnh của nghĩa Bồđề, nên gọi là nhân sinh.”

“Lại có liễu nhân, gọi là Phật tánh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Liễu nhân này có ba thứ đối nhau. Nói chung chỉ là liễu nhân, vì phân tích nghĩa quả mạnh mẽ làm nhân cho sinh. Sinh có thể làm cho vô thành “Có”. Liễu, nghĩa là cái “Đã có”. Cứ nói theo văn, nhỏ không có gì nhỏ hơn, suy ra nghĩa thì lớp thứ ba lẽ ra ở lớp thứ hai. Lớp thứ nhất lấy trụ ở sáu độ trước, đối lại với Phật tánh. Phật tánh dù là chánh nhân, nhưng nếu nói về thế lực của quả thì chẳng phải các độ như đàn độ v.v…, tất nhiên sẽ không có đắc quả. Đối với liễu là mạnh, nghĩa nói là sinh.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật tánh chánh nhân vì lấy công sức của quả không bằng, cho nên chỉ được làm liễu nhân.”

“Lại có liễu nhân, chính là sáu Ba-la-mật Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Liễu nhân này được lấy từ Cửu địa trở xuống, về nghĩa quả thì yếu là liễu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sáu độ trong nhân cách quả Phật xa, nên chỉ được làm liễu nhân cho Vô thượng Bồ-đề.”

“Lại, có sinh nhân nói là Thủ lăng nghiêm Tam-muội Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Nói là Thập trụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Do sức mạnh của tâm Kim cương, sinh ra quả Phật rất nhanh chóng, nên nói là sinh nhân.”

“Lại có liễu nhân, là nói tám Chánh đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tám chánh là hạnh nghiêng lệch, do nghĩa yếu kém, nên làm liễu nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hạnh Nhị thừa xa, chỉ được làm liễu nhân.”

“Lại có sinh nhân, cái gọi là lòng tin sáu pháp Ba-la-mật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xưa không nay có là sinh, vốn có nay thấy là liễu. Như vô thường chấp thường là sinh, vô thường thấy vô thường là liễu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sinh nhân này được lấy từ đăng trụ đến ba trụ. Vì mạnh hơn so với nghĩa của tám chánh, nên gọi là sinh. Sở dĩ được biết ba trụ là vì trụ tín nhẫn địa, nay nói là tín tâm sáu độ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì hạnh Đại thừa gần, nên gọi là sinh.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật đã nói” cho đến “Làm sao thấy được Phật tánh cũng giống như vậy?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn quán thứ ba, quán chung nhân quả, nói về thấy, nghe cũng khác, vì liễu là thấy, không liễu là nghe.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là hợp quán nhân quả. Bồ-tát Sư

tử Hống nêu “Trăm phi” để nói làm sao để thấy được Như Lai?”

“Phật nói: “Này người Thiện nam! Thân Phật có hai thứ” cho đến “Nên gọi chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phương tiện thị hiện, đó gọi là Kiến: Do thị hiện nên sắc, thanh đều gọi là thấy. Thân giải thoát cũng gọi là nghe thấy, ngoài ra đều như vậy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư, nhận lãnh lý của tông chỉ trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật lại y cứ vào hai việc nghe, thấy để khuyến tin. Một là thường, là pháp thân. Vô thường là ứng thân. Người thấy được là Phật và Bồ-tát Thập trụ. Người không thấy được Phật tánh, đó là tất cả chúng sinh. Thập trụ và Phật có thể được gọi là mắt thấy. Cửu trụ trở xuống, hoàn toàn tin có Phật tánh, nên thuộc về thấy, nghe. Phật thấy Phật tánh rõ ràng, nên nói là như sắc. Thập trụ trở xuống, vì thấy Phật tánh chưa rõ ràng, nên nói là chẳng phải sắc.”

 

Phần 3

  • Nói về nghĩa nhân quả chẳng phải có, chẳng phải không.
  • Nói rộng về nghĩa chánh nhân, duyên nhân.
  • Nói rộng về nghĩa Liễu nhân, Duyên nhân.
  • Bồ-tát Sư tử Hống lại bảy lần nêu câu hỏi để trách cứ cho rằng không có Phật tánh.
  • Thứ nhất cho là người không có tánh, người có thể làm trời, trời có thể làm người, nên biết là vô tánh.
  • Thứ hai, nói về xiển đề dứt gốc lành, nên biết không có Phật tánh.
  • Thứ ba, vì có người mới phát tâm, nên biết không có Phật tánh.
  • Thứ tư, vì lui sụt, nên biết không có Phật tánh.
  • Thứ năm, chứng minh muôn điều lành là tánh, lìa điều lành thì vô tánh.
  • Thứ sáu, vì nhân có mạnh yếu, cho nên biết không có tánh.
  • Thứ bảy, Vì tâm Bồ-đề xưa không mà nay có, nên biết không có Phật tánh.
  • Sau đây là đáp rộng bảy câu hỏi, nói rộng về tướng lui sụt và không lui sụt.
  • Nói về tu Ba mươi hai tướng v.v….

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nói là Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn quán Thứ tư, quán “Ở trong nhân chẳng phải có”, “Chẳng phải không”, ý câu hỏi rằng: “Nếu như trong sữa có lạc, hạt châu trên trán người lực sĩ, chính là đã có trong nhân, làm sao chẳng phải có, chẳng phải không ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Phần hai của đoạn lớn. Ở trên đáp sáu câu hỏi, nói về lý của Phật tánh, nghĩa ấy không nghiêng lệch.

Nay, Bồ-tát Sư tử Hống muốn thành lập ý chỉ của Trung đạo ở trước, giả đặt ra câu hỏi là “Nhất định có, nhất định không”. Như Lai giải thích: “Không thể hoàn toàn nhất định “Có”, cũng không thể hoàn toàn “Nhất định không”, nên là nghĩa Trung đạo.”

Năm chấp đầu là chấp hữu, bảy câu chấp sau là chấp vô. Phật tánh không ở trong: Tức thời chưa có. Chẳng phải ngoài: Không lìa nhân mà có quả. Trong sữa có lạc, lực sĩ, kim cương suy luận, tìm tòi lý thuyết, khắc ghi việc chung cuộc để nghiệm biết việc mới bắt đầu, đều là những việc “Đã có”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ tư là quán trong nhân không có quả. Nay trước mở ra môn chương, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, với trong nhân không có quả, tạo ra môn chương. Nhưng chẳng phải mất, hoại, chính là xa lập tánh, tạo ra môn chương trong nhân thứ năm dưới đây:

Trong là Chánh nhân. Ngoài là “Duyên” nhân, nói có thần thức: Đều có sự hiểu biết về tránh khổ, tìm vui. Tác dụng đầu cuối không thay đổi, nên nói là trong. Khéo “Duyên” nhân, nương tựa duyên ngoài mà sinh. vì có lúc “Có”, có lúc “Không”, nên gọi là ngoài. Nói trong hai nhân này đều không có quả, nên nói là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Trong nhân dù không có quả, nhưng chẳng phải không có “Duyên” nhân và chánh nhân. Hai nhân này ở vị lai, chắc chắn sẽ được thành quả Phật.

Đã nói trong nhân này không có quả, nên Bồ-tát Sư Tử Hống dùng lối chấp sai lầm của người bên ngoài cho rằng: “Trong nhân đã có quả, như cho trong sữa có lạc nếu trong sữa quả thật có lạc thì, phải biết trong thân chúng sinh đã có Phật, Nay sao lại nói rằng Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài ư?

Ngoại đạo chấp sinh nhân, sinh quả, nên trong nhân có quả. Còn ở bên trong, nghĩa sở dĩ không mất, là vì không nói trong sữa đã có lạc. Chỉ có nhân, nên nói là “Có”. Nói về Phật tánh của chúng sinh cũng vậy. Chẳng phải ngay trong thân đã “Có”, vì trí Nhất thiết chủng cũng có nhân, nên nói là có Phật tánh của chúng sinh. Nếu không có chất thiên nhiên này làm chủ cho thần giải thì cuối cùng sẽ không có tu nhân, dứt mê muội, cầu hiểu biết. Chính vì đạo của thần minh khác với gỗ, đá. Vì được trang sức bằng ngọc đá, nên tập cởi áo cổ không thật, dứt hết phiền não sinh tử buộc ràng, có muôn công phu hiện ở trước, gieo trồng thành Trí nhất thiết, đâu nên nói chúng sinh có pháp tánh này làm thể, khiến cho có quả ngay, như ngoại đạo chấp sinh nhân, sinh quả? Vì đại ý kia là như vậy, nên sau đây nói rằng: “Hễ tạo ra năm chấp, tìm xét kỹ thì chẳng những năm chấp, mà chủ yếu là y cứ việc khác, tức trở thành năm phần, phần thứ nhất này là chấp trực tiếp trong nhân có quả. Vì sao? Vì pháp sinh của chúng sinh đều có thời gian, chỉ nói thời gian có khác, vì chẳng phải trong nhân đều “Không”, nên biết trong sữa có lạc.”

“Phật bảo: “Này người thiện nam! Ta cũng không nói” cho đến “Vì lạc sinh ra từ sữa, nên nói có lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở đây ý đáp về nghĩa: “Chẳng phải không có từ đâu “Sinh”, nên nói là “Có”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Không nói trong sữa “Đã có” lạc, vì quả từ sinh, nên nói là “Có”.

“Bạch Đức Thế tôn! Tất cả pháp sinh đều có thời gian.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu vì từ sinh mà có, thì bơ cũng từ sữa sinh, sao không kế sữa là có bơ ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý câu hỏi là: “Sữa, lạc lúc đầu chưa có chung nhưng lúc sản xuất thì có trước, sau.”

“Này người thiện nam! Lúc có sữa thì không có lạc, cũng không có bơ sống” cho đến “Cho nên ta nói trong sữa không có lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh trong sữa có lạc, cũng có năm vị: Một là dùng sự để chứng minh; hai là dùng hiểu biết để chứng minh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây, sẽ y cứ vào lý để giải thích.”

“Như trong sữa đồng thời có chất lạc, vì sao không được” cho đến “Cho đến đề hồ cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu ngay khi có sữa mà có cả lạc thì lẽ ra phải có hai công năng, tức là có hai tên gọi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Một phen đả phá lối chấp của ngoại đạo kia: Nếu trong sữa có lạc thì người đời không nên chỉ gọi là sữa, mà lẽ ra trước đó đã có hai tên gọi.”

“Này người thiện nam! Vì có hai thứ” cho đến “Nên nói trong sữa có tánh lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân dù không có quả, mà năng lực thì có gần, xa. Xa thì gọi là “Duyên” nhân, còn gần thì gọi chánh nhân, đây là đáp thứ lớp của “sinh hữu”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói lạc ở trong sữa, vì là chánh nhân, nên nói là “Có”, chứ chẳng phải “Đã có”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phá chấp đã xong. Trở lại gốc của chính nghĩa: “Sữa là chánh nhân, hơi ấm là duyên nhân mà có ra lạc.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Nếu trong sữa không có lạc” cho đến “Vì sao lạc không có ra từ sừng bò?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu “Không có” mà sinh được, thì sừng bò không có lạc, sao chỉ từ sữa sinh lạc mà không từ sừng bò sinh lạc?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đồng là không có lạc thì sừng bò lẽ ra cũng có, mà sừng bò không sinh, chỉ ở sữa mới sinh, nên nói là biết được trước đó đã có.”

“Này người thiện nam! Sừng bò cũng sinh ra lạc” cho đến “Vì lẽ đó, nên ta nói có chánh nhân và duyên nhân.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Rõ ràng nghĩa “Duyên nhân” cũng sinh ra lạc, chứng tỏ rằng “Không có” mà sinh được.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì người muốn tìm lạc, thì phải dùng sữa, nên biết được sữa là chánh nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Mặc dù giải thích để làm sáng tỏ, nhưng về lý, thì chẳng phải chính đáp.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu trong sữa” cho đến “Vì sao không sinh, cả hai đều vô.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì muốn chứng minh nghĩa có “duyên nhân”, nên Bồ-tát lại hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đổi lại thí dụ, về nghĩa đồng với cách giải thích ở trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cả hai tánh đều là vô, mà vì một sinh, một không sinh, cho nên biết trước đó chắc chắn “Có”, rõ ràng.”

“Này người thiện nam! Sữa cũng có thể sinh ra cây Am-ma-la” cho đến “Trong sữa không sinh ra cây Am-ma-la.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng nước tưới thì cây Am-ma-la mọc, nếu dùng sữa tưới thì nó lớn rất nhanh chóng, chứng tỏ do năng lực của “Duyên nhân” là “Không” mà có thể sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dùng hai việc để phá chấp của ngoại đạo kia. Trong lượt trước, mặc dù nói sữa cũng có thể sinh ra cây, lượt sau nêu tánh chất của bốn đại, vàng ngọc là có gốc, không thể đồng với biện luận lạc và cây, vì tự chúng đều có chánh nhân.”

“Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói có hai thứ nhân” cho đến

“Duyên nhân” đó là sáu pháp Ba-la-mật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Loài hàm thức chán khổ, tìm vui là tánh thường. Dù trời, người khác nhau, nhưng tánh này không khác. “Hoặc” lẫn lộn, gọi là chánh nhân, dứt trừ “Hoặc”, gọi là “Duyên” nhân. “Không có” “Hoặc” để dứt bỏ, được gọi là Phật.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nay tôi chắc chắn định biết rằng” cho đến “Do đây nên biết trong sữa có tánh lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại dùng sự hiểu biết của người làm chứng, để giải thích rộng việc kia.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là chấp thứ hai. Người tìm lạc, lấy sữa, không lấy nước, vì họ biết trong sữa, chắc chắn trước đó đã có lạc.”

“Này người thiện nam! Như điều ông hỏi nghĩa ấy không đúng” cho đến “Mà thấy lớn là nghĩa không đúng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do biết lấy con dao, đều là câu hỏi chung. Dù cây dao để soi mặt, nhưng dao vốn không có mặt, đâu do

dùng sữa để làm lạc, mà nói là sữa đã có lạc ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong đây có bốn lớp câu hỏi:

  1. Nhãn quang đến chỗ cảnh mới thấy, thì lửa lẽ ra đốt mắt.
  2. Nếu đến cảnh mà thấy, thì không nên sinh nghi.
  3. Nhãn quang là sắc, nước cũng là sắc, cả hai đều là chất ngại, chỉ thấy được nước, làm sao thấy được cá, đá trong nước?
  4. Ngăn ngừa chướng nạn. Nếu nói không đến, mà thấy thì vì sao không thấy vật thể ở bên ngoài vách ư?”

“Này người thiện nam! Như ông đã nói trong sữa có lạc” cho đến

“Lúc chưa ăn, lẽ ra thức ăn này là mạng sống?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu việc rộng để chứng minh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nêu việc gần để so với lý xa, nhằm trong sữa, trước không có lạc.”

“Này người thiện nam! Tất cả các pháp” cho đến “Ba đời có pháp, thì không có việc đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu bài kệ để kết thúc giải thích.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại nêu nghĩa chánh để nói về chánh lý.”

“Này người thiện nam! Tất cả các pháp do nhân duyên nên sinh” cho đến “Lẽ ra có thân Phật như ta ngày nay.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu “Đã có” Phật tánh, thì lẽ ra đã có dụng của tướng tốt đẹp của quả Phật như ta ngày nay.”

“Phật tánh của chúng sinh không hư, không hoại” cho đến “Thấy được phần ít, như hạt ngọc Kim cương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói Phật tánh là thường. Chúng sinh dùng Phật tánh này, như hư không trong nhân, mà được lớn lên, là dụng của hư không, hư không chẳng phải ba đời, do chúng sinh có cõi hư không, nên có dụng của hư không. Phật tánh cũng chẳng phải ba đời, mà là chúng sinh có, do “Giải” và “Hoặc” chướng ngại nhau. Vì chướng ngại nhau, nên “Hoặc” diệt, “Hoặc” diệt chính là dụng, nên nói là “Chưa có”.”

“Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh là cảnh giời của Chư Phật” cho đến “Giải thoát, sinh tử được Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh chúng sinh có Phật tánh mà không thể biết.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vì hư không chẳng có tánh, nên chẳng có “Duyên” nhân.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên, là phá chánh nhân, dưới đây là phá “Duyên nhân”. Vì sắp phá, nên trước lập chánh nhân cần có nghĩa “Duyên nhân”. Vì hư không “Chẳng có” quả, cho nên không cần.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ ba, chứng minh “Có”. Vì nhất định “Có”, nên phải có “Duyên nhân” để làm “Liễu nhân”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì có chánh nhân, nên phải có “Duyên nhân”. Vì hư không “Chẳng có” nên không có hai nhân này, do đó nên biết là “Có”.

“Phật nói: Này người thiện nam! Nếu trong sữa chắc chắn có tánh lạc, thì cần gì “Duyên nhân”?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu đã có thì đâu cần Duyên nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu đã có thì đâu cần Liễn nhân ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hễ đáp rằng: “Nếu cần “Duyên nhân” mà được, thì đâu phải “Đã có”?”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chắc chắn biết trong sữa trước đó có tánh lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu vật trong bóng tối dù là vốn có, nhưng không hiểu rõ, không thấy, để chứng minh dụng của “Liễu nhân”, chẳng được nói là “Đã có” mà không cần hiểu rõ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nêu việc hiện tại để bào chữa cho nghĩa.”

“Này người thiện nam! Nếu cho rằng trong sữa chắc chắn có tánh

lạc” cho đến “Nếu là “Liễu nhân” thì đâu cần phải dùng liễu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vị ngọt phần nhiều là sữa, vị chua phần nhiều là lạc. Nếu lúc trong sữa có lạc, thì vị chua đã đủ, vị chua sẽ tự liễu, đâu cần hơi ấm liễu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước vì không có liễu nhân, nên là sữa chứ chẳng phải lạc. Nếu cho rằng trước đó đã có lạc tức là “Liễu nhân”, thì cần gì liễu nữa? Dưới đây sẽ hỏi rộng về nghĩa ấy.”

“Này người thiện nam! Nếu “Liễu nhân” này, tánh nó là liễu” cho đến “Nếu không tự liễu thì đâu thể liễu cái khác?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu có chất chua thì không thể tự liễu, đâu thể làm liễu cho cái khác mà nói là liễu.

Pháp sư Tăng Tông nói: Nếu liễu nhân không thể tự liễu lại cần phải thì đâu thể liễu cái khác”

“Nếu nói “Liễu nhân” có hai thứ tánh” cho đến “Sao liễu nhân lại có hai tánh riêng?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năng lực của hữu vi khác nhau, phần gìn giữ là tánh. Lửa là một pháp đâu được có hai? Lại nói rằng: “Nếu lửa tự liễu, thì “Liễu” khác với “Bị liễu”. Liễu tức là nhân, bị Liễu là quả, một pháp mà được có hai hay sao?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vẫn là phá chấp của ngoại đạo. Tánh là pháp nhất định, luôn giữ một vị, chẳng được có hai công dụng. Nghĩa là ông nói “Liễu nhân” là sẽ tự liễu, lại còn có thể liễu cái khác nữa, thì chẳng phải tự tánh. Vì sao? Vì ông chấp “Liễu nhân” chỉ là một pháp, thì làm sao có hai dụng ư? Nếu “Liễu nhân” có hai, thì sữa lẽ ra cũng có hai, nghĩa là sữa lẽ ra cũng tự “Liễu”, lại là liễu lạc. Nếu vậy, thì cần gì có duyên ngoài mới hiện ư?”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như người đời nói” cho đến “Liễu nhân cũng giống như vậy, tự liễu, liễu tha.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Số là một trong muôn pháp, tự đếm, đếm cái khác. “Liễu nhân” cũng giống như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thích hợp với phần của ta, lại còn thỏa mãn cho một số người, nên biết được có hai công dụng. Nêu việc này để bào chữa cho nghĩa.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Nếu “Liễu nhân” như vậy” cho đến “Không thể tự liễu, cũng không liễu cái khác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cần phải có trí tánh; thường biết mình, người. Sắc chẳng tự đếm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý đáp của Phật: “Đếm là vì lo nghĩ, có thể đếm sắc của ta, sắc của người. Sở dĩ nói ông đã chấp “Liễu nhân”, là vì vốn là sắc pháp, thì làm sao có hai tác dụng ư?

“Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Là liễu nhân, thì đã đồng hư hoại như chất lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã đồng hư hoại như chất lạc: nghĩa là tự liễu đã phá ở trên.”

“Nếu nói trong nhân chắc chắn có quả” cho đến “Theo thầy thọ xong, giới, định, tuệ sẽ được thêm lớn dần.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu quả của định, tuệ chắc chắn có tánh, thì sẽ không được lớn lên. Nhưng vì theo thầy thọ học, được tăng ích dần, nên biết vốn không có tánh.”

“Nếu nói rằng Sư trưởng dạy dỗ là “Liễu nhân”“ cho đến “Giới định, trí tuệ làm cho được lớn lên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc mới bạch, giới tự chưa có. Sau, Yết-ma xong, giới mới thành tựu, đây tức lẽ ra liễu, chưa có là có, chẳng phải liễu đã có, làm cho lớn lên.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Sao lại gọi là có sữa, có lạc được?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu trong sữa không có lạc”, lại không có “Liễu nhân” thì làm sao có sữa, mà đáp rằng có lạc ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dùng tên gọi để chứng tỏ là có lạc”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là chấp thứ tư: hiện thấy người bán sữa để mua lạc, nên biết sữa chính là lạc”.

“Này người thiện nam! Đáp câu hỏi của thế gian có ba cách” cho đến “Có tánh, vì sẽ thấy”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tông chỉ của chánh nghĩa. Chung quy do chắc chắn “Sẽ có” nên nói là “Có”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dùng cách chuyển để giải thích câu hỏi. Vì nói trong nhân có quả, nên nói là “Có”, chứ chẳng phải “Đã có” mà nói “Có”.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn ! Như lời Phật nói” cho đến “Nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói hai nhân không có quả, dường như trái với thế tục. Nay, muốn hội thông, như người đời nói “Có” là “Sẽ có”, chính là nhân câu hỏi để nêu lên”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quá khứ chưa diệt, vị lai chưa đến, sao lại nói là “Có” được?”

“Này người thiện nam! Quá khứ gọi là có” cho đến “Đều có Phật tánh, thật ra không luống dối”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có bốn thí dụ: Ví dụ trước là nói về cái “Có” của quá khứ, ba ví dụ sau,là chỉ rõ cái “Có” ở vị lai”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù là đã có “Sẽ có” nhưng nay là “Không”, cũng chẳng nhất định là “Không”, chẳng hạn như cây gai là hiện tại, dầu là vị lai, thời gian nhân quả khác nhau, đâu được trong nhân có quả ư? Đây là do cách lập nghĩa của một nhà, thường dựa vào kinh để tìm lý. Thỉnh thoảng thấy người ta phần nhiều hay nói trong nhân có quả, kinh có văn thành thật, hầu như không cần giải thích. Trong phẩm Phật tánh ở trước đã nói: “Trong thân độc, có thuốc hay, đó là Phật Tánh chẳng phải pháp tạo tác. Ở đây cũng không nói Đức Phật chẳng phải là pháp tạo tác. Nếu nói Đức Phật cũng là pháp tạo tác, thì trong thân chúng sinh đã có quả rồi”.

“Bồ-tát Sư tử Hống nói: “Tất cả chúng sinh” cho đến “Phải biết rằng, chúng sinh đều có Phật tánh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên, đã phá riêng hai nhân nói “Có” là vị lai. Nay, Bồ-tát sư tử Hống lại dùng việc để chứng minh rằng, trong nhân đã có trước, là muốn nói rộng lỗi của “Có”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là chấp thứ nhất, dùng chánh nhân để chứng minh có “Tánh”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ năm, nói là trong chánh nhân lẽ ra vì đã có nhiều Đức Phật, nên làm cho chúng sinh được đạo Vô thượng. Nếu trong chánh nhân đều không có thì sao không gọi là tạo ra “Duyên nhân” ư?”

Phật nói: “Này người thiện nam! Nếu nói rằng trong hạt” cho đến “Nay đã có, thì có lỗi gì?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu nói rằng, vì chướng sâu kín nên không thấy, ý nói là bị chướng nhỏ nhiệm che khuất, chứ không phải chướng trong tám việc. Thường lẽ ra không thấy: Nếu bị chướng nhỏ nhiệm che lấp chướng thường là vi tế, thường lẽ ra không thấy. Vốn không có tướng thô: Nếu tánh tế thì thô vốn là “Không”. Thường thô như thế, vốn không thấy tánh, nghĩa là vì thô nên nhìn thấy. Thô là thấy nhân, thấy vốn không có tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu nói trong chánh nhân “Đã có” thì vì sao không thấy? Vả lại, nếu nói theo cây thì sẽ không đồng với tám duyên của thế gian, mà người không thấy, phải biết rằng trong nhân chẳng nên có quả trước.”

“Bồ-tát Sư tử Hống nói: “Như Phật vừa nói” cho đến “Vì tạo ra liễu nhân, nên làm cho nhỏ được to.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chống chế nghĩa rằng: “Liễu nhân là liễu nhỏ làm cho to, vì to, nên nhìn thấy được, chứ chẳng phải thường không thể nhìn thấy.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Nếu vốn có” cho đến “Đường phèn chữa bệnh nóng, đường đen trị bệnh lạnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cả hai thứ đều “Không”. Trên nói có thứ to, to thì cần liễu. Nếu vốn không có to thì liễu là liễu cái gì? Nếu nói liễu không có làm cho “Có”, thì lẽ ra cũng có thể sinh ra cây Khưđà-la. Nếu vốn có đốt, đốt thì không được sinh. Không cùng lúc, nghĩa là trách cả ba tướng không dùng việc cùng lúc. Đường đen chữa bệnh lạnh: Ý nói pháp từ duyên khác, không có tánh nhất định.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng:” cho đến “Nên được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại dùng bảy câu hỏi để nói Phật không có tánh, trở thành làm sáng tỏ Phật tánh chẳng phải “Không”, lập ra nghĩa không hoại mất nói trên. Đầu tiên lấy trời, người để chứng minh Phật tánh không có thành.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ năm quán sát lập tánh trong nhân. Câu hỏi dù có bảy, nhưng phần lớn đều chấp “Duyên”, hỏi làm cho không có chánh nhân. Đây là câu hỏi thứ nhất: “Nếu trong nhân vốn “Không có”, thì sẽ chẳng có Chánh nhân, chỉ có Duyên nhân, cho nên được thành Phật?”

“Nếu các chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Nếu chẳng phải thường thì không được gọi là Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như câu hỏi thứ hai: “Nếu tánh do duyên mà thành tâm Bồ-đề, thì tánh xiển-đề này không nên đoạn dứt, đã đoạn dứt thì chẳng phải tánh”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu Phật gọi tâm Bồ-đề là Phật tánh hiện thầy xiển-đề dứt mất gốc lành, cho nên xiển-đề không có Phật tánh. Vậy sao Đức Phật lại nói rằng: “Chúng sinh đều có Phật tánh ư?”

“Nếu các chúng sinh đều có Phật tánh thì vì lẽ gì gọi là phát tâm ban đầu ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “nêu câu hỏi thứ ba: “Tánh thường lẽ ra không có ban đầu?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã có người mới phát, tức là khi chưa

phát tâm, họ không có Phật tánh. Nếu vậy, thì chính là lấy phát tâm lành làm Phật tánh, thế sao lại nói là chúng sinh đều có ư?”

“Sao lại nói Tỳ-bạt-trí này” cho đến “Phải biết rằng, người này không có Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Câu hỏi thứ tư: “Tánh thường không nên lui sụt?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu có lui sụt, không lui sụt, thì chính người lui sụt không có Phật tánh, đâu là đều có ư?”

“Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ-tát nhất tâm hướng về” cho đến “Thì cần gì pháp này để làm nhân duyên?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Câu hỏi thứ năm: “Chứng muôn điều lành là tánh, lìa việc lành thì không có tánh?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lược nêu duyên nhân”, cho rằng có khả năng thành Phật, vì chỉ duyên nhân này, nên biết không có Phật tánh chánh nhân, mà chỉ là “Duyên nhân”.

“Bạch Đức Thế tôn! Như sữa không cần “Duyên”, chắc chắn sẽ thành lạc” cho đến “Nên biết rằng chúng sinh đều không có Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ sáu: “Năm vị sinh nhau, nhân có mạnh yếu, vì sữa mạnh nên không cần duyên bên ngoài.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nêu kinh để làm chứng. Giáo xưa nói “Tăng của ba thừa là thường”, nếu vậy, thì lẽ ra địa vị tăng thường trụ làm sao thành Phật?”

“Như trước kia Đức Phật nói Tăng bảo là thường” cho đến “Tất cả chúng sinh lẽ ra không có Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ bảy: “Nếu tâm Bồ-đề trước không mà nay có, thì quả cũng nên như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu trước kia chúng sinh không cóba Bồ-đề, đến nay mới có thì đây là xưa không mà nay có. Cho nên biết trước là không đồng với câu hỏi trên, chỉ trước, sau là khác.”

“Phật nói: Lành thay! Này người thiện nam!” cho đến “Tất cả chúng sinh thật có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật đáp câu hỏi thứ nhất: “Sơ quả từ lý thành, thì hoặc được, hoặc mất, chẳng phải tánh, là vì quả của trời, người đều có “Hoặc”, chẳng phải từ tánh mà có. Quả Phật không có “Hoặc”, vì từ tánh mà có, là đáp câu hỏi thứ nhất.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trời, người không nhất định, có thể là chẳng có tánh. Phật tánh khác với trường hợp này. Như nghiệp của trời, người, phải đến địa vị Phật, nghiệp mới dừng, khoảng giữa không có dừng, thì làm sao chẳng có chánh nhân ư?”

“Ông nói: “Nếu chúng sinh có Phật tánh” cho đến “Vì tâm là vô thường, Phật tánh là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba: “Chánh nhân chẳng có ban đầu. Vì không có ban đầu nên thường phát tâm là “Duyên nhân”, chứ không phải chánh nhân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Gồm đáp câu hỏi thứ bảy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phát tâm chẳng phải Phật tánh của chánh nhân. Phật tánh là thường, tâm là vô thường. Cho nên tâm lành đôi khi có, đôi khi không, tánh dụng chỉ của chánh nhân là thường, không thay đổi.”

“Ông nói vì sao có người thối tâm” cho đến “Vì được chậm nên gọi tâm là lui sụt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ tư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về tâm lành không lui sụt. Tâm lành không sinh thì lụi sụt, sinh thì không lui sụt. Vì nếu tâm lành bị lui sụt thì làm sao tiến đến thành Phật được, chỉ vì được chậm nên gọi là lụi sụt.”

“Tâm Bồ-đề này thật ra không phải Phật tánh” cho đến “Tâm Bồđề thật chẳng phải Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ năm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp trở lại câu hỏi thứ hai: Nói tâm Bồđề thật chẳng phải chánh nhân. Ta nói “Đều có”, nghĩa là Phật tánh của chánh nhân. Vì trong đoạn duyên mà sinh ra việc lành, nên gọi là Nhất-xiển-đề.”

“Này người thiện nam! Ông nói: “Nếu chúng sinh có Phật tánh” cho đến “Được thấy Phật tánh, sau đó thành Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ sáu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ năm, nói dù có chánh nhân, nhưng phải có duyên giúp đỡ, như vàng đá có vàng, phải nhờ các duyên mới được.”

“Ông nói: Chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Vô thượng Bồđề, như đá có ra vàng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước không có câu hỏi này, e sẽ bị lung lạc.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghĩa của câu hỏi này này sinh, nhân đáp câu hỏi trước, vẫn khiển trách “Hoặc” kia.”

“Này người thiện nam! Ông nói Tăng Bảo thường trụ” cho đến

“Do đó, nên Ta nói Tăng có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ bảy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ sáu: Nói giáo xưa đã nói Tăng là thường: Vì Phật trước, Phật sau, Tăng bảo thường tự nối tiếp, đâu cho rằng bất động thường ư? Mười hai nhân duyên thường, nghĩa là có Phật hay là không có Phật, tánh của chánh nhân vẫn không thay đổi, nên nói là thường. Về nghĩa của câu hỏi thứ bảy đồng với câu hỏi thứ ba, nên không có đáp riêng.”

“Này người thiện nam! Ông nói: Nếu chúng sinh có Phật tánh” cho đến “Ta sẽ phân biệt giải thích cho ông hiểu.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ tư, sau đây sẽ giải thích rộng về sự lui sụt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật đáp câu hỏi đã xong. Sau đây chia làm ba lượt, nói về nghĩa đầu, cuối không lui sụt.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Tâm không lui sụt, không gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán đủ duyên không lui sụt, không đủ thì lui sụt.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói vì được chậm, nên nói là lui sụt, chẳng phải mất hẳn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về lý do không lui sụt.”

“Này người thiện nam! Ông không thể dùng tâm lui sụt” cho đến “Và Nhất-xiển-đề đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì lui sụt không tiến bộ là thí dụ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì không thể nói lui sụt, nên không có Phật tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ hai, người lui sụt, không lui sụt, vị lai đều được thành Phật.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là Bồ-tát có lui sụt, không lui sụt?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì có hạnh nguyện, ở trên chỉ có nguyện rộng, chưa nói rộng về hạnh cho nên nêu câu hỏi.”

“Này người thiện nam! Nếu có Bồ-tát tu tập Như Lai” cho đến “Bốn pháp như thế đều là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn pháp như thế đều là thường, nghĩa là tánh nghiệp của chúng sinh có ba nhân một quả. Vì thường, nên không thể suy nghĩa bàn luận là bảy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Được như thế, gọi là không lui sụt. Không như vậy tức là lui sụt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nêu nghiệp của ba mươi hai tướng để khuyên lập hạnh. Vì nghĩa này, nên nói rộng về sự lui sụt, không lui sụt.”

“Do thường này nên không thể suy nghĩa bàn luận” cho đến “Vì không thấy nên không được Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả nghiệp tức chúng sinh, tức tánh của chánh nhân, gọi là thường, nghĩa là vì phiền não, nên gọi là thường. Phiền não đoạn thường, nghĩa là ở trên nói nhân quả đều thường, nhưng chưa phân tích thường có nhân dài, ngắn. Do kiết hoặc nên là thường. Khi kiết hoặc hết thì nhân diệt. Quả do không có hoặc nên là thường. Vì thường, nên không thay đổi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Một thuyết đã khen ngợi xong, nói tất cả chúng sinh và Phật tánh, nghiệp quả, cảnh giới của Chư Phật, đều không thể suy nghĩa bàn luận. Bốn pháp như quả Phật… dù là thường, nhưng vì chúng sinh khởi phiền não, bị nghiệp chướng che lấp, nên thường si mê, không có hiểu biết, cho đến điên đảo, làm sao chẳng phải thường?”

Như trên nói về tính chất thường của phiền não, nghĩa là chính nói ra đoạn văn này. Đầu cuối bị dứt trừ, nên nói là phiền não đoạn, thường gọi là vô thường.”

 

Phần 4

  • Nói về nghĩa ràng buộc, giải thoát.
  • Nói năm ấm trước sau nối nhau. Dùng dấu ấn bằng sáp ong để ví dụ.
  • Danh sắc ràng buộc chúng sinh, chúng sinh buộc ràng danh sắc.
  • Nói phiền não và tập khí làm nhân quả lẫn nhau.
  • Nói rộng về tám thí dụ: Dụ nghịch, dụ hiện tại v.v… .
  • Giải thích rộng ý nghĩa đèn dụ cho đạo Thánh.
  • Giải thích Tu-đà-hoàn dù sinh ở cõi nước vẩn đục vẫn tự giữ giới, dẫn Sư Tử ở Hương Sơn làm thí dụ.
  • Nói rộng về tướng của giới, định, tuệ không thật có.
  • Giải thích mười sáu luật nghi ác.
  • Giải thích nghĩa sinh và nghĩa Niết-bàn đều bất sinh bất diệt.
  • Giải thích nghĩa Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải hai.

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói” cho đến “Do hai nhân này, lẽ ra không có ràng buộc, giải thoát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ ba, nói về ràng buộc, giải thoát. Nếu phẩm trên đã nói quán nhân quả, thì phải từ ràng buộc được giải thoát.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây, lại có bốn đoạn, xét về nghĩa đều đến từ Trung đạo. Trung đạo ở trước là nói về nghĩa. Đầu tiên dùng năm câu chấp “Có”, sau là bảy câu chấp “Không”. Đức Phật giải thích rằng: “Chẳng thể hoàn toàn nhất định là “Có”, chẳng thể hoàn toàn nhất định là “Không”.”

Nay đây dường như muốn thành chấp ở trước, dùng ràng buộc, giải thoát để tu đạo, hai câu hỏi trở thành có chấp ở trước. Đổi chướng, khuyên tu để trở nên vô chấp ở trước. Sở dĩ biết được ràng buộc, giải thoát trở thành có chấp là vì, nếu trong nhân có Phật tánh thì vì bị “Hoặc” ràng buộc, nên gọi là “Phược”. Vì từ nhân đến quả được cởi trói, nên gọi là “Mở”. Nếu khi ở nhân không có tánh, về sau mới có “Nhân”, vì trước đã “Không” cho nên chẳng có sự ràng buộc. Khi quả tự khởi, sinh ở ngoài trói buộc, lại không có sự cởi mở.

Do hai nhân này, “Chánh nhân” tức thần minh. “Duyên nhân” tức muôn điều lành. Đây tự là hữu vi, tồn tại ở ràng buộc, cho đến Kim cương cũng chưa thoát khỏi “Hoặc”, tức là Kim cương bị phiền não trói buộc, sinh ra ở trước, tâm Phật không có lụy phiền, khởi lên ở sau, đâu có từ ràng buộc đến giải thoát ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại văn thứ ba, nói về tướng ràng buộc, giải thoát. Nếu trước kia quán nhân, quán quả, lòng tin được lập, tiếp nối với tu đạo ở đây thì gọi là giải thoát. Nếu đối với sáu hạnh nhân quả này, lòng tin không vững thì gọi là ràng buộc. Nay sẽ nói về lý này, nên trước là nêu lên câu hỏi: “Nếu như Phật đã nói, thì lẽ ra không có ràng buộc, giải thoát. Vì sao? Vì trước ta đã nói là trong chánh nhân có Phật, nên phải “Duyên” liễu mà có ra. Phật nói trong chánh nhân đều không có quả. Vậy thì lúc có ràng buộc, có thể đều không có ràng buộc. Và ngay khi giải thoát kia cũng không hề có ràng buộc làm sao nói từ ràng buộc được giải thoát ư?” Dưới đây, sẽ dẫn chứng việc, như năm ấm đổi dời, niệm niệm sinh diệt, pháp tướng như thế, thì ai ràng buộc, ai giải thoát? Y theo văn này, gồm có năm đoạn:

  1. Nói người tu hành, các ấm truyền nhau trong ba đời.
  2. Phát khởi thể tướng của ràng buộc.
  3. Nói về phương pháp của thể giải thoát.
  4. Nói về ràng buộc, giải thoát không lìa nhau.
  5. Nói về sự ràng buộc giữa hạt và quả khác nhau.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Ở trên nói về Trung đạo, dù rằng về lý thì tướng mạo rõ ràng, nhưng người học căn cơ, khác nhau nếu hiểu rõ thì thành giải thoát, người mê muội thì thành ràng buộc. Vì muốn người học sao cho thuận theo ràng buộc mà vẫn đến với giải thoát, nên đoạn thứ ba dưới đây. Kế là nói về nghĩa ràng buộc, giải thoát. Gồm có năm lượt:

  1. Y cứ không khác với giả.
  2. Nói về nghiệp hết, quả dứt, lý không thể dời đổi.
  3. Cuối cùng, đèn sinh, bóng tối diệt. Nói sau khi quả đã dứt, quả sau sẽ nối tiếp.
  4. Ví dụ dấu ấn bằng sáp, nói về lý do ấm nối nhau, vì lý nhân quả, có tương quan nhau.
  5. Nói về quả báo của trung ấm theo nhau.”

“Năm ấm này niệm niệm sinh diệt. Nó đã sinh, diệt thì ai ràng buộc, ai giải thoát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu Phật tánh trong nhân đã bị kiết ràng buộc, kiết diệt thì giải thoát, danh nghĩa có thể tìm. Nay thân năm ấm sinh diệt, trước nhơ sau sạch, một diệt, một sinh, đầu tiên không kịp nhau, thì ai ràng buộc, ai giải thoát?”

“Bạch Đức Thế tôn! Vì thân năm ấm này sinh ra thân năm ấm sau” cho đến “Chúng sinh cũng giống như vậy, làm sao có ràng buộc, giải thoát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì người ngoài, làm cho họ được thông suốt. Nếu không đến thì sẽ không có người ràng buộc, lẽ ra cũng không có sinh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tâm chúng sinh phần nhiều nghi ngờ lý này, nên Bồ-tát mới nêu câu hỏi. Nếu là nghĩa Trung đạo tròn đầy thì sinh kiến giải cũng tròn đầy. Vì nối tiếp với tánh thấy này, nếu mảy may trái lý, thì mãi mãi sẽ lạc đường chánh đại. Năm ấm này, là dẫn ấm nghĩa thể của ấm không kịp nhau, để thành lối chấp của ngoại đạo. Nói là ấm này tự diệt không đến ấm kia, hai ấm đều ràng buộc, còn không đến với nhau, huống chi là Phật tánh? Mà từ ràng buộc được giải thoát, nếu có ràng buộc, giải thoát, thì phải biết trong nhân đã có tánh?”

“Này người thiện nam! Lắng nghe! Hãy lắng nghe!” cho đến “Như đốt đèn thì bóng tối biến mất, đèn tắt thì bóng tối hiện ra.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý đáp là sự nối nhau giả gọi chúng sinh có kiết, vì trung ấm nối tiếp với tử ấm, vì sinh ấm nối tiếp với trung ấm. Các khổ gọi là ràng buộc, chẳng phải trong nhân có quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y cứ vào hai ấm để giải thích nghĩa truyền trao cho nhau. Câu hỏi của Bồ-tát, vì muốn cho “Đã có tánh ở trong thân, từ “Hoặc” được giải thoát”. Nay nói không cần “Đã có một tánh”. Nhân quả vốn tự cảm vời nhau, hễ có nhân thì có nhân, có quả thì có quả, chẳng thể cả hai đều không. Ở nhân là ràng buộc, từ nhân đến quả là giải thoát. Nếu nói về pháp thật, thì trước không đến sau, nối theo nối tiếp nhau thì trước ràng buộc nay giải thoát.”

“Này người thiện nam! Như dấu ấn bằng sáp in lên đất sét” cho đến “Như khuôn bằng đất sét, đập vỡ khuôn thì hoa văn hiện ra.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dấu ấn dụ cho ấm trước, nét chữ dụ cho ấm sau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại nêu hai ấm làm thí dụ. Dùng lửa hơ cho sáp chảy ra, nét chữ trên đất sét tự hiện . Đến lúc đó mới thấy, không được nói là nét chữ sáp biến thành nét chữ đất sét, vì nét chữ không phải từ đất sét lìa sáp tự nhiên mà hiện ra. Không phải chỗ khác đến, để so sánh với nghĩa hiện ấm, trung ấm. Do lửa hành nghiệp, nên làm cho hiện ấm diệt, ấm của trung ấm sinh, cũng không được nói rằng, trung ấm lìa hiện ấm mà sinh, cũng không được nói sinh ở chỗ khác, mà là bày tỏ hiện ấm làm nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sáp dụ cho người tu hành khi chết. Dấu ấn dụ cho năm ấm lúc chết. Đất sét dụ cho trung ấm của người tu hành. Dấu in trên đất sét, dụ cho năm ấm của trung ấm. Không thay đổi ở đất sét, nghĩa là ấm khi chết với người tu hành cũng không thay đổi thành người trong trung ấm. Nét chữ không phải sinh ra từ đất sét, nghĩa là năm ấm của trung ấm không trực tiếp sinh từ người. Không từ chỗ khác đến, nghĩa là không từ chỗ khác mà được năm ấm của trung ấm vì ấm từ nhân duyên mà sanh văn, do ấm khi chết mà được ấm của trung ấm. Ấm hiện tại diệt, ấm của trung ấm sinh, hợp với dụ trước, nghĩa là dấu in rã, nét chữ hình thành câu, là ấm hiện tại. Cuối cùng trở về không, biến thành năm ấm của trung ấm: Hợp với dấu ấn bằng sáp trước không thay đổi câu văn trên đất sét.

Năm ấm của trung ấm cũng chẳng phải tự sinh: Hợp với dụ trước, nét chữ chẳng phải là câu từ đất sét hiện ra, không từ nơi khác đến: Hợp với dụ trước, là không từ nơi khác đến. “Nhân hiện ấm v.v… “Trở xuống, là hợp với dụ trước, do nhân duyên dấu ấn mà nổi lên thành nét chữ.

“Danh từ dù không khác nhau, mà thời gian đều khác” cho đến “Như dấu ấn bằng sáp in trên đất sét, dấu ấn tan rã, các chữ hình thành”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng phải nhục nhãn thấy, sắc kia mầu nhiệm, Thiên nhãn mới thấy. Ba cách ăn: Tư thực là nghiệp quá khứ. Trong đây va chạm với lạnh, ấm hình thành thân. Bốn tâm của ý địa và năm thức. Các tâm nối nhau, không có đoạn thực. Trung ấm có hai thứ thiện và ác: Trước nói lấy ấm trước làm sáp, trung ấm làm đất sét. Nay, lại nói từ Trung ấm, hướng về chỗ thọ sinh”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Báo Trung ấm mầu nhiệm, chỉ có nhãn thức cõi trời mới nhìn thấy, cũng không có đoạn thực, mà tự giúp thân, nên tùy theo nghiệp dụng của Trung ấm thiện, ác, kia mà chiêu cảm dụng tâm có thô, tế. Về sau, khi cha mẹ giao hội, đều tùy nghiệp mà tìm chỗ sinh, để hình thành thân mình. Khởi ba phiền não giao hội ràng buộc chấp đắm. Ấm của trung ấm hư hoại, hậu ấm nối tiếp khởi, như dấu ấn hư rã, đường nét hình thành”

“Lúc sinh, các căn có đủ, không đủ cho đến” do nghĩa này, nên gọi là năm ấm sinh”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Danh từ dù không khác nhau, nhưng về thời gian thì đều khác. Thời gian dù là một nhưng một sinh, một diệt, công dụng khác nhau”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là phát ra thể ràng buộc. Tùy nghiệp trở thành sớm, muộn, sinh ra nhân duyên ba độc, kiết nghiệp khởi rối loạn, ràng buộc trong sinh tử”.

“Nếu người này được gần gũi Phật cho đến” Do nghĩa này, nên gọi là năm ấm diệt”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dứt nghiệp phiền não, không cảm thọ sinh tử, gọi là giải thoát”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là phát ra thể giải thoát. Sự ràng buộc trôi lăn, tự không phải quán sâu cảnh giới, thì sẽ không do đâu dứt trừ khổ sinh tử”.

“Bồ-tát sư Tử Hống bạch Phật rằng: Trong hư không chẳng có gai đâm, sao nói là khổ? Năm ấm không có trói buộc, sao nói là ràng buộc”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói ấm không dứt, gọi là ràng buộc, mà không nói là chủ trói buộc, nên nêu câu hỏi”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoạn thứ tư, chính là nói về ràng buộc, giải thoát không lìa chúng sinh. Lìa ngoài ràng buộc, giải thoát, không có chúng sinh riêng, nhưng nhân thành giả danh, lìa nhân không có quả. Nếu do “Hoặc” thành con người thì gọi người là ràng buộc.

Do giải thoát mà thành người thì con người là giải thoát. Vì sẽ nói về lý này, nên hỏi rằng: “Hư không vốn chẳng có gai để nhổ, thì ấm cũng không có trói buộc, để mở.”

Phật bảo: “Này người thiện nam! Vì xiềng xích phiền não cho đến”. Vì không có phiền não, nên gọi là giải thoát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đời đời không dứt, do phiền não trói buộc. Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngoài pháp năm ấm, không còn có con người riêng, gộp năm ấm lại tạo ra con người. Nếu năm ấm có bị ràng buộc thì gọi là người bị ràng buộc. Nếu năm ấm đã cởi mở thì gọi là người được giải thoát. Như cây cột chống đỡ nóc nhà, ngoài nóc nhà không có cột riêng.”

“Này người thiện nam! Như ba thứ nắm tay, chắp tay, thắt gút cho đến “Vì không có phiền não, nên gọi là giải thoát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Co ngón tay lại thành nắm, duỗi ra thì nắm tay mất. Co, duỗi, thành, mất không khác với ngón tay, phiền não cũng giống như vậy.”

“Này người thiện nam! Như nói danh sắc ràng buộc chúng sinh” cho đến “Cũng gọi chúng sinh ràng buộc danh sắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ấm dài, kiết ngắn, có sự ràng buộc lẫn nhau mà chúng sinh danh sắc thì không có dài, không có ngắn, lại dùng làm thí dụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nhân thành giả danh, không còn có pháp nào khác khởi lên, ý chỉ ấy mới hiển bày.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như mắt không tự nó nhìn thấy” cho đến “Thế nên ta nói chúng sinh giải thoát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc hai tay chấp lại, thì không có pháp khác nào đến mà chắp lại. Một chắp tay là quả, hai tay là nhân, mà lìa tay không có chắp. Chúng sinh danh sắc cũng giống như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu danh, sắc khác với chúng sinh thì được nói là ràng buộc. Nay, danh sắc và sự ràng buộc là một thể, như mắt không tự thấy, sao nói là danh sắc ràng buộc danh sắc?” Phật đáp: “Dùng hai tay chắp chung, không còn có pháp chắp riêng, vì chính tay là chắp, tức gọi danh, sắc là ràng buộc.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Nếu có danh sắc” cho đến “Khi chưa lìa danh, sắc, lẽ ra cũng ràng buộc?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Danh sắc và chúng sinh, cả hai đều không có dài, ngắn, là đầu mối nêu lên câu hỏi này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ năm, nói về sự ràng buộc giữa hạt và quả khác nhau.”

“Này người thiện nam! Giải thoát có hai thứ” cho đến “Nếu dầu đã cạn hết thì lửa phải tắt, không có nghi ngờ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Danh sắc có ba thứ: Là nhân là quả, chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Phiền não và tập khí làm nhân quả lẫn nhau. Vì phiền não ấm là quả, Phật tánh chúng sinh cũng là danh sắc, chẳng phải nhân quả.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “La-hán đã dứt hết “Hạt phược”, dù có danh sắc nhưng chẳng phải là hạt nhân của sinh tử, chỉ vì số quả báo đã hết, chứ chẳng phải được dứt trừ do đạo đối trị.”

“Này người thiện nam! Dầu dụ cho phiền não” cho đến “Nếu dứt hết phiền não thì sẽ nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có “Hoặc” thì sẽ thọ sinh từ nơi này đến nơi khác, nên gọi là chúng sinh. “Hoặc” hết, thì không sinh, không gọi là chúng sinh, mà gọi là nhập Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đèn dụ cho “Quả phược”, dầu dụ cho “Tử phược” (Sự ràng buộc bởi hạt giống).

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Dầu và đèn” cho đến “Sao Như Lai lại dụ như đèn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia dùng ánh sáng dụ cho chúng sinh. Về sau dùng chúng sinh dụ cho đèn, tức lấy ánh sáng làm đèn, dầu là nhân của sự cháy. Nay, phiền não là chúng sinh trở thành nhân, cuối cùng thì lấy gì làm dụ?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Sư Tử Hống lại chấp dầu và đèn sáng, hai vật đều khác nhau. Nếu nói chúng sinh tức ràng buộc, chấp đắm thì điều này chẳng phải là thí dụ.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Có tám thứ thí dụ” cho đến “Bảy là tiên hậu dụ, tám là biến dụ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn nói thí dụ, có nhiều thứ. Ở đây ví dụ phần ít, sau đây sẽ nói rộng về các ví dụ trái và không trái.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dẫn tám dụ để nói về pháp. Ví dụ không hoàn toàn lấy các pháp đã dụ ở trước, vì là phần ít.”

“Thế nào là thuận dụ? Như trong kinh nói” cho đến “Lại không có chiếc xe khác. Chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý nêu tám thí dụ, là ý ở phần ít.”

“Này người thiện nam! Nếu muốn hợp pháp với ví dụ chiếc đèn kia” cho đến “Không bị các cõi làm ô nhiễm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngọn lửa dụ cho Kim cương, tập khí hết thì diệt.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Năm ấm của chúng sinh” cho đến “Ai là người có thọ lãnh giáo pháp để tu tập đạo hạnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn tu đạo thứ tư, từ ràng buộc được giải thoát, công sức do nghĩa của đường các hạnh. Nói tu đạo là lấy sự chứa nhóm, tập tành làm nghĩa. Chủ hữu vi là không, cũng không có trụ trói buộc, thì có gì để tu đạo?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ tư của đoạn lớn, nói về tu đạo, trở thành câu hỏi chấp “Có” ở trước: “Nếu trong nhân có tánh thì sẽ bị “Hoặc” ràng buộc. Từ nhân đến quả, dứt trừ “Hoặc”, nói là giải thoát. Đã có công dứt “Hoặc”, tức là nghĩa tu đạo được lập. Nếu trong nhân không có tánh thì chỉ là sinh, diệt, niệm niệm vô thường, đương thể tự diệt, đâu có tu đạo để đến Niết-bàn ư?

Y theo tu đạo, chia làm tám đoạn:

  1. Nói tu đạo nối nhau có lợi ích.
  2. Nói về phương pháp tu.
  3. Nói về đạo bình đẳng.
  4. Nhờ nơi chốn, cho nên nói về đạo.
  5. Y theo con người để nói về đạo.
  6. Khiển trách chấp đắm, y cứ vào cảnh giới vô tướng.
  7. Lại, nêu không có mười tướng, khuyên tu nhân vô tướng.
  8. Nêu lại quả cùng cực, khiến tu nhân của mười tướng.

Tâm không dứt: Dù nói là niệm niệm diệt (tắt mất), nhưng chủ yếu là ràng buộc, giải thoát nối nhau không dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về phần tu đạo, chia thành mười đoạn:

  1. Nói về thần thức của chúng sinh dù mỗi niệm tắt mất, nhưng vẫn được có nghĩa tu đạo.
  2. Nói tu đạo được pháp, không được pháp. Nếu quên đi sự ôm ấp được lý thì ra khỏi sinh tử.
  3. Nói về tánh đạo bình đẳng…
  4. Nói về xử đạo.
  5. Nói về thời đạo.
  6. Nói về nhân đạo.
  7. Nói về trừ chấp, làm sáng tỏ đạo.
  8. Nêu ra người năng tu đạo.
  9. Nói về định tuệ giúp nhau.
  10. Nói rộng về câu kiết nhân quả.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh” cho đến “Siêng năng tinh tấn tâm, tín tâm. Định tâm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba tuệ là đạo, bắt đầu từ văn tuệ, niệm là văn tuệ. Tuệ là Tư tuệ, phát tâm là tu tuệ, là sáu thứ lớp.”

“Các pháp như vậy, dù niệm niệm sinh diệt” cho đến “Vì nối nhau không dứt, nên gọi là tu đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói có tu tập đạo, nghĩa là lấy sự nối nhau làm tập.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Các pháp

như thế” cho đến “Cũng dường như nối nhau, thì tu tập thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu lên hai trường hợp để hỏi.

Trường hợp thứ nhất, thích hợp với sáu tâm trên, nói đều niệm niệm sinh diệt, không thể dứt trừ.

Trường hợp thứ hai: “Nếu tương tự thì thấp kém, cũng không có sức tu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi có hai ý: Một là nếu niệm niệm diệt thì thể tự không vững chắc, tức không có lớn thêm; hai là nếu từ bậc hạ sinh bậc trung, từ bậc trung sinh lên bậc thượng thì chẳng phải tương tự nối tiếp nhau?”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Như ngọn đèn dù niệm niệm diệt” cho đến “Cũng có thể làm tăng trưởng cỏ cây, rừng cây.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp trường hợp của câu hỏi đầu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước, khiển trách ý đầu tiên, nói về Nhất thần giải, dù niệm niệm diệt, nhưng phải thầm giúp nhau, nên được có công dụng.”

“Này người thiện nam! Ông nói niệm niệm diệt” cho đến “Thì sẽ phá tan tất cả phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi về trường hợp thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là khiển trách ý thứ hai, ý nói tâm là tánh hiểu biết. Dù thay đổi bất thường, nhưng phải nối nhau không dứt, về lý thường gọi là tăng tiến.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói cho đến làm sao không gây ra nghiệp ác cho được. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nêu xưa Phật nói: Ví dụ tu đạo tương tự, không tương tự để chứng minh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì muốn hỏi lại, trước là nhận lời Phật xưa đã nói. Phật nói: “Vì tâm không dứt, nên được niệm niệm thêm lớn”. Nếu như vậy thì người Tu-đà-hoàn lẽ ra cũng vô lậu. Vô lậu nối tiếp nhau, làm sao bỏ vô lậu mà sinh về cõi nước vẩn đục ư? Nhưng người Tu-đà-hoàn đã được kiến đế vô lậu, không có ba nghiệp lậu, chính là địa vị của Bồ-tát tam trụ, lẽ nào lại cảm thọ báo biên địa ư? Cho nên nghĩa lý mà một nhà xem xét không nên như vậy. Như trong phàm phu ít có năng lực phước đức, còn không sinh ở biên địa, huống chi hàng Tu-đà-hoàn mà chịu quả báo này ư? Nay, nói sinh vào cõi nước vẩn đục, là bỏ kiến đế năm ấm thanh tịnh vô lậu, khởi môn tư duy phiền não, nên nói là sinh vào cõi nước vẩn đục.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Người Tu-đà-hoàn” cho đến “Do năng lực đạo nên không gây ra nghiệp ác”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì kiết sử kiến chấp không khởi, nên không mất tên gọi Tu-đà-hoàn.”

“Này người thiện nam! Ví như ở Hương sơn, có Sư tử đầu đàn” cho đến “Vì năng lực đạo nên không gây ra các điều ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hương sơn dụ cho năm ấm khi được Sơ quả. Sư tử đầu đàn dụ cho vô lậu của Sơ quả, chim thú dụ cho “Hoặc” kiến đế. Núi, dụ cho ấm của cõi nước vẩn đục.”

“Này người thiện nam! Ví như có người uống chất Cam lộ” cho đến “năm ấm của Tu-đà-hoàn cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu rộng các chứng minh không mất.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Thế nào là tu định? Thế nào là tu tuệ?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây là nói về nghĩa tu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn hai là nói về tu đạo được pháp, không được pháp, chỉ vì không gồm chúng sinh, nên nói là không được pháp. Dưới đây có ba lần nói về nghĩa.”

Phật nói: “Này người thiện nam! Nếu có người” cho đến “Tu giới định tuệ đó gọi là Thanh văn. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Lớp thứ nhất là chỉ thẳng cả hai nói về đối nhau, là nói về đắc pháp.

Này người thiện nam! Thế nào lại gọi là tu tập giới, đó gọi là tu tập trí tuệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ hai, y cứ vào năng phá điều đại ác, để nói về được pháp.”

“Này người thiện nam! Tu tập giới cho thân được vắng lặng” cho đến “Vì để được pháp thường, lạc, ngã, tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích rộng tu tướng mạo tu giới, định, tuệ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ ba, nói yếu tâm đại quả gọi là được pháp.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật nói” cho đến “Cho nên Niết-bàn không có nhân, không có quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý câu hỏi là: Tiếp theo giới, định, ở trên thứ lớp sinh nhau mà được gọi là thường, vì nghĩa ấy chưa rõ ràng, nên mới hỏi: “Nếu do trí mà được diệt, diệt là xưa không, nay có, có tức là sinh, sinh tức là diệt, trực tiếp vì không sinh, lại diệt, gọi là thường, nghĩa là sinh cũng như vậy, ngay khi sinh liền diệt, không còn sinh còn diệt, lẽ ra cũng là thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: ““Sinh” này dù là đương thể, nhưng vì không nói về “Trụ”, “Diệt”, nên được gọi là thường, phải có đầu cuối, không thường hằng nên chẳng phải Niết-bàn.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Phật tánh của chúng sinh là đều” cho đến “Cũng không nên nói rằng, Phật tánh như hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân có ba thứ: Chánh nhân, Duyên nhân thì riêng, cảnh giới nhân thì chung. Vì sao?”

Vì ba đạt trí: Một pháp không biết, thì chẳng phải là nhân duyên ba đời của Phật. Mỗi pháp đều có, tức là vô thường, nghĩa là Đức Phật ở chỗ kia đã biết, Đức Phật ở nới này không biết. Vì “Không biết” nên “Hoặc” chưa hết, Phật lẽ ra vô thường?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ ba, nói về tánh đạo bình đẳng. Sẽ nói rộng về lý này, nên trước nêu câu hỏi.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh” cho đến “Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp chung ba nhân, nói đều có chung bình đẳng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngày còn ở quả có sáu đường khác nhau. Sau khi thành Phật, như vậy không có khác.”

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Như Phật đã nói” cho đến “Nhưng Phật tánh này vẫn thường trụ, duy nhất không thay đổi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Rộng nêu các ví dụ để giải thích về đồng tu mà không trở ngại.”

 

Phần 5

  • Nêu rộng duyên khởi thành Câu-thi.
  • Nêu rộng duyên khởi Niết-bàn thành Câu-thi.
  • Nêu rộng duyên khởi Tu-đạt, nêu rộng duyên khởi theo ngoại đạo.

“Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Mười sáu nước lớn” cho đến “Nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúng sinh có chỗ đợi lậu hết, dưới đây là lấy biện xứ làm Đạo, cho nên thưa hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần bốn của tu đạo là chỗ gởi của văn nhân, cho nên nói về đạo. Đại ý có năm nhân duyên, thứ nhất là lợi ích rộng lớn cho người, thứ hai là muốn báo địa vãng ân, thứ ba là muốn trở lại chánh thọ trong đây, thứ tư là bản nguyện của quả ấy, thứ năm là theo ngoại đạo.”

“Này người thiện nam! Ông không nên nói thành Câu-thi-na” cho đến “Thành nhỏ biên địa tệ ác nguy hiểm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước đáp không nên cho rằng đây là nguy hiểm.”

“Này người thiện nam! Ta nhớ thuở xưa cách nay nhiều kiếp như số cát sông Hằng” cho đến “Quyến thuộc của Ta chịu ân mà báo đáp được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói đây là chỗ mới phát tâm, cho nên ở đây.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai là báo ân đất.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Thuở xưa chúng sinh” cho đến “Tam-muội chánh thọ trong rừng cây Sa-la.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói đây là chỗ thuở xưa xuất gia tu đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là muốn lại ở trong đây được Tam-muội chánh thọ.”

“Này người thiện nam! Ta nhớ lại thuở xưa cách nay vô lượng kiếp” cho đến “Trình bày giảng nói kinh Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói đây là chỗ phát nguyện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Bản nguyện của quả thứ tư.”

“Này người thiện nam! Khi Ta mới xuất gia chưa được đạo Anậu” cho đến “Khi ấy ta im lặng nhận lời kia thỉnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì vua Bình-sa trước có thỉnh, cho nên đến đây.”

“Này người thiện nam! Khi ta mới được đạo A-nậu-đa-la” cho đến “Ta liền đến chỗ ấy nhận sự cúng dường của vua.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây đều là theo ngoại đạo, thứ lớp đến đây. Ngoại đạo bấy giờ đều được hóa độ, cho nên đến đây.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là theo ngoại đạo, gồm trước nhận lời thỉnh này.”

“Sáu vị giáo chủ ngoại đạo nhóm họp ở đây” cho đến “Bấy giờ ta nhận lời liền ở trong đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do đó nêu ra việc ở tinh xá Kỳhoàn do Tu-đạt khởi lên.”

“Bấy giờ, sáu vị giáo chủ ngoại đạo sinh tâm ganh ghét, bèn cùng nhau đến chỗ vua Ba-tư-nặc kia.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây nói rộng về danh từ ngoại đạo.”

“Mà nói như vầy: Đại vương nên biết!” cho đến “Đệ tử của sáu vị giáo chủ ngoại đạo vui mừng ra về.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vua biết có lợi ích, cho nên hứa khả.”

“Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc liền ra lệnh trang nghiêm xe giá” cho đến “Tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tuy ngoại đạo đưa đến đã được lợi ích rất nhiều. Bấy giờ sáu vị giáo chủ ngoại đạo đều bảo nhau rằng cho đến tâm Vô Lượng Chánh đẳng Chánh giác.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hễ các vị ấy đến chỗ nào đều lược đã cùng khắp.”

 

Phần 6

  • Nêu rộng việc bàn luận về ý nghĩa ngã, vô ngã với sáu vị giáo chủ ngoại đạo.
  • Giải thích rộng về duyên khởi ở Ta-la Song thọ.
  • Giải thích rộng duyên khởi của ngày rằm tháng hai.
  • Giải thích rộng về nghĩa không trụ mà trụ của tất cả pháp tánh.
  • Giải thích rộng về nghĩa Niết-bàn Vô tướng.
  • Giải thích rộng tướng Xa-ma-tha v.v… của Xả, Định, Tuệ.

“Bấy giờ, sáu vị giáo chủ ngoại đạo đi khắp sáu thành” cho đến “Chỉ giảng nói về thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Sư Tử Hống có khả năng làm cho người đang ngủ say được giác ngộ. Trung đạo mà Phật nói có công năng thức tỉnh giấc ngủ của chấp nghiêng lệch.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngoại đạo đã nghiên cứu về lĩnh vực này, nên họ muốn tìm về nghĩa.”

“Lúc đó, sáu vị giáo chủ ngoại đạo nói rằng” cho đến “Tiếng vang dụ cho mắt, thấy dụ cho ngã.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Căn cơ khác nhau, đều là chấp đắm, mà Kiều-trần-như nghe vô thường để thọ đạo, sáu vị giáo chủ ngoại đạo do ưa đắm ngã, nên trái với chân, nghe nói “Ngã”, vì cùng ưa thích, nên họ nói là mình đã hiểu nhiều, mà ở đây nói chẳng phải sắc là ngã, họ cho là khác với sự hiểu biết của Đức Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong đây, nói qua, nói lại, không khác gì Tiên ni dưới đây, nhưng tự còn có đồ chúng, chưa được vừa ý, cho đến bè đảng đều hết mười sư, mới chịu hàng phục, trở về với chánh đạo.”

“Phật bảo sáu vị giáo chủ ngoại đạo: “Nếu nói người thấy” cho đến “Thấy, nghe sáu trần, nên biết là vô “Ngã”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây có ba câu hỏi về “Ngã” đã chấp. Đây là câu hỏi thứ nhất cho rằng: “Căn chẳng phải “Ngã”, lẽ ra như sự khác nhau giữa người và hướng, vì trong một hướng có đủ thấy, nghe?”

“Dẫn ví dụ phương hướng, dù trải qua trăm năm” cho đến nhiều năm căn cơ thuần thục lẽ ra cũng không khác. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là câu hỏi thứ ba. “Hướng giải thích không có tác dụng, thấy biết chẳng phải hướng.

Nay, nói nhãn căn thuần thục thì mờ tối, nên biết nhãn căn thấy sắc chẳng phải “Ngã”.

“Con người và hướng vì khác nhau, nên thấy trong, ngoài” cho đến “Nếu không thấy thì làm sao có ngã?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba: “Nếu không cùng thấy trong, ngoài thì đâu phải là “Ngã” ư”

“Sáu vị giáo chủ ngoại đạo lại nói: “Này Cù-đàm! Nếu không có “Ng㔓 cho đến “Nếu có “Ngã” thì chính là thường, lạc, tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói thấy thuộc về các “Duyên”, không có cái thấy riêng.”

“Sáu vị giáo chủ ngoại đạo lại nói: “Này Cù-đàm! Nếu sắc không phải là “Ngã”” cho đến “Ngã” ở khắp tất cả mọi nơi như hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tuy nhiên sắc… do nhân duyên, nên có bốn lỗi. Sở dĩ ta nói tướng “ngã” đồng với hư không là vì không do nhân duyên mà hình thành khắp tất cả mọi nơi, thưa hỏi để chia ra phần số. Vắng lặng, thường trụ không thể sinh, diệt mà năng biết, năng thấy, thường ngự trị các hữu tình.”

Phật nói: “Nếu cùng khắp đều có “Ngã”, thì lẽ ra không nên nói rằng” cho đến “Nếu gọi là vô thường thì sao lại nói là khắp được?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có hai trường hợp. Đây là câu hỏi thứ nhất: “Ông và ta là người thấy lẽ ra cũng khắp, nay nếu vật thể ở khắp nơi, thì thấy lẽ ra cùng khắp, mà đã khắp thì sẽ không có vật thể, mà vật thì không khắp.”

“Nếu khắp các chỗ đều có “Ngã”, thì trong năm đường” cho đến “Sao lại nói rằng, chuyển sang thọ thân trời, người?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai: “Nếu khắp năm đường đều có ngã, thì sẽ hợp cùng lúc, mà đã cùng lúc thì không được bỏ thân người để thọ thân trời?”

“Các ông nói “Ngã” là khắp, thì “Ngã” ấy là “Một”, sao lại có kẻ cao thượng, người thấp hèn khác nhau?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ tư: “Nếu mỗi “Ngã” đều có chủ tự tại, thì đâu có sự khác nhau giữa kẻ ngu, người trí? Việc tạo nghiệp lẽ ra cũng đồng nhau?”

“Này! Cù-đàm! “Ngã” của chúng sinh không có bờ mé” cho đến “Nghiệp quả của chúng sinh chẳng thể không khác nhau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa chống chế của ngoại đạo chỉ chống chế cái gần của nhiều ngã, là “Ngã” khắp thường, pháp không khắp, thường, phi pháp thì không khắp. “Ngã” thường dù khắp, nhưng pháp hạnh là trí, hạnh phi pháp thì ngu, chẳng thể không khác nhau.”

“Phật bảo Pháp và Phi pháp của sáu vị giáo chủ ngoại đạo:” cho đến “Nếu không như vậy, thì sao các ông lại nói rằng, “Ngã” là cùng khắp?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu “Ngã” cùng khắp, thì lẽ ra mỗi “Ngã” đều có hai, nghĩa là lẽ ra nghiệp, căn bình đẳng. Nếu không như vậy, thì sao lại nói là “Ngã” cùng khắp?”

“Này Cù-đàm! Như trong một nhà thắp trăm ngàn ngọn đèn” cho đến “Thực hành điều lành, làm việc ác đều không lẫn lộn nhau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý nghĩa chống chế: Như ngọn đèn lớn, nhỏ đều rải rác khắp trong một căn nhà”, nhưng vì không nhận dùng đèn nhỏ, nên không khắp.”

“Nếu các ông nói “Ngã” như ngọn đèn” cho đến “Ngã” của chúng sinh thì không phải như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phá lối chấp này có ba trường hợp. Đây là trường hợp thứ nhất: “Vì từ “Duyên” sinh nên “Duyên” lớn, đèn lớn, có thể khác nhau. “Ngã” không từ “Duyên”, thì không nên khác nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngọn đèn và ánh sáng đều từ “Duyên” mà có. “Ngã” đã không như vậy, thì làm sao dụ cho ánh sáng của ngọn đèn. Cần phải có gốc, có ngọn: Chủ yếu ở ngọn lửa là gốc, ánh sáng ở trên dụ cho ngọn. “Ngã” không phát ra từ thân, mà trụ ở chỗ khác, cho nên vô ngã.”

“Ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn, dừng lại ở chỗ khác” cho đến “Từ thân phát ra, dừng lại ở chỗ khác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai: “Ngọn đèn khác với ánh sáng, “Ngã” chẳng khác với pháp, phi pháp. Nếu khác thì ngã không khắp.”

“Ánh sáng của ngọn đèn kia ở chung chỗ với bóng tối. Cho đến “Nên biết rằng, ánh sáng ban đầu ở chung với bóng tối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba: “Vì ngọn đèn ban

đầu nhỏ, nên không thể xua tan được bóng tối lớn, ở chung với chỗ bóng tối, thì chỗ bóng tối không có ánh sáng, tức là ánh sáng không khắp.”

“Này Cù-đàm! Nếu không có “Ngã” thì ai tạo ra điều lành, việc ác” cho đến “Sư Tử Hống gọi là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không tạo tác thì không có thiện ác. Điều ác là tác nghiệp, tất nhiên phải có tác giả. “Ngã” là tác giả, mà tác giả là hữu vi vô thường!”

“Này người thiện nam! Cặp cây bên hướng Đông là phá vô thường” cho đến “Đại tịch định, gọi là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tám cây, nghĩ định tám pháp. Tám pháp được biểu dương sáng tỏ, vẫn là chỗ ánh sáng.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Như Lai” cho đến “Cho nên Như Lai nhập Niết-bàn vào tháng hai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có khi đợi thời mới lậu tận: Kế thời tiết tức là đạo. Nói Như Lai chân thật, nghĩa là phá thuyết lúc khởi lên bốn đảo.

Sáu thời: Tức là ba thời, mỗi thời đều chia làm hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn văn thứ năm của tu đạo. Thời là Đạo. Đã là chúng sinh vào bến đạo, do khiển trách tình chấp ngang trái của chúng sinh kia, khiến cho giác biết không thật để được yên ổn.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Như Lai lúc mới sinh” cho đến “mà người mẹ thật ra không chết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì từ lúc mới sinh cho đến mới đắc đạo, đều là phương tiện, chẳng phải viên mãn cùng cực, nên chưa mãn mà hiển bày. Nay, đã nói lý tròn đầy, mượn ví dụ như trăng tròn.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Các Tỳkheo nào có công năng trang nghiêm rừng Ta-la Song Thọ này.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp do người mở mang rộng lớn, nên nói về người hoằng pháp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Căn tánh của chúng sinh khác nhau. Nếu phải lấy một ngàn người làm duyên, thiếu một người thì sẽ không ngộ, mà phải đủ số. Nay, lược vài người, nếu nêu rộng ra, thì việc ấy cũng khó có thể làm rõ ngay.”

“Phật bảo: Này người thiện nam! Tất cả các pháp” cho đến “Phương Nam, Tây, Bắc, bốn duy, trên, dưới.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất, giải thích nghi ngờ rằng: “Như Lai nhập Niết-bàn tức là không được tự tại. Nay, khiển trách lối chấp này: “Phật đã cắt đứt mọi ràng buộc của tất cả sắc, trói buộc của phiền não đã hết sạch mà thể nhận vô tướng. Nếu chẳng đạt được

“Không” thì có thể đi, ở.”

“Này người thiện nam! Nếu có thuyết nói rằng thân, miệng, ý ác” cho đến “Trụ trong thành Câu-thi-na, cũng không có việc đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì hữu vi nối nhau, nên trụ không bao giờ có thật trụ. Như Lai đã dứt hẳn hữu vi, không nên thỉnh trụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai là khiển trách chấp. Trước đây đã nói về tướng đạo, nhưng lý “Không” khó yên, vì đối với người ngu thấp hèn chưa tỏ ngộ, nên dẫn ví dụ để nói. Về lý nói là tất nhiên, công phu thực hành điều lành, không thể làm cho họ mắc quả ác mà cũng không thể khiến cho họ làm việc ác mà được quả lành. Hai nhân đã không thể sai khiến, lại nói về đạo, là vô tướng vô vi, cuối cùng trụ ở chỗ nào ư?”

“Này người thiện nam! Nay, Như Lai ở thành Câu-thi-na này” cho đến “Do các nhân duyên trên đây, nên Như Lai vào hang thiền định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói Niết-bàn vô sinh, không có các cõi. Như Lai liền Niết-bàn, mà nói giáng sinh trong cung vua, nhập diệt ở Song thọ, nghĩa là lấy xuất động là sinh, nhập diệt là diệt, dấu vết ứng vật, thì làm sao nhập hang thiền định?

Sẽ chỉ bày ý chỉ thị hiện nhập diệt để đem lại lợi ích cho người đương thời, nên Bồ-tát mới nêu lên câu hỏi này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Khuyên đi đến chỗ Phật mà nhập định, vì hóa độ chúng sinh được Niết-bàn vô tướng.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Định vô tướng” cho đến “Do nghĩa này nên Niết-bàn gọi là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi lại nghĩa Niết-bàn vô tướng. Nói trong Niết-bàn không có mười tướng khổ. Muốn cho người tu hành hướng về tu nhân là niềm vui, biết tướng chấp đắm là lôi lầm, vô tướng là chứng đắc.

Nói về đạo có rộng có lược. Đầu tiên, từ Diệt định, cho đến cuối cùng là môn Phương Quảng. Nay nói về môn lược có hai, chỉ nói về trước, sau của định này.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Các Tỳkheo nào” cho đến “Tu tập tướng xả, đó gọi là ba tướng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói về lợi ích vô tướng của Niết-bàn. Vì lợi do nhân mà được, cho nên hỏi. Thường hay tu tập đến cuối cùng, gọi là ba tướng. Một là tu thời, một là nên tu thời, nhất định có thể dứt bỏ tán loạn, tuệ trừ điên đảo, bỏ điều phục nhanh chậm. Môn lược nêu chỗ cốt yếu. Ba tướng này là yếu hạnh của Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Văn thứ tám của tu đạo. Phát ra người năng tu đạo. Nói Bồ-tát chẳng có lúc nào không tu ba pháp: Định, tuệ, xả, nên nói là thường thường.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Sao gọi là” cho đến “Hai tướng tuệ, xả cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu tâm ở duyên, không tán loạn là định, niệm niệm theo duyên đều không tản mát. Tâm ở một cảnh, không bao giờ gọi là Tam-muội, nếu tâm nối nhau một cảnh gọi là định. Như tâm kia chẳng phải định, chẳng phải trí nhất thiết, “Duyên bốn thì chẳng phải định. Cho nên phá lẫn nhau là vì tu định, tuệ là trí nhất thiết. Trí nhất thiết nghĩa là không pháp nào chẳng biết, gọi là trí nhất thiết. Xét định gọi là trí, một thể phải đủ hai, không đủ thì chẳng phải trí nhất thiết.

Không phải Trí nhất thiết, làm sao gọi là định? Nghĩa là nếu không “Duyên” khác, không biết tất cả, chẳng phải mất thẳng tất cả cũng lại mất đi cái biết thấp, lấy hạnh làm khác. Định, tuệ cũng giống như vậy, nghĩa là cũng dùng phi định để phá tuệ, chứ chẳng phải tuệ phá định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã nói ba tên gọi này, vì chúng đương thời có nghi, nên Bồ-tát Sư Tử Hống đặt ra ba câu hỏi trong một pháp, nêu định để phân biệt, tuệ xả cũng như vậy. Đây là thứ nhất rằng: “Chúng sinh tự có Tam-muội thì cần gì phải tu? Câu hỏi thứ hai: “Định vôn nhiếp tâm một cảnh, Phật đã “Duyên” khắp muôn cảnh, tức lẽ ra chẳng phải định? Câu hỏi thứ ba: “Nếu dùng một hạnh mà được Tam-muội thì tức là chỉ có độ thiền định trong sáu độ, năm độ còn lại lẽ ra không phải? Nếu định không phát sinh ra trí thì cũng chẳng phải định?”

“Phật nói:“Này người thiện nam! Như ông vừa nói” cho đến “Duyên” các cảnh khác như vậy, cũng là một cảnh.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trước, khiển trách câu hỏi thứ hai: “Chỉ làm cho được định trong một cảnh, thì tất cả cảnh đều tĩnh chiếu, nên nói “Duyên” các cảnh khác như vậy cũng là một cảnh.”

“Hạnh cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ ba: “Nói về hạnh sáu độ, đều là tĩnh, đều là tác dụng của kiến giải trong “Duyên”, đâu chẳng phải là trí ư?

“Ông lại nói, chúng sinh trước đã có Tam-muội” cho đến “Sao lại nói rằng không cần tu tập?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý đáp: Dù chia ra phân biệt bốn đế, nhưng đều được “Duyên” lại, vừa là định, vừa là trí. Tam-muội thiện, nghĩa là vì Niết-bàn tu Tam-muội thiện, chẳng phải tâm trụ trong cảnh, tức là nhân Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ nhất. Ở đây nói Tam-muội, gọi là Tam-muội thiện. Tâm hạnh của tất cả chúng sinh dù có thiện ác, nhưng ở đây không cho tâm này là định.”

“Do trụ trong Tam-muội thiện như vậy” cho đến “Thấy Phật tánh gọi là tướng xả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là nói rộng tướng thiện và bất thiện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, đại khái có ba lớp, nói về ba pháp này.”

1. Trực tiếp nói chung tướng định, tuệ, xả.

2. Từ Xa-ma-tha, gọi là chủ thể diệt, để bỏ cách giải thích riêng về ba pháp này.

3. Từ Xa-ma-tha có hai thứ: Thế gian và xuất thế gian, trở xuống giải thích nghiêng về hai pháp định, tuệ. Bồ-tát Thập trụ, năng lực trí tuệ nhiều, mà năng lực Tam-muội ít. Nếu nhiếp tâm ở cảnh, “Không” rong ruổi “Theo duyên” bên ngoài, gọi đó là định. Bồ-tát Thập trụ chưa ở địa vị cùng cực, sẽ không khỏi mong ngóng tâm trên, nên về nghĩa, nói là trí nhiều, định ít, đó chẳng phải là lời nói liễu nghĩa.”

“Xa-ma-tha, gọi là năng diệt” cho đến “Cũng gọi không hành, đó gọi là xả.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thứ hai là Xa-ma-tha. Hán dịch là Định. Trong đây, dùng năm nghĩa để giải thích về Định. Tỳbà-xá-na, Hán dịch là trí tuệ, trong văn này giải thích có sáu nghĩa.

Ưu-tất-xoa, Hán dịch là Xả. Y cứ vào “Giải không” để gọi, trong văn có bốn nghĩa để giải thích về xả”.

“Này người thiện nam! Xa-ma-tha có hai thứ” cho đến “Này người Thiện nam! Đây gọi là tướng Tam-muội.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên là nói chung. Ở đây có công năng của ba tướng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba, là giải thích riêng về tướng trạng sâu, cạn của định tuệ. Vì Xả không có tự “thể” riêng, nên không chia môn. Trong đây tự có hai ý:

1. Chính là nói về sự sâu, cạn của định, tuệ.

2. Nói việc làm của người tu định, tuệ. Về sự sâu, cạn trong định,

thế gian nói là định hữu tướng, xuất thế gian gọi là định vô tướng. Ở đây trước là nói về tướng trạng sâu, cạn của định.”

“Này người thiện nam! Tuệ có hai thứ” cho đến “Lại có bốn thứ, cái gọi là bốn chân đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây sẽ nói riêng về hai thể định, và tuệ. Xả không có tự thể riêng, cho nên không nói .”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích về sự sâu, cạn của tuệ.”

“Này người thiện nam! Vì ba nên tu Xa-ma-tha” cho đến “Vì phá bỏ tất cả phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói ba tướng có nhiều công năng. Nay nói điều quan trọng trong công năng cho nên tu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Lớp thứ hai, kế là nói về tu định, tuệ có chỗ làm. Trước, có ba trường hợp nói về định. Sau, có ba trường hợp nói về tuệ. Kiết hợp hai môn định, tuệ thành sáu trường hợp giải thích nghĩa.

 

Phần 7

  • Vẫn nói về Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na.
  • Nói về ý nghĩa dứt phiền não, hiển bày hai thứ diệt: là Tánh diệt và rốt ráo diệt.
  • Phối hợp ba thứ “Tam-muội Không” với tướng định, tuệ, xả.
  • Nói về thành tựu mười pháp, thấy Niết-bàn vô tướng.
  • Nói bố thí cho súc sinh, được quả báo gấp trăm lần, bố thí cho xiển-đề sẽ được quả báo gấp ngàn lần.
  • Nói rộng về quả báo của nghiệp nhẹ nặng, nghiệp định, bất định và thời gian nhất định, không nhất định….
  • Nói rộng về Bồ-tát không có nghiệp của ba đường, thấy việc thọ báo.
  • Nêu ra duyên khởi Điều-đạt và Phật làm người dẫn đầu đoàn lái buôn.
  • Nêu ra duyên khởi vua Ca-la-phú hình phạt Bà-la-môn.
  • Giải thích: Do năng lực tu đạo nên chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ.

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói trong kinh” cho đến “Vì sao lại tu Xa-ma-tha?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cuối phẩm trên nói tuệ có công năng phá tan kiết. Nay, nói chẳng những trực tiếp công năng của tuệ mà cần phải có ba pháp kiết hợp công dụng, nên trước là nói về định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ chín là tu đạo, nói về định, tuệ giúp nhau. Trên đã nêu người năng tu đạo. Nay kế nói về định, tuệ kiết hợp công dụng, nên trước là nêu câu hỏi: “Nếu trí tuệ có công năng đối trị “Hoặc” thì cần gì phải tu định? Vì phàm phu cho rằng, trí tuệ có công năng dứt trừ “Hoặc”, cho rằng phiền não như hình tượng việc, là cái mà trí tuệ có thể dứt bỏ.

Nay, Đức Phật y cứ vào năm môn để giải thích rằng, chẳng có nghĩa dứt, vì nếu không tu định thì sẽ không đạt được kiến giải. Năm môn đó là:

  1. Y cứ vào pháp thật.
  2. Y cứ vào môn “Không”.
  3. Y cứ vào đến, không đến.
  4. Nói về bạn, chẳng phải bạn.
  5. Suy tìm tánh diệt.

Xét trong năm môn này đều không có nghĩa phá.”

“Phật bảo: Này người thiện nam! Ông nói Tỳ-bà-xá-na” cho đến “Nói rằng có khả năng xua phá bóng tối, thì không có việc đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Với khả năng biết các pháp tự sinh, tự diệt, tuệ không thể phá, nếu chẳng phải do tâm định thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ nhất nói: “Lúc trí tuệ phát sinh, ba tướng đã dời đổi, đương thể tự diệt, trong đạo thật pháp đâu có chủ thể phá, đối tượng phá?”

“Này người thiện nam! Ai có trí tuệ? Ai có phiền não?” cho đến “Nếu phiền não kia đã không có thì sẽ không có sở phá!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ hai là nói về phá và không phá. Vì vô chủ cho nên là không.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ hai nói, về thể tánh đều không, nên chẳng có năng phá.”

“Này người thiện nam! Nếu nói trí tuệ có công năng phá tan phiền não” cho đến “Mà có thể phá thì nghĩa ấy không đúng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ ba, nói về hữu vô. Trí khởi thì “Có”, nên gọi là “Đến”, không khởi thì vô, cho nên “Không đến”. Ý niệm ban đầu nên phá: Một niệm phá tan tất cả kiết, tức là “Không đến”, như sáng và bóng tối trái nhau. Ánh sáng chiếu soi thì bóng tối xua tan, nên “Không đến” tức đồng với phàm phu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ ba nói về thế lực của lời nói. Tương như khi trí đến thì phá tan phiền não, lúc trí không đến thì không phá, nghĩa ấy không đúng. Nói là năng phá, nghĩa là ngay khi trí “Đến”, thì tâm người tu hành phá được, hay khi trí “Chưa đến” mà phá được ư? Nếu khi trí chưa đến mà phá thì ngay niệm đầu lẽ ra phải phá. Nhưng nay người tu hành có vô lượng ý niệm. Nếu niệm ban đầu không phá thì sẽ không cần niệm sau. Nếu niệm đầu vừa đến liền phá tức là “Không đến”. Trí tuệ niệm niệm sinh diệt. Niệm đầu không kịp nhau thì đâu có nghĩa đến, không đến. Nếu nói vì “Đến” kiết hợp với “Không đến” nên phá được, thì cũng không có nghĩa đó.”

“Lại nữa Tỳ-bà-xá-na phá phiền não” cho đến “Tỳ-bà-xá-na cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ tư nói về môn bạn, chẳng phải bạn”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ tư, nói về một đạo trong tám Chánh đạo, nên có chủ năng phá, vì chung nên có thể phá. Nếu một đạo mà phá được thì không cần tu đủ tám. Nếu một đạo không thể thì tám đạo cũng không thể, chính là nêu người mù làm ví dụ để dễ hiểu.”

“Này người thiện nam! Như mặt đất có tánh cứng, hỏa đại, có tánh nóng” cho đến “Quyết định không thể dứt trừ các phiền não”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Môn thứ năm nói về Diệt, không Diệt. Tánh diệt của phiền não, trí không thể diệt. Nếu tánh không diệt thì trí cũng không thể diệt. Trước dùng năm đại làm thí dụ, lấy chất cứng khác làm thí dụ, lẽ ra cũng như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ năm là chia trong đây thành ba ý, nói cũng không có nghĩa “Dứt”. Đầu tiên dùng bốn đại để so sánh. Mỗi đại đều thích hợp với tánh chất riêng của chúng, thì cái gì làm cho chúng như vậy ư? Kế là ý nói: “Nếu nói như tánh muối là mặn, và làm cho vật khác mặn. Trí tuệ mạnh mẽ làm cho phiền não tiêu diệt”, cũng không đúng, ý sau nói: “Phiền não và trí tuệ đều cùng niệm niệm diệt, mà nói là trí tuệ có công năng dứt, cũng không đúng.”

“Này người thiện nam! Như tánh muối là mặn, làm cho vật khác mặn” cho đến “Tánh trí tuệ không phá tan phiền não.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về tánh của kiết chẳng phải diệt, nên trí không thể diệt. Nếu lấy ví dụ muối có thể làm cho lạt, thì trí có công năng diệt được kiết, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì tánh mặn, lạt chẳng đi chung: Lúc vị mặn có thì vị lạt đã thành quá khứ. Quá khứ tự diệt, chứ chẳng phải vị mặn diệt. Nếu pháp hữu, vô diệt thì làm sao trí tuệ mạnh mẽ làm cho pháp đó diệt được, nghĩa là nếu pháp quá khứ diệt, chẳng phải tự nó diệt, thì làm trí tuệ mạnh mà có thể làm cho nó diệt được ư? Thế sao lại nói rằng có công năng diệt “Hoặc”? pháp khác là sự sinh của ngoại đạo, ý suốt qua câu hỏi về sức mạnh nói trên. Có nghĩa là trí lực sáng suốt, mạnh mẽ, còn “Hoặc” thì tánh chất yếu ớt, làm diệt “Hoặc” cũng không đúng. Vì sao? Vì tất cả Pháp vừa sinh thì diệt ngay, sinh tử mạnh yếu đâu thể diệt cái khác?”

“Này người thiện nam! Tất cả các pháp có hai thứ diệt” cho đến “Sinh khác, diệt khác, không có người tạo tác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vật có sức mạnh làm cho cái khác diệt. Về lý thì không đúng, dẫn chứng để phá: Niệm niệm như nước chảy, vừa diệt liền sinh, tức tánh diệt nói trên. Như lửa đốt củi, không còn trở lại củi nữa, rốt ráo mất hẳn, lẽ ra có đốm lửa tàn còn sót lại, nghĩa là sắc chẳng phải lự giải, không đợi phương tiện, nhậm vận ứng khởi là có. Duyên lửa vì đoạt ngang, nên có đốm lửa tàn còn lại, có thể nói là miễn cưỡng tắt. Tâm chờ đợi phương tiện, vị lai chưa có, thì không phải là gượng tắt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm môn trên nói về pháp, nói không có đối tượng dứt. Nay, từ tánh diệt, rốt ráo diệt trở xuống, chắc chắn đối với pháp tướng, phiền não vừa khởi liền dứt. Vì không cần đạo đối trị, nên nói là tánh diệt. Rốt ráo diệt, nghĩa là hiểu được lời nói. Khi khởi lên một niệm si mê, thì không nhận thức đối với muôn cảnh. Nếu tu đạo được hiểu biết thì đối với muôn cảnh đều được sáng suốt, tác dụng mê mờ không bao giờ khởi, gọi là rốt ráo diệt. Khi đạo sinh, cũng không có phiền não để dứt.

Nếu hiểu được không dứt mà dứt, thì gọi là nghĩa đúng. Khi xưa không có kiến giải, nên thường si mê. Nếu một sát-na ánh sáng bừng lên, đối với cảnh đều thấu suốt. Niệm thứ hai trở đi, nói rằng mới được gọi là dứt, một niệm trước không có hình tướng nên không được gọi tên, nếu đến niệm thứ hai trở đi, nói rằng: Trước si mê nay hiểu biết, vốn không dứt mà nay dứt.”

“Này người thiện nam! Nếu không tu tập chánh định” cho đến “Được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do tâm không dạy bảo tuệ, được dụng của định thấy “Không”, sẽ được lợi ích lớn, là lợi ích dứt trừ phiền não.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Khuyên người tu hành nếu không tu định thì sẽ không được chánh trí, chánh kiến, cũng không thể nhận được nghĩa phá và không phá của năm môn trên.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ” cho đến “Định, Tuệ của Bồ-tát cũng giống như vậy.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba là xả công dụng, xả không có pháp riêng làm thể. Chấp gấp rút thì đoạn, sớm trì hoãn thì mất, cấp bách thì dứt. Chuyên “không” thì chấp dứt, ví dụ cho định nhiều. Bỏ “Không” chấp “Hữu”, dụ cho tuệ ít. Đối với “Không”, bất không, đối với hữu, bất “Hữu”, công dụng đồng xả của định, tuệ.”

“Này người thiện nam! Như người thợ dùng kềm, khuôn để gắp và đựng vàng” cho đến “Tu hai pháp này sẽ được lợi ích lớn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kềm, khuôn dụ cho định, khuấy trộn dụ cho tuệ.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đó gọi là niềm vui của Đại bát Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói dứt kiết, ở dưới nói tất cả công đức đều do ba pháp mà thành.”

“Này người thiện nam! Tướng định gọi là “Tam-muội Không” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát thực hành đạo Bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán sinh tử có tướng, quán Niếtbàn vô tướng.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là Bồ-tát biết thời, phi thời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp giải thích nghĩa thời, phi thời ở trên nên hỏi.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết thời, phi thời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nên tu trí, vì trí tăng thì lắm ngạo mạn.”

“Nếu có Bồ-tát siêng tu tinh tấn” cho đến “Đó gọi là Bồ-tát biết thời, phi thời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nên tu định, nghĩa là người này căn tánh chậm lụt, thế phiền não hưng thịnh, tự nghi ngờ việc mình phạm giới, đều do mê đắm định. Cho nên tu không tuệ.

“Này người thiện nam! Nếu có Bồ-tát nào tu tập hai pháp định, tuệ” cho đến “Do nhân duyên này, nên được Niết-bàn vô tướng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai pháp dù bình đẳng, nhưng phiền não dễ sanh khởi, nên lại phải tu cả hai, có khả năng chế ngự phiền não, sau đó mới tu xả.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!Vì không có mười tướng” cho đến “Tức thấy được Phật tánh một cách rõ ràng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp vì người mới tu hành, lại hỏi mười danh từ hữu dư của Niết-bàn, nhằm chỉ rõ lợi ích của vô tướng, giúp cho người mới tu hành có được niềm tin.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đoạn văn thứ mười nói về tu đạo. Dùng câu kiết nói rộng về nhân quả: “Nếu có đủ mười pháp này thì sẽ thấy Phật tánh, được Niết-bàn vô tướng.”

Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ- tát” cho đến “đó gọi là Bồ-tát có đầy đủ tín tâm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có đầy đủ tín tâm: Vì tín là hạnh bắt đầu, đứng đầu trong mười pháp.”

“Hai là đầy đủ giới, thế nào gọi là” cho đến “thì sẽ thấy rõ Niếtbàn vô tướng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích đủ mười hạnh. Cắt đứt được là sinh tử, không thể cắt đứt là Niết-bàn. Từ duyên sinh hữu vi. Từ duyên thấy là vô vi. Quả cũng như vậy.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như trước kia, Đức Phật đã bảo” cho đến “Tam-bồ-đề, nghĩa ấy thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ năm là môn Chuyển chướng. Tu đạo là chuyển nghiệp, kế là nói về đạo. Thuần-đà thọ báo, chưa hết kỳ hạn, làm sao được thành tam-bồ-đề ư”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên chuyển kiến giải tu đạo, trở thành câu hỏi “Đã có” trong nhân. Nay, chuyển biến chướng, khuyến tu, thành bảy chấp tánh không ở trước. Sở dĩ như vậy là vì nói rằng: “Dưới đến súc sinh, trên tận cùng Chư Phật, đều là ruộng phước. Nếu bố thí, thì sẽ được phước báo vô tận”, há chẳng do vô tánh trong nhân, sẽ mãi mãi ở trong ba cõi ư? Y theo chuyển chướng có năm đoạn:

  1. Nói về thể chuyển chướng của nghiệp thiện, ác.
  2. Nói về Bồ-tát dùng nguyện lực đọa vào địa ngục, chẳng phải đọa thật, mà là phân biệt ngoài địa ngục này.
  3. Trở lại thể của chánh nghiệp. Trên nói là nghiệp có công năng chuyển biến tình người, nghĩa là nghiệp báo lẫn lộn, cho nên phải nói.

Dù có chuyển đổi, nhưng về nghĩa nghiệp báo đâu thể thiếu được ư?

  1. Nói ở trên dù nói chuyển, nay nêu ra người tu hành kia.
  2. Nói về người tu hành nhờ thực hành điều gì mà chuyển được nghiệp? Là nêu ra hạnh chuyển nghiệp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì nói về nghiệp không nhất định, nên trước dẫn lời dạy xưa nói về định nghiệp để đặt ra câu hỏi: “Chẳng những nghiệp ác ngăn che đạo, mà nghiệp lành cũng có công năng ngăn che như giáo xưa nói: “Nếu tâm nặng tạo nghiệp, thì phải cảm thọ quả báo.” Nếu vậy, nay, Thuần-đà tâm trân trọng cúng dường Phật, sẽ cảm thọ quả báo cõi trời, cõi người vô tận, sao sẽ nhập cõi Thánh ư?” Bạch Phật Thế tôn! Như trong kinh Phật có nói nếu bố thí cho súc sanh cho đến Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói về quả báo tốt đẹp của thắng địa, không thể dứt sạch nghiệp chướng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thí cho súc sinh, nghĩa là nêu giáo nghiêng lệch để thưa hỏi. Thí cho xiển-đề, là y cứ vào người. Dưới cùng là súc sinh, trên cùng là Chư Phật, thiện ác đồng như vậy. Quả báo của bố thí kia vô tận, đều không nói về nghĩa chuyển, là vì dẫn ra đây để làm câu hỏi. Theo như giáo xưa, Đức Thế tôn nhận cúng phẩm của Thuần-đà, thì sẽ được quả báo vô lượng, đâu có khi nào thấy Phật tánh thành Phật ư?”

“Trong kinh, Đức Thế tôn còn nói: “Nếu người nào có tâm trân trọng” cho đến “Làm sao được thấy Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ hai, do tâm trân trọng, nên ứng với quả vô tận!”

“Trong kinh, Đức Thế tôn lại nói: “Thí cho ba hạng người” cho đến “Hai là cha mẹ, ba là Như Lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba nêu ba hạng: Người bệnh, khởi tâm trân trọng từ bi, vì mang ân sâu nặng nuôi nấng của cha mẹ, Như Lai là ân hơn hết trong bốn ân. Thí cho ba hạng người này, phước ấy bằng nhau, dẫn việc này để làm chứng.”

“Trong kinh, Đức Thế tôn lại nói: “Phật bảo A-nan” cho đến “Nghiệp cõi Sắc, Vô sắc cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tư là nêu lời dạy xưa của Phật thành thuyết. Nếu chúng sinh kia không có ba nghiệp, thì sẽ thành Bồđề, cho nên chúng sinh chưa từng không có nghiệp này, cho nên sẽ chiêu cảm quả báo vô cùng, biết đến bao giờ sẽ được thành Bồ-đề ư?”

“Bạch Đức Thế tôn! Như bài kệ trong kinh Pháp Cú: “Chẳng phải hư không, trong biển cả” cho đến “không thể nào thoát khỏi nghiệp báo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là nêu phải thọ quả báo, không thể tránh khỏi.”

“Lại, A-ni-lâu-đà nói: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Thành tựu đầy đủ Đàn ba-la-mật.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ sáu là nêu ví dụ bố thí một bữa ăn còn cảm được quả báo trong tám muôn kiếp, là so sánh báo cạn với báo sâu.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu quả báo lành không thể cùng tận” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói về tâm thù thắng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ bảy là dùng nghiệp lành để so sánh với nghiệp không lành, cho đến xiển-đề chịu quả báo vô cùng,cho nên không có Phật tánh.”

“Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người thiện nam!” cho đến “Trong mười Lực của Phật, thì nghiệp lực là sâu nhất.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghiệp đã diệt từ lâu, quả sinh ở đời sau. Lý này khó thấy, vì vui mừng nên sinh ngờ vực, chê bai, nói là tâm sâu xa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì sắp đáp câu hỏi, nên trước Phật có lời khen.”

“Này người thiện nam! Có các chúng sinh” cho đến “Vì hóa độ họ, nên ta nói như thế”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mở ra xưa nhất định nói về môn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Theo thuyết xưa nói là báo nặng, không thể đổi dời. Vì e người không tin, nên mới nói nhất định. Nếu xét cho cùng về lý thì không phải như vậy. Nói về nghiệp thì chẳng phải không được quả, chỉ cón có “duyên” khác, thoát khỏi quả ở trước, nên nói là chuyển được.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vốn vì người không có trí, ngu si thấp hèn nên nói. Chúng sinh qua đó, không tin được quả, nên nói lời nhất định này.”

“Này người thiện nam! Tất cả nghiệp gây ra có nhẹ, có nặng” cho đến “Một là quyết định; hai là không quyết định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mở ra môn không nhất định nay, đây là tất cả đều không nhất định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là một lượt, trước mở ra ba môn:

  1. Nói về không nhất định.
  2. Nêu ra ngu trí.
  3. Nêu ra pháp đã thực hành của hai người.”

“Này người thiện nam! Có người nói: “Nghiệp ác không có quả” cho đến “tất cả nghiệp tạo ra, chẳng có nghiệp nào không được quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích xưa nhất định nói về môn.”

“Này người thiện nam! Hoặc có nghiệp nặng có thể làm cho nhẹ” cho đến “dù không nhất định được quả, cũng chẳng phải không được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Theo nghiệp đã tạo ra có nhẹ, có nặng. Đây là lượt thứ nhất, nói nghiệp đều không nhất định.”

“Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh gồm có hai hạng” cho đến “Nghiệp nhẹ ở đời hiện tại, trở thành cam chịu quả báo nặng ở địa ngục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích môn không nhất định. Chỉ có người ngu, trí, là giải thích rõ vì sao không nhất định, là do ở con người. Với tội ác nặng mà chịu báo nhẹ, chẳng phải đều không thọ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là giải thích thỏa đáng về nghĩa chuyển rằng người ngu tạo nghiệp, đáng lẽ phải khổ nhẹ, đàng này vì không biết hổ thẹn, để tu pháp lành, nên tội chướng ngày đêm càng thêm lớn, quả báo nhẹ trở thành cam chịu quả báo nặng của địa ngục. Nếu là người trí, thì xưa kia có gây ra điều ác do thế lực của nghiệp này, đã cảm ba đường, cũng cảm khổ nhẹ, vì họ có duyên tâm tuệ tu thân giới, bèn làm cho quả báo khổ nặng, không còn cảm thọ nữa, chỉ chịu các khổ như nhức đầu… . Về nghĩa tuyên bố là chuyển.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là thứ hai, đưa ra hai hạng ngu, trí.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Nếu như vậy” cho đến “Phạm hạnh thanh tịnh và quả giải thoát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại ý câu hỏi: “Nếu cảm thọ quả báo nhất định, có thể tu phạm hạnh, nếu cầu giải thoát không nhất định, thì cần gì cầu xuất ly ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghiệp đã không nhất định gặp, thì sẽ chuyển ác sinh thiện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây thứ ba, nêu ra pháp mà hai người ngu, trí đã thực hành. Vì định nói về nghĩa, nên Bồ-tát Sư Tử Hống trước nêu câu hỏi này: “Nếu quyết không nhất định, thì tự bỏ được nghiệp, đâu cần phải tu đạo ư?”

“Phật bảo: Này người thiện nam! Nếu tất cả nghiệp” cho đến “Thì tu phạm hạnh và quả giải thoát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đại ý đáp: “Nếu là quyết định thì làm sao được giải thoát? Vì “Duyên” không nhất định, cho nên phải tu phạm hạnh, để cầu giải thoát.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chính vì pháp tướng không nhất định, nên sẽ được nghĩa tu có chuyển. Nếu làm cho nhất định không thể chuyển, thì người ác lẽ ra thường làm ác, thậm chí ít khi tạo nghiệp, lẽ ra ít khi cảm thọ quả báo.”

“Này người thiện nam! Nếu lìa bỏ tất cả nghiệp ác” cho đến “Làm sao có tu đạo Niết-bàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại nêu các nghiệp, nghĩa là nếu nhất định thì sẽ có lỗi như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chính vì không nhất định, nên phải tu đạo. Nếu là quyết định thì tu đạo có ích lợi gì?”

“Này người thiện nam! Nghiệp có hai thứ: Nhất định và không Nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là nói về ba môn trước. Môn sau, lại nêu lần nữa hai hạng ngu, trí. Câu tổng kiết, đều hợp với trước, sau, gồm có bảy môn.”

“Định nghiệp có hai: Một là báo định; hai là thời định” cho đến “Cái gọi là Hiện thọ, Sinh thọ, Hậu thọ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghiệp nhất định, không nhất định ở trên. Kinh Ưu-bà-tắc Giới chép: “Nghiệp có bốn thứ:

  1. Báo định, thời định.
  2. Báo định, thời bất định.
  3. Thời định, báo bất định.
  4. Thời bất định, báo bất định.

Nay, nói hai thứ: Vì hai báo đầu nhất định hợp thành một”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trước đã nói có chuyển. Nay, nêu rộng Báo định, Thế định, để làm rõ nghĩa chuyển được. Nói là Báo, vì về lý không ngoài Thế định, Báo định. Nếu Thế, Báo đều nhất định thì nhà này là nặng. Nếu Báo nhất định, Thế không nhất định thì đây là nhà thứ hai. Nếu Thế định, Báo bất định thì đây là nhà thứ ba. Nếu Báo, Thế đều không nhất định thì đây là nhà thứ tư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần cuối cùng sau đây là ba nghiệp báo đều làm chứng cho tánh nghiệp bất định của môn thứ nhất ở đầu.”

Ý nghiệp có hai thứ: Nhất định và không Nhất định. Nay mở ra bốn trường hợp để nói về Thể của nghiệp:

1. Thời gian nhất định báo không nhất định: Lúc người này tạo nghiệp, bất luận nhẹ, nặng, chỉ là gây tạo trong tâm trạng mạnh mẽ, nhạy bén. Sau khi tạo nghiệp, lại trải qua vận dụng tâm thệ nguyện để theo đuổi nghiệp này, gọi là nghiệp nhất định. Nếu thời gian này khác nhau thì sẽ không bao giờ còn thọ báo nữa.

2. Báo Nhất định, thời gian không Nhất định: Người này khi tạo nghiệp, tâm rất tha thiết, trân trọng, chưa phải quyết đoán. Lại, vì không có tâm thệ nguyện, nên hoặc hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ (Thọ báo trong hiện đời, đời kế, đời sau), đều không Nhất định. Nghĩa là lúc tạo nghiệp không chú trọng lại không dứt khoát.

Cả hai đều Nhất định: Trái với các trường hợp nói trên.”

“Này người thiện nam! Nếu tâm nhất định gây ra những nghiệp thiện, ác…” cho đến “Cúng dường Tam bảo, thì đó gọi là nghiệp Nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích về Định nghiệp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong bốn trường hợp này, trường hợp một, hai, bốn đối với người ngu đều nhất định. Nếu là người trí, thì cả bốn trường hợp đều không nhất định. Người ngu vì không có thân giới, tâm tuệ, cho nên đều thành báo nhất định.”

“Này người thiện nam! Người trí với gốc lành sâu chắc, khó nghiêng động” cho đến “Tất cả nghiệp đều không gọi là Nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích nghiệp không Nhất định.”

“Đại Bồ-tát không có nghiệp địa ngục” cho đến “Chẳng cảm thọ nghiệp ác ở hiện đời, đời kế, đời sau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã dứt nghiệp nhất định, nghiệp không nhất định. Với nghiệp không nhất định, chứng minh thọ báo do nguyện lực. Tất cả nghiệp không nhất định, làm cho địa ngục thành không, là nói ích lợi của sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người trí vì có bốn tính chất này nên đều không không nhất định; do đó nên Bồ-tát thường ở địa ngục để khai ngộ chúng sinh. Nếu nghiệp Bồ-tát nhất định, thì đâu thể giúp cho chúng sinh lìa khổ, sanh lên cõi trời, cõi người để tu tiến công đức.

“Này người thiện nam! Trong kiếp Hiền này” cho đến “Chẳng

phải thọ báo hiện đời, đời kế là, đời sau là nghiệp ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước đã nói không có nghiệp địa ngục. Ở đây nói không có nghiệp đang cảm thọ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói các Bồ-tát hóa sinh trong địa ngục đó chứng minh rằng, nghiệp không nhất định.”

“Này người thiện nam! Trong kiếp Hiền này” cho đến “Không phải quả báo đang thọ đời kế tiếp, đời sau là nghiệp ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói không có nghiệp ngạ quỷ cũng đang cảm thọ.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Trong kiếp Hiền này, ta từng sanh vào nhà giết mổ” cho đến “Chẳng phải trong hiện đời, đời kế tiếp, đời sau đều thọ nghiệp ác ấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói không có báo chướng về tám nạn…”

“Này người thiện nam! Ta nhớ lại thuở xưa ở quá khứ” cho đến

“Đó gọi là Đại Bồ-tát nói quả báo hiện đời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại nêu rộng việc duyên khởi, thuở xưa về Đề-bà-đạt-đa .

Này người thiện nam tử! Ta nhớ lại thuở xưa cho đến đó gọi là Đại Bồ tát nói về quả báo hiện đời. Pháp sư Tăng Lượng nói: Lại nêu rộng về duyên khởi để chứng minh lại lâu nay không có.”

“Này người thiện nam! Sinh báo, Hậu báo của nghiệp lành” cho đến “Tất cả các nghiệp đều có hiện báo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trước đã nói về hiện báo. Nay, nêu sinh báo cũng giống như vậy, đều là nguyện lực từ thiện, cũng đang cảm thọ.”

“Nghiệp ác bất thiện có hiện báo” cho đến “Đó gọi là hiện báo, thọ báo của nghiệp ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trước nói dùng nghiệp lành để nguyện thọ, nay là nói dùng nghiệp ác để nguyện thọ.”

“Sinh báo: Như Nhất-xiển-đề đã phạm bốn trọng cấm và năm tội nghịch.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba hạng người này vì đều có tội nặng, nên sinh báo. Chỉ người nào khởi được nghiệp này, vì thân người nhỏ, chịu khổ ít, nên không được hiện thọ.

Quả báo sau: Như người giữ giới, phát thệ nguyện sâu” cho đến “Vua Chuyển Luân giáo hóa chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Báo của thân tịnh giới được thân tịnh giới và vua chuyển luân. Vì chẳng phải một thân mà nhóm hợp được, nên sẽ thọ báo sau.”

“Này người thiện nam! Nếu nghiệp nhất định có quả báo ở hiện đời” cho đến “Người không chứa nhóm điều lành, thì nghiệp nhẹ mà thọ báo nặng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghiệp hiện báo nhẹ, không thể được báo sau. Vì nghiệp báo đời sau nặng, nên đời hiện tại là chánh báo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gồm có mười hai thí dụ: Nói rộng về môn thứ hai ở trên, nêu ra việc của hai hạng người ngu, trí. Bởi muốn làm sáng tỏ hiểu biết của người trí, thì việc che lấp của người ngu có thể không răn dạy được ư?”

 

Phần 8

  • Nói rộng nghĩa chuyển chướng.
  • Giải thích rộng nghĩa tu thân, nêu bốn con rắn đựng trong một cái trắp làm ví dụ.
  • Giải thích rộng ý nghĩa tu giới, giải thích rộng ý nghĩa tu tâm, giải thích rộng ý nghĩa tu tuệ, nói lại ý nghĩa tu thân giới, tâm, tuệ.
  • Nói lại ý nghĩa chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành nặng.
  • Bồ-tát Sư Tử Hống nêu lại sáu việc làm câu hỏi, cho rằng không cần tu đạo.
  • Đức Phật nêu bảy người ở sông Hằng để làm thí dụ, nói về cần phải tu đạo. Đáp rông các câu hỏi ở trước.
  • Nói về Phật tánh là thường, nên không ở trong nhân, như mười hai nhân duyên không có chỗ ở nhất định.

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chuyển báo nặng của địa ngục thành thọ báo nhẹ ở hiện đời?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phẩm trên đã nói hai ví dụ ngu, trí, chưa nói về hành vi của hai người. Nay nói về thân giới, tâm tuệ là việc làm của người trí, để chứng minh rằng, đạo có năng lực chuyển chướng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây, là nói rộng tướng của hai nghiệp thiện ác, nghĩa là có người dùng nghiệp như thế này thì chuyển, dùng nghiệp như thế này thì không chuyển.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là phần ba, nói rộng về pháp mà hai người trên đã thực hành. Sẽ nói về pháp sở hành, nên một mặt trước nêu hai người. Y theo trong đây để nói về phạm hạnh thanh tịnh, gồm có ba thứ. Nếu y theo kinh giáo ngày nay, thì tu thân giới, tâm tuệ, tất cả nghiệp đều không nhất định. Tu thân: Tạo ra quán bốn niệm xứ.

Tu giới là thanh tịnh thân, miệng, ý, được giới chánh ngữ, chánh nghiệp. Tu thân: Được giải thích nhất định. Tu tuệ là Nhập kiến giải vô lậu, nếu tu bốn pháp này, thì sẽ chuyển nghiệp nặng thành thọ báo nhẹ. Nói về nghĩa này thật khó hiểu. Vì nếu tu tướng lành thì ngăn tướng nặng, thành tướng nhẹ. Về lý cũng có thể đúng, nhưng nay, tu bốn pháp này chính là vô lậu. Sức vô lậu ban đầu tự nó có khả năng đối trị nghiệp nặng, còn nghiệp nhẹ khác thì chẳng phải năng lực của chính mình. Thọ báo từ cõi trời, cõi người, đâu có chuyển. Về lý, thật không có nhẹ, nay sở dĩ có lời nói này là vì đối với người ngu. Người ngu nghe nói lời này, bèn muốn siêng tu. Nếu tu bốn pháp này được thành tựu, thì nghiệp nặng sẽ dứt trừ trước, nghiệp khác vẫn còn phải chịu trong cõi trời, cõi người. vốn trước đây là quyến thuộc của nhà nặng, hễ tạo nghiệp nặng này thì phải có phương tiện, chứ chẳng phải bỗng nhiên nặng ngay. Nếu làm cho không hướng về bốn pháp, thì chớ nói nhẹ, nặng, đều phải chịu quả báo địa ngục.

Nay, đã tu bốn lực, nghiệp nhẹ khác không thể riêng chịu quả báo nặng. Vì thọ nghiệp nhẹ ở cõi trời, cõi người, nên nói rằng chuyển nặng thành nhẹ. Về nghĩa chuyển nhẹ thành nặng cũng giống như vậy. Nghiệp nhẹ lẽ ra được sinh cõi trời, cõi người. Đã không có năng lực của tâm giới, tức thọ nghiệp này trong ba đường, cũng không phải nghiệp nhẹ thọ ở chỗ nặng.”

“Phật nói: Tất cả chúng sinh gồm có hai hạng” cho đến “Thân giới, tâm tuệ, đó gọi là ngu si.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây có “Lại nữa” để nói về bốn pháp này, mượn một câu sâu, cạn, rộng lược làm lời. Ở đây còn phán quyết chung hai con đường ngu trí, để nói về tu và không tu.”

“Sao gọi là không tu thân” cho đến “Không tu hạnh Thánh, gọi là không tu tuệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ nhất năm căn là thân nghiệp, cũng là phiền não, vì dẫn đầu cho nên nói.”

“Lại nữa”, người không tu thân thì không thể đầy đủ” cho đến “Người không tu tuệ, vì không tu phạm hạnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ hai là giới để ngăn ngừa thân, giới không đầy đủ, nghĩa là không tu thân.”

“Lại nữa”, người không tu thân thì không thể quán thân” cho đến “Không khéo giữ gìn tâm, gọi là không tu tuệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ ba y cứ vào môn quán để làm nghĩa.

“Lại nữa”, người không tu thân thì không thể quán sâu” cho đến

“Không thể đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ tư, y cứ môn vô thường làm nghĩa.”

“Lại nữa”, người không tu thân thì tham đắm thân mình” cho đến “Không thể phân biệt được pháp thiện ác….”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ năm, nói lại không quán là quả ở trên.”

“Lại nữa”, người không tu thân không dứt ngã kiến” cho đến “Người không tu tuệ, không dứt tâm si mê.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ sáu, vì không dứt thân kiến, nên không gọi là tu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đây, y cứ vào nghĩa quan hệ nhau để nói về bốn pháp. Nếu ai thực hành được bốn pháp này thì sẽ được điều mà họ mong cầu, sẽ thành người trí.”

“Lại nữa”, người không tu thân, thì không thể quán thân” cho đến “Ân cung cấp áo cơm ngày xưa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ bảy, không thể quán năm lỗi của thân. Ở đây có năm lớp nói về năm môn, đây là nói chung về lỗi của năm môn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ đây trở xuống, cuối cùng là chim cánh vàng, thứ hai là nói riêng về bốn pháp.”

“Này người thiện nam! Ví như có vị vua nuôi bốn con rắn độc” cho đến “Một trong bốn con rắn này tức giận, thì sẽ hại chết người.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho môn khổ.”

“Này người thiện nam! Như người bị bệnh đã lâu, phải nên hết lòng” cho đến “Thân tất cả chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho môn vô thường.”

“Này người thiện nam! Cũng như trong thân cây chuối, không có ruột chắc, thân tất cả chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho về môn “Không” vô tánh.

“Này người thiện nam! Như rắn, chuột, chó sói, mỗi con đều rắp tâm hãm hại lẫn nhau” cho đến “Bốn đại của chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ về môn “Không tự tại”.

“Này người thiện nam! Ví như con ngỗng đầu đàn không ưa thích chỗ gò mả” cho đến “không quán sát như vậy, thì không gọi là tu thân.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gồm bảy ví dụ, nói về môn Bất tịnh. Bảy thứ là:

  1. Chủng tử (hạt giống) bất tịnh.
  2. Trụ xứ bất tịnh.
  3. Xuất môn bất tịnh.
  4. Thể tánh bất tịnh.
  5. Chín lỗ bất tịnh.
  6. Các vi trùng bất tịnh.
  7. Làm nhiễm ô vật dụng, y phục sạch.

“Người không tu giới. Này người thiện nam! Nếu không thể quán sát” cho đến “Người quán sát như vậy, gọi là không tu giới.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kẻ ác không thấy lỗi của họ. Người thiện thường biết tội mình, khéo xét lỗi mình, giới, tuệ nên biết năng lực của nó.”

“Người không tu tâm, chẳng thể quán tâm” cho đến “Người không thể quán như thế gọi là không tu tâm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm chấp tướng đứng đầu các lỗi lầm.”

“Người không tu tuệ, không quán trí tuệ” cho đến “Người không quán như thế, thì không gọi là tu tuệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chân tuệ, mẹ của Chư Phật, Bồtát, có công năng tu tập, gọi là hạt giống.”

“Này người thiện nam! Trong Bậc nhất nghĩa” cho đến “Nếu có người thấy như vậy, thì gọi là không tu tuệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ bảy, lớp này rất sâu, thân là giả. Giới, tâm, tuệ cũng giống như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là nói về tu. Ý chứng đắc của bốn pháp này cho rằng nếu tu luống dối, thì bốn pháp này sẽ mau thành, nếu cái “Có” ấy tồn tại, thì dù thực hành vô ích. Bậc nhất nghĩa ở đây chẳng phải là Bậc nhất nghĩa “Không”, chỉ vì nói tâm chấp thật có của phàm phu, y cứ vào tâm này làm bậc nhất. Nếu thấy thân là thật, không từ nhân duyên sinh ra như thế thì tu thân chẳng được nói là tu. Các pháp khác cũng giống như thế.”

“Này người thiện nam! Nếu có người không tu giới thân, tuệ, tâm” cho đến “Giống như địa ngục có việc gì khổ?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cho là không tu bốn pháp, thì chắc chắn mắc tội tướng, nói là ta có, dù nghe người trí nói, cũng không sinh sợ hãi.”

“Ví như con lằn xanh ăn mật bị dính” cho đến “Tội nghiệp của người này cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhằm nói lại người ngu vì che giấu tội lỗi mình, không ăn năn sám hối, nên biến tội nhỏ thành tội lớn, chỉ nêu ba thứ để làm thí dụ.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Vì sao người này làm cho báo nhẹ ở hiện tại trở thành cảm thọ quả báo địa ngục?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói không tu bốn việc, mà chưa nói về lý do không tu. Vì muốn nói cụ thể các việc ác ở dưới, nên nêu câu hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đã nói rộng lược về sáu môn, bốn pháp này xong. Nay, sau đây là đoạn bảy lại nêu hai người để làm câu kiết: Giải thích rộng về tội ác của người ngu, nói lược về việc lành của người trí.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh” cho đến “Báo nhẹ hiện đời, sẽ phải thọ báo nặng ở địa ngục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu năm việc của hai lớp, để giải thích lý do không tu bốn việc nên chuyển nhẹ thành nặng.”

Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Người nào có khả năng chuyển báo địa ngục trở thành thọ báo nhẹ ở hiện đời?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì hiểu trống không, nên sở dĩ tội không dứt, là vì tâm người đó không mê đắm.”

“Người này làm cho nghiệp ác rất nặng” cho đến “Làm cho báo nặng của địa ngục trở thành thọ báo nhẹ ở hiện đời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tội ác sinh ra ngang trái, không có cội rễ, hiểu rõ về không, vì từ lý nên có năng lực lớn. Cho nên vàng ròng dù ít, nhưng vẫn hơn đống hoa.”

“Này người thiện nam! Do các nghĩa này, nên chẳng phải tất cả nghiệp” cho đến “Cũng chẳng phải tất cả chúng sinh đều chịu báo nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tổng kiết ý chí ở trên.”

Bồ tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đều không được Đại Bát Niết-bàn này.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoạn sáu là khuyên tu. Vì đạo có công năng chuyển chướng, cho nên khuyên tu. Có hai câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất: “Nếu nói nghiệp là chướng không nhất định, mà tánh là nhất định. Nhân thì nhất định tốt đẹp hơn không nhất định. Vì sao không dùng tánh để chứng đắc?

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vẫn trở thành bảy lối chấp vô tánh ở trước, cho rằng: “Nếu có tánh thì tự nhiên thành Phật, cần gì phải khuyên tu? Chính là vì khuyên tu mới được, nên biết rằng, khi được thành Phật mới có tánh. Gồm có bốn đoạn:

1. Năm câu hỏi, làm cho trong nhân vô tánh, nếu chắc chắn có thì tự nhiên thành Phật. Đức Phật dùng bảy hạng người để đáp chung.

2. Nói pháp mà Như Lai thấy biết là chân thật, rõ ràng sáng suốt, khác với phàm phu. Phàm phu như người mù rờ voi, Như Lai thì vì đã hội nhập Trung đạo, nên không cần khuyên. Nêu thể của Phật tánh, để nghiệm xét không lầm.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu muốn gần lìa chướng nặng, xa chứng thì không quả Phật thì gì hơn tu đạo, cho nên mới khuyên tu”.

“Bạch Đức Thế tôn ! Nếu tất cả chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Cần gì phải tu tập tám Thánh đạo?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ hai. Tánh là nhân của định, sức nhân thì mạnh, vì mạnh, nên không cần tu đạo để giúp đỡ nhau”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, là bỏ năm lớp của phàm phu. Trên đây là lớp thứ nhất, câu hỏi của Bồ-tát Sư Tử Hống: “Nếu chúng sinh có Phật tánh chánh nhân, thì sao không tự nhiên chứng đắc Niếtbàn? Rồi mới tu nhân duyên luống dối ư?”

“Bạch Đức Thế tôn! Như trong kinh này nói: “Người bị bệnh” cho đến “Vì sao? Vì là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây có sáu việc chứng tỏ không có tu đạo, để thành câu hỏi thứ hai. Việc thứ nhất này là nêu lên kinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ hai cho rằng nếu chúng sinh đã có chánh nhân, do năng lực của chánh nhân, đáng lý tự nhiên thành Phật, cần gì phải tu đạo?” sau đây sẽ nêu lên năm việc để chứng minh thành câu hỏi này, nói về không cần sức đạo.”

“Bạch đức Thế tôn! Ví như mặt trời, mặt trăng, không gì có thể ngăn che” cho đến “Vì không do năng lực tu tập Thánh đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trong đây nêu ba việc: Một là nói mặt trời, mặt trăng tự nhiên, đến núi Át-đà; hai là nói sông chắc chắn chảy ra biển; ba là nói xiển-đề chắc chắn đọa địa ngục, đều không cần nhân duyên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong đây nêu ba việc để làm chứng.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu Nhất-xiển-đề phạm bốn trọng cấm” cho đến “chẳng phải do tu tập mà được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ năm nói được Bồ-đề không do tu đạo, chính là qun hệ Phật tánh để chứng minh rằng nghiệp chướng không nhất định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là việc thứ tư.”

“Bạch Đức Thế tôn! Ví như đá nam châm, dù đặt cách xa sắt” cho đến “Nên không cần siêng năng tu tập Thánh đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là việc “Sự thứ sáu, lại không có pháp riêng lẻ, vì trực tiếp do tánh, cả hai đều hút sắt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là việc thứ năm.”

“Phật nói: “Lành thay! Lành thay, này người Thiện nam!” cho đến “Thoát khỏi bọn giặc cướp, lòng rất vui sướng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi đầu. Bảy người đều đủ tay chân dụ cho Phật tánh. Người có tập lội thì lội qua sông được. Kẻ không tập lội, thì không lội qua được, dụ cho tu đạo. Chúng sinh cũng giống như vậy, đều có Phật tánh, nhưng nếu không tu Thánh đạo thì sẽ không được Niết-bàn. Là do lỗi của phiền não. Chúng sinh do ba việc nên bị đọa vào sinh tử:

  1. Vì tắm gội, ví như dứt phiền não.
  2. Vì sợ bọn cướp, dụ cho sợ khổ sinh tử.
  3. Vì hái hoa, dụ cho tu công đức.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới là xiển-đề, trên đến Chư Phật thành bảy người. Nếu là người vì tắm gội: Là nói bậc Thánh vô lậu, dứt hẳn phiền não, như tắm gội, rửa sạch chất nhơ bẩn, hoặc vì sợ hãi: Người Nhị thừa Thanh văn sợ hãi bốn ma, hoặc là Phàm phu hái hoa tham năm dục thế gian, để thỏa thích tâm mình. Ba hạng người này vì đều có việc làm, nên đều lội xuống sông, vận dụng cả thân tay của mình, nói hoặc phàm, hoặc Thánh, vì tâm mong mỏi khác nhau, nên trong dòng sông sinh tử. Mỗi người đều tu điều lành của mình, tùy dùng năng lực của mình, nên có bảy hạng người khác nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay, dùng bảy người ở sông Hằng để đáp câu hỏi thứ nhất: “Như bên sông Hằng, bảy người đều có đủ tay, chân, nếu không tập lội thì không thể lội qua sông được. Chúng sinh dù có Phật tánh, nhưng phải tập lâu “Duyên” nhân lành, mới mong được thành Phật. Vì sao lại hỏi rằng: “Tự nhiên hành đạo mà được thành Phật ư?”

Trong đây, mượn sông Hằng để làm thí dụ, nghĩa là dùng sinh tử làm sông, nói dù chúng sinh còn ở trong sông sinh tử, nhưng vì chưa nhận thức sinh tử và đạt đến quán sát, tin hiểu lời nói của bậc Thánh, mới nhận ra lỗi lầm của sinh tử kia, nên nói là xuống sông. Ý xuống sông, gồm có ba nghĩa:

1. Dụ cho dứt trừ phiền não.

2. Sợ tám khổ sinh tử.

3. Như tu muôn điều lành, bảy người ở sông Hằng này dù đều đã từng là Nhất-xiển-đề, nhưng phải thực hành khác với đương thời. Người thứ ba, vì tin thường, nên sợ công hạnh được thành là nhờ vào sự hiểu biết này, vẫn được thoát khỏi sinh tử.”

“Này người thiện nam! Sông lớn sinh tử cũng giống như vậy” cho đến “Như người thứ nhất bên sông Hằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người thứ nhất đó là Xiển-đề.”

“Này người thiện nam! Bọn Nhất-xiển-đề có sáu nhân duyên” cho đến “Cho nên thường đọa trong ba đường ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đầu tiên, dụ cho ngoại đạo, phàm phu, cho đến xiển-đề, vì xiển đề không có trí tuệ, không có tâm chánh kiến, vì không tập bởi tu đạo.”

“Người thứ hai có ý muốn lội qua” cho đến “Như người thứ hai bên sông Hằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người thứ hai, tạm nổi lên nhưng lại chìm. Người không tập bơi, vốn không tu giới, định, tuệ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù rằng tập quán sát bốn ý chỉ, nhưng vì trí lực chưa sâu, nên người đó vẫn còn lui sụt. Nói “Chìm rồi lại nổi lên”, nghĩa là vì tập quán thấy nghĩa lý là nổi lên, chưa thể gọi tên. Nói nổi lên rồi lại chìm xuống, vì sức lớn nên nổi, là đã quán vô thường, khổ…, đối với ngoại đạo, phàm phu là sức lớn. Người không tập bơi, như sức quán cạn cợt.”

“Người thứ ba, có ý muốn lội qua” cho đến “Như người thứ ba bên sông Hằng.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví dụ được pháp Noãn trở lên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Năm căn đã lập, cho đến mười lăm tâm kiến đế trở xuống, đều không thối vị.”

“Người thứ tư có y muốn lội qua” cho đến “Như người thứ tư bên sông Hằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví như bốn quả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Quán bốn phương, nghĩa là người bốn quả, quán đế bình đẳng. Trụ: Vì tập lội nên không chìm. Vì Tiểu thừa không hy vọng tiến lên nữa, nên như trụ. Vì không biết chỗ xuất ly, là người giáo hóa chúng sinh trong sinh tử, hoặc khéo vận dụng phương tiện cho nên biết xuất ly. Người Nhị thừa vì không biết tuệ của đấng Đại sĩ, nên nói “Không biết xuất ly.”

“Người thứ năm, có ý muốn lội qua” cho đến “Như người thứ năm bên sông Hằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví như Duyên giác không tự ngộ, có một ít vượt hơn Thanh văn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Như Duyên giác. Nói quán phương đã qua, nghĩa là so sánh với Thanh văn, căn, lực là hơn. Dù không hướng về Phật, nhưng vì dứt tập khí mà trừ “Hoặc” ngoài ba cõi, nên về nghĩa nói là cách.”

“Người thứ sáu có ý muốn lội qua” cho đến “Như người thứ sáu bên sông Hằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví như Bồ-tát.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sơ Địa trở lên, cho đến Thập địa, chỗ cạn: “Hoặc” mà Sơ địa dứt không bằng Nhị thừa chứa nhóm nhân đã lâu, năng lực lành được huân tu, so lường sinh tử trong một niệm. “Hoặc” của họ dù còn, nhưng dứt thì không khó, tức là sinh tử có bờ mé, nên nói là chỗ cạn.”

“Người thứ bảy có ý muốn lội qua” cho đến “Ngọn núi cao lớn, dụ cho Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ví như Đức Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Núi lớn, là Niết-bàn.”

“Này người thiện nam! Các người như vậy, ở bên sông Hằng này” cho đến “Tất cả chúng sinh không được Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Người có đủ tay, chân mà không tập bơi dù có Phật tánh, nhưng không tu tu tập đạo, thì do đâu mà được thành Phật ư? Ví dụ này đã giải thích, thì năm câu hỏi tự tiêu.”

“Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc” cho đến “Liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tay, chân là nhân của tập bơi. Vì không tu tập giới, định, tuệ, nên không thể lội qua sông được.”

“Này người thiện nam! Ông nói chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Vì không tu Thánh đạo, nên không được thấy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai. Trước nêu, sau cùng là chứng minh, dụ cho Bồ-đề. Rưới, dây kéo nước, múc nước, lấy, dụ cho tám Thánh đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu việc thứ năm để đáp riêng, nói có nhân quả vì như đá nam châm, đâu thể không cần tu đạo ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ hai. Đá nam châm hút được sắt. Nếu “Duyên” không đủ thì không thể. Chúng sinh cũng vậy. Dù có Phật tánh, nhưng nếu không tu đạo thì không được. Có người đi ở chỗ hoang vắng, dụ cho cho phàm phu đi trong sinh tử. Khát nước là nghĩ chán khổ, gặp được giếng là kinh giáo Niết-bàn. Rất sâu: Lý tánh của nhân quả khó biết. Dù không thấy nước, nhưng phải biết rằng chắc chắn có. Tanh nhân quả dù khó biết, nhưng ở lai sẽ có. Tìm kiếm, rưới, dùng dây kéo, dụ cho tu đạo. Giếng dù có nước, nhưng không có rưới, thì không được. Phật tánh của chúng sinh, làm sao không tu đạo mà thấy được ư?”

“Này người thiện nam! Như ông vừa nói: “Ở thế gian có người bệnh” cho đến “Ta nói nghĩa như vậy cho các Bồ-tát nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp chứng minh ban đầu.

Phiền não, phần đoạn đã hết, nhậm vận tự thành Phật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu việc thứ ba. Sở dĩ nói đều khác nhau, là vì Bồ-tát Lục trụ, chẳng lẽ thường truyền bá mà không cần tu ư?”

“Này người thiện nam! Ví như hư không, đối với chúng sinh” cho đến “Vì chắc chắn được, nên ta nói tất cả đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây nêu ba việc, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài làm thí dụ. Hư không chẳng phải trong, ngoài, mà chúng sinh hiện đang thọ dụng. Phật tánh chẳng phải trong ngoài, nên chúng sinh chắc chắn có dùng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì y cứ ở nhân mà cầu, nên nói “Chẳng phải có”. Vì không lìa nhân mà có quả, nên nói “Chẳng phải không”. Chẳng phải không có nhân xuất ly: Phải nhờ liễu nhân mới thấy. Không phải ở đây tạo ra, ở đây thọ, là không phải ngay thân này tu nhân, ngay thân này thọ quả. Chẳng phải người này tạo nghiệp nhân, người kia chịu quả báo, là nắm lấy một người từ đầu đến cuối, dù hành vi khác nhau, nhưng chẳng phải thân này tu tập “Duyên” nhân. Vị lai mới thấy. Về nghĩa thích hợp, chẳng phải người này tạo nhân, người kia chịu quả.

Người kia tạo nghiệp, người kia chịu quả báo: Chẳng phải người khác tu điều lành, người khác thấy tánh. Chẳng phải không có tạo tác, không có thọ, là phải tu nhân, lý đó không thể khác, đâu có việc đầu cuối không có tạo tác mà không thọ quả ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là thứ ba, trải qua tánh của chánh nhân. Hư không chẳng phải ở trong năm ấm, cũng chẳng phải ngoài năm ấm. Vì sẽ được thành Phật, nên nói chúng sinh đều có.”

“Này người thiện nam! Ví như chúng sinh gây ra các nghiệp” cho đến “Lúc thời gian hòa hợp mới được quả báo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì lấy tánh nhân được quả làm thí dụ. Nghiệp chẳng phải trong, ngoài: Như bố thí chẳng phải riêng mình ta, nên chẳng phải trong. Vì được chẳng phải người thọ, nên chẳng phải ngoài. Vì trung gian của hai vị trí trong, ngoài này không thật có, chứ chẳng phải xưa không nay có, chẳng đến từ bên ngoài, chẳng phải không có nhân xuất phát.

Vì diệt nên chẳng phải một, chẳng phải tạo nghiệp ở đây, vì nối nhau nên không khác. Chẳng phải tạo nghiệp ở nơi này, thọ báo ở nơi khác. Do nhân mà có quả, chứ chẳng phải không có tạo nghiệp, không có thọ báo, vì khi thời gian hòa hợp, thì sẽ thọ quả báo.”

“Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy” cho đến “Bấy giờ được thấy Phật tánh, không gọi là tạo tác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì từ liễu nhân thấy, nên chẳng phải xưa không mà nay có. Trong là duyên nhân, ngoài là chánh nhân. Nhân khắp không có trong ngoài, vì trong nhân không thật có, nên “chẳng phải có”. Vì từ hai nhân thấy, nên “chẳng phải không có”. Cũng chẳng phải nhân khắp, nên chẳng phải ở đây, kia. Chẳng phải không có nhân duyên, vì do tu đạo mới thấy được Phật tánh, nên chẳng phải từ nơi khác đến, nghĩa là chẳng phải không có nhân. Khoảng giữa của lời đáp chung, là ba chứng minh.”

“Này người thiện nam! Ông nói: “Như đá nam châm” cho đến “Có Phật hay không, pháp giới vẫn thường trụ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hoặc” là nhân để tạo ra quả. Nay nói vì có nhân, nên quả mới xuất hiện, nhân không tạo ra pháp khác, vì củi không tạo ra lửa, nên không có tác giả, vì củi không có thì lửa sẽ tắt, nên không có hư hoại.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Đáp lại câu hỏi thứ năm, vẫn giải thích vì hợp với pháp khác, nên pháp khác sinh, đâu phải dùng Phật tánh để hút Bồ-đề?

“Này người thiện nam! Nếu nói Phật tánh ở trong chúng sinh” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không dùng một pháp làm thể, không trụ pháp giới, gồm mười tám giới, nhập ấm cũng như vậy. Mười hai nhân duyên cùng khắp ba đời, không có trụ xứ gọi là thường. Quả nhập hư không cũng vậy, dụ cho Phật tánh chẳng phải một pháp, hễ tròn đầy thì được, còn chấp nghiêng lệch thì mất. Bốn đại cũng không có nghiệp, nghĩa là năng lực của bốn đại dù đều bình đẳng, nhưng cuối cùng mỗi đại đều không giống nhau, năng lực bốn đại đều bình đẳng, sắc cứng, mềm khác nhau, là do nhân khác, nên quả không có tác giả.

 

Phần 9

  • Nêu ví dụ người mù nói về con voi.
  • Nói về ý nghĩa Phật tánh chẳng phải “Tức” sáu pháp, chẳng phải lìa sáu pháp.
  • Nói về mười hai nhân duyên như Tín v.v… của Phật tánh.
  • Nói về tướng không lui sụt của Bồ-tát, ngày ăn một hạt mè, một hạt đậu…
  • Nêu việc Bồ tát phát nguyện bố thí thân cho chúng sanh.
  • Nêu lên việc Bồ-tát vì chúng sinh chịu khổ không lui sụt.
  • Nêu ra ví dụ về tám thứ không nghĩ bàn của biển.

“Này người thiện nam! Ví như có vị vua bảo một vị quan” cho đến “Do đó nên nói sắc là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều dùng tay sờ, dụ cho nghe thấy. Đều không mô tả về hình thể con voi, thấy nghiêng lệch chẳng phải là voi. Cũng chẳng phải không nói, nghĩa là đều hiểu được từng bộ phận voi, nên chẳng phải không nói. Sắc là Phật tánh: Tánh của chánh nhân khác, thành quả cũng khác. Vì chấp nghiêng lệch là lỗi. Như mầu vàng ròng là một, Bàn-đà là “Khác”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ hai, nói Như Lai nói tánh khác nhau. Phàm phu đã chân mà không lầm lẫn, nên phải tu. Vị vua dụ cho Phật, đại thần dụ cho kinh giáo thường trụ. Voi, dụ cho lý trong giáo. Người mù tùy vị trí sờ mó mà nói là voi. Chúng sinh không có tuệ nên chấp ấm nói là “Ngã”.

Nói lìa ấm có “Ngã”: Đây là chấp thái quá, sau đây sẽ là “Phi”. Chẳng phải “Tức” sáu pháp, nghĩa là vì năm ấm hình thành, giả gọi là người. Phật tánh ở quả, chẳng lẻ ngay sáu pháp chẳng phải nhân, vì không do cảm quả, nên nói là không lìa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người mù sờ voi, nếu từng bộ phận riêng, thì sẽ không được hình dáng con voi, ngoại đạo, phàm phu chấp lấy năm ấm và lìa ấm, mỗi thứ chấp đều chẳng phải Phật tánh. Nhưng trước sau không lìa sáu pháp này. Có các ngoại đạo dù nói có “Ngã”, mà thật là vô “Ngã”, nghĩa là năm ấm giả hợp, gọi là chúng sinh, không có có “Ngã” ngoài năm ấm riêng lẻ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nêu sắc, ở đây nêu tâm trải khắp, gọi là bốn ấm.”

“Có thuyết nói thọ là Phật tánh” cho đến “Cho đến chẳng phải ngã, chẳng phải lìa ngã”.

“Này người thiện nam! Các ngoại đạo dù nói có “Ngã” cho đến “Bậc nhất nghĩa “Không”, nên gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cứ theo tình mê hoặc là lìa nên là “Tức” ấm, “Ngã” nối nhau không dứt! Về sau, lại sửa đổi cho rằng, “Lìa” ấm có “Ngã” riêng.”

“Này người thiện nam! Đại Từ, đại Bi gọi là Phật tánh” cho đến “Phật tánh chính là Như Lai”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nói duyên tánh nhân, chúng sinh chắc chắn sẽ được Phật tánh, nên gọi là “Có”. Nối nhau không khác tức Như Lai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba là phát ra thể của Phật tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư là trải “duyên” nhân, công hạnh của bốn vô lượng, tức là “Duyên” nhân lành, Bồ-tát thường thực hành như bóng với hình. Phật tánh gọi là Như Lai, nghĩa là thực hành bốn vô lượng, gần thì được Nhất tử địa của Sơ trụ, xa thì tròn đầy được địa vị Phật, nên gọi là Như Lai.”

“Phật tánh, gọi là Đại tín tâm” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu sáu pháp môn giúp làm sáng tỏ ý chỉ của Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Các pháp đã nói ở trên” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tổng kết tông chỉ trên.”

“Này người thiện nam! Nếu ta nói sắc là Phật tánh” cho đến “Cho đến nói thức cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu nói sắc là Phật tánh, còn các pháp khác không phải thì chúng sinh tà kiến nghe nói, sẽ khởi lên điên đảo.”

“Này người thiện nam! Nếu chúng sinh hiểu rõ Phật tánh” cho đến “Cùng khen ngợi, lễ bái, thăm hỏi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã khuyên tu danh hiệu kinh này nên nói là phước của người tu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư chính là khuyên tu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ năm là kiết khuyên, nói về ý cần phải tu đạo.”

“Này người thiện nam! Nếu có người nào trải qua vô lượng, đời trong quá khứ” cho đến “Rồi mới được nghe tên kinh này.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khen nhân của người tu.”

Này người Thiện nam! Phật tánh không thể suy nghĩa bàn luận” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn cũng không thể suy nghĩa bàn luận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Khen ngợi Tam bảo, Phật tánh, kinh pháp không thể suy nghĩa bàn luận, để làm sáng tỏ ý chỉ khuyến tu không luống dối.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Sư Tử Hống lãnh hội, đồng thời nêu lên lợi ích mà chúng đương thời có được, Đức Phật liền cho phép.”

Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Nếu Đức Thế tôn nói là Như Lai” cho đến “Thì làm sao riêng mình ta lại thọ hóa sinh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ mười là khen Phật. Do kinh điển mà Phật nói rất hợp với chân lý, nên khen ngợi. Chỉ vì nói là do đức từ sinh, nên hỏi trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong bốn sinh, hóa sinh là hơn cả mà Đức Phật đã vì chúng sinh, nên phải thọ thai sinh. Cho nên ân đức của Phật rất sâu nặng, vì thế mà khen.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử Hống liền quỳ, thẳng chắp tay nói kệ khen ngợi Phật:

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Như Lai là vị đứng đầu trong các vua giáo hóa khắp cả chúng sinh, cho nên sau cùng, nêu lên lời khen ngợi.”:

“Như Lai nhóm vô lượng công đức” cho đến

Có khả năng “Rống như vô lượng Sư tử rống.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cõi nước Bất động kia dùng bài kệ để khen vịnh, vì chí đạo đức hưng thạnh.”