ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH NGHĨA KÝ

QUYỂN 01

Biên soạn: Sa-môn Thích Huệ Viễn, chùa Tịnh Ảnh (Đời Tùy)


Phần Đầu

Thánh giáo có ngàn muôn sự khác nhau, chủ yếu chỉ có hai: Tạng Thanh văn và Tạng Bồ-tát. Giáo pháp Thanh văn, gọi là tạng Thanh văn. Giáo pháp Bồ-tát, gọi là tạng Bồ-tát. Giáo trong tạng Thanh văn có hai:

  1. Thanh văn Thanh văn.
  2. Thanh văn Duyên giác.

Thanh văn Thanh văn: Người này trước nay, cầu đạo Thanh văn, thường ưa quán sát pháp bốn Chân đế, thành tánh Thanh văn. Đến thân sau cùng, được gặp Phật, Phật nói cho nghe pháp bốn Chân đế mà được ngộ đạo, với bản tánh Thanh văn, nay còn là Thanh văn mà được ngộ đạo, nên gọi là Thanh văn của Thanh văn. Như trong kinh nói: “Đối với người cầu Thanh văn, nói cho nghe bốn đế. Nói theo kinh này thì Thanh văn, Duyên giác là người xưa nay cầu đạo Duyên giác, thường ưa quán sát pháp mười hai nhân duyên. Đến thân sau cùng sẽ được gặp Phật, Phật nói pháp mười hai nhân duyên, cho nghe mà được ngộ đạo. Bản tánh Duyên giác, đến thân sau cùng, Thanh văn ngộ đạo, nên gọi là Thanh văn của Duyên giác. Như trong kinh nói: “Vì người cầu Duyên giác nói pháp mười hai nhân duyên. Nói theo mười hai nhân duyên này, thì hai pháp dù khác, nhưng đều cầu pháp Tiểu thừa. Nhờ giáo xứ v.v… cho nên, giáo thuyết nói cho hai hạng người này là tạng Thanh văn.

Trong tạng Bồ-tát, người được giáo hóa cũng có hai hạng:

  1. Dần dần (tiệm).
  2. Tức khắc (đốn).

Nói hạng người dần nhập, là người đã có tu tập pháp Đại thừa ở quá khứ. Khoảng giữa học Tiểu thừa, về sau lại nhập lại Đại thừa. Từ tiểu nhập Đại, gọi là dần dần. Cho nên kinh nói: “Trừ người trước tu tập Tiểu thừa, nay ta cũng làm cho họ nhập vào pháp này, đó là dần nhập.”

Nói ngộ tức khắc (đốn): Có các chúng sinh từ lâu đã tu tập gốc lành tương ưng với Đại thừa. Nay vừa thấy Phật là có thể nhập Đại thừa. Đại không từ Tiểu, gọi là đốn, nên kinh nói: “Hoặc có chúng sinh, nhiều đời đến nay, được sự giáo hóa của ta, mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, liền đều tin nhận, nhập tuệ Như lai, đó là đốn ngộ. Dần nhập Bồ-tát, đầu Tiểu mà cuối Đại. Người đốn ngộ một phen thâm nhập, đốn tiệm dù khác, nhưng đương thời chỗ thọ Đại là một nên điều nói cho của hai người này là tạng Bồ-tát. Thánh giáo tuy nhiều nhưng không ngoài hai người này, nên Bồ-tát Long Thọ nói: “Sau Phật diệt độ, Ca-diếp, A-nan kiết tập ba tạng ở thành Vương xá, là tạng Thanh văn. Bồ-tát Văn-thù, A-nan thì kiết tập kinh Đại thừa ở núi Thiết vi, là tạng Bồ-tát.” Kinh Địa Trì cũng nói: “Phật vì Thanh văn, Bồ-tát thực hành đạo ra khỏi khổ, mà nói Tu-đa-la, kiết tập kinh, nghĩa là nhóm hợp thành hai tạng, để nói chỗ thực hành của Thanh văn, là tạng Thanh văn. Nói công hạnh của Bồ-tát là tạng Bồ-tát.” Luận Địa Trì lại chép: “Trong mười hai bộ, chỉ có bộ Phương Quảng là tạng Bồ-tát, mười một bộ còn lại là tạng Thanh văn.” Kinh này cũng chép: “Chỉ có bộ Phương Quảng là Bồ-tát hành trì, mười một bộ còn lại là Nhị thừa hành trì. Điều mà Bồ-tát hành trì cũng là tạng Bồ-tát. Điều mà nhị thừa hành trì cũng là tạng Thanh văn. Nên biết rằng, bậc Thánh nói không ngoài hai người này, hai người này cũng gọi là Bán giáo, Mãn giáo của Đại thừa, Tiểu thừa, về danh dù có thay đổi, nhưng về nghĩa Đại thừa, Tiểu thừa thì không khác.

Nay, kinh này thuộc về tạng Bồ-tát trong hai tạng. Về tiệm giáo, vì chúng sinh nuôi lớn pháp môn, nên văn sau nói: “Trước, dạy “Bán tự”, sau dạy “Mãn tự”. Đã biết giới hạn của giáo, kế sẽ nói về danh của giáo. Nay, nói Đại Niết-bàn, là nêu tên bộ khác của kinh, danh hiệu kinh khác nhau, là có nhiều thứ. Hoặc có pháp thích hợp, hoặc y cứ ở người, đôi khi tùy việc, hoặc theo thí dụ để so sánh, hoặc y theo người, pháp, hoặc từ pháp dụ, hoặc tùy pháp sự. Việc so sánh đó chẳng phải một.

Nay, kinh này từ pháp đặt tên. Pháp, nghĩa là vì quả Đại Niết-bàn của Chư Phật, nên ở đầu nêu danh hiệu này không đủ. Nếu theo bản Phạn, thì gọi là Ma-ha Bát-niết-bàn-na. Ma-ha, Hán dịch là đại, lời khen vượt hơn. Niết-bàn có ba: Sự chứng đắc của Thanh văn, Duyên giác và Phật. Phân biệt với hai pháp trước không thêm, cho nên nói là Đại. Thật thể dứt bặt đối đãi, tạm mượn đối đãi để làm rõ.

Về nghĩa Đại có sáu:

  1. Vì thường, nên gọi là Đại. Cho nên văn sau ghi: “Đại, gọi là thường.”
  2. Vì vượt hơn nên gọi là Đại. Như người vượt hơn ở thế gian, gọi là đại nhân. Cho nên văn sau nói: “Nếu người này an trụ chánh pháp, thì gọi là người vượt hơn trong loài người. Vì vượt hơn, nên gọi là đại Niết-bàn như vậy.”
  3. Vì rộng, nên gọi Đại, vì thế văn sau nói: “Đại, là rộng bao la, thể cùng khắp pháp giới, gọi là tánh rộng lớn.”
  4. Vì nhiều nên gọi là Đại, nên văn sau nói: “Ví như kho lớn có nhiều châu báu, Niết-bàn cũng vậy, có nhiều thứ châu báu pháp mầu nhiệm, nên gọi là Đại.”
  5. Vì cao, nên gọi Đại, vì thế văn sau nói: “Ví như ngọn núi lớn, người không thể trèo lên, nên gọi là đại sơn. Niết-bàn cũng vậy. Phàm phu, Nhị thừa, cho đến Thập trụ vì không thể đạt đến, nên gọi là Đại.”
  6. Vì sâu nên gọi là Đại. Như biển sâu thẳm, gọi là biển cả, nên, văn sau nói: “Đại, gọi là không suy nghĩ bàn luận, sâu thẳm khó đo lường, gọi là không suy nghĩ bàn luận. Thể của đại khác nhau, sơ lược có ba thứ:

 

  1. Thể đại: là Niết-bàn Tánh tịnh, thể cùng khắp chân tánh, nghĩa tràn đầy pháp giới.
  2. Tướng đại: là Niết-bàn Phương tiện, vượt qua chẳng có gì không cùng tận, về đức đều đầy đủ.
  3. Dụng đại: là Ứng hóa Niết-bàn: Công dụng mầu nhiệm rộng khắp. Vì khéo hóa độ vô tận, nên văn sau nói: “Đại Bát-niết-bàn, có công năng kiến lập nghĩa Đại, nghĩa giống như công dụng.

Vì có ba nghĩa này, nên gọi là Đại. Nói bát, Hán dịch là “Nhập”. Nghĩa nhập có ba:

  1. Nói theo thật thì, dứt vọng về chân, từ nhân hướng về quả, gọi là “Nhập”.
  2. Y theo hóa thân để nói về nhập, thị hiện diệt có nhân, hiện quên mất thân trí, thú nhập vô vi.
  3. Y cứ ứng chân tương đối để nói là nhập, dứt hóa về chân. Nay, ở đây đã giải thích đủ ba nghĩa gọi là Niết-bàn.

Có người giải thích: “Chẳng phải Phạm, chẳng phải Hán, mà trực tiếp là lời Phật nói. Nếu nói về lời Phật thì tất cả đều đúng, đâu phải chỉ có Niết-bàn, nên văn sau nói: “Các thứ dị luận văn chương, chú thuật đều là Phật nói. Dù do Phật nói, nhưng vẫn không lìa phương ngôn, nếu lìa phương ngôn thì Phật sẽ không nói, sao lại nói là chẳng phải Phạm, chẳng phải Hán?

Có người lại nói: “Niết-bàn là tiếng Thiên trúc, là gọi chung muôn đức, Hán không có danh từ để phiên dịch, nên giữ nguyên âm Phạm, gọi là Niết-bàn. Thể của Niết-bàn thật sự đầy đủ muôn đức. Danh từ Niết-bàn chẳng phải cùng tận muôn đức. Nếu danh từ Niết-bàn bao gồm muôn đức đi thì đó chính là thời gian giảng nói muôn đức, không nên tùy theo đức lại lập ra danh từ muốn nói muôn đức thì lại đặt ra tên khác, ý nói biết chẳng phải chung. Nếu nói Hán không có danh từ để dịch, thì nghĩa này không đúng. Chẳng hạn như trong đoạn văn sau đây nói: “Như lai tùy từng loại, bảo khắp chúng sinh”. Hôm nay, Như lai sắp nhập Niết-bàn, tùy ngôn âm, dạy bảo khác nhau, thì sao không thể dịch? Nay, chính là lúc dịch lẫn nhau, gọi Niết-bàn là diệt. Tùy nghĩa bên cạnh mà dịch, dịch là nhiều thứ khác nhau hoặc dịch là bất sinh, hoặc dịch bất diệt, hoặc dịch là không thiêu, hoặc gọi là không dệt. Hoặc dịch là vắng lặng, hoặc dịch là vô vi, hoặc dịch là vô tướng.

Với nhiều cách dịch chẳng phải duy nhất như vậy, thì làm sao biết là diệt không phải chung? Nay, ở đây, lại dùng bốn nghĩa để xem xét:

1. Y theo giáo xưa để tìm: Thuở xưa, Đức Như lai trong Khế kinh khác, thường giảng rộng về chỗ sinh tử nhân quả đều không, dùng làm Niết-bàn. Ngày nay Danh từ Niết-bàn, không khác với xưa, đâu thể bỗng nhiên là chung?

2. Y theo sau cùng để xem xét: Hiện nay, Đức Như lai ngự trong rừng cây Ta-la, tuyên bố khắp rằng: “Nói đến Niết-bàn hiện nay, chúng sinh nghe rồi, đều cảm thấy buồn rầu bi lụy, bèn đến xin Phật trụ lại. Nếu cho rằng, Niết-bàn là gọi chung muôn đức thì đây là xướng rộng muôn đức, bảo cho người biết, chúng sinh lẽ ra vui mừng vì sao lại buồn bã, khóc than mà đến chỗ Phật xin Phật trụ lại? Do đây, xem xét chính xác, biết rõ chẳng phải chung.

3. Định chuẩn phương ngôn, người nước ngoài kia thấy người chết, đều nói là người ấy Niết-bàn. Người đời chết, đức nào có thể là chung?

4. Dùng văn để chứng minh, như trong văn sau, Đức Phật khen Thuần-đà có thể biết Như lai nói rằng, đồng với Niết-bàn phương tiện của chúng sinh. Chúng sinh thế gian không hề có Niết-bàn muôn đức kia, cho nên thị hiện đồng? Vì chính Như lai đều vắng lặng đồng với thế gian, gọi là thị hiện Niết-bàn. Lại, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, sau khi nói kinh Pháp Hoa xong, đến gần sáng, mới nhập Niết-bàn. Bài tụng ở dưới chép: “Phật đêm nay diệt độ, như củi hết, lửa tắt”, là nói biết Niết-bàn là diệt, chứ chẳng phải chung.

Hỏi: Nếu nói Niết-bàn là Diệt, văn dưới nói rằng, lửa của các kiết đã tắt, gọi là diệt độ. Vì lìa giác quán, nên gọi là Niết-bàn, tức là Niết-bàn khác hẳn với nghĩa Diệt, sao lại gọi Niết-bàn là Diệt? Giải thích rằng: “Người nước ngoài cho rằng Diệt có nhiều danh từ, cái gọi là Niết-bàn Tỳ-ni và và Di-lưu-đà v.v… vì danh từ có nhiều, nên theo nghĩa khác của các danh từ đó, đều đặt ra danh từ khác nhau về bố thí, cho nên diệt giác quán, gọi là Niết-bàn. Lửa các kiết đã tắt, lại đặt ra tên gọi khác, Hán dịch là Diệt. Danh từ của địa phương này ít: Niết-bàn Tỳ-ni, Di-lưu-đà v.v…, đồng phiên dịch là Diệt. Cũng như người nước ngoài nói là Bồ-đề Mạt-già, Hán dịch là Đạo. Thế nào là Diệt? Diệt có bốn nghĩa:

1. Sự diệt: Diệt nhân sinh tử, hết quả sinh tử.

2. Đức diệt: Xả tu yên ổn vắng lặng, gọi là Diệt. Lại, chân đức của Phật lìa tướng, lìa tánh, cũng gọi là Diệt. Nói lìa tướng, như đề hồ thanh tịnh, dù thể là có, mà không có các tướng xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… cũng như tâm thức của tất cả chúng sinh, dù tự thể là có, nhưng không có tướng trạng lớn nhỏ, dài, ngắn v.v… Niết-bàn cũng vậy. Thể dù là có mà không có một tướng, không có tướng gì v.v…, như văn sau nói rằng, không có các tướng về sắc, hương vị, xúc, không có các tướng sinh, trụ, diệt, nam, nữ v.v… cho đến không có tự tướng để chấp lấy.

Nói lìa tánh: Các đức đồng thể trong đại Niết-bàn đều do tướng chung nhóm hợp thành, không có một đức nào giữ riêng tự tánh. Như y theo các đức để nói rộng ý nghĩa Thường. Lìa các đức không có riêng một tánh thường nào để được. Vì các nghĩa đều như vậy, nên văn sau nói: “Lại, vì chẳng phải riêng khác, nên thành Niết-bàn”

3. Ứng diệt: Tùy hóa độ thế gian, thị hiện diệt có nhân, hiện mất thân trí.

4. Lý diệt: Như trong kinh nói: “Một khổ diệt đế, tất cả chúng sinh, rốt ráo vắng lặng, là tướng Niết-bàn như vậy v.v… Về lý, Diệt có hai thứ:

  1. Tướng không: các pháp vọng tưởng là không, chẳng có tự thể.
  2. Chân không: pháp thật nhiều như số cát sông Hằng trong Như lai tạng, lìa tướng tánh.

Nói lìa tướng: Như Bồ-tát Mã Minh nói: “Nghĩa là chẳng phải có tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải “Không có tướng”, chẳng phải “Chẳng phải không có tướng”. Chẳng phải “Có”, “Không” đều cùng có tướng. Chẳng phải tự tướng, chẳng phải tha tướng. Chẳng phải “Không phải tự tướng”, chẳng phải “Không phải tha tướng”. Chẳng phải tự tha, đều là tướng.

Tất cả tâm giả dối, phân biệt như vậy đều không tương ưng, chỉ chứng cảnh giới, nói là lìa tánh: Là pháp của Chư Phật đều đồng một thể tánh, nhóm hợp lẫn nhau mà thành, không lìa, không thoát, không dứt, không khác, vì đồng thể nên không có một pháp nào giữ riêng tự tánh. Về nghĩa diệt có nhiều, nhưng chủ yếu chỉ có bốn diệt này. Trong bốn diệt này, lý diệt là gốc. Do thấy tướng không, nên thành sự “Diệt” trước. Do thấy chân không, nên thành đức “Diệt” ở trước. Nương đức khởi dụng, liền có ứng “Diệt”. Nếu do tướng phân biệt nói là ba diệt trước, cho là Niết-bàn, gồm thâu tướng để giải thích, thì cả bốn diệt đều là tướng.

Hỏi: Kinh này nói đủ các nghĩa, vì sao nói nghiêng về Đại Niếtbàn ư?

Đáp: Vì Niết-bàn là tông, nên nói nghiêng về. Cũng có thể vì các nghĩa không thể bày tỏ đủ, nên nêu Niết-bàn-na, gọi là nghỉ ngơi. Nay, lược qua không nêu, nghỉ ngơi có ba nghĩa:

1. Thôi dứt nhân quá hữu vi sinh tử, thú nhập vô vi, gọi là nghỉ ngơi.

2. Thôi dứt tu hành Khế hợp với thật, gọi là nghỉ, nên văn dưới nói: “Nếu dứt trừ được việc đã làm của ba mươi bảy phẩm, thì được gọi là Niết-bàn.”

3. Thôi dứt hóa độ, trở về chân, gọi là “Nghỉ”, đây là nêu điều được giải thích, kinh là cái có công năng giải thích. Âm chính của nước ngoài gọi Tu-đa-la, Hán dịch là chỉ khâu, do công năng xuyên suốt tất cả pháp tướng, như sợi chỉ xâu hoa. Cho nên, cứ theo dụ, nói là sợi ngang; Mà nói kinh là sợi ngang để xâu hoa, sợi dọc (kinh) có công năng giữ gìn sợi ngang. Công dụng tương tự, nên gọi là kinh. Nếu theo sự chỉ dạy của thế tục, thì kinh là thường, một trong các pháp của giáo, trải qua từ xưa đến nay, hằng có, gọi là thường.

Phẩm Tuổi thọ: Dựa vào nhiều phẩm kinh gọi là phẩm Tựa. Y theo kinh Tiểu Phẩm, gọi là phẩm Tuổi thọ. Các kinh lập ra phẩm đại khái có ba: Hoặc có từ ngữ rộng, hoặc lại y cứ mà lược, hoặc ngay nơi danh tương mà lấy. Ở đây nói tuổi thọ, là nói lược. Do kệ của Bồ-tát Ca-diếp ở dưới, sau khi thỉnh Phật, nói về lòng Từ bi của Ngài là do nhân duyên không sát sinh, nên được sống lâu. Y theo thuyết này để bày tỏ danh, gọi là phẩm Tuổi thọ. Kỳ hạn của mạng, gọi là thọ. Thần tuệ không dứt, gọi là mạng. Phẩm là phẩm riêng, cũng có thể phẩm là phẩm loại của tuổi thọ. Tùy phẩm tuổi thọ đã nói, vì mỗi loại đều đồng nhóm, nên nói là phẩm loại.

Kinh này gồm có mười ba chương riêng. Phẩm này là mở đầu, nên gọi là thứ nhất.

Văn trước sau của kinh này, chia ra làm năm phần:

  1. Phần tựa
  2. “Thuần-đà trở xuống”, mở ra tông chỉ của kinh, nói về phần đức.
  3. Ba lần bảo trở xuống, phần là nói về tu thành đức.
  4. Nếu người nào biết được, thì đó gọi là Sa-môn, Bà-la-môn” trở xuống là phần phá tà, thông chánh.
  5. Phần Xà-di cúng dường sau khi Như lai diệt độ.

Một phần sau đây, nước ngoài không đến, vì việc hóa độ hẳn là có lý do, nên trước là, nói bài tựa. Do tựa đã khởi, phải được giải thích rõ ràng, nên kế là phần thứ hai, mở ra tông chỉ, làm sáng tỏ đức. Tông là quả mầu tròn đầy cùng cực của Chư Phật, vì quả được thành là do nhân, nên kế đây, thứ ba là nói, về tu thành đức. Chân pháp đã mở ra, vì muốn được giải thích, truyền thừa, hóa độ không dứt, nên kế là phần thứ tư, phá tà, thông chánh, nên ở văn dưới, đối phá ngoại đạo, thông qua chánh nghĩa, đối phá các ma để suốt thuyết đúng. Vì hóa độ đã khắp, hiển bày nghiêng về vắng lặng, nên kế là phần thứ năm, Đức Như lai thị hiện nhập diệt. Người, trời, đại chúng, trà-tỳ cúng dường.

Hỏi: Mọi người thường dùng ba phần, để chia khoa kinh này. Nay, vì sao lại chia ra thành năm?

Đáp: Theo kinh Thắng Man v.v…, văn được chia thành ba phần, thật ra vì có đạo lý, nên trước mười lăm chương trong kinh ấy, có bài tựa riêng. Sau mười lăm chương lập riêng phần lưu thông. Văn phán quyết kinh này khác với mười lăm chương kia, vì phần năm chẳng phải phần lưu thông. Lại, các luận giả soạn luận, giải thích kinh, phần nhiều cũng không dùng văn chia ra ba phần. Phần đầu tiên trong năm phần một là phương tiện hóa độ làm lợi ích, ba phần giữa chính là đem lại lợi ích cho chúng sinh, một phần sau là hóa độ xong, chứng diệt.

Theo nghĩa trong bài tựa đầu, chủ yếu có hai phần:

  1. Tựa phát khởi.
  2. Tựa chứng tín.

Nói về hai bài tựa này, sơ lược có năm môn:

  1. Giải thích danh nghĩa và chỉ rõ ý lập.
  2. Nói về tên gọi khác nhau của hai bài tựa, và nói về được, mất.
  3. Nói về sự thông suốt hạn cuộc của tên gọi hai bài tựa.
  4. Quyết định bỏ văn trước của hai bài tựa.
  5. Theo văn giải thích, y theo môn đầu, trước là giải thích danh nghĩa. Nói phát khởi, là Phật sắp nói kinh, trước dựa vào thời gian, nơi chốn, thần lực nhóm hợp chúng, phát khởi đề tài sẽ giảng nói, gọi là phát khởi, vì sự phát khởi này làm lý do cho sự giảng nói, nên gọi là lời tựa phát khởi.

Nói chứng tín: Khi xưa, Tôn giả A-nan đã vâng lãnh lời Phật nói, vì muốn đem những điều mình đã được nghe Phật nói để truyền trao lại cho thời đại mạt pháp, nên trước là đối với chúng sinh, nói pháp như vầy: “Tôi được nghe từ Phật, chứng thành đáng tin, gọi là Chứng tín. Dùng chứng tín này làm lý do cho việc truyền bá kinh, gọi là tựa chứng tín, danh nghĩa như vậy.

Kế là, nói về ý lập. Vì sao có hai? Do kinh có hai, nên kinh chính là một, không hề có hai. Thể kinh dù là một, nhưng y theo thời gian, y cứ con người, nên được chia thành hai:

1. Kinh do Như lai nói.

2. Kinh do Tôn giả A-nan truyền thừa. Kinh do Như lai nói, đem lại lợi ích cho người đương thời. Kinh do Tôn giả A-nan truyền thừa lời Mạt pháp đối với hai kinh này, nên lập ra hai bài tựa, đối với lời Phật đã nói lập ra bài tựa phát khởi, đối với sự truyền thừa của A-nan mà lập ra bài tựa chứng tín.

Trong môn thứ hai, trước nói về sự khác nhau của giữa tên hai bài tựa. Sau nói về được, mất. Danh có chia làm bốn:

1. Ngay nơi tướng là Danh, gọi là phát khởi, kể cả chứng tín.

2. Y theo người để đặt tên, gọi là tựa Như lai và tựa A-nan.

Tựa phát khởi: Điều mà Như lai làm, gọi là tựa Như lai. Tựa chứng tín: Điều mà A-nan đã làm, gọi là tựa A-nan.

3. Y theo thời gian để đặt tên, gọi là tựa hiện tại và tựa vị lai.Tựa Như lai gọi là tựa hiện tại, tựa A-nan gọi là tựa vị lai.

4. Đối với kinh để đặt tên gọi, gọi tựa trước kinh và tựa sau kinh.

Tựa của Như lai, gọi là trước kinh, tựa của A-nan, gọi là sau kinh. Đây gọi là Phật nói cho đó là kinh. Y cứ theo kinh này, do trước sau khác nhau, nên tựa chứng tín của A-nan lại có một danh hiệu, gọi là tựa Di giáo. Phật sắp diệt độ, có để lại ngôn giáo, nên gọi là Di giáo. Danh hiệu khác nhau là như vậy.

Kế là nói về được, mất. Trong bốn cặp này, danh nghĩa của chứng tín, phát khởi không có bốn khác nhau. Trong cặp thứ hai là tựa A-nan, danh hiệu cũng không có lỗi. Nói về tựa Như lai, nghĩa không đầy đủ, thế nào là không đầy đủ? Như nói: “Thắng Man, có Phật hóa chủ, vua và năm người ảnh hưởng của phu nhân Chiên đề Thắng Man, đều là phát khởi. Sự phát khởi của các kinh phần nhiều chẳng phải một mình Phật. Nếu phát khởi, gọi là tựa Như lai thì sẽ mất đi ý nghĩa phát khởi của người khác, vì tựa Như lai có lỗi cần bỏ. Bài tựa A-nan, nghĩa là đối cũng không lập. Hiện tại trong cặp thứ ba không rỏ ràng, vị lai không tiện, nghĩa này thế nào? Nếu kinh Như lai nói ở hiện tại, với tựa đã lập gọi là hiện tại, thì lúc A-nan truyền thừa, cũng là tựa đã được lập ở hiện tại, sao chẳng phải hiện tại? Nếu đối với thời gian Như lai nói pháp ở hiện tại, thì tựa A-nan gọi là vị lai? Tức là đối với lúc mà A-nan truyền thừa, thì tựa Như lai lẽ ra gọi là quá khứ. Dù Phật là quá khứ, nhưng chính khi nhận lấy lời Phật nói là hiện tại. A-nan cũng vậy, đối với Phật dù là vị lai, nhưng khi nhận lấy truyền thừa cũng là hiện tại, cả hai đều là hiện tại, đâu thể nghiêng về gọi là vị lai? Vì vị lai có lỗi, cần phải bỏ. Đối với hiện tại, về sự cũng không lập. Trong cặp thứ tư trước kinh không có lỗi, sau kinh không tiện. Nếu nói là sau kinh thì làm sao gọi là Tựa? Nếu nói là tựa thì chẳng phải sau kinh, nên biết hai bài tựa y cứ đối với hai kinh đều là trước kinh, không thể phán nghiêng về một là sau kinh bởi sau kinh không tiện, nên phải bỏ. Cái đối trước kinh, về nghĩa không lập, vì các danh hiệu ở đây đều có lỗi, nên giải thích nay, chỉ có tên gọi là chứng tín, phát khởi.

Phần ba là nói về sự thông suốt cuộc hạn của danh hai bài tựa kia. Nói chung thì hai tựa đều gọi là chứng tín, cùng gọi là phát khởi. Vì ý lập tựa đều sinh kính tin, nên gọi chung là chứng tín, vì đồng là phát khởi, nên đều có tên là phát khởi. Nay, vì chia ra hai tựa, nên bài tựa Như lai được gọi riêng là phát khởi, tựa của A-nan được gọi riêng là chứng tín, đồng là tựa riêng, tùy tiện để tỏ bày. Về nghĩa tiện thế nào? A-nan là Tiểu thánh, sợ người khinh thường, chê bai, nên ý lập bài tựa với mục đích để phát sinh lòng tin, nên hiện nay, người giải thích đối với bổn ý của A-nan, gọi là tựa A-nan để làm chứng tín. Như lai là bậc Đại thánh, con người đều tôn trọng, tin tưởng, nên với ý lập tựa phần nhiều là phát khởi. Vì không chỉ được niềm tin, nên nay, người giải thích đối với bổn ý của A-nan, gọi là phát khởi.

Phần thứ tư, là quyết định phần trước của văn kia phải bỏ. Trước, nêu lên thuyết khác; kế là nói về được, mất. Sau là nói về nghĩa đúng.

Thuyết khác thế nào? Tương tuyền từ xưa đến nay, nói là câu trong chứng tín có năm phần:

  1. Như vậy.
  2. Tôi nghe.
  3. Một thuở nọ.
  4. Nơi chốn.
  5. Cùng nghe.

Người giải thích sau này lại thêm một là Phật. Nói chung, thuyết khác nói có sáu. Thuyết khác như thế. Nói được mất, nghĩa là “Tôi nghe như vầy”, phán quyến thành chứng tín. Lời nói này hợp lý, là được.

Một thuở nọ, Phật v.v…, là phán quyết nhất định ở sau kinh. Lời này trái lý, là mất. Nghĩa này ra sao? Trước, dùng việc để hỏi, sau dùng văn để chứng minh. Nói là dùng việc để hỏi, nghĩa là “một thuở nọ, Phật v.v…”. Nếu là sau kinh thì trước kinh không có Phật, ai nói kinh? Không có thời gian, không có nơi chốn, thì sẽ dựa vào đâu để nói? Trước kinh không có chúng, thì nói pháp trùm khắp cho ai? Dựa vào các đối tượng này, sinh khởi pháp đã nói, đâu thể hoàn toàn phán quyết là sau kinh? Có người lại chống chế: “Về sự dù là trước kinh, nhưng sau lại dẫn để chứng thành đáng tin, nên xếp vào sau kinh. Nếu vậy thì đâu riêng gì năm câu, sáu câu. Thuyết đúng về trước chỉ có sự, có bao nhiêu ngôn thuyết đều là dẫn đến sau. Như lưu huyết trong kinh này về trước, ngay khi đó chỉ có sự mà thôi. Ngôn thuyết trong đây đều do A-nan dẫn ra trong thời gian sau. Nhưng sáu thứ tướng v.v… trong văn dưới v.v… dù được dẫn đến sau, nhưng vẫn được xếp vào trước kinh.

“Một thuở nọ, Phật v.v…” vì sao không như vậy? Do đây mà suy nghiệm: “Một thuở nọ, Phật v.v…” nhất định xếp vào sau kinh, thật chẳng đúng lý, vì về sự thì xem xét như thế, nay dùng văn để chứng minh, như Địa luận kia có giải thích: “Thời gian, nơi chốn v.v… mà Đức Phật đã nói pháp cho cõi trời Tha hóa vào ngày thứ mười bốn, so sánh để chỉ rõ sự vượt hơn. Vì pháp này vượt hơn, nên ở vào thời gian đầu và nơi chốn vượt hơn để nói. Đức Phật sắp nói kinh, trước là dựa vào thời gian, nơi chốn, để nói lên pháp vượt hơn. Sau đó, khởi sự nói, đủ biết là khởi phát trước kinh về thời gian, nơi chốn. Lại, luận Pháp Hoa giải thích kinh Pháp Hoa, về nghĩa cũng giống như vậy. Vì sao lời nói kia lại xuất phát từ núi Kỳ-xà-quật ở thành Vương xá? Vì pháp này vượt hơn, nên mượn chỗ để nói lên pháp, rồi sau đó mới mở đầu nói, nói chẳng phải sau kinh, được mất như vậy.”

Kế là nói về nghĩa đúng. Tôi nghe như vầy, hoàn toàn là chứng tín. “Một thuở nọ, Phật v.v…” trở xuống về nghĩa gồm cả hai, lấy nghĩa phát khởi đúng vào thời điểm đó, xếp vào phát khởi. A-nan dẫn đến chứng thành đáng tin, xếp vào chứng tín. Về nghĩa đã gồm cả hai, không thể lấy nghiêng một bên.

Trong môn thứ năm, trước nói về lời nói “tôi nghe như vầy”. Giải thích là Ba môn:

1. Giải thích lý do có câu: “Tôi nghe như vầy”.

2. Nói về ý lập.

3. Giải thích văn đó. “Tôi nghe như vầy”. Vì sao có? Vì Phật dạy, vì sao Phật dạy? Vì A-nan thỉnh, vì sao thỉnh? Vì A-ni-lâu-đà dạy. Vì sao Ngài dạy? Vì thấy tâm A-nan lo buồn, vì sao Tỳ-kheo A-nan lo buồn? Vì thấy Như lai nhập Niết-bàn.

Đức Phật sắp diệt độ trong Song lâm, nằm nghiêng, đầu xoay về hướng Bắc. Bấy giờ, vì Đức Phật sắp nhập diệt, nên A-nan cảm thấy lòng mình buồn bã khôn nguôi, không thể tự kiềm chế. A-Ni-lâu-đà khai giác A-nan: “Ông là người truyền thừa chánh pháp, sao không xin Phật dạy cho việc ở đời vị lai, luống buồn bã nào có ích gì? A-nan đáp: “Hiện giờ, tâm tôi đang chìm trong biển lo buồn, còn biết gì đâu mà hỏi.” A-ni-lâu-đà bèn hỏi A-nan xin Đức Phật dạy cho bốn việc:

Hỏi: Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ-kheo v.v… lấy gì làm thầy?

Hỏi: Tỳ-kheo phải nương tựa vào đâu mà ở?

Hỏi: Tỳ-kheo tội ác, làm sao ở chung?

Hỏi: Ở đầu tất cả kinh, phải đặt chữ gì?

Nghe xong, tâm A-nan hơi tỉnh ngộ, tiếp nhận lời dạy bảo thỉnh Phật. Phật đáp từng câu hỏi:

“Các Tỳ-kheo lấy gì làm thầy?” là phải nương tựa Ba-la-đề-mộcxoa làm thầy. Nếu ta còn ở đời thì cũng không có gì khác. Mộc-xoa là giới, điều mà Tỳ-kheo phải học, nên nói là thầy.

“Tất cả Tỳ-kheo phải nương tựa vào đâu để ở?” Phải nương vào bốn Niệm xứ để ở. Bốn Niệm xứ gồm: “Cái gọi là Tỳ-kheo quán sát trong thân, quán sát quanh thân, tinh tấn, siêng năng nhất tâm, dứt trừ tham lo của thế gian. Quán ngoài thân trong ngoài thân như vậy, thân, thọ tâm, pháp cũng như vậy. Đây là trụ xứ mà Tỳ-kheo được nương tựa.

Thế, nên kinh chép: “Nếu trụ ở bốn niệm thì gọi là cảnh giới của mình, không bị ma ràng buộc. Nếu trụ năm dục, thì gọi là cảnh giới của người, sẽ bị ma buộc ràng.”

“Đối với Tỳ-kheo tội ác thì làm sao ở chung?” “Phải dùng phạm đàn để đối trị họ, hoặc điều phục họ, nói cho họ nghe kinh lìa “Có”, “Không”. Phạm đàn là im lặng, không nói chuyên với họ.”

“Mở đầu tất cả kinh nên đặt chữ gì?” “Phải để “Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật đang ngự ở địa phương nào? Tòng lâm nào? Do bổn giáo của Phật, nên có lời này.”

Nói ý lập: Vì khiến cho chúng sanh kính tin, làm sao sinh niềm tin? Nói “Như vầy: A-nan bày tỏ rằng, mình tự tin lời Phật nói. Đạo mà Phật nói, dùng làm “Như vầy”, sao cho chúng sinh khác đồng với mình sinh ra niềm tin.”

Nói “Tôi nghe”: “A-nan tự là người không đủ, nếu nói pháp này là do tôi nói thì mọi người sẽ không tin, còn nói “Tôi nghe”, thì mọi người sẽ sinh niềm tin. Sinh niềm tin như vậy. Tin có nghĩa gì mà được sinh ra ư? Tin, nghĩa là người đó nhập vào môn đầu của pháp, đứng đầu trong nhiếp pháp. Hễ vào pháp Phật, thì trước phải sinh niềm tin, nên trong kinh Hoa Nghiêm nói tín là tay. Như người có tay vào trong kho báu, tùy ý mà lấy. Nếu không có tay thì chẳng lấy được gì. Đức tin cũng vậy. Người vào pháp Phật, có tay tín tâm, thì sẽ tùy ý nhặt lấy của báu đạo pháp. Nếu không có lòng tin, thì sẽ chẳng lấy được gì.

Kế là giải thích văn đó: Trước nói về “Như vầy”, trong đó, trước y theo người để quyết định. Sau đó, sẽ giải thích. Thế nào là quyết định? Trước nay, thường y theo A-nan để giải thích. A-nan đã truyền thừa “Như” lời Phật nói, nên gọi là “Như”. Vì phân biệt tương tự, nên lại nói là “Thị”. Tin xét lời này, y theo Phật để giải thích, chứ không phải y cứ ở A-nan. Vì sao được biết? Như luận Đại Trí Độ chép: “Như vầy”, nghĩa là từ tin thuận. Người tin tưởng kia nói việc này như thế. Kẻ không tin, nói việc này không như thế. A-nan bày tỏ niềm tin của mình thuận theo lời Phật, gọi là Phật nói, cho là như thế. Lại Kinh Ôn Thất, đầu tiên chép: A-nan chép: “Ta từ Phật nghe như thế”, nên biết A-nan gọi là Phật nói, cho là “Như vầy”. Chỉ là phương ngôn khác nhau. Kinh Ôn Thất kia thuận theo phương ngữ này, nên nói “Từ Phật nghe như thế”. Kinh khác phần nhiều thuận theo ngữ của nước ngoài, trước nêu “Như vầy”, sau là bày tỏ “Tôi nghe”, nhất định là như vậy, giải thích ra sao?

Nói “Như thị”, giải thích có hai nghĩa:

1. Giải thích theo pháp: A-nan nói Đức Như lai kia đã nói “Như” đối với các pháp, nên gọi là “Như” nói lý đúng như lý, nói sự đúng như sự, nói nhân đúng như nhân, nói “Quả” đúng như quả. Tất cả lời nói “Như pháp” như thế, vì hợp với lý, nên nói là “Như thị”. Vì trái với pháp, gọi là “Phi”, nên lời đúng pháp, được gọi là “Thị”.

2. Giải thích theo người: A-nan nói: “Nay, thuyết mà Đức Thíchca nói là đúng với thuyết mà tất cả các Đức Phật quá khứ đã nói, nên gọi là “Như”. Như Chư Phật đã nói, vì hợp với lý, nên nói là “Như thị”. Bởi trái với Phật đã nói là sai, đúng như Chư Phật đã nói thì được gọi là đúng.

Nói “Tôi nghe”: A-nan đối với chúng sinh ở vị lai kia nói đã ăn, nên nói là “Tôi nghe”, nghe thật là đúng.

Sao lại xưng là “Ngã”? Vì sự khác nhau giữa các căn đều là dụng của “Ngã” đầy đủ. Vì y theo chủ để gọi, nên nói là “Tôi nghe”.

Hỏi: Trong pháp không có nhân, sao lại y theo chủ để nói “Tôi nghe”?

Đáp: Trong pháp dù chẳng có chủ thể cố định, nhưng chẳng phải không có giả danh. Vì chấp vào chúng sinh, nên được gọi là “Ngã”. Ví như bốn thứ binh nhóm hợp để thành quân, dù không có chủ nhất định, nhưng cũng được gọi là quân “Ta” dũng cảm, mạnh mẽ, quân “Ta” đã chiến thắng quân địch kia. Ở đây cũng giống như vậy.

Hỏi: A-nan là bậc Thánh đã đắc lý, vì sao đồng với phàm phu nói là “Ngã”?

Đáp: Dù Tôn giả A-nan nói “Ngã”, nhưng khác với phàm phu. Khác là sao? Nói “Ngã” có ba:

1. Thấy tâm nói “Ngã”: nghĩa là “Ngã kiến” của các phàm phu chưa mất, đối với tâm này nói là có “Ngã”.

2. Tâm ngã mạn: nói “Ngã” là những người có tu học, “Ngã kiến” dù mất, nhưng “Ngã mạn” vẫn còn trong tâm ngã mạn này, giảng nói có “Ngã”.

3. “Ngã” truyền bá ở đời: nghĩa là người Vô học, kiến mạn đã dứt trừ, theo sự truyền bá của thế gian, xưng nói có “Ngã”. Tôn giả A-nan vào thời gian kiết tập pháp, thân đã chứng Vô học, kiến mạn đã dứt bỏ, theo sự truyền bá của thế gian, xưng nói có “Ngã”, cho nên khác nhau.

Hỏi: Vô “Ngã” là hơn, có “Ngã” không bằng, sao không theo hơn mà theo kém để nói “Ngã”?

Đáp: Giáo hóa chúng sinh chấp “Ngã”, thì pháp cần phải “Như thị”. Nếu không có “Ngã” thì do đâu để được nêu riêng kia đây, để giúp người nhận biết. Cho nên, đến Phật giáo hóa chúng sinh chấp ngã, đều tự nói “Ngã”.

“Một thuở nọ” trở xuống, về nghĩa dù gồm cả hai, nhưng đối với bài tựa hoàn toàn chứng tín ở trước, nay y cứ phát khởi riêng để giải thích, qua đó đầu tiên y theo Phật để nói về nơi chốn.

“Với đại” trở xuống, y theo Phật để nói về chúng, thời gian thì gồm chung. Trong phần trước có ba:

  1. Nói về thời gian giáo hóa.
  2. Nói về chủ giáo hóa.
  3. Nói về nơi chốn giáo hóa.

Nói “Một thuở nọ”, là vì thời gian hóa độ. Trong nói về thời gian này, trước nêu thuyết khác, kế là nói về lỗi sai. Sau, chỉ bày về nghĩa đúng. Nói thuyết khác là: Theo tương truyền xưa nay nói rằng thời gian Phật nói pháp, khi A-nan nghe, thì không có trước, sau. Phân biệt bỏ đi lối tương truyền sai lầm thành “Tôi nghe” nói trên, cho nên nói một thuở nọ. Thuyết khác nhau như thế, nói lỗi thế nào? Trước dùng sự trình bày, sau, dùng văn chứng minh.

Nói “dùng việc để thưa hỏi”: A-nan sinh vào đêm Phật đắc đạo. Phật thành đạo rồi sáu, bảy ngày sau thì Ngài liền nói kinh. Nếu theo Đại thừa thì quá mười bốn ngày sau, Đức Phật mới nói kinh. Lúc bấy giờ, A-nan vẫn còn ở trong thai mẹ, không thể tham dự đại hội.

Hai mươi năm sau, A-nan mới xuất gia, ba mươi năm sau, mới làm thị giả. Từ thời gian này về trước, các kinh do Phật nói, phần nhiều A-nan không đích thân nghe, dù không đích thân nghe, nhưng hầu hết các kinh đã được kiết tập đều nói rằng “Một thuở nọ”. Phán quyết biết “Một thuở nọ” chẳng phải là phân biệt lời lẽ truyền tụng nhau. Lại, trong Tiểu thừa, không được nói rằng A-nan là quyền, thì làm sao được nói là nghe ở một thuở nọ? Do đó mà suy ra, biết chắc chắn lời nói của con người không đáng nương tựa. Làm sao biết được A-nan đã giáng sinh vào đêm Phật đắc đạo? Để chứng minh cho nghĩa này thì phải biết về nhân duyên đặt tên A-nan.

A-nan-đà là danh tiếng nước ngoài, Hán dịch là Hoan hỷ, Hỷ có ba nhân duyên:

1. Nhân duyên quá khứ: Đức Thích-ca, lúc còn làm Bồ-tát ở quá khứ, thấy Phật Thích-ca đời quá khứ, cha tên Tịnh Phạn, mẹ tên Ma-da, đệ tử thị giả tên là A-nan. Cõi nước, quyến thuộc so với ngày nay không khác. Do đó, liền phát nguyện: “Nguyện tôi đời đương lai sẽ được thành Phật đạo, như nay không khác.” Do bổn nguyện này, mà nay đắc quả, nay thị giả cũng tên A-nan.

2. Nhân duyên hiện tại: A-nan rất khôi ngô, ai nhìn thấy cũng đều vui mừng, nên tên là Hoan hỷ.

3. Cha mẹ đặt tên: Vì sao cha mẹ, đặt tên là Hoan hỷ, vì A-nan sinh vào lúc vui mừng. Lúc vui mừng là sao? Là lúc Phật đắc đạo. Năm mười chín tuổi Đức Như lai, vượt thành xuất gia, xuất gia rồi, tu định suốt năm năm, tự nhịn đói ròng rã sáu năm. Nhà vua biết Vương tử thân thể rất yếu ớt, thường sợ không an toàn.

Về sau, Bồ-tát thấy rằng nhịn đói chẳng phải đạo, nên mở đầu nhận ăn cháo sữa, vì muốn chứng được quả Chánh giác. Bọn ma nghĩ rằng: “Nếu Phật thành đạo, thì làm cho cảnh giới của chúng ta sẽ trống rỗng, đạo quả chưa thành, sẽ làm băng hoại ý chí của mình, bèn lôi kéo mười tám muôn ức quan thuộc, đem các khổ cụ đến dọa cho Bồ-tát sợ hãi.” Bấy giờ, Bồ-tát nhập định “Thắng ý từ” làm cho quyến thuộc ma phải điên đảo, tan tác. Ma đã bị Bồ-tát hàng phục, nên chúng nghĩ rằng: “Oai lực của Bồ-tát rất rộng lớn, chúng ta chẳng thể thắng được, phải khuấy nhiễu vua cha của Bồ-tát. “Đoạn chúng kéo nhau vào cung vua Tịnh Phạn, nói thế này: “Nhà vua nên biết, Thái tử Tất-đạt đã chết hồi tối hôm qua!” Nhà vua nghe nói, từ trên long sàng liền ngã nhào xuống đất, cũng như con cá. Nhà vua có cảm giác như đang bị cát nóng đốt cháy, bởi từ lâu rồi, vua nghĩ Thái tử đừng xuất gia, sẽ làm Luân vương, đâu mong gì xuất gia, chẳng được chi cả!

Trong khoảnh khắc, thần cây Bồ-đề lại nghe tin Phật vừa thành đạo, bèn rải hoa trời trên cung vua Tịnh Phạn và nói rằng: “Thái tử của đất trời vừa thành đạo đêm qua! Vào lúc sao mai vừa mọc, sau khi hàng phục ma, đã thành Phật đạo. Chính cho nên dùng hoa trời để chúc mừng! Vua nghe xong, sinh nghi, vì trước đó, đã có vị trời nói “Con ta đã chết đạo” nay lại có vị trời nói con ta thành đạo, làm sao ta tin được?”

Thần cây Bồ-đề nói: “Lời tôi đáng tin. Vì trước đây là ma, nên đã đem tin buồn đến cho ngài!”

Vua bèn nghĩ rằng: “Con ta ở tại gia sẽ làm Luân vương. Nay, xuất gia làm Pháp luân vương. Kia đây không mất. Trước đây, nghe tin con ta đã chết, nay bỗng nhiên sống nghe tin còn, là một sự vui mừng lớn. Lại, được nghe tin đã thành đạo, là hai lượt vui mừng lớn.

Không bao lâu, em vua Tịnh Phạn là Hộc Phạn nửa đêm sinh ra A-nan. Sang giờ dần, bồng con đến chỗ vua nói: “Đêm qua, em vừa mới sinh một con trai!” Nhà vua đáp: “Con ta thành đạo, hoàng đệ lại sinh con trai. Thật là nhiều nỗi vui mừng dồn dập, nên đặt tên là Hoan hỷ, do đây suy ra. A-nan chắc chắn là sinh vào đêm Phật đắc đạo.

Vì sao nói là nghe cùng lúc? Về sự, thì nghiệm như thế. Kế là dùng văn để chứng minh. Như kinh Xoay bánh xe pháp chép: “Khi A-nan kiết tập pháp, trước lên tòa cao nói bài kệ rằng: “Lúc Phật nói pháp lần đầu tiên, bấy giờ, ta không thấy, lần lượt nghe như thế. Phật đến Bala-nại, vì chúng năm Tỳ-kheo, xoay bánh xe pháp bốn đế. Nhưng mở đầu kinh ấy cũng nói: “Một thuở nọ”. Người kia nói: “Truyền rằng”. Lại nói: “Một thuở nọ”, là nói biết một thời gian, không phải phân biệt tương truyền sai lầm, để nói về lỗi như vậy.”

Kế là nói về nghĩa đúng: Số là Như lai vì thời gian hóa độ, nói là “Thời”. Về thời gian hóa độ rất nhiều, vì phân biệt với thời gian khác, nên nói là “Một”. Việc này làm sao biết được? Như trong Đại bổn của Địa Kinh kia nói: “Bấy giờ, Đức Phật ngự trên cõi trời và truyền riêng, đổi chữ “Nhĩ” thành chữ “Nhất”. Nói “Lúc bấy giờ”, không thể thành trên. Đổi chữ “Nhĩ” thành chữ “Nhất”, đâu không thuộc dưới. Trong các kinh Phần lớn có cách so sánh này. Như trong văn dưới nói: “Một thuở nọ, ta ngự trong rừng Thi Thủ, một thuở nọ, ta ngự ở nước Ca-thi. Một thuở nọ, ta ngự ở thành Vương xá, một thuở nọ, ta đang ngự bên bờ sông Hằng, như thế chẳng phải “một”.

Nói Phật, là là nêu vị đứng đầu giáo hóa, Hán dịch là Giác. Giác có hai nghĩa:

  1. Giác sát, gọi là giác, như người giác giặc.
  2. Giác ngộ, gọi là giác, như người ngủ thức dậy.

Nói giác sát là đối với chướng phiền não. Phiền não làm hại. Sự v.v… như giặc, chỉ bâc Thánh đã giác biết, không bị chúng làm hại, nên gọi là “Giác”.

Nói giác ngộ: Đối với vô minh che lấp trí kia, giấc ngủ hôn mê, về sự, đồng như ngủ say. Hễ Tuệ Thánh khởi thì đại ngộ sáng rỡ, như ngủ say được thức dậy, nên gọi là Giác.

Vô minh có hai:

1. Tánh kiết là Vô minh của làm mê muội, che lấp thật tánh, vì đối trị, dứt trừ vô minh kia, nên giác sát cùng cực Như lai tạng tánh chân thật của mình, nên gọi là Giác. Không biết đối với hai việc, không hiểu rõ thế đế, vì đối trị, dứt trừ chúng, nên giác biết tất cả pháp của ba nhóm: thiện, ác, vô ký, nên gọi là Giác. Cho nên kinh Địa trì chép: “Nhóm lợi ích về nghĩa, nhóm lợi ích đối với phi nghĩa. Phi nghĩa chẳng phải là nhóm lợi ích phi nghĩa. Vì bình đẳng mở mang giác ngộ, nên gọi là Phật. Nhóm nghĩa là thiện, nhóm phi nghĩa là bất thiện. Phi nghĩa, chẳng phi nghĩa là vô ký kia. Vì đối với các nghĩa này đều biết rõ, nên gọi là Giác. Đã có khả năng tự giác ngộ, lại có khả năng giác ngộ người. Công hạnh giác ngộ đã được cùng cực tròn đầy nên gọi là Phật. Tự giác, phân biệt với phàm. Giác tha, phân biệt khác với Thanh văn, Duyên giác. Công hạnh giác ngộ được tròn đầy cùng cực, rõ ràng khác với Bồ-tát. Cho nên, một mình nghiêng về này gọi là Phật. Ở nước Câuthi v.v… là nơi chốn hóa độ. Xứ có, chia ra bốn thứ:

  1. Nước.
  2. Đất.
  3. Sông.
  4. Rừng.

Trong chỗ đến hóa độ, gọi là ở. Nước Câu-thi, là từ ngôi thành mà đặt tên. Hán dịch là Nhuyến thảo (cỏ mềm). Trong kinh A-hàm gọi là Mâu Thành. Địa lực sĩ: y cứ có người để phân biệt chỗ ở. Vì cõi nước rộng thênh thang, nên lại chỉ riêng. Các con của lực sĩ đều sinh ở nơi này, nên, gọi là đất sinh ra lực sĩ. Bên sông A-lợi-la Bạ-đề: cứ theo sông để phân biệt nơi. Vì đất sinh cũng rộng, nên lại nói về đất, dịch là sông cát vàng.

Cây Ta-la: Y cứ theo rừng để phân biệt chỗ. Vì sông cũng rộng, nên lại chỉ quanh co. dịch là rừng kiên cố. Vì mùa đông, mùa hạ không thay đổi, nên gọi là rừng kiên cố. Vì sao cây ở nước này có hai chỗ? (Văn sau có giải thích). Về hai chỗ đất, và sông cũng sẽ có hai lý do (trong văn không giải thích).

Không thể nói ngay rằng, có người ở đây, mượn việc để nói lên pháp. Nói thành Câu-thi là thành của các vị tiên. Các vị tiên mạng sống lâu dài, biểu thị cho Phật sống lâu. Đất sinh ra lực sĩ, nói lên đại lực của Phật, không bị bốn ma hàng phục.

Sông cát vàng: nói lên sông Niết-bàn có cát Phật tánh. Rừng kiên cố, nói lên chân thân của Như lai bền chắc, không thể phá hoại. Lẽ như thế không phải do kinh nói, chưa thể quyết định.

Từ dưới đây, là phần hai, theo Phật để nói về chúng. Chia ra ba môn:

  1. Y theo Phật để phân biệt.
  2. Y theo chúng để phân biệt.
  3. Y theo Phật, chúng tương đối để phân biệt.

Vì biết tướng hóa độ cho nên phải y theo Phật để phân biệt. Vì biết sự khác nhau giữa cũ và mới giữa người được giáo hóa, cho nên phải y theo chúng để phân biệt. Vì nhận thức được văn kia, nên phải tham luận ở Phật và chúng.

Nói y theo Phật: Phật hiện ra sáu tướng:

  1. Phát ra âm thanh.
  2. Phát ra ánh sáng.
  3. Mặt đất rung chuyển.
  4. Rừng thay đổi.
  5. Tịnh độ.
  6. Thâu ánh sáng trở vào miệng.

Trong sáu tướng này, trước nói về nghĩa đúng. Sau, nói chẳng phải thuyết khác.

Nghĩa đúng thế nào? Nói chung, tức sáu tướng này ở đây đều biểu thị cho diệt, làm tướng cho diệt, phần riêng trong đó, ba tướng trước là nhóm hợp chúng, ba tướng sau là khởi sự nói. Y theo hai môn trong ba tướng trước để phân biệt:

Biểu thị cho diệt để phân biệt, một là tướng âm thanh, làm cho biết thời gian nhập diệt và biết người nhập diệt.

Hình ảnh ánh sáng, làm cho biết chỗ nhập diệt.

Mặt đất rung chuyển, nói lên quyết định nhập diệt, thị hiện nhập diệt không xuyên suốt. Tướng thứ hai là nhóm hợp chúng để phân biệt:

Tướng âm thanh, tuyên bố nhập diệt, cho mọi người biết, làm cho chúng sinh vì luyến tiếc bậc Thánh nên đến.

Hình ảnh ánh sáng, làm cho biết chỗ nhập diệt, đều dứt trừ chướng ngại phiền não. Ở trước, nghe bậc Thánh nhập diệt, có tâm muốn đến, nhưng bị buồn rầu buộc ràng, vì không thể tự vận dụng thần thông, nên Phật phát ra ánh sáng xua tan phiền não trở ngại chúng sinh kia, nên văn sau nói: “Chúng sinh trong đó gặp ánh sáng này, tội nhơ phiền não, tất cả đều tiêu trừ.”

Mặt đất rung chuyển: Thúc giục sao cho nhóm hợp nhanh chóng, nên dưới đây, đại chúng xem tướng, thúc giục nhóm hợp. Trong ba tướng sau cũng chia ra hai môn:

  1. Rừng thay đổi:Thay đổi nơi chốn thường, chứng tỏ bậc Thánh sẽ phải ra đi.
  2. Tịnh độ: Thị hiện chỗ trở về, nói lên bậc Thánh phải đến.

2. Thu nhiếp ánh sáng, thị hiện hóa thân đã khắp, chứng tỏ nhập diệt không xuyên suốt.

Đôn đốc, khích lệ tâm đại chúng, khởi sự nói, phân biệt:

– Rừng thay đổi: chúng cõi này nhóm hợp, thấy bậc Thánh vẫn còn, hy vọng Phật sẽ không nhập diệt. Xuyên suốt tâm cầu pháp. Đức Phật vì đôn đốc, khích lệ, thay đổi rừng, thị hiện nhập diệt, để làm lớn thêm tâm cầu pháp.

– Tịnh độ: chúng của cõi khác nhóm hợp, thấy Phật vẫn còn, mong Phật không nhập diệt, tâm cầu pháp xuyên suốt. Phật vì đôn đốc, khích lệ, thay đổi cõi nước, thị hiện nhập diệt, để tăng thêm tâm cầu pháp. Ở trước dù biết nhập diệt, nói là không diệt ngay. Tình lưu luyến vẫn xuyên suốt vì thõ lãnh giáo pháp không tha thiết, nên lại đôn đốc khích lệ, thu nhiếp ánh sáng trở vào miệng, chứng tỏ sự nghiệp hóa độ đã khắp, thị hiện nhập diệt ở hiện nay, làm cho chúng sinh càng thêm khát khao kính mến, nghe pháp liền thọ lãnh. Nghĩa đúng như thế.

Kế là, giải thích không phải thuyết khác, trong đó có ba:

1. Đả phá nhiều tướng: có người ở đây lập ra bảy tướng, sáu thứ như trước, thêm một Hiện đường, chung với trước thành bảy. Nếu Hiện đường ở trên rừng thì đường là tướng riêng. Dưới đường có ao, ao lẽ ra cũng khác. Trong ao có hoa, hoa lẽ ra cũng khác. Ao, hoa, nghiêm đường không thể chia riêng. Đường là rừng trang nghiêm, đâu được làm riêng, nên trong văn dưới, sau khi hiện đường, mới nói “Bấy giờ, rừng cây Ta-la, các thứ trang nghiêm, rất đáng yêu thích. Như vườn Hoan hỷ ở Uất-đơn-việt, nói biết không khác.

2. Đả phá một ít tướng: Có người ở đây chỉ lập bốn tướng: Mặt đất rung chuyển, tịnh độ vì chẳng phải tướng Niết-bàn, nên chỉ có bốn.

Hỏi: Vì sao mặt đất rung chuyển chẳng phải tướng Niết-bàn?

Đáp: Vì đại chúng khóc lóc ai bi, nên làm cho mặt đất rung chuyển, vì chẳng phải do Phật hiện ra, nên chẳng phải tướng diệt.

Hỏi: Vì sao Tịnh độ chẳng phải tướng Niết-bàn?

Đáp: Vì Tịnh độ là do tâm đại chúng thanh tịnh, chẳng phải cảnh giới do Phật hiện ra. Lại, vì thanh tịnh rất tốt đẹp, nên chẳng phải tướng diệt. Nếu nói mặt đất rung chuyển là do đại chúng buồn khóc chẳng phải biểu thị tướng diệt. Vì sao đại chúng thấy mặt đất rung chuyển, thôi thương xót, thúc giục nhau đến chỗ Phật. Thấy tướng mặt đất rung chuyển thôi thúc, sao chẳng phải tướng? Nếu hiện tượng mặt đất rung chuyển chẳng phải là tướng, thì đại chúng đã dựa vào tướng chung nào để thôi dứt thảm thương? Nếu nói Tịnh độ là do tâm đại chúng thanh tịnh, chứ chẳng phải do Phật hóa hiện, hoàn toàn chẳng phải tướng nhập diệt, thì vì sao dưới đây lại nói nhờ thần lực Phật, nên mặt đất đều mềm mại, không nói do tâm. Nếu cõi nước trang nghiêm thanh tịnh, thì chẳng phải tướng diệt, trang nghiêm rừng cây đâu được làm tướng? Tịnh độ kia được làm tướng, thì rừng cây này cũng vậy.

3. Đả phá biểu thị khác lạ: có người nói: Tướng âm thanh thứ nhất là nói về lúc nhập diệt, không nói về nghĩa khác. Thời gian nêu trong âm thanh, tức gọi là nói lên thời gian trong âm thanh nói Phật sắp nhập Niết-bàn, sao lại không biểu thị?

Có người lại nói rằng: “Ánh sáng nói lên chỗ nhập diệt, không nói lên nghĩa khác. Nếu vậy, trong văn lẽ ra phải nói rằng “Chúng sinh gặp ánh sáng mà biết chỗ, tội nhơ phiền não đều được tiêu trừ?”

Có người lại nói: “Vì sao thay đổi rừng nói lên sự diệt độ? Vì rừng trắng là tướng chết, nên nói lên sự diệt độ. Đây là trắng tươi, chứ chẳng phải trắng đẹp, nên văn dưới nói: “Rừng kia biến thành trắng, cũng như chim hạc trắng, rất đang yêu thích. Rừng trắng đáng yêu, sao là tướng chết?”

Có người lại nói: “Tịnh độ, vì muốn nói về pháp thanh tịnh, không nói lên sự diệt.” Cách phá này đồng với các phá trước: Rừng trang nghiêm nói lên diệt, Tịnh độ cũng giống như rừng kia, sao lại không biểu thị? Trên đây là phần thứ nhất, y theo Phật để phân biệt.

Phần hai, là y cứ riêng vào tín đồ để phân biệt, khai hợp không nhất định, hoặc chia thành hai, chỉ có mới và cũ. Ly, hợp được chia thành ba:

  1. Nêu chúng cũ.
  2. Nêu chúng mới.
  3. “Bấy giờ, điềm lành Ta-la v.v…” trở xuống là tổng kết chung mới, và cũ. Văn chia làm năm:
  1. Nói về chúng cũ.
  2. “Âm thanh, ánh sáng v.v…” trở xuống, là nói về chúng mới kia, ngắm tướng, thêm tướng thương xót, giục giã đến chỗ Phật.
  3. “Bấy giờ có vô lượng đại đệ tử v.v…” trở xuống là nói về chúng cũ ở trước xem tướng càng thương xót thêm.
  4. “Lại có tám mươi trăm ngàn v.v…” trở xuống là nói về chúng mới nhóm hợp.
  5. “Điềm lành v.v…” trở xuống, là tổng kết chúng nhóm hợp. Nếu tùy chúng, phân biệt có bốn mươi tám vị Tỳ-kheo cũ, mới, gồm ni là ba. Mở đầu từ một Hằng, cho đến mười Hằng, chung với trước thành mười ba. “Hai mươi hằng v.v…” trở xuống, cho đến rừng trắng, có hai mươi bốn, chung với ở trước hợp thành ba mươi bảy chúng.

“Rừng trắng v.v… về sau”, là chúng phạm mới nhóm hợp, đều có Bồ-tát mười phương mới đến, chung với trước hợp thành bốn mươi tám. Nếu chia ra các tầng trời cõi Dục, các tầng trời cõi Sắc, cõi Vô sắc, thì đều chia ra bốn phương, vô lượng, vô số, Vô Biên Thân. Chúng tức không có hạn lượng. Theo lời truyền xưa, thì có năm mươi bốn chúng, hoàn toàn không đúng.

Môn thứ hai này y theo chúng để phân biệt.

Môn thứ ba, trong phần Phật, chúng hợp nói văn có mười hai:

  1. Nói về chúng cũ.
  2. Âm thanh, ánh sáng, nhóm hợp chúng mới.
  3. Nói về chúng mới ngắm tướng, thương xót thêm.
  4. Như lai làm rung chuyển mặt đất thúc giục nhóm hợp.
  5. Nói các chúng thấy tướng rung chuyển, thúc giục nhóm hợp đến chỗ Phật.
  6. Nói Như lai biến đổi rừng Ta-la, nhằm đôn đốc, khích lệ chúng.
  7. Lại nói các chúng ngắm xem tướng, thêm buồn thương, cùng nhóm hợp, dâng cúng.
  8. Tổng kết chúng nhóm hợp.
  9. Biến đổi cõi nước thành thanh tịnh.
  10. Vì cõi nước thanh tịnh nên đại chúng được thấy khắp mười phương.
  11. Như lai gồm thâu ánh sáng.
  12. Vì gồm thâu ánh sáng nên đại chúng buồn rầu, khóc than thảm thiết.

Dưới đây, là dựa vào mười hai đoạn văn này, theo thứ lớp giải thích:

Y theo đoạn đầu nói “Bấy giờ”, là thời gian nhóm hợp đại chúng, nói là vào thời gian Đức Phật đang hiện diện ở nước Câu-thi.

Nói Thế Tôn là người nhóm hợp chúng. Phật có đủ các đức, vì được thế gian cung kính tôn trọng, nên hiệu là Thế Tôn.

“Với đại.. trở xuống”, là chúng được nhóm hợp. Vì thân gồm cả chúng kia, nên gọi là “Với”.

Đại Tỳ-kheo: Tiêu biểu cho phân biệt chúng kia. Đại: tiếng Phạm gọi là Ma-ha, Hán dịch có ba:

  1. Gọi là Nhiều: như người đời gọi là đại chúng.
  2. Gọi Hơn: Là vượt hơn chúng khác.
  3. Gọi Đại: Là rộng bao la, đủ đức cao. Tỳ-kheo là tiếng Phạm, Hán dịch có năm:
  1. Bố ma: Lúc mới xuất gia, chiến đấu với ma, làm cho chúng khiếp sợ. Vì tánh của ma là dơ bẩn, xấu xa tệ hại, vốn sợ người khác hơn mình, nên sinh ra khiếp sợ.
  2. Khất sĩ: Đã xuất gia rồi, không có gì đáng cất chứa, cầu xin tự nuôi sống.
  3. Tịnh mạng: Do cầu xin chính đáng, xa lìa tà mạng.
  4. Phá ác: Giữ giới, lìa lỗi lầm.
  5. Trì giới tịnh: Do xa lìa ấu ác, nên giữ giới thanh tịnh.

Một nghĩa đầu trong năm, là y cứ mở đầu bày tỏ tên gọi. Hai nghĩa giữa, là y cứ kế đó. Hai nghĩa sau, là y cứ sau cùng.

Tám mươi ức trăm ngàn: Là nêu số chúng. Vây quanh, trước sau, chứng tỏ số chúng đó đang hiện diện ở trước, sau Phật, vây quanh Như lai.

Từ sau đây, là phần hai, âm thanh, ánh sáng nhóm hợp chúng mới, trước âm thanh, sau anh sáng. Âm thanh là ngữ, nói lên việc nhóm hợp rõ ràng, nên trước phát ra. Ngày rằm tháng hai là: Thời gian phát ra âm thanh.

Sắp nhập diệt, nói là sắp. Sáng sớm phát ra tiếng, đêm hôm sau sẽ nhập diệt; vì cách lúc nhập diệt không còn xa, nên nói là “Sắp”. Đây là nói hóa thân nhập diệt, cho là Niết-bàn. Lại, thôi hóa độ, trở về chân, cũng gọi là Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao thời gian này là Niết-bàn?

Sau đây, Kinh tự giải thích:

Theo kinh A-hàm, Như lai nhập Niết-bàn vào ngày mồng tám tháng tám. Văn sau của kinh này cũng có việc này, nên văn sau sẽ nói: “Tu-bạt-đà-la cuối cùng an cư xong, sẽ đến chỗ ta. Cho nên, xưa kia, ta đã bảo ma Ba-tuần: “Ba tháng nữa, ta sẽ Niết-bàn”. Nay, nói ngày rằm tháng hai, chính là vì chỗ thấy, nghe khác nhau, cho nên như vậy. Nhờ thần lực Phật, nói về người phát ra tiếng, cũng được gọi là lý do phát ra âm thanh. Đây là do năng lực thần thông như ý của Như lai, chẳng phải thông khác.

Hỏi: Thông có mấy thứ mà nói là chẳng phải thông khác?

Đáp: Thông có bốn thứ:

  1. Huyễn thông: chuyển biến sự việc bên ngoài.
  2. Như ý thông: vận dụng biến hóa thân mình, nhiều âm thanh thông báo cùng khắp.
  3. Pháp trí thông: thấu suốt các pháp.
  4. Thánh tự tại thông: Có thể ngay trong khổ, mà nghĩ là vui, đối với việc vui, thì nghĩ là khổ, đối với pháp khổ vui, này mà nghĩ không khổ, vui, không tùy duyên biến hóa, gọi là Thánh tự tại. Nay, phát ra âm thanh lớn, chính là thông như ý thứ hai kia.

“Phát ra nhiều âm thanh v.v…” trở xuống chính là nói phát ra tiếng. Phát ra âm thanh lớn là chung. Âm là tiếng nói, là tiếng Phạm Hán, với thể là âm thanh. Sau đây sẽ giải thích riêng:

Đại có ba nghĩa:

    1. Vì rộng, xa nên là đại.
    2. Vì tuyên bố cùng khắp nên là đại.
    3. Vì nói việc rộng lớn, nên gọi là Đại.

Âm thanh của Phật cùng khắp, vang dội đến Hữu Đảnh, đầu tiên là đại. Kế là khắp các phương khác. Trên, cùng cực Hữu đảnh. Tưởng thương xót là cùng cực ba hữu kia, nên nói là Hữu đảnh.

Trên nói về chỗ đến. Những điều khác lược qua không nói. Phải biết rằng mười phương hễ đến chỗ nào, đều từ A-tỳ. Trên, đến Hữu đảnh, chẳng phải riêng cõi này, mà tùy loại thông báo cùng khắp, là đại thứ hai.

Tiếng Phạm trong tiếng Phạm, tiếng Hán trong tiếng Hán, gọi là âm tùy loại. Đây là một âm, làm cho người hiểu khác, chứ chẳng phải tạo ra nhiều âm. Vì có duyên đều ngộ, nên nói là tuyên bố cùng khắp.

“Ngày nay trở xuống, v.v…” đại là thứ ba, trong đó có hai:

  1. Tuyên bố nay bậc Thánh nhập diệt, vì làm cho chúng sinh luyến tiếc bậc Thánh, cho nên đến.
  2. Nêu lên hoài nghi, khuyên hỏi. Muốn cho chúng sinh vì lợi ích nên nhóm hợp. Lại tuyên bố “Bậc Thánh nhập diệt”, vì muốn cho chúng sinh dâng cúng, thỉnh Phật trụ lại đời để thu nhiếp công đức.

Nêu lên hoài nghi, khuyên hỏi, là vì muốn cho chúng sinh cùng nhóm hợp, hỏi pháp để phát sinh trí tuệ. Ở trước, tuyên bố trong diệt. Nói ngày: Là tuyên bố thời gian nhập diệt.

Nói Như lai là lời tuyên bố người nhập diệt, sắp nhập Niết-bàn, thông báo việc Phật nhập diệt. Trong cõi người, Như lai, Ứng Chánh Biến Tri, là đức tự lợi. Nhân đạo như thật đến, thành Chánh giác, nên gọi là Như lai. Ứng: Là hiệu Ứng cúng của Phật. Các lỗi đã dứt hẳn, tương ưng với chứng diệt, nên gọi là Ứng.

Lại, Ứng cúng dường cũng gọi là Ứng. Chánh biến tri: Về lý, vì không có nghiêng về, nên gọi là Chánh. Soi rọi cùng tận về lý, gọi là Biến tri là Đức mình vô lượng, lại nêu ba danh hiệu này, thương xót trở xuống, là đức lợi tha. Thương xót đầu tiên v.v… để nói về sự lợi tha. Đại giác Thế Tôn, nêu hiệu lợi tha. Trong sự lợi tha, xót là từ lâu thương là bi mẫn. Hai đức này thuộc nội tâm. Che chở: Chở che, làm cho pháp lành thêm nhiều. Hộ, là ngăn dứt, giữ gìn, sao cho chúng sinh lìa bỏ điều ác. Hai công dụng này là tướng ngoài. Nhìn chúng sinh Bình đẳng, là nói về sự thương xót ở trước. Xem chúng sinh đều bình đẳng là là nói, như La-hầu-la, so sánh để làm rõ, vì làm quy pháp v.v… nói rõ sự che chở, giữ gìn ở trước. Đặt ra thuyết quy pháp, thí dụ nhà để so sánh với hiệu Phật đại giác trong danh hiệu lợi tha. Đại giác là danh hiệu của Phật. Nói Thế Tôn: Là hiệu Thế Tôn. Đức hóa độ vô lượng, lược nêu ở đây.

Sắp nhập Niết-bàn là tuyên bố việc nhập diệt. Gần nhập diệt, nên nói là sắp. Sau đây, trong lời khuyên hỏi, tất cả chúng sinh, có nghi ngờ đều hỏi, để nói lên mình không nghiêng về. Vì muốn sao cho đồng hỏi, vì nêu một người ngang hàng với người khác, nên gọi là tất cả. Vì các pháp sanh thành, nên gọi là chúng sinh. Lại, đa số tử sinh, cũng gọi là chúng sinh. Vì có nghi ngờ cần giải quyết, nên đều phải thưa hỏi. Vì câu hỏi sau cùng, để chứng tỏ mình chắc chắn nhập diệt nên muốn cho thưa hỏi.

Hỏi: Vì sao trong đây không có thương xót, than thở?

Đáp: Vì vừa nghe tuyên bố nhập diệt, hẳn là chưa kịp xét định trạng thái thương xót áo não ít ỏi, là vì không nói. Lại, nếu có thương xót, vì tướng thương xót đồng với ở sau, nên không nói riêng. Trong vầng ánh sáng, đầu tiên, là nói các chúng sinh nhờ tắm mình trong ánh sáng đều được lợi. “Lúc bấy giờ” ở lúc đầu, là lúc Phật phát ra ánh sáng.

Nói Thế tôn: Là người phát ra ánh sáng. Vào lúc sáng sớm, lại là lúc bình minh. Vì thì gian ban ngày rộng, dài, nên lại cong ngón tay, từ gương mặt Như lai, là nói về chỗ phát ra ánh sáng. Miệng là khuôn mặt, vì sao phát ra ánh sáng từ đây? Vì mỗi tướng của Phật đều bao gồm nhiều diệu dụng, đâu thể trách đủ. Lại nữa, khuôn mặt của Như lai phát ra ánh sáng, thường là để thọ ký.

Sau đây, là nói chúng sinh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật, chính vì Phật khắp trao thọ ký cho chúng sinh, nên từ đây phát ra ánh sáng. Sau đây, nói về phát ra ánh sáng.

Phát ra các thứ ánh sáng, đều để nói lên tạp sắc của ánh sáng Phật, chỉ rõ chung về tướng ánh sáng kia, với màu sắc xanh, vàng, đỏ v.v… Phân biệt để chỉ rõ, có riêng sáu sắc. “Ánh sáng soi khắp v.v… trở xuống, nói về ranh giới của ánh sáng, gần thì soi rọi cõi Tam thiên, xa đến tam thiên thế giới ở mười phương. Đếm Tiểu đến một ngàn, lại hợp thành một, gọi là cõi Trung thiên. Đếm Trung đến một ngàn, hợp lại thành một, gọi là Đại thiên. Cõi Tam thiên này gọi là thế giới sát. Vì đồng thời thành, hoại, nên hợp thành một. Nay ánh sáng chiếu khắp, có người nói rằng, ánh sáng này khác với ánh sáng ở dưới, làm sao biết khác? Vì sáu sắc này và năm sắc kia, nên biết khác nhau. Sáu sắc này chiếu khắp mười phương, năm sắc sau chỉ che mát đại hội, nên biết là chấp khác nhau này, lẽ ra không khác. Vì sao được biết? Văn sau sẽ nói: “Ánh sáng được phát đi, ánh sáng lại trở vào trong miệng. Từ phía dưới, lại vì không có chỗ phát ra ánh sáng, nên biết là một. Nếu vậy, thì vì sao sáu sắc này, năm sắc dưới là một nghĩa?”

Giải thích: “Pha lê, mã não vì thành một sắc lẫn lộn, nên dưới nói là năm sắc. Theo tương truyền của người nước ngoài, thì trong ánh sáng đã phát, ra gồm có năm lưu:

1. Vì để suốt qua chánh pháp, nên ở dưới nói năm. Hoặc có thể như thế thì vì sao trong đây lại nói là chiếu khắp mười phương? Dưới nói là che pháp hội, vì tùy chúng sinh được chiếu, cho nên như vậy. Chúng sinh đã được ánh sáng soi rọi trong đây chưa nhóm hợp cho nên tùy theo được soi chiếu, nói là đến mười phương. Vì chúng ở dưới đều nhóm hợp, nên tùy chúng được chiếu nói là che chở đại hội. Nếu thuộc về chúng dưới, thì chỉ che một hội, vì sao dưới đây lại nói: “Tất nhiên, ở mười phương việc phải làm đã làm xong.”

Sắp: là tướng Niết-bàn sau cùng. Đã nói việc phải làm trong mười phương đã làm xong, ánh sáng đồng với ánh sáng này. Sau đây, là nói trong phần nói về chúng sinh được thấm nhuần lợi ích của ánh sáng, trong số đó có sáu cõi. Nêu lên số chúng sinh được lợi ích kia, nghĩa là chúng sinh sáu cõi trong ánh sáng trước được soi chiếu, đều được lợi ích.

Trời, người, Tu-la và ba đường ác vì là nhân đã hướng về, nên gọi là sáu đường. Đạo vì riêng khác nhau, nên cũng gọi là đạo. Kinh có chỗ nói là năm. Vì ly, hợp nên như vậy. Tu-la trong sáu cõi thuộc về cõi nào? Các kinh, luận khác nhau, theo luận Tỳ-đàm, thì Tu-la thuộc về đường quỷ. Theo kinh Pháp Niệm, thì xếp vào quỷ súc, như vua Atu-la La-hầu kia, là con của sư tử, gọi là súc sinh. Theo kinh Già-đà thì thuộc về ba cõi: trời, quỷ, súc. Mẹ của Tỳ-ma do thiên nữ sinh ra, gọi là trời. Cho nên, kinh nói: “Ông vốn là trời. Lại nữa, trong kinh gọi là Liệt thiên. Nay, phần lợi này chỉ vì sáu cõi. Gặp ánh sáng này, nghĩa là phân biệt với không duyên, phiền não tội nhơ, tất cả tiêu trừ. Chính là nói về lợi ích, tội gọi là tội báo, tức là báo chướng, vết nhơ là nghiệp chướng, phiền não là phiền não chướng. Nhờ gặp ánh sáng Phật, nên ba chướng đều tiêu trừ. Cũng có thể tội nhơ là nghiệp ác kia, nghiệp và phiền não, gặp ánh sáng Phật đều tiêu diệt.

Sau đây là phần ba, nói về chúng mới kia, xem tướng thêm thương xót. Các chúng sinh này là nêu người thương xót, thấy nghe xong, là lý do sinh thương xót. Thấy ánh sáng, nghe tiếng, gọi là thấy nghe rồi. Sau đây, sẽ chỉ rõ về tướng thương xót:

Tâm rất lo buồn, ý nghiệp bực bội, cất tiếng khóc kể v.v…, là khẩu nghiệp thở than thảm hại, đưa tay vỗ đầu là thân. Nghiệp xót xa bực dọc. Thân bực dọc khác nhau: hoặc có người xót thướng tha thiết, không thể tự giải bày, đưa tay vỗ đầu, nện bụng kêu to. Hoặc có kẻ tự đè nén

nội tâm, khó chịu, thân thể cào cấu, khóc lóc rên la.” Hỏi: Vì sao bóp trán, vỗ bụng?

Đáp: Có người giải thích rằng: “Bóp trán, chứng tỏ mình đã mất đi người đứng đầu dẫn đường. Vỗ bụng, để bày tỏ lòng dạ mình không yên, chưa hẳn như thế. Vì sự thương xót, oán ghét của người đời. Thái độ thương, ghét của người đời, được chia ra nhiều thứ: Hoặc có người vỗ đầu, hoặc vỗ bụng, hoặc có kẻ vỗ tay, đôi khi vả vào má, hoặc chân dậm đất, mỗi cử chỉ đều có biểu lộ riêng. Từ thứ tư sau đây,mặt đất rung chuyển, thúc giục nhóm hợp.

Nói “Lúc bấy giờ” là lúc mặt đất rung chuyển. Sau đây, chính là nói về rung chuyển: Đại địa, núi, biển thảy đều rung chuyển. Vì đủ rõ đại khác với tiểu, nên văn sau nói: “Chỉ có mặt đất rung chuyển, gọi là địa động. Núi, sông, biển, nước, tất cả đều rung chuyển, gọi là đại địa động. Trong đây lược bớt không có nói về lý do mặt đất rung chuyển.

Nếu cụ thể, thì nên nói: “Do thần lực Phật, nên mặt đất rung chuyển.”

Từ dưới đây là thứ năm, nói về các đại chúng nhìn thấy sự rung chuyển, thúc giục nhau cùng nhóm hợp ở chỗ Phật, trong đó có ba:

  1. Nói đại chúng thấy tướng rung chuyển, thôi thúc.
  2. “Thời gian có vô lượng vị đại đệ tử v.v… trở xuống là nói về chúng cũ của Phật, xem tướng, thêm thảm thương!
  3. “Lại có tám mươi trăm, ngàn v.v…” trở xuống là nói về chúng mới nhóm hợp.

Trong phần đầu có ba: ứng với ba tướng trên:

  1. Ứng với tướng rung chuyển của mặt đất, thúc giục đến chỗ Phật.
  2. “Chấp lẫn nhau” trở xuống, v.v… là ứng với tướng ánh sáng ở trước, mà bị tổn thương than thở.
  3. “Lại nói rằng: “Thế gian trống không v.v… trở xuống là ứng với tướng âm thanh ở trước, lại bị tổn thương than thở.

Trong phần đầu có hai:

  1. Tướng chung ngừng dứt. Vả lại, mỗi người đều nên ức chế, chớ nên quá sầu khổ! Nếu không đến chỗ Phật thì luống thảm thương vô ích, hãy cố đè nén, mong giữ bậc Thánh ở lại, vì chưa dám chuyên quyết, nên nói hãy đè nén, đừng nên quá sầu khổ.
  2. Phải nhanh chóng đi đến trở xuống v.v… là tướng chung, đổ xô thúc giục.

2. Tướng thường hiện. Vì thời gian bậc Thánh nhập diệt không xa, nên phải nhanh chóng đến. “Đầu mặt lễ v.v…” là nói thúc giục mà làm, vì thỉnh Phật trụ lại. Thân lễ kính mà thỉnh, đầu mặt là chỗ tôn quý của mình, chân Phật là chỗ thấp so với đầu, mặt kia. Đem cái chí tôn của mình để lễ tiếp với chân thấp của Phật, chứng tỏ cử chỉ cung kính hết lòng tha thiết.

Khuyên v.v… trở xuống là miệng thỉnh, thỉnh Phật trụ lại đời một kiếp và dưới một kiếp. Có người giải thích: “Thỉnh Phật trụ lại đời một kiếp, là để hiển bày “Mãn tự”. Thỉnh ở lại dưới một kiếp, vì nói lên “Bán tự”. Về việc này cần gì phải như vậy. Vì, nếu đại chúng đã biết chữ Mãn thì thính là đã hiểu Đức Phật là thường, đâu nhọc sức thỉnh ở lại. Bởi chính đại chúng đã tự có lời hứa phần nhiều hy vọng một kiếp. Nếu không toại nguyện, thì hy vọng sẽ được dưới một kiếp. Sau đây, là ứng với tướng ánh sáng, trong đó có ba:

a) Tướng ban đầu là chắp tay, tướng chung là khai thị, an ủi, đồng mất đi chỗ tôn quý, cho nên chắp tay.

b) “Lại nói rằng v.v… trở xuống là phát ngôn, than thở. Thế gian hư không, mất đi chỗ tôn quý. Vì trong thời kỳ không có Phật, nên nói là đời trống không. “Chúng sinh phước đức v.v…” trở xuống là hại mình mất lợi. Do Phật đã diệt độ sẽ không có người nào giáo hóa điều lành, nên phước đức của chúng sinh sẽ hết. Không có người nào bảo cho biết việc ác, làm cho cắt đứt nghiệp bất thiện cũ, thêm lớn pháp xuất thế. Mười điều ác là các nghiệp bất thiện kia. Bản tánh điều ác hình thành, lại thêm hiện khởi, nên nói là thêm lớn, lưu hành thế gian, gọi là xuất thế, chẳng phải sự thêm lớn này vượt hơn pháp xuất thế.

Vì sao trong đây than thở? Vì ở trước nhờ ánh sáng Phật mà tội nhơ được trừ. Nếu một khi bậc Thánh ra đi, thì tội nghiệp của chúng ta, ai có khả năng tiêu diệt, nên vì thế mà than thở.

c) “Nhân… trở xuống, tướng chung là đổ xô, thúc giục. Nhanh chóng đến, hãy mau đến chỗ Phật, chính là tướng mạn đi, mạn đi thúc giục không lâu, cần phải mau chóng. “Sở dĩ v.v… trở xuống là ứng hợp với tướng âm thanh, mà than thở. Lại, nói rằng: “Đời trống không, đời trống không, mất đi sự tôn quý! Vì sao nói lại? Có người nói: “Trống không” ở trước hại mất Như lai, “trống không” ở sau là mất pháp, chỗ thích ứng không đúng. Trực tiếp là đại chúng đã oán than rất sâu, nên nói lặp lại trống không! Như người thế gian được việc vừa ý, vui sướng thay! Vui sướng thay, gặp phải việc trái ý, tổn hại! Tổn hại, cần gì lặp lại, liền biểu lộ sự khác lạ.

“Chúng tôi v.v… trở xuống là hại mình mất lợi, từ nay, chúng ta sẽ không còn ai cứu giúp. Đối với sự thương xót chở che, giữ gìn trong âm thanh trên, mà vì than thở. “Một mai xa v.v… trở xuống là nêu nỗi nghi ngờ đối với âm thanh trên, để khuyên khích nên hỏi, mà vì thở than.

Trong phần trước, đầu tiên nói: “Từ nay, chúng ta” là nói về thời kỳ không có ai cứu giúp. Trước nay có thầy, vì mất đi bóng mát về sau, nên nói “Từ nay”. Không ai cứu giúp là không lìa chỗ ác, điều ác ở hiện tại không có ai cứu giúp. Việc ác ở đương lai, không ai cứu giúp. Không có tôn chỉ để kính ngưỡng. Không nhóm hợp ở trụ xứ thiện.

Nói người nghèo cùng: chứng tỏ tổn hại vì không có tông chỉ, nghĩa là không có, của cải Phật pháp.

Nói bày ra đơn lẻ: chứng tỏ lỗi lầm không có cách cứu chữa. Không có người cứu giúp, cho nên bày ra ngoài đơn lẻ.

Trong phần sau, đầu tiên nói: “Một mai xa” là y cứ mở đầu vì nói. Dù cho có người nghi ngờ Đức Phật đã dứt nghi. Về sau, vì nỗi ngờ vực không nhất định, nên nói “dù có”.

Lại hỏi: “Ai đã dứt nghi?”. Trong ba đoạn này:

  1. Ứng với mặt đất rung chuyển, tướng chung sẽ được ức chế chấm dứt. Hai tướng sau, giản lược ẩn, hiển không có văn.
  2. Trong đoạn hai, tướng chung được mở bày an ủi. Hai tướng còn lại, lược qua không nói, cũng là ẩn, hiển. Trong hai đoạn đầu, tướng chung là theo đuổi, thúc giục. Một tướng sau, là lược qua không nói, cũng là ẩn, hiển. Trong hai đoạn sau, phát ngôn, than thở. Đoạn đầu, lược qua không nói, cũng là đạo lý ẩn, hiển bình đẳng.

Sau đây, phần hai là nói về chúng cũ, ngắm tướng càng thêm thương xót. Làm sao biết được những người này là chúng cũ ở trước? Vì văn không nói, nên biết là chúng cũ v.v… là phân biệt chúng chưa nhóm hợp, vì không phân biệt chúng này, nên biết là chúng cũ, cho nên chúng cũ này, trong kinh loại sáu quyển hoàn toàn không có văn này. Hỏi rằng: Khi Đức Phật Kiều Phạm diệt độ ở cõi trời Đao-lợi, văn không có nói, ở dưới cũng không phân biệt, chẳng phải chúng cũ, ở đây giải thích, sao lại không đúng. Lời giải thích khác nhau, theo luận Đại Trí Độ thì sau khi Phật diệt độ, lúc kiết tập pháp chỉ nói Kiều Phạm ở cõi trời không đến, sai người đến, gọi cũng không đến. Vì không nói “Lại có”, nên biết khác nhau. Lúc đó, có vô lượng các vị đại đệ tử của Phật, nêu riêng người đó vì học sau Phật, nên gọi là “Đệ”, từ Phật hóa sinh, nên lại nói “Tử”. Ca-chiên-diên v.v… nêu tên họ.

“Gặp ánh sáng Phật v.v… trở xuống, nhìn thấy tướng, thêm thương xót. Trước phân biệt, sau kết.

Trong phần riêng, gặp ánh sáng, thân của chúng kia đấm vỗ v.v…, là thân nghiệp không yên ổn, tâm vẩn đục, ý phiền não, thốt ra tiếng kêu lớn, miệng nói lời than thở!

“Như thế v.v… trở xuống là kết”.

Hỏi: La-hán đã lìa hoại khổ, vì sao lại còn buồn phiền?

Đáp: La-hán đối với sự lo buồn về pháp thế gian, đã dứt. Đối với cảnh giới Phật, vì không thể tự quyết, nên sinh buồn phiền. Cũng như Ca-diếp, A-nan v.v…, đối với năm dục thế gian, không thể nghiêng động. Đại thọ, Khẩn-na, trống, lưu ly, đàn cầm, Đại Ca-diếp bất giác đứng dậy múa. Tỳ-kheo A-nan bất giác ca, ngâm. Đại thọ, Khẩn Na là Bồ-tát, năm dục của bậc thượng nhân, người Tiểu thừa không kham, cũng tương tự như La-hán này, cũng có thể biểu hiện nỗi lo buồn, sinh ý luyến tiếc.

Sau đây là phần ba, chúng mới nhóm hợp. Vì sao phải nhóm hợp?

Vì có tám lý do:

  1. Vì thỉnh Phật trụ lại đời, nên văn trên đã nói: “Hãy mau đến chỗ Phật, để khuyến thỉnh Như lai chớ nhập Niết-bàn.”
  2. Vì dâng cúng, nên các chúng dưới nói về cúng dường Phật.
  3. Vì Xà-duy, nên văn dưới nói: “Vì muốn Xà-tỳ thân Như lai.”
  4. Vì giải quyết nghi ngờ, nên văn dưới nói: “Đều hãy lễ kính, xin Phật giải quyết những điều chúng còn nghi ngờ.
  5. Vì chỉ rõ pháp, nên văn dưới nói: “Vì chỉ bày rõ phương tiện mật giáo của Như lai.”
  6. Vì chúng sinh, nên văn sau nói: “Vì lợi ích chúng sinh.”
  7. Vì nói câu hỏi, như văn dưới nói: “Mười vị tiên nhóm hợp.”
  8. Vì ngắm xem, như trong luật nói: “Sau khi Phật diệt độ, Đại Cadiếp nhìn thấy một Ni-càn, tay cầm hoa trời đang tìm đường đi, hỏi:

Từ đâu đến?

Ni-càn đáp: Từ thành Câu-thi đến.

Có gặp Đức Thế Tôn không?

Tôi có gặp.

Đức Thế Tôn có được bình yên không?

Thế Tôn nhập diệt rồi, đã được bảy ngày! Tôi từ đại hội ở thành đó, cầm hoa này đến đây.

Các vị như vậy, đã trực tiếp vì ngắm xem, với ý đến như thế. Nay, ở đây đã nêu đủ sáu ý trước, cho nên đến nhóm hợp. Đầu tiên trong văn, trước là tùy số nhiều ít, tăng dần, để nêu: “Hai mươi hằng sa hương tượng lớn v.v…” trở xuống, là nêu lẫn lộn các chúng. Trong tăng dần ở trước, đầu tiên là nêu chúng đạo.

“Bốn hằng v.v…” trở xuống, là nói về chúng thường lưu. Các tôn đức của đạo, vì số ít nên nêu trước. Hàng thường lưu thấp hèn, vì nhiều, nên nêu sau. Trong chúng đạo pháp, trước nêu chúng xuất gia, sau nêu giới tại gia. Vì người xuất gia với thân hình tôn quý, nhưng số ít, nên nêu trước. Thân hình tại gia thấp kém, nhưng số nhiều nên nêu sau. Trong chúng xuất gia, nêu Thanh văn trước, nêu Bồ-tát sau. Các kinh phần nhiều như vậy. Vì sao? Vì giải thích chung có bốn:

1. Phân biệt xa, gần: Các Thanh văn thường theo Như lai, do đó nói ở sau Phật, theo hầu gần nên nêu trước. Đã nêu chúng Tỳ-kheo như trên là đúng. Bồ-tát vì không như vậy, nên giải thích ở sau.

Vì sao các Thanh văn thừơng hầu gần Như lai?

Giải thích: Có hai nghĩa:

a) Các Thanh văn trí tự yếu kém, chưa thông hiểu đạo pháp, dù đã được quả Thánh, nhưng về oai nghi trong đời sống hằng ngày cũng thường phải nhờ Phật dạy bảo, cho nên Như lai cho đến khi Phật diệt độ vẫn thường chế giới.

b) Chúng Thanh văn hiện nhờ Phật độ, bỏ phàm thành Thánh, mang ơn sâu nặng, dù đã dứt hết lậu, nhưng vì thường xuyên theo cúng dường Phật, nên gần gũi Như lai.

Bồ-tát vì có hai lý do nên không hầu gần Phật:

a) Trí giải cao siêu, hiểu sâu đạo pháp, không cần Phật dạy bảo.

b) Vì tùy cảm, hóa hiện, nên không hầu gần Phật. Đây là phân biệt xa, gần thứ nhất. Hai hình tướng phân biệt: các Thanh văn gìn giữ oai nghi, hình tướng trang nghiêm, vì được thế gian tôn kính chung, nên xếp ở trước, Bồ tát tùy theo căn cơ hóa độ, thân không có tiêu chuẩn, nhất định hình tướng oai nghi không tề chỉnh, nên xếp ở sau.

3. Y theo đức để phân biệt, cũng được gọi là y theo giáo để phân biệt. Như thuyết của Bồ-tát Long Thọ nói: “Giáo có hai thứ:

  1. Bí mật giáo.
  2. Hiển thị giáo.

Trong bí mật giáo, Bồ-tát với đức tôn quý, đáng lý phải được xếp ở trước như kinh Hoa Nghiêm nói.

Trong Hiển thị giáo, La-hán, Bích-chi đã dứt hết lậu, đồng với Phật, mọi người cung kính tôn trọng, nên phải được xếp ở trước. Bồ-tát tùy hóa độ hiện ra trong các lậu. Nếu nghe Bồ-tát ở trên La-hán, thì mọi người đều kinh ngạc, nên xếp ở sau, như kinh Đại Phẩm v.v… có nói.

Nay, theo sự hiển bày, xếp Thanh văn ở trước.

4. Y theo số để phân biệt: Vì chúng Thanh văn ít, nên xếp ở trước, vì chúng Bồ-tát nhiều, nên xếp ở sau. Dù có bốn lý do, nhưng ở đây giải thích theo ba nghĩa sau.

Trong chúng Thanh văn, xếp Tỳ-kheo ở trước, xếp chúng ni ở sau. Vì số Tỳ-kheo tôn quý ít, nên xếp ở trước, thân chúng ni thấp hèn, vì số nhiều nên xếp ở sau. Văn trong chúng Tỳ-kheo có chia làm ba:

    1. Nêu chúng, khen đức.
    2. Ngắm tướng thêm thương xót.
    3. Nhóm hợp chỗ Phật.

Y theo đoạn đầu, thì trước nêu chúng kia, nêu số nói về chúng. Văn rõ ràng dễ hiểu. Sau đây là khen ngợi đức của chúng: Trước là khen chung, kế là khen riêng. Sau kết “Đều là A-la-hán” là khen chung.

La-hán, là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô sinh, theo nghĩa, dịch là Bàng, cũng dịch là Vô trước. Báo vô sinh mất, nhân vô trước hết, tâm được chia ra như ở dưới, trong phần chia ra ấy trước là khen ngợi đức đầy đủ, thêm chiên-đàn trở xuống là khen ngợi chúng thuần thục, trong phần khen đức đầy đủ có y theo ở dưới mà khen ngợi ni, đầu tiên thiếu một, các lậu đã hết, chung cho đối tượng ít đó, văn có chia ra tám câu. Câu dù có tám, nhưng thể chỉ có bốn, đó là bốn trí. Bốn câu trước chính là khen, bốn câu sau là chỉ rõ lại.

Một ít lậu tận, nói về sự sinh tử của ta đã hết, theo Tỳ-bà-sa, sự sinh hết tức là trí dứt tập, nên dứt hết các lậu, gọi là sự sanh tử của ta đã hết, tâm được tự tại.

Nói phạm hạnh đã lập, theo Tỳ-bà-sa, là trí tu đạo, đạo hạnh tròn đầy, tiền nhiệm từ ý, gọi là tâm tự tại. Việc phải làm đã làm xong, tức là trí tạo tác đã hoàn thành. Theo Tỳ-bà-sa, là trí chứng diệt, công phu chứng diệt đã thành, gọi là “Việc phải làm đã làm xong”.

Lìa phiền não là La-hán không thọ “Hữu” ở sau. Theo Tỳ-bà-sa, là trí dứt khổ. Nay, nói lìa phiền não, là nêu nhân để làm rõ quả, do lìa phiền não, nên không thọ thân sau. Bốn nghĩa này, như ở sau có giải thích rộng.

Điều phục các căn, là chứng tỏ các lậu ban đầu đã hết. Từ nhãn đến ý sinh ra thức, gọi là căn. Vì khéo điều phục các căn, nên không sinh ra lậu, như rồng có oai lực, chỉ rõ tự tại ở trước. Thành tựu tuệ, chỉ rõ việc làm ở trước đã xong. Đây là thành tựu “Không tuệ” của chúng sinh. Được lợi ích cho mình, là nói là phiền não ở trước, vì phiền não làm tổn hại mình, nên xa lìa phiền não, gọi là lợi mình. Kịp là đến, cũng nói là “Cập”.

Sau đây là khen chúng thuần thục: Có hạnh, vì cùng chung, nên như Chiên-đàn vây quanh rừng đàn. Dứt đủ nhóm đồng, như sư tử vây quanh Sư tử đầu đàn, đức hạnh huân tu khắp. Đức hạnh ấy giống như Chiên-đàn. Đức dẹp bỏ xấu ác, tướng trạng đồng với sư tử.

Trên đây là khen ngợi riêng. “Thành tựu v.v…” trở xuống là kết. “Thành vô lượng v.v…” là kết khen đức trước. “Tất cả đều ngang bằng”, là kết khen người trước. Từ Phật hóa sinh là gọi đệ tử chân thật của Phật.

Trong phần ngắm xem tướng Phần hai , thêm thương xót: đầu tiên là nói nhìn thấy ánh sáng Phật. Kế là thúc giục, đôn đốc nhau. Sau, thêm than thở. Tình luyến tiếc sâu nặng, vì máu sôi sắp chảy ra, nên máu trong thân thể lộ ra, như hoa Ba-la. Kinh loại sáu quyển chép: “Như mặt trời mới xuất hiện, soi chiếu lá cây xanh, gân đỏ đều hiện rõ.”

Dưới đây là phần thứ ba, nhóm hợp ở chỗ Phật, trong đó trước nói về nhóm hợp để làm gì. Câu: “Vì lợi ích chúng sinh” chia ra làm năm: Một câu: “Vì lợi ích yên vui cho chúng sinh” là chung, ba câu giữa là riêng. Thành tựu “Không hạnh” bậc nhất của Đại thừa, pháp Đại thừa hóa độ. Vì Đại thừa lìa tướng nên gọi là “Không hạnh” phát rõ phương tiện Mật giáo của Như lai. Sự hóa độ của Tiểu thừa không có bố thí của quyền Tiểu, nên gọi là phương tiện. Quyền nói che lấp thật, gọi là Mật giáo. Vì không dứt bặt các thứ nói pháp, pháp hóa độ thế gian, khác với hạnh thế gian, gọi là các thứ. Cũng có thể ba pháp này đồng thành Đại thừa. Thành tựu “Không hạnh” bậc nhất của Đại thừa, làm cho Đại thừa kia chứng nhập. “Phát rõ ràng v.v… trở xuống, giúp cho chứng nhập, hiển phát trở xuống giúp cho nhập A-hàm, hiển phát Mật giáo, làm cho biết “Quyền” xưa, lìa bỏ không theo, không dứt nói pháp, giúp cho tu “Thật” nay. Nghĩa này thế nào? Do các Tỳ-kheo nhóm hợp đến chỗ Phật. Đức Phật dạy tu học “Không hạnh” của Đại thừa, người khác vì nghe đồng nhập, nên làm cho người khác thành. Do các Tỳ-kheo kia đến chỗ Phật. Đức Phật phá bỏ Tiểu, để tỏ bày giáo xưa là “Quyền”, giải thích giáo xưa, để che giấu “Thật”, gọi làm rạng rỡ phương tiện Mật giáo của Như lai.

Do các Tỳ-kheo kia đến chỗ Phật, Đức Phật dạy tu tập các hạnh Đại thừa, gọi là không dứt các thứ nói pháp. Câu “Vì chúng sinh điều phục” là tổng kết.

Năm câu trên đây nói về nhóm họp để làm gì?

“Mau đến chỗ Phật”, chính là nói về nhóm hợp. “Cúi đầu lễ Phật v.v…” đến rồi kính lễ, xếp vào ni chúng, trước “Thật”, sau “Quyền”. Ba phần trong “Thật”, đồng với Tỳ-kheo.

Y theo đoạn đầu, trước là nêu chúng nêu danh, nêu số, nói về chúng rất dễ hiểu. Sau, khen ngợi đức của đại chúng: “Tất cả cũng là đại A-la-hán”, là lời khen chung.

“Các lậu v.v… trở xuống, là khen riêng. Trong phần riêng, y theo văn trên thì ít không đủ. Trong số Tỳ-kheo ở trước, trước khen ngợi công đức đầy đủ, sau khen chúng thuần thục. Nay, ở đây lược qua, không có văn ca chúng. Theo phần khen ngợi đức, trước khen Tỳ-kheo, một ít sau cuối, là được lợi mình, chung cho đối tượng ít kia. Văn cũng có tám câu: Được khen bốn, biết không khác với nói trên.”

Các lậu dứt hết: Phiền não nối nhau tuôn ra. Vì phiền não đó cũng như mụt nhọt rĩ chảy, nên gọi là lậu. Lậu, được chia làm ba là: Dục, hữu, vô minh lậu v.v… Dưới đây, sẽ nói đủ ba lậu, chẳng phải một, cho nên nói “Các”. Vô học dứt hết, gọi là hết lậu. Ngoài ra, như trước đã giải thích.

“Cũng vào sáng sớm v.v… trở xuống là ngắm xem tướng, thêm buồn thương.

“Cũng muốn lợi v.v…” trở xuống là nhóm họp ở chỗ Phật, văn như trên nói, nói trong chúng quyền, ở trong chúng ni lại có các ni, đều là Bồ tát, bỏ quyền bày thật. Rồng trong loài người trở xuống là y theo “Thật” để khen ngợi đức. Trước là khen công đức của mình, là rồng trong loài người, là bày tỏ đức cao quý của người. Rồng là động vật trên hết trong tất cả súc sinh. Các vị ni v.v… này hơn hết trong loài người, tương tự với rồng. Y cứ dụ mà gọi là người, gọi là rồng trong loài người.

“Từng cấp giai vị v.v… trở xuống là nói về địa vị cùng cực của Thập Trụ. Thập trụ của tầng bậc giai vị, phân biệt khác với cửu trụ ở trước. An trụ bất động, phân biệt khác với Sơ trụ. Sau đây là khen ngợi lợi người:

Vì hóa hiện nữ, là hóa ra thân khác, thường tu vô lượng là hóa độ tâm người. Nghĩa của bốn vô lượng dưới đây sẽ nói riêng:

Được năng lực tự tại, có khả năng hóa thành Phật, là năng lực hóa tha. Vì năng lực thần thông tự tại, nên có khả năng thành Phật.

Kế là nêu Bồ-tát, văn cũng chia làm ba:

Đồng với Tỳ-kheo, trong phần đầu có bốn:

  1. Nêu chúng Bồ-tát kia.
  2. Sơ lược khen ngợi đức.
  3. Nêu danh hiệu Bồ-tát.
  4. Khen rộng công đức.

Đầu tiên, trong phần nêu chúng, một là hằng nêu số. Đại Bồ-tát, là nêu chúng Bồ-tát khác nhau. Bồ-tát, là tiếng Phạm, Hán dịch là đạo chúng sinh. Người này cầu đạo, bên trong ôm ấp đạo hạnh, do đạo trở mà thành người, gọi là đạo chúng sinh.

Hỏi: Người Nhị thừa đều cầu đạo. Ở đây có đạo hạnh, vì sao chỉ có Bồ-tát được danh hiệu kia?

Giải thích: Danh hiệu Hiền, Thánh có chung, riêng. Chung là từ Tu-đà-hoàn cho đến Chư Phật, danh hiệu đồng không, khác. Như văn dưới nói: “Riêng là mỗi danh hiệu đều khác. Nay, vì phân biệt hiền, Thánh khác nhau, nên vị Bồ-tát này được gọi là đạo chúng sinh.

Vì sao như thế?

Giải thích có ba nghĩa:

a) Y theo tâm nguyện, phân biệt đối với quả thì chỉ có chúng sinh này là cầu đại Bồ-đề, không cầu các thứ khác. Cho nên chỉ có Bồ-tát này được gọi là đạo chúng sinh, vì vậy Địa luận nói: “Ở trên, quyết định nguyện sẽ thành đại Bồ-đề, kệ nói là Bồ-tát.”

b) Y theo tâm giải, đối với lý để phân biệt thì phàm phu chấp “có”, Nhị thừa chấp “Không”. “Có”, “Không” đều trái với trung, không hội nhập trung đạo. Cho nên không được gọi đạo chúng sinh, chỉ có Bồ-tát này khéo bỏ “Có”, “Không”, khế hội với Trung đạo, nên được gọi là đạo chúng sinh.

c) Y theo hạnh để phân biệt: Trong phần nhập pháp Phật có ba môn:

  1. Giáo.
  2. Nghĩa.
  3. Hạnh.

Giáo cạn, nghĩa sâu, hạnh là hơn hết. Thanh văn căn cơ mềm mỏng, từ giáo mà được tên gọi. Thanh là giáo, vì nghe âm thanh, được giải ngộ, nên gọi là Thanh văn, Duyên giác. Kế là từ thắng mà đặt tên gọi. Duyên là nghĩa. Đối với duyên, ngộ giải, nên gọi là Duyên giác.

Bồ-tát là hơn hết, y cứ theo hạnh, để làm sáng tỏ danh, vì có khả năng thành tựu đạo tự lợi, lợi tha đều có lợi, nên gọi là Bồ-tát. Luận Địa Trì chép: “Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể tự độ, Bồ-tát không phải như thế, tự độ, độ người, đó gọi là đạo thù thắng. Vì đạo thù thắng, nên gọi là đạo chúng sinh.

Ma-ha-tát: Hán dịch là đại. Đại có ba thứ, như Địa Luận nói:

– Nguyện, đại: Mong đại Bồ-đề.

– Hạnh đại: Nhóm hợp rộng rãi các độ.

– Lợi ích chúng sinh đại: Như lợi ích của bốn nhiếp v.v…“Rồng trong loài người v.v… trở xuống, là phần hai, sơ lược khen, trước là khen công đức của mình, phương tiện hiện thân, khen ngợi công đức lợi người.

Phần ba là nêu danh hiệu, danh hiệu riêng, có thể biết.

“Tâm của chúng kia đều v.v… trở xuống, là phần thứ tư là khen rộng. Trong phần khen rộng, đầu tiên là riêng.

“Thành như thế v.v… trở xuống là dùng kết khen chung. Trong phần khen ngợi riêng công đức của ba đời thì trước là khen công đức hiện tại. Kế là đức quá khứ, sau là đức vị lai. Trong ba đời này đều khen đức lợi mình, lợi người. Y theo trong hiện tại, trước khen ngợi công đức mình. Về câu, có chia làm năm:

Bốn câu trước thuộc về pháp. Một câu sau, là hộ pháp. Y theo bốn câu trước, là kính trọng Đại thừa, là mở đầu của phần mình. Thừa: là công dụng của hạnh Đại thừa. Đi, có khả năng vận dụng thần thông, gọi là Thừa. Thừa được chia làm ba: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Về sở thừa của Chư Phật, hai thừa trước vì không thêm, nên gọi là Đại. An trụ Đại thừa là mức cuối cùng của phần mình, vì tu thành không lui sụt, nên nói là an trụ. Hiểu sâu sắc Đại thừa là mở đầu của thắng tấn. Đối với chỗ chưa tu, quán chiếu rõ ràng nên nói là hiểu sâu sắc. Yêu mến Đại thừa, là cuối cùng của thắng tấn. Đối với đối tượng kiến giải ở trước, ưa muốn tu hành.

Trên nay, pháp nhiếp giữ gìn Đại thừa, là công hạnh hộ pháp, không để người khác chê bai, hủy diệt, nên nói là giữ gìn. Nghĩa này, như phẩm Kim cương thân dưới đây sẽ phân biệt rộng.

Ở trên, khen đức mình, ở dưới khen lợi người. Khéo tùy thế gian, pháp giáo hóa thế gian. Thế gian có hai thứ:

  1. Chúng sinh thế gian.
  2. Khí thế gian.

Nay, ở đây khéo tùy theo chúng sinh thế gian, sao chúng sinh được gọi thế gian? Thế, là thời gian. Gian là trong. Chúng sinh được hóa độ, vì không ra khỏi thời gian, nên gọi là thế gian.

“Lập nên lời thệ nguyện này v.v…” trở xuống là pháp xuất thế hóa độ.

“Đối với quá khứ v.v…” trở xuống là khen ngợi đức quá khứ. Trước là khen lợi mình. Đã tu trì tịnh giới trong quá khứ, là lìa xa hành vi xấu ác. Khéo gìn giữ công hạnh mình đã thực hành, là hạnh nhiếp thiện.

“Hiểu chưa hiểu v.v…” trở xuống là khen ngợi đức lợi người. Hiểu, chưa hiểu: là pháp hóa độ của Tiểu thừa, kế thừa Tam bảo là Pháp hóa độ của Đại thừa. Ở đây, như Minh pháp trong kinh Hoa Nghiêm chép phẩm nói, pháp Pháp hóa độ của Đại thừa gồm có ba lượt:

a) Lượt thứ nhất, làm sao cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, làm sao cho Phật bảo không dứt. Mở bày, giảng nói rộng pháp tạng sâu xa của mười hai bộ kinh, giúp cho pháp bảo không dứt mất. Nhớ chắc tất cả hành pháp oai nghi, giúp cho Tăng bảo không dứt.

b) Lượt thứ hai, khen ngợi đại nguyện, giúp cho Phật bảo không dứt mất. Phân biệt, chỉ bày rõ ràng mười hai duyên khởi; giúp cho Pháp bảo không dứt. Tu sáu pháp hòa kính giúp cho Tăng bảo không dứt mất.

c) Lượt thứ ba, gieo hạt giống Phật trong ruộng chúng sinh, nẩy mầm Chánh giác giúp cho Phật bảo không dứt giữ gìn pháp tạng, không tiếc thân mạng, giúp cho pháp bảo không dứt. Khéo chế ngự đại chúng, tâm không lo lắng, ăn năn, giúp cho Tăng bảo không dứt.

Trong ba lượt này cũng có tầng bậc, trước là, y theo Phật bảo, làm rạng rỡ tầng bậc kia. Lượt đầu, làm cho phát tâm Bồ-đề, khởi sự mong cầu Phật nguyện.

Lượt thứ hai, là khen ngợi nguyện lớn: Khen ngợi khởi hạnh nguyện, giúp cho chúng sinh tu tập.

Lượt thứ ba, gieo hạt giống Phật trong ruộng chúng sinh: Hóa độ trở thành chủng hạnh.

Kế là y theo Pháp bảo, làm rạng rỡ tầng bậc kia. Lượt đầu, giảng nói mười hai bộ kinh, là giáo pháp của Phật.

Lượt thứ hai là chỉ bày rõ duyên khởi là pháp lý của mười hai bộ kinh.

Trong lượt thứ ba là hộ trì pháp: “là pháp hạnh của Bồ-tát v.v… trở xuống, y theo Tăng bảo, làm rạng rỡ tầng bậc kia.

Lượt đầu là thọ trì pháp oai nghi: Tăng thực hành phương tiện.

Lượt thứ hai là tu sáu pháp hòa kính: Hạnh thành không trái.

Lượt thứ ba là khéo chế ngự đại chúng. “Với đức thuần thục, nhiếp hóa người khác v.v…” trở xuống, khen đức ở vị lai, ở đời vị lai, sẽ xoay bánh xe pháp, là đức lợi tha, vì vị lai sẽ thành Phật, nên có thể chuyển pháp, do trang nghiêm Đại thừa v.v… là đức lợi mình, nghĩa là dùng công đức, trí tuệ trang nghiêm để tự nghiêm.

Trên đây là khen riêng, sau đây là tổng kết. “Thành như thế v.v…”, kết lợi mình ở trước. “Quán đồng đẳng, sinh v.v…” trở xuống là kết lợi người ở trước.

Trên đây, phần thứ nhất là nêu chung, khen đức, thêm thương xót, nhóm hợp, đều đồng với cách giải thích trước.

Hỏi: Vì sao trên đây, các chúng không nói về dâng cúng?

Đáp: Vì người xuất gia trụ trong pháp vô vi, vì không có đối tượng chất chứa, nên không có cúng hiến.

Dưới đây sẽ nói về hai chúng tại gia:

Vì Ưu-bà-tắc, thân cao quý, thường là ít, nên xếp ở trước. Ưu-bàdi v.v…, thân hình thấp kém, thường nhiều, nên xếp ở sau. Văn trong Ưu-bà-tắc, chia ra làm bốn:

  1. Nêu chúng, khen đức.
  2. “Vào lúc sáng sớm v.v…” trở xuống là nói về thờ Phật.
  3. “Đức Thế Tôn biết v.v…” trở xuống là Như lai không nhận.
  4. Không chấp nhận trụ lại.

Với bốn phần này, các chúng phần nhiều đồng, phải nên xét biết.

Trong phần đầu có bốn:

  1. Nêu chúng Ưu-bà-tắc.
  2. Hằng nêu số, ở trước nói một hằng, nay thêm nói có hai.

Hỏi: Hiện thấy loài người không nhiều, nay ở đây vì sao lại riêng Ưu-bà-tắc có hai hằng, còn chúng khác thì nhiều dần?

Giải thích rằng:

Nay, ba ngàn này vì đồng nhóm, nên có hai hằng. Lại, tùy theo quả báo riêng, trong một chỗ có nhiều hạng người, vì đều nhóm hợp ở đây, nên có hai hằng. Như trong kinh Pháp Hoa nói: “Chúng sinh thấy kiếp tận, khi bị lửa lớn đốt, người, trời thường đông đầy.” “Như thế v.v…..” trở xuống, trong các chúng, số hằng tăng dần, sự nêu chúng đó đều giống như vậy.

Các Ưu-bà-tắc có nêu riêng chúng, Hán dịch là Cận trụ, là ở gần thiện, cũng gọi là Thiện túc nam, nhớ nghĩ đều thiện mà trụ gọi là Thiện túc, lại cũng gọi là Thanh tín sĩ.

3. “Thọ trì v.v…” trở xuống, là khen sơ lược đức tốt của Ưu-bà-tắc: Thọ trì năm giới, nói lìa lỗi nặng, oai nghi đầy đủ, chứng tỏ lìa tội nhẹ.

Vì năm giới là chánh hạnh của người tại gia, nên khen nghiêng về.

4. “Danh hiệu Ưu-bà-tắc v.v…” trở xuống, là nêu danh tự Ưu-bàtắc.

5) “Ưa sâu sắc v.v…” trở xuống là khen rộng đức của Ưu-bà-tắc, trước là khen hạnh ngăn dứt phiền não. “Cũng muốn ưa v.v…” trở xuống là khen hạnh giữ gìn Tiểu thừa.

Trong ngăn dứt phiền não, đầu tiên là chung, kế là riêng. Sau là tổng kết chung, riêng. Ưa quán sát sâu sắc các môn đối trị, là chung ngăn dứt phiền não.

Sau đây là sở quán, đều là lỗi của năng đối trị, nên gọi là môn đối trị.

“Cái gọi là v.v…” trở xuống, là riêng. Môn đối trị vô lượng. Nay, ở đây lược nêu sáu môn:

1. Khổ, vui v.v… là tám môn tu: Quán các pháp sinh tử, vô thường, khổ v.v…, quán pháp Niết-bàn: Là thường, lạc, tịnh v.v…

2. Thật, không thật, là môn Nhị đế: Chân đế là thật, thế đế là không thật.

3. Quy, chẳng quy; là môn ưa thích, nhàm chán. Quy hướng Tam bảo, gọi là quy y, trái lìa tà pháp, chẳng phải là quy y. Cũng có thể xu hướng Niết-bàn xuất thế, gọi là quy y. Liên tục quay lưng với sinh tử, chẳng phải là quy y.

4. Sinh chẳng phải sinh, là môn giả thật.

5. Ấm chẳng phải sinh mà thành người giả, gọi là chúng sinh.

6. Hằng chẳng phải hằng v.v… là môn nhân quả.

Hằng và chẳng phải hằng là môn quả kia. Niết-bàn là hằng, sinh tử chẳng phải hằng. An và chẳng an là môn Nhân hạnh. Hạnh thiện là an, hành động xấu ác là chẳng an. Cũng có thể Thánh hạnh vô lậu là yên ổn, hữu lậu không phải yên ổn.

6) Hữu vi, vô vi v.v… là môn bốn đế. Hữu Vi, vô vi, là khổ đế kia. Hữu vi là khổ. Sắc pháp, tâm pháp, pháp chẳng phải sắc, tâm là hữu vi. Vô vi chẳng khổ, vì tương đối nên có. Hư không là số diệt, phi số diệt v.v… là vô vi. Đoạn là tập đáng dứt bỏ gọi là dứt. Không dứt thì chẳng phải tập, vì tương đối nên có. Niết-bàn là diệt. Chẳng phải Niết-bàn nghĩa là vì tương đối nên có. Tăng thượng là đạo, vì cao quý. Chẳng phải tăng thượng, là vì tương đối nên có.

“Thường, lạc v.v… trở xuống là phần thứ ba tổng kết. Trong phần hộ Tiểu thừa, trước phân biệt, sau là kết. Trong phần riêng, chỉ khen công đức hiện tại, vị lai, không khen công đức quá khứ. Vì dấu vết của Ưu-bà-tắc ở hạnh gần, nên lược qua không khen. Y theo phần khen công đức hiện tại thì mình, người, đều khen. Văn có ba cặp: Cặp đầu là mở đầu hạnh, cặp thứ hai là hạnh kế tiếp, cặp thứ ba là hạnh cuối cùng. Cũng muốn ưa nghe Đại thừa Vô thượng, là mở đầu lợi mình. Đối với tên gọi trước, cũng như nghe nói “Vì người” là mở đầu của lợi người, đó là cặp đầu. Khéo giữ tịnh giới, khao khát kính mến Đại thừa, là lợi mình. Kế là giữ giới, lìa lỗi, khao khát tu nhiều điều lành. Đã tự sung túc, lại bỗ sung cho nỗi khát khao của người, kế là lợi mình. Cặp thứ hai này khéo có khả năng nhiếp hóa v.v… là cuối cùng của lợi mình. Về câu, có chia làm ba: Hai câu trước nói về hạnh của pháp nhiếp. Trí nhiếp Vô thượng, cầu quả Đại thừa. Yêu mến Đại thừa, học nhân Đại thừa. Cũng có thể nhiếp thủ trí tuệ Vô thượng, cầu chứng pháp yêu mến Đại thừa, cầu được giáo pháp. Một câu thủ hộ, là hạnh hộ pháp. “Khéo có thể tùy v.v…” trở xuống, là cuối cùng của hạnh lợi người. Khéo tùy theo thế gian, pháp hóa của thế gian đã độ, chưa độ v.v… Pháp hóa của Tiểu thừa đã độ, chưa độ, giúp cho họ vượt qua quả khổ.

Người đã hiểu, chưa hiểu, làm cho họ dứt bỏ nhân tập, tiếp nối pháp hóa của Đại thừa như Tam Bảo v.v…, đây là cặp thứ ba. Sau đây là khen công đức ở vị lai, sẽ chuyển thành lợi tha. “Dùng Đại thừa v.v…” là tự lợi, dùng Đại thừa trang nghiêm là hạnh nhiếp thiện. Vị sâu tịnh giới, là hạnh lìa lỗi.

Trên đây là khen riêng. Sau đây, là kết thúc chung: “Đều có thể thành v.v…” là kết tự lợi ở trước. “Đối với chúng sinh v.v…” là kết lợi tha ở trên.

Dưới đây làphần hai, nói về cúng dường Phật. Vì người tại gia có cung, có phụng, nên sau đây sẽ nói về cúng dường Phật. Văn được chia làm bốn:

1. Nói về các cúng phẩm.

2. Lại nghĩ: “Nay, Như lai nhận cúng phẩm của con v.v…” trở xuống là nghĩ sau khi Phật nhận con cúng dường xong, sẽ nhập Niếtbàn, lòng cảm thấy thương xót ngậm ngùi!

3. “Mỗi thứ được xếp đặt v.v…” trở xuống, là dâng lên cúng Phật.

4. “Cất tiếng kêu v.v…” trở xuống, tha thiết ai bi thỉnh Phật nhận cúng dường.

Trong phần trước có hai:

  1. Cúng dường của cải.
  2. Mỗi người đều nghĩ rằng: “Tất cả chúng sinh, nếu có ai thiếu thốn v.v…” trở xuống là nói thực hành cúng dường.

Trong của cải gồm có tám:

  1. Sắm gỗ thơm.
  2. Sắm đủ cờ báu.
  3. Cầm lọng báu.
  4. Trỗi lên các thứ âm nhạc.
  5. Bưng các hoa mầu nhiệm.
  6. Bày các thứ hương.
  7. Chuẩn bị đầy đủ thực phẩm.
  8. Trang hoàng nơi cúng dường.

Y theo đoạn đầu, cũng vào lúc sáng sớm, thời gian sắm sửa gỗ củi, sắp sửa xà-tỳ, sắm gỗ để dùng. Hán dịch là phần thi. Mọi người đều nhặt củi, chính là nói sắp đặt giàn gỗ, toàn bằng gỗ Chiên-đàn v.v…, là thể của gỗ kia. Ánh sáng, hương hoa, cờ phướn, được trang hoàng quanh giàn gỗ. Hai thứ xe và ngựa dùng để chuyên chở gỗ.

Thứ hai, là cờ báu, được tô điểm bằng lưới báu.

Thứ ba, là lọng báu được đan xen bằng hoa thơm. Trong đài hoa ngát hương này, có nhiều ong đen.

Vì sao ở đây lại có lắm ong vờn hoa? Sao nói là đen? Có người nói là biểu thị cho vô minh, chúng sinh cho rằng có đối tượng để biểu thị, trong văn không nói cho nên chỉ nêu. Kỹ nhạc, hoa, hương, văn phân biệt dễ hiểu.

Thứ bảy là trong thức ăn, sắm sửa thức ăn cho Phật và Tăng là chung, sau đây là riêng, sẽ giải thích rõ:

Củi thơm, nước đức là duyên hình thành thức ăn. Vị thể của thức ăn là đắng, chua, cay v.v… Dưới đây, có ba đức, là nói lên thức ăn cao quý:

Trong duyên hình thành thức ăn, có tám thứ nước công đức đã được hình thành: thanh tịnh, không hôi, nhẹ nhàng, mát lạnh, mềm mại, ngọt ngon, khi uống vào được điều hòa, thích hợp. Uống xong, không bị bệnh, là tám công đức nói ở trước.

Sắc nhập thanh tịnh, hương nhập không hôi, nhẹ nhàng, mát lạnh, mềm mại, ngọt ngon, khi uống vào, được điều hòa, khoan khoái. Uống xong, không bị bệnh, là tám tính chất tốt của thứ trước đó.

Sắc nhập thanh tịnh, hương nhập không hôi, nhẹ, mát lạnh và mềm mại, đây là ba xúc nhập. Ngon là vị nhập. Hai thứ sau là pháp nhập. Tám nhập này là công năng của nước công đức kia. Vì là đức của nước, nên gọi là công đức. Sáu vị trong vi thể của thức ăn là nêu chung. Vị đắng v.v…, là nêu tên. Dưới đây sẽ nói bở ngọt có tám vị đầy đủ. Nay, ở đây nói có sáu, nghĩa ấy thế nào? Sáu và tám, là nói ly, hợp. Hợp tức nói sáu, ly tức là tám. Chia vị ngọt thành ba:

  1. Không đắng, gọi là ngọt, trái với vị đắng.
  2. Không chua, gọi là ngọt, trái với vị chua.
  3. Không cay, gọi là ngọt trái với vị cay.

Cũng như hai vị mặn, lạt kia trái nhau. Trong tiếng phạm, lẽ ra có tên riêng. Ở đây, không có tên gọi khác, mà nói chung là ngọt.

Trong ba đức sau, trước nêu, sau bày: Nói mềm mại là công năng của thức ăn. Ăn vào, làm cho thân thể con người được nhẹ nhàng, mềm mại.

Nói trong sạch: Thể của thức ăn tinh, ròng không có chất ô uế khác.

Nói đúng pháp, nghĩa là thọ dụng thuận với đạo, chẳng phải rượu, thịt v.v…

Trong xứ thứ tám là trước đến, sau nghiêm. Đầu tiên, trang nghiêm đất kia. Kế là tòa ngồi, sau là cây. Các Ưu-bà-tắc hiện đang ở quả báo loài người, đâu thể trang nghiêm chỗ ngồi, như núi Tu-di?

Giải thích: “Các Ưu-bà-tắc này dù ở giai vị con người, nhưng đều là Bồ-tát xuất thế không thể suy nghĩ bàn luận, nên có khả năng như thế. Hơn nữa, vì là pháp môn Tam-muội mà Như lai đã thị hiện, nên có khả năng như thế. Dưới đây, đều giống như vậy.

Trên đây đồng nói về cúng dường tài vật. Sau đây, sẽ nói về hạnh cúng dường, cũng gọi là cúng dường pháp. Luận Địa Trì gọi là Chí Xứ đạo cúng. trong đó có ba:

a) Nghĩ rằng: “Trong tất cả chúng sinh, nếu có người thiếu thốn thì nghĩ đến tâm chúng sinh.”

b) Tạo nên thời gian bố thí này, lìa dục, sân v.v… tâm ngăn dứt phiền não.

c) “Suy nghĩ không dư sót v.v…” trở xuống, là cầu tâm Bồ-đề: Suy nghĩ không dư sót, để cầu mong phước lạc thế gian, chỉ mong Bồ-đề, cầu quả vị Phật, đều đã an trụ trong đạo Bồ-tát, có đủ nhân Phật.

Lại nữa, câu trước là nguyện cầu Phật, đều được yên ổn v.v… là cầu hạnh Phật.

Trên đây là đoạn thứ nhất, nói về các vật cúng dường. “Lại nghĩ v.v…” trở xuống, là đoạn hai, nghĩ về Đức Phật nhận cúng dường xong, sẽ nhập diệt, lòng cảm thấy thương xót, não nề.

“Mọi người đều xếp đặt v.v…” trở xuống, là đoạn ba, dâng cúng phẩm lên Đức Phật.

“Cất tiếng kêu khóc v.v…” trở xuống là đoạn bốn, tha thiết thỉnh Phật nhận vật cúng dường. Đầu tiên là gào khóc, “Lại xem thấy tướng, nói là v.v…” trở xuống là nói lời thở than thảm thiết.

“Bèn tự nêu v.v… trở xuống chính là thỉnh Phật thọ cúng. Cử động thân, thân thỉnh, mà nói là miệng thỉnh.

Trên đây là phần hai, nói về kính thờ Phật. Dưới đây là phần ba, Đức Như lai không nhận cúng dường.

Nói biết thời gian là thời gian nhận. Thời gian nhận có hai:

  1. Thời gian hứa nhận: trong chương Thuần-đà.
  2. Thời gian chánh thọ: Phẩm Đại Chúng Vấn.

Thời gian hứa nhận ở trước, chỉ rõ Đức Phật là thường. Thời gian chánh thọ sau, nói lên Niết-bàn là thường. Nay, vì chẳng phải thuộc thời gian đó, nên Đức Phật không nhận.

Nói im lặng, nghĩa là nói việc không nhận. Vì sao phải yên lặng?

Vì Như lai, bâc Đại Nhân,với thể là đạo ít muốn, nên hoặc thọ, không thọ, thường đều im lặng.

Làm sao phân biệt được tướng hiện tại để biết được?

Nói không thọ chính là nói không thọ. Ý giải thích có bốn:

  1. Vì Phật muốn cho các chúng đều được dâng cúng, nên ở đây không nhận. Vì nếu Phật nhận cúng phẩm này thì chúng khác sẽ chấm dứt ý nghĩ, đâu dám dâng cúng nữa!
  2. vì khiến cho Thuần-đà hiến cúng hiển bày pháp nên ở đây không nhận, nếu nhận vật cúng dường này thì Thuần-đà đâu dám sanh tâm hiến cúng nữa.
  3. Vì Đức Phật muốn cho các chúng bày tỏ sự trân trọng đối với việc bố thí , nên ở đây không nhận. Đến sau, trong phẩm Đại Chúng Vấn, mới vì chúng nhận cúng dường.
  4. Ở trụ xứ này Phật chưa đối với Thuần-đà giảng rõ về nghĩa Phật là thường, e rằng các chúng kia đã bố thí mà không có mục tiêu hướng đến! Cho nên ở đây không nhận.

Sau đây, đối với Thuận-đà, đã hiểu rõ nghĩa Phật là thường,

trong phẩm Đại Chúng Vấn v.v…, Đức Phật đồng nhận đại chúng cúng dường.

Nay, đối với việc cúng dường này, Phật không nhận đã như vậy, dưới đây, Phật không nhận trong chúng khác, so sánh cũng giống như vậy.

Dưới đây là phần bốn, không nhận trụ lại. Đầu tiên, không nhận, sau thương xót mà trụ lại. Ở lại, trong đó, đầu tiên là pháp, kế là dùng dụ để chỉ rõ gốc lành cúng Phật, thật đáng yêu như con. Như lai không nhận, gọi là bệnh đã tiêu mất, đã đặt ra không thật, vứt bỏ đi, gọi là đưa vào trong gò mả. Không làm tốt đẹp lại gốc, gọi là về lại. Tâm bố thí không giải bày, gọi là oán hận. Dưới đây là hợp, rất dễ hiểu.

Trong Ưu-bà-di, văn cũng có bốn:

  1. Nêu chúng, khen đức.
  2. Nói về việc kính thờ Phật.
  3. Như lai không nhận.
  4. Không nhận trụ lại.

Trong phần đầu có bốn:

  1. Nêu chúng: Ba hằng là nêu số. Các Ưu-bà-di, là nêu riêng chúng Ưu-bà-di, Hán dịch là Cận trụ nữ, cũng dịch là Thiện túc nữ. Nghĩa đồng với cách giải thích trước.
  2. “Thọ trì v.v… trở xuống, sơ lược khen đức của Ưu-bà-di (cũng như giải thích trên).
  3. Nêu tên gọi Ưu-bà-di.
  4. Khen rộng công đức của Ưu-bà-di, trong đó, trước phân biệt, sau là tổng kết, khen.

Trong phần riêng có bốn:

  1. Có khả năng đảm trách, che chở pháp v.v…, giữ gìn hạnh Tiểu thừa.
  2. Quở trách pháp tại gia, hạnh ngăn dứt phiền não.
  3. “Tự quán sát v.v… trở xuống, rộng ngăn dứt phiền não.
  4. “Rất ưa thích v.v… trở xuống, rộng giữ gìn Tiểu thừa.

Trong phần đầu, đều có khả năng che chở chánh pháp, là hạnh hộ pháp. “Vì độ mình v.v… trở xuống, là hạnh nhiếp hóa người.

Trong đoạn hai, quở trách pháp tại gia: Quở trách pháp của thân năm ấm của mình (về nghĩa quở, như sau).

Trong đoạn ba, văn chia làm hai:

  1. Quán sát lỗi lầm, sinh ra nhàm chán.
  2. Do duyên này v.v… trở xuống là tu đối trị dứt trừ.

Đầu tiên, trong phần trước, là quán năm lỗi của thân. Thà dùng trâu v.v… trở xuống là hai việc để nêu lỗi. Cho nên phải v.v… trở xuống là tổng kết, sinh tâm nhàm chán.

Đầu tiên, trong phần quán sát lỗi, trước quán thân khổ. Quán thân như con rắn, là khổ bên trong. Ví như bốn con rắn, tánh tướng trái nhau. Bốn đại cũng giống như vậy: Đất cứng mà nặng, gió lay động mà nhẹ. Nước ẩm ướt mà lạnh. Lửa khô ráo mà nóng, vì mỗi tánh của chúng đều trái nhau, nên như bốn con rắn. Các vi trùng cắn ăn, là khổ bên ngoài. Khổ chia ra vô lượng, lược nêu hai khỗ này, từ “thân hôi hám v.v…” trở xuống là quán thân bất tịnh. Bất tịnh có năm:

  1. Hạt giống bất tịnh: Tinh huyết của cha mẹ hiện tại là hạt giống. Nghiệp kiết phiền não ở quá khứ là hạt giống.
  2. Chỗ ở bất tịnh: Ở trong bụng mẹ, phía dưới là sinh tạng, phía trên là thục tạng, nơi an trí thân của mình.
  3. Tự thể bất tịnh: Ba mươi sáu vật thể hình thành chung thể của mình.
  4. Tự tướng bất tịnh: Chín lỗ thường rịn ra chất nhơ.
  5. Rốt ráo bất tịnh: Thân này khi chết rồi, giòi trùng ăn thành phân, lửa đốt thành tro, chôn bỏ dưới đất, rốt ráo không sạch.

Nay, trong văn này, nêu sơ lược ba thứ: Thân hôi hám do tham ràng buộc. Hạt giống bất tịnh. Tinh huyết cha mẹ hiện tại làm hạt giống, nên thân hôi thối, nhơ bẩn. Phiền não tham ái quá khứ làm hạt giống, gọi là ngục tham ràng buộc. Thân như con chó chết, tự thể bất tịnh, chín lỗ thường chảy. Tự tướng bất tịnh: Hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng, đường đại, tiểu tiện, là chín lỗ.

“Thân như thành v.v…” trở xuống là quán thân vô “Ngã”, trong đó, trước phải xem xét, quán sát, nương gá, dụ thành, nói thân không thật, giả tạm. (Xem văn dễ hiểu).

“Bức thành thân như thế, Chư Phật đã hủy bỏ v.v…” trở xuống, mượn người để làm rõ pháp. Chư Phật xả bỏ thân, nhằm chỉ rõ sự thật vô “Ngã”. Phàm phu ngu muội thường bám trụ trong vị tham v.v… là nói về sự mê đắm ngu si. Lại, Phật xả bỏ, nêu bậc Thánh, quở trách phàm. Phàm ngu chấp mắc vị, trách phàm khác với Thánh, là thân không cứng chắc, như lau sậy v.v…

“Quán thân là không v.v…” trở xuống, là quán vô thường, trước là chánh quán.

“Ai là người có trí v.v…” trở xuống, nhờ bậc Thánh chỉ rõ lỗi lầm.

Trong phần trước, nói rộng về vô thường có ba:

  1. Phần đoạn vô thường, là quả báo sáu đường, phần khác của ba đời.
  2. Niệm vô thường: Niệm niệm dời đổi, dứt diệt.
  3. Tự tánh không thành, thật sự vô thường. Pháp có nhóm hợp, đều không tự tánh.

Nay, nói sơ lược có hai: Thân này vô thường, niệm niệm không dừng. Niệm này vô thường, như ánh chớp… là thí dụ để so sánh.

“Thân này thay đổi v.v…” trở xuống là phần đoạn vô thường. Thân này dễ hư hoại như bờ sông v.v… là quán sinh dễ tử, trước là pháp, sau là dụ.

“Không lâu v.v…” trở xuống, là quán cái chết dễ đến.

Trên đây, là chánh quán. Ai là người có trí mà ưa thích thân này?

Là nêu bậc Thánh không ưa, nói thân đáng nhàm chán.

Trên đây, thứ nhất là quán thân có năm lỗi.

Dưới đây là thứ hai, nêu hai việc để chỉ rõ lỗi lầm, với hai nghĩa để giải thích:

  1. Dùng khó, dễ để phân biệt: Dấu chân bò đựng nước biển, cục đất bằng trái táo, cho đến như hạt bụi. Việc này rất khó, vẫn có thể làm ra nó. Nói về lỗi của thân, rốt ráo không thật có.
  2. Dùng nhiều, ít để phân biệt: Biển cả sâu rộng, dấu chân bò đựng nước biển, đếm mãi cũng có thể hết. Mặt đất rộng bao la, cục đất như trái táo, cho đến như hạt bụi, đếm cũng có thể hết. Tai hoạ của thân nhiều hơn các vật đó, nói đủ không thể hết. Cho nên phải bỏ, như hỉ bỏ mũi dãi, là đoạn ba, tổng kết sinh tâm nhàm chán.

Trên đây là phần thứ nhất, quán lỗi lầm, sinh nhàm chán.

“Do duyên này v.v…” trở xuống là tu đối trị để dứt trừ. Do nhân duyên quán sát thân có nhiều lỗi lầm, nên tu “Không” v.v… để đối trị. “Không, Vô tướng, Vô nguyện, rộng như chương riêng.

Y cứ theo đoạn bốn, trong phần rộng giữ gìn Tiểu thừa, của đoạn bốn khen công đức hiện tại, vị lai, không khen công đức quá khứ. (Về nghĩa, đồng với giải thích ở trước).

Khen tự lợi, lợi tha của Ưu-bà-di ở hiện tại. Văn được chia làm ba cặp:

  1. Phần mở đầu hạnh.
  2. Kế tiếp của hạnh.
  3. Phần cuối của hạnh.

Ưa sâu sắc, thưa hỏi, thọ lãnh, là mở đầu hạnh lợi mình. Nghe xong, giảng nói, là mở đầu hạnh lợi người. Đây là cặp đầu, giữ gìn bổn nguyện v.v…, kế là hạnh lợi mình, giữ gìn bổn nguyện, giữ lấy tâm Bồđề.

“Chê bai người nữ v.v… trở xuống là khởi hạnh Bồ-đề. Trước là nhàm chán hữu vi, kế là ưa thích vô vi.

Trong phần nhàm chán hữu vi, chê bai người nữ v.v…, là lỗi hiện tại, rất đáng nhàm chán. Phá hoại sự sinh v.v…, lỗi lầm quá khứ có thể diệt. Khát khao, kính mến Đại thừa, là hướng về vô vi.

“Đã tự sung mãn v.v…” trở xuống, kế là lợi người, là cuối cùng của hạnh lợi mình, ưa giữ gìn sâu sắc.

Y theo thật, mà khen đức. Ưa sâu sắc trở xuống là hạnh của pháp nhiếp. Giữ gìn trở xuống, là hạnh hộ pháp.

“Dù hiện nữ v.v…” trở xuống, là bỏ “Quyền”, bày “Thật”.

“Khéo có thể tùy v.v…” trở xuống, là hạnh lợi người kết thúc. Khéo tùy thế gian là pháp hóa độ thế gian, độ chưa độ… là pháp hóa của Tiểu thừa, giúp họ thoát khỏi quả khổ.

“Hiểu rõ nhân của tập, nối tiếp Tam bảo v.v…” trở xuống là pháp hóa độ của Đại thừa, đây là cặp thứ ba.

Trong phần khen ngợi công đức vị lai, sẽ chuyển lợi người, dùng Đại thừa trang nghiêm v.v… để khen hạnh lợi mình. Dùng Đại thừa trang nghiêm là hạnh nhiếp thiện, giữ vững giới cấm là hành vi lìa ác.

Trên đây, là khen riêng. Sau đây là tổng kết hạnh đó, nêu lên danh sách có thể biết. Đoạn đầu này đã xong, kế là ba đoạn sau dễ hiểu.

Trong đoạn thứ tư, trước nói lìa chiếc xe, không là quả thương xót, sầu não. Sau là dùng oai lực Phật làm cho chúng ở trên hư không. Vì sao làm như vậy? Vì các chúng lìa xe, chuyển tâm che chở giữ gìn chánh pháp. Vì công đức hộ pháp cao nêu, nên làm cho chúng dừng lại trên hư không, để cho người bắt chước tu theo.

Bảy Đa-la:

1. Cây Đa-la, cách mặt đất bảy nhận. Một nhận bằng bảy thước. Một cây, gồm có bốn mươi chín thước, bảy cây cộng chung là ba trăm bốn mươi ba thước.

Kế là nêu đại thần và các trưởng giả, cũng vì cúng phẩm của người trước nhiều, sau ít, nên nêu theo thứ lớp. Văn cũng có bốn:

  1. Nêu chúng, khen đức: Nói về chúng, khen ngợi đức, nêu danh hiệu có thể biết.
  2. Nói về kính thờ Phật, gấp năm lần trước, nêu đối với kia đầu tiên nói năm.
  3. Như lai không nhận.
  4. Nhờ thần lực Phật, trụ trong hư không. Đây cũng là vì hộ pháp, nên Phật làm cho chúng ở trên hư không.

Kế là, nêu các vị vua, cũng vì cúng phẩm của người trước nhiều, sau ít, nên theo thứ lớp nêu ra đây. Về văn, chia ra làm có sáu:

    1. Nêu chúng của Phật.
    2. Nói về vật cúng.
    3. Khen đức của chúng.
    4. Dâng cúng phẩm lên Phật.
    5. Như lai không nhận.
    6. Không nhận trụ lại.

Y theo đoạn đầu, trước nói về các vị nhóm họp. Trừ A-xà trở xuống là phân biệt những vị chưa nhóm hợp, đó là những kẻ giết cha trên đời, vì lòng họ rất hổ thẹn, nên chưa đến đây.

Sau đây, là nêu danh của chúng. Vì sao không nêu số chúng? Vì phải dùng các vị vua nhiều hơn năm Hằng, không đầy sáu hằng. Vì giới hạn khó bày rõ rệt, cho nên giấu không nêu. Thứ hai, dễ hiểu.

Thứ ba, trong phần khen, trước mình, sau người. Trong phần khen mình có bốn câu: Hai câu trước nói bỏ tà, về chánh. Hai câu sau, là bỏ Tiểu, học Đại. Về lợi người dễ hiểu, ba câu sau, dễ hiểu.

Kế là, nêu các phu nhân. Cũng do số cúng phẩm của người trước nhiều, sau ít, nên nêu theo thứ lớp này. Văn, chia làm bốn:

  1. Nêu chúng, khen đức.
  2. Nói dâng cúng phẩm lên Phật.
  3. Như lai không nhận.
  4. Không nhận trụ lại.Trong phần đầu có bốn:
  1. Nêu chúng đến tham dự.
  2. Khen đức của chúng.
  3. Nêu tên.
  4. Lại khen đức.

Trong phần nêu chúng ở đầu, có bảy Hằng phu nhân chính là nêu các vị đã nhóm hợp. Trừ A-xà trở xuống là phân biệt với các vị chưa nhóm hợp. Các Vua thế gian chưa đến, phu nhân cũng thế, theo vua chưa đến.

Trong phần khen thứ hai, vì độ người nữ ở hiện tại, là đức lợi tha. Thường quán thân v.v… là đức tự lợi. Nêu tên, dễ hiểu.

Trong phần khen thứ tư, trước là nói về lợi mình: an trụ trong nhiếp thiện, tu giới, ngăn dứt điều ác. “Thương xót v.v…” trở xuống, là lợi người. Ba phần sau dễ hiểu. Kế là nêu thiên nữ. Văn được chia làm sáu đoạn:

  1. Nêu chúng thiên nữ.
  2. “Nói rằng v.v…” trở xuống là nói rõ nên dâng cúng.
  3. Khen đức của thiên nữ.
  4. Nói về cúng dường Phật.
  5. Như lai không nhận.
  6. Không nhận trụ lại.

Đoạn đầu dễ hiểu. Trong đoạn hai, trước là khuyến cáo. Quan sát người khác đã sắp bày cúng phẩm. “Chúng ta cũng v.v…” trở xuống, tự nguyện dâng cúng, trong đó có bốn:

  1. Thừa nhận có dâng cúng.
  2. Nghĩ Đức Phật nhận cúng dường xong, sẽ nhập Niết-bàn, chứng tỏ cần phải làm.
  3. Nói sau cùng là cúng Phật rất khó, đủ biết cần phải làm.
  4. Nêu sau khi Như lai diệt độ, thế gian sẽ trống rỗng. Nói nay ứng cúng.

Trong phần khen thứ ba là trước riêng, sau kết. Trong phần riêng, là khen công đức hiện tại, vị lai của chúng, không khen quá khứ. (Nghĩa đồng với giải thích ở trước). Khen công đức ở hiện tại là hạnh lợi mình, lợi người.

Văn có ba cặp:

  1. Cặp đầu, là hạnh mở đầu.
  2. Cặp thứ hai, hạnh kế tiếp.
  3. Cặp thứ ba, hạnh sau cùng.

Ưa thích muốn nghe là mở đầu của lợi mình. Nghe xong, muốn giảng nói là khởi đầu của hạnh lợi người. Đây là cặp đầu. Khao khát, kính mến Đại thừa là hạnh lợi mình kế đó.

“Đã tự sung mãn v.v…” trở xuống, là lợi người kế đó, đây là cặp thứ hai.

“Giữ gìn Đại thừa v.v…”, là cuối cùng của hạnh lợi mình, trong đó, trước nói về hạnh nhiếp thiện. Đó là dùng hạnh hộ pháp làm hạnh nhiếp thiện, giữ gìn Đại thừa là chung.

“Nếu có khác v.v… “trở xuống, là phân biệt để làm rõ tướng giữ gìn, oai nghi giữ giới đầy đủ là hạnh xa lìa lỗi lầm. “Khéo tùy v.v…trở xuống, là cuối cùng của hạnh lợi người. Khéo tùy thế gian, pháp hóa độ thế gian, độ người chưa được độ v.v… là pháp hóa độ xuất thế. Đây là cặp thứ ba.

Sau đây là khen công đức ở vị lai. Sẽ chuyển chánh pháp v.v… là hạnh lợi người. Dùng Đại thừa trang nghiêm v.v… là hạnh lợi mình.

Trên đây, đã khen công đức riêng. Sau đây là tổng kết: Thành tựu đức như thế, kết lợi mình trước.

“Sinh lòng từ bình đẳng v.v…” trở xuống, là kết hạnh lợi người ở trên.

Trong phần thứ tư, là nói về kính thờ Phật, văn chia làm bốn:

  1. Trang nghiêm, là nói về sự cúng. Sự cúng có mười thứ, đó là gỗ thơm, lọng trướng, cờ, thức ăn ngon kỹ nhạc, giường, ghế, đèn, hoa.
  2. Nghĩ Phật sắp diệt độ, ôm lòng thương xót, sầu não.
  3. Vì chúng sinh đến chỗ Phật. (Văn đồng với cách giải thích ở trước).
  4. Thỉnh Phật nhận cúng. (Hai phần sau dễ hiểu)

Trong chúng rồng v.v… phần nhiều trước nêu chúng, kế là nói về kính thờ Phật. Sau, “Đức Như lai không nhận v.v…” trở xuống là không trụ lại. Văn rõ ràng dễ hiểu.

Trên đây, theo số tăng dần, do nêu hai mươi sông Hằng. “Đai hương tượng v.v…” trở xuống là nêu lẫn lộn các chúng.

“Bấy giờ, ở Diêm-phù-đề, Tỳ-kheo và và Tỳ-kheo-ni, tất cả đều nhóm hợp” đâu khác gì với ở trên, sao lại phải nêu nữa?

Vì ở trước chỉ là bâc Vô học, còn giờ đây thì chung cho cả trên, dưới, Thánh, phàm đều nhóm hợp, nên nói “tất cả”, chỉ trừ Bồ-tát Cadiếp và chúng A-nan, vì A-nan bấy giờ đang ở bên ngoài rừng Ta-la, bị ma khuấy rối, nên chưa kịp đến. Bồ-tát Ca-diếp đến sau, Đức Phật ló đôi chân ra ngoài kim quan, vì đem lại lợi ích sâu rộng cho nhiều người, nên chưa nhóm hợp ở đây.

Hỏi: Lúc Như lai nhập Niết-bàn, Kiều-phạm-ba-đề đang ở trên cõi trời không đến, vì sao không phân biệt?

Giải thích:

Bồ-tát Ca-diếp và Tôn giả A-nan, hiện giờ dù chưa đến, nhưng về sau sẽ đến, nên ở đây lược bớt hai vi. Kiều Phạm đang ở cõi trời, không bao giờ đến, nhưng về sau sẽ đến, cho nên nay không lược qua.

Dòng phải như trên lẽ ra cũng chẳng phải duy nhất. Đoạn thứ năm này đã xong.

Từ sau đây là đoạn sáu, Đức Như lai biến đổi rừng, để đôn đốc tâm đại chúng, vì sao phải như vậy. Chúng mới đã đến, thấy Đức Phật vẫn còn, với hy vọng thiết tha là bậc Thánh sẽ không nhập diệt. Vì thấy tâm luyến mến của chúng mới còn xa, nên Phật biến khu rừng, để nói lên việc nhập diệt, thúc giục chúng hãy cố gắng, khích lệ.

Trong văn, trước là giải thích, kế là so sánh, sau là hợp.

Trong phần giải thích, trước là biến rừng, thành màu trắng, gọi là trắng tươi, nên nói như chim hạt. Vì sao biểu hiện màu trắng? Có người nói: “Màu trắng là hình ảnh cây chết, để nói lên bậc Thánh nhập diệt.” Quan niệm này đã bị bác bỏ như trước. Lại, có người nói: “Màu trắng là màu gốc, chứng tỏ Đức Phật trở về gốc.”

Có người chấp nhận có thể như vậy, chỉ vì đó chẳng phải là kinh nói, nên chưa thể chuyên quyết định.

Kế là, Đức Phật hóa hiện ngôi nhà báu, ánh sáng rọi lại, tỏa chiếu song âm. Con người cũng y theo điểm này, với các cách tỏ bày khác lạ, khó biết.

“Vả thôi đi v.v…” trở xuống, Phật hóa hiện ra suối, ao, hoa nhiệm mầu dẫy đầy, phản chiếu ánh sáng, tô điểm giảng đường. (Giống như hợp, rất dễ hiểu). Y theo văn hợp này, chắc chắn biết rừng, giảng đường chẳng phải tướng riêng. Sau khi hiện ngôi nhà, mới nói rừng cây, các thứ trang nghiêm rất đáng yêu v.v…

Sau đây là lớp thứ bảy, nói các chúng ngắm xem tướng, càng thêm thương xót, buồn thảm, hiến dâng cúng dường, trong đó có hai:

  1. Nói cõi này đã nhóm họp các chúng, thấy tướng buồn thương, thờ phụng cúng dường.
  2. “Bấy giờ, ở phương Đông cách đây v.v…” trở xuống, là nói ở phương khác, chúng đang nhóm hợp hiến cúng. Theo đoạn đầu, trước nói thấy tướng, đại chúng đều cảm thấy thương xót là thêm bi, gọi là biến đổi rừng ở trước, là tướng Niết-bàn. Sau đây, sẽ nói về việc dâng cúng:

Hỏi: Những người này có phải là chúng ở trước hay không?

Giải thích:

Các tầng trời Dục và A-tu-la, chính là ở trên đã nêu thuộc về hai chúng trời và A-tu-la. Nay, lại nêu nữa, nên trong văn ở trước đã nêu bốn vị vua trời, nay lại nêu. Chúng khác cũng giống như vậy. Chúng Phạm mới đến, như dưới đây nêu:

Các tầng trời cõi Dục và Tu-la là chúng trước, vì sao đến đây mới nói về dâng cúng?

Giải thích rằng:

Những vị này vừa từ hư không ở trước mà đến. Đã đến Song lâm, thấy chúng lập bày, mới sinh ra ý dâng cúng, nên giờ đây mới nêu, thành ra vì thấy ở sau, mới nói là: “Ông quan sát người, trời đa số đang sắp bày cúng dường, chúng tôi cũng cúng. Cũng có thể là người trước, nghĩa là người và cúng phẩm đều đến, trong số đó, người cúng lần lượt thêm nhiều: trước đã nêu đủ. Hoặc có khi người nhiều mà cúng phẩm giảm ít. Hoặc người ít, mà cúng phẩm lại thêm nhiều. Vì nêu trước bất tiện, nên ở đây mới nói, trong đó có sáu:

  1. Nói về các tầng trời cõi Dục hiến cúng.
  2. Nói các tầng trời ở trên hư không” cõi Dục dâng cúng.
  3. Các phạm dâng cúng.
  4. Tu-la Tỳ-ma-chất-đa hiến cúng.
  5. Ma vương hiến cúng
  6. Vua trời Đại Tự Tại dâng cúng.

Các vị này là tùy vật cúng tăng dần mà nêu. Trong phần đầu có ba:

  1. Tứ vương, Đế-thích cùng bàn luận rõ ràng về dâng cúng.
  2. Tứ vương dâng cúng.
  3. Đế-thích dâng cúng.

Trong phần đầu, các ông quán sát trời, người v.v…, xem thấy người khác sắp bày, chúng tôi cũng v.v… trở xuống là tự muốn dâng cúng. Nếu sau cùng, ta v.v… trở xuống là nêu lên sự lợi ích để khuyên bảo.

Trong Tứ vương hiến cúng, trước nêu người đứng đầu dâng cúng. Bốn mặt Tu-di có bốn núi Na-càn-đa-la, cách mặt đất bốn mươi hai ngàn do-tuần, rộng mỗi bề cũng thế, phương trên có bốn vị thiên vương, phương Đông có Thiên vương, hiệu là Đề-đầu-lại-tra, Hán dịch là Trì quốc, thống lãnh các vị trời, đều là hai bộ quỷ thần Càn-thát-bà và Tỳ-xá-xà. Phương Nam có Thiên vương, tên là Tỳ-lâu-lặc-xoa, Hán dịch là Tăng trưởng Chủ, thống lãnh các vị trời, đều là hai bộ quỷ thần Cưu-bàn-trà và Bệ-lệ-đa. Phương Tây có Thiên vương hiệu là Tỳ-lâubác-xoa, Hán dịch là Tạp ngữ, lãnh đạo các vị trời và hai bộ quỷ thần: Rồng và Phú-đơn-na. Phương Bắc, có Thiên vương hiệu là Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Đa văn, thống lãnh các vị trời và hai bộ quỷ thần: Dạ-xoa, La-sát. Cho nên, trong hướng về quỷ thần ở trước, Tỳ-sa-môn. Bốn vị thiên vương này đến dâng cúng. “Đã lập bày v.v… trở xuống, nói về kính thờ Phật. Gấp bội hơn trước, nghĩa là gấp bội hơn trước nay. “Tất cả các phẩm sắp bày v.v…” trở xuống, là Phật không thọ nhận. Không nhận lời trụ lại.

Trong phần Đế-thích dâng cúng, trước nêu người đứng đầu dâng cúng là Thích-đề-hoàn-nhân. Thiên vương Đao-lợi, Hán dịch là Năng, là Thiên vương. Trời Ba Mươi Ba là gồm nêu cả chúng trời này. Trên đỉnh núi Tu-di, trụ xứ riêng của trời Ba Mươi Ba kia. Ở chính giữa, nơi Đế-thích cư ngụ, mỗi phía đều có tám nước là nơi cư trú của thần dân. Cho nên nói chung là trời ba mươi ba. Kế là, là nói về dâng cúng gấp bội hơn trước: Gấp bội hơn bốn thiên vương, cũng có thể gấp bội tất cả cúng phẩm đã bày biện ở trước.

Đức Như lai không nhận: Không là quả, đồng với ở trước, “Cho đến thứ sáu cúng phẩm đã sắp bày v.v… trở xuống, các tầng trời trên hư không trên hư không của cõi Dục kia dâng cúng (bắt đầu từ tầng trời Dạ-ma, cho đến tầng trời Tha Hóa đều đến dâng cúng văn rất dễ hiểu).

Trong các phạm dâng cúng, văn chia ra làm năm:

1. Nói chung chúng Phạm, tất cả đều đến nhóm họp. Trên, đến Hữu đảnh. Tất cả đều đến, nghĩa là đến Hữu đảnh ở cõi Sắc, vì cõi Sắc không có thân hình, cho nên không nói. Cũng có thể trên, đến Hữu đảnh Phi tưởng, Tứ không Vô sắc. Cõi Vô sắc đó làm sao đến?

Giải thích:

Vì phàm phu, Nhị thừa không nhìn thấy, nên nói là Vô sắc, nhưng thật ra thì có sắc, nên nói là “Đến”. Vì cho nên trong A-hàm nói: “Khi Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn, các vị trời ở cõi Vô sắc cảm động đến rơi lệ như mưa mùa xuân. Kinh Hoa Nghiêm cũng chép: “Tỷ căn của Bồ-tát ngửi mùi hương của cung điện cõi Vô sắc.” Văn sau của kinh này cũng nói là có sắc, cho nên đến Phi Tưởng; thảy đều đến vì trên cõi Sắc đều lìa dục, được gọi chung là chúng Phạm.

2. “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống, là nêu chủ cúng riêng. Trong chỗ nhóm họp ở trước, vì có lập bày, không lập bày, nên nêu riêng. Ở đây, lẽ ra là Phạm vương trung gian kia, làm sao biết được? Vì cờ phướn kia ngắn, chỉ treo ở cung Phạm, nên biết chẳng phải ở trên, cũng có thể là vua Phạm của ba thiền.

3. Nói về kính thờ Phật.

4. Như lai không nhận.

5. Không nhận trụ lại.

Trong Tỳ-ma dâng cúng, trước nêu vị chủ, vị đại Bồ-tát này phát ra ánh sáng từ thân vượt hơn trời Phạm, che phủ ngàn cõi.

Nói về cúng phẩm, Đức Phật không nhận, không quả đồng với trước.

Trong phần Ma vương hiến cúng, văn chia làm sáu:

  1. Nêu lên chủ cúng đều khen việc đã làm.
  2. Nói về kính thờ Phật.
  3. Dâng thần chú.
  4. Thỉnh Phật thọ cúng.
  5. Đức Phật hứa nhận chú, không nhận cúng phẩm của Ma vương.
  6. Không nhận trụ lại.

Trong phần đầu, Ma vương Ba-tuần ở cõi Dục, là nêu chủ cúng. Ma-la là tiếng Phạm, Hán dịch là Sát giả, vì hãm hại người lành, nên Ba-tuần là tiếng Phạm, Hán dịch là cực ác. Dựa vào pháp Phật mà được lợi ích tốt đẹp. Vì không nghĩ đến đền đáp ơn Phật, trái lại còn muốn, hủy diệt, nên gọi là cực ác. Trên tầng trời Tha hóa có riêng cõi ma. Nói chung, ma vương này cũng thuộc về cõi trời Tha hóa kia, nên hiện nay, nói là ma vương cõi Dục. Ở đây, vì có nhiều Bồ-tát vì hóa độ nên thị hiện làm ma vương, dẫn quyến thuộc đến.

“Sự cúng dường này, mở cửa địa ngục v.v… trở xuống, là khen việc làm của ma vương kia: Trước cứu khổ địa ngục, sau, nhiếp hóa dân ma. Trong cứu khổ địa ngục, trước nói về vật cho. Sau, nói về vật xả bỏ. Vật cho là sao? Nghĩa là cho niềm vui, cho điều lành. Mở cửa địa ngục để bố thí nước uống là cho vui. “Nhân khuyên bảo v.v… trở xuống, là cho điều lành. Nhân cho nước ở trước, đồng thời khuyên dùng điều lành, nên nói: “Nhân khuyên bảo: Ông không có khả năng thực hành, chứng tỏ không kham, không kham cúng Phật”, “Chỉ phải v.v… trở xuống, là suy lường khả năng họ, ý bảo họ tu điều lành. Trước bảo họ niệm Phật, sau bảo tùy hỷ.

“Sẽ làm cho ông v.v…” trở xuống, là nói về lợi ích của tu, ngu mê trong sinh tử, gọi là đêm. Trôi lăn không có bờ mé, nói là dài. Được điều lành tự bình yên, gọi là được an. Đây là nói về vật cho.

“Ma đến địa ngục đều bỏ dao v.v…” trở xuống, nói về điều ma kia đã nói: “Vì bỏ đao gươm, như mưa rơi sẽ dập tắt lửa.” Đây là quả báo nghiệp ác của chúng sinh, ma đâu thể nào dứt trừ nghiệp ác cho chúng sanh được! Thật vậy không được, phải do lời khuyên bảo ở trước là niệm Phật tùy hỷ, tất nhiên tội nhơ sẽ tiêu mỏng, mới được diệt trừ. Lại, ma là Bồ-tát không thể suy nghĩ. Có người gặp ma, chắc chắn là người lành đời trước, thọ lãnh, có thể chuyển, nên sẽ được dứt trừ. Như người nghèo cùng, dù là quả báo, nhưng vẫn có thể dùng của cải để cứu giúp, ma kia cũng giống như vậy.

Trên, cứu giúp khổ địa ngục, dưới nhiếp hóa ma dân, là do thần lực Phật sinh ra tâm, lại phát tâm này, lại khởi ý hóa độ.

“Làm cho các v.v…” trở xuống, là khuyên răn hãy vứt bỏ dụng cụ chiến đấu. Bởi ma chuyên phá khuấy. Lúc chúng phá hoại người lành, thường dùng công cụ đấu tranh, vì e sợ người tu hành. Nay, khuyên nên vứt bỏ chúng.

Thứ hai, là nói về cúng dường, văn rõ ràng dễ hiểu.

Y theo văn dâng chú đoạn ba, chia thành sáu đoạn:

  1. Tự nói về tâm mình, bày tỏ sự yêu mến chánh pháp của mình.
  2. “Người nam, nữ vì cúng dường v.v…” trở xuống, là nói về tác dụng của chú, vì đối với tất cả những người che chở giữ gìn chánh pháp.
  3. “Dùng cây chỉ v.v…” trở xuống chính là đọc lời chú.
  4. “Chú này có thể v.v…” trở xuống là nói về công năng của chú.
  5. “Vì khuất phục v.v…” trở xuống là nói về ý nói chú.
  6. “Nếu có khả năng v.v…” trở xuống là nói người trì chú sẽ được lợi ích, cũng được gọi là nêu lên lợi ích để khuyên trì chú.

Trong phần đầu, nói “Chúng tôi yêu mến Đại thừa” là tâm nhiếp pháp; “Giữ gìn Đại thừa” là tâm che chở chánh pháp. Ma phần nhiều không thật, dối trá, vì sợ rằng, Đức Phật sẽ không tin, nên nói ra lời này, đủ chứng tỏ ma đã có ý chân thành.

Trong đoạn hai, là nói về ma vương đã vì bảo vệ người thọ lãnh chánh pháp, nên nói thần chú để ngăn dứt. Con người thông suốt chân, ngụy, vì đạo vì người, gọi là chân, người nào vì thân, vì của cải, gọi là ngụy. Trong văn đã giải thích cụ thể, lẽ ra có ba phần:

  1. Nêu chỗ chân thật kia.
  2. Nói về điều ngụy đó.
  3. “Hoặc chân ngụy v.v…” trở xuống, là nhắc lại cả chân, ngụy nhằm chứng tỏ đã nói. Văn chỉ có hai, lược qua không nêu chân Nguỵ còn là hữu vi, chân thì quên lời, nên lược qua không nêu. Trong ngụy có năm: vì cúng dường, nghĩa là vì được cơm, áo, giường nằm, và thuốc thang bốn việc cúng dường mà thọ trì kinh pháp. Vì sợ hãi: Sợ các khổ ở hiện tại và đường ác ở tương lai.

Vì lừa dối người: Khinh khi, lừa dối người khác, làm cho họ kính trọng mình.

Vì lợi ích của cải: Vì được các vật dụng: Vàng, bạc, kho, lẫm v.v…

Vì tùy người khác: Vì bị người khác ức chế, quở trách, tự không có thành ý. Vì năm việc này mà thọ lãnh Đại thừa này, nên gọi là ngụy. Thông suốt, tức là thọ tất cả kinh, pháp, đó đều là ngụy. Nay, đối với kinh này nói rằng thọ Đại thừa, mà ngụy là vô lượng, thử nêu năm việc này, sợ sệt là một trong năm: Hoàn toàn vì thân mà cúng dường tài lợi. Một bề vì tài lợi mà lừa dối người , đều là thân tài.

Sau đây, là nhắc lại việc đã làm. Hoặc chân, nhắc lại một ít chân trước. Hoặc ngụy, nhắc lại ngụy đã nói ở trên: “Ta vì người này trừ diệt nỗi sợ hãi mà nói thần chú. Nói chung, vì nói sự lợi ích chẳng phải một. Công năng dứt trừ sợ sệt rất mạnh, là do nêu nghiêng một bên.

Thứ ba, là lời thần chú. Vì sao không dịch? Vì nếu dịch thì sẽ thay đổi, làm mất tác dụng của chú, thường không linh nghiệm, cho nên không dịch. Lại, lời chú chưa hẳn chỉ là lời nói của người Thiên trúc, người dịch không hiểu. Vì vậy, không dịch. Lời của các kinh chú đều không dịch, thường là vì lý do như vậy.

Thứ tư, ngữ nghĩa trong công năng không đủ. Nếu đủ thì lẽ ra phải nói rằng, chú này có công năng giúp cho kẻ mất tâm, người sợ sệt, người giảng nói, đều lìa các sợ hãi. (Về nghĩa lìa sợ hãi, như trong phẩm Trì ích ở sau sẽ nói, nên ở đây không nêu.

Nói mất tâm: Là sự kém cỏi trong ngụy, nghĩa là vì sợ hãi trong ngụy ở trước. Vì của cải tùy theo người, có bốn hạng người, những thứ này mất đi tâm lành xa lìa, nên gọi là mất tâm. Nói sợ hãi: Là hơn trong nguỵ, là sợ hãi trong nguỵ ở trước.

Nói là người nói pháp, là vượt hơn trong chân, cái gọi là giảng nói kinh pháp Đại thừa.

Người không dứt pháp, là yếu kém trong chân, cái gọi là không dứt pháp Tiểu thừa, nghĩa là “Quyền” hóa độ không dứt, gọi là không dứt pháp. Do năng lực thần chú này, hộ vệ chung tất cả bốn bộ chúng, nên Đại thừa, Tiểu thừa được nêu chung. Bốn hạng người này nhờ thần chú đều giúp cho dứt nỗi sợ hãi.

Thứ năm, là thuyết nói minh ý nghĩa ma nói thần chú, trước là phân biệt, sau là kết. Trong phần phân biệt có bốn câu: Hai câu trước vì người, hai câu sau vì pháp. Y theo vì người, trước là nói vì lý do hàng phục ngoại đạo: Đối với người giảng nói ở trước, người không dứt pháp, bảy tỏ việc đã làm. Vì khiến người này giảng nói thông suốt chánh pháp. Vì hàng phục ngoại đạo, nên nói chú để che chở người ấy.

Phòng hộ thân mình: Đối với người mất tâm và sợ hãi ở trước, bày tỏ nói mà làm, vì khiến người kia được thần chú này mà che chở thân mình, để thọ trì kinh pháp, cho nên nói chú.

Y theo người hộ trì chánh pháp trong vì pháp, giữ gìn pháp Tiểu thừa, ý của ma vì giữ gìn pháp Tiểu thừa, nên nói thần chú, nhằm ủng hộ người không dứt bỏ chánh pháp ở trước.

Hộ trì Đại thừa: Ý ma vì giữ gìn pháp Đại thừa, nên nói thần chú để che chở người nói pháp Đại thừa ở trước. “Nói thần chú như thế” là tổng kết.

Thứ sáu là hộ trì: Trong phần được lợi ích, đầu tiên là được lợi ích chánh pháp, trước nêu, sau kết (văn rất dễ hiểu).

Người trì chú này: “Chúng tôi che chở v.v…” trở xuống là được lợi ích cho người kia. Người trì chú, ta che chở, như con rùa che giấu sáu phần thân.

Gia hộ người mất tâm ở trước và người sợ hãi, làm cho họ không thương xót, sầu não. Con rùa giấu kỹ bốn chân, đầu, đuôi là sáu. Ta không dua nịnh, với năng lực ích chí thành, giúp người nói pháp ở trước, người không dứt pháp, giúp cho tăng thêm năng lực giảng nói là vì muốn cho người truyền bá chánh pháp ở vị lai biết được ma thật sự che chở. Vì ý quyết định mở mang pháp, nên nói không dua nịnh, được lợi ích chí thành.

Trên đây, sáu đoạn hợp thành đoạn ba, dâng cúng thần chú. Đoạn thứ tư là thỉnh Phật thọ cúng, rất dễ hiểu.

Trong đoạn năm là đầu tiên, không thọ cúng dường, kế là được Phật vì ma mà nhận lãnh thần chú. Sau, nói về ý thọ lãnh. Vì an bốn chúng, y theo đây, chắc chắn biết. Ý ma nói chung chỉ vì những người gìn giữ chánh pháp.

“Chẳng phải chỉ kinh này v.v…” trở xuống, là Đức Phật im lặng không nhận.

Thứ sáu là không nhận trụ lại, đồng với trong Đại tự tại ở trước. Trước, nên nêu chủ cúng. Đại tự tại, cũng là Thiên vương Ma-hê-thủ-la. Như Bồ-tát Long Thọ nói trên năm tầng trời Tịnh cư, có riêng chỗ trời Tịnh cư của Bồ-tát, gọi là Ma-hê-thủ-la. Bồ-tát Thập địa phần nhiều sinh lên đó. Nay, đến dâng cúng. Đã sắp bày v.v… trở xuống, là nói về kính thờ Phật, trong đó có ba:

  1. Nói cúng phẩm nhiều hơn trước, mang đến chỗ Phật.
  2. “Bạch Phật v.v…” trở xuống là bày tỏ cúng phẩm của mình ít ỏi, để chứng tỏ ruộng Phật rất tôn trọng.
  3. “Cho nên v.v…” trở xuống, xin Phật thương xót nhận cho. (Đoạn đầu dễ hiểu).

Trong đoạn hai, có ba văn riêng:

  1. Nói lên cúng phẩm của mình quá ít.
  2. “Dùng Tam thiên đại thiên v.v…” trở xuống, nêu nhiều để làm sáng tỏ ít.
  3. “Vì sao v.v…” trở xuống, là giải thích.

Trong đoạn trước, đầu tiên là pháp, kế là dụ. Sau, hợp “Pháp thuyết”, rất dễ hiểu.

Trong dụ, đầu tiên nêu riêng năm dụ. Y theo dụ đầu, con muỗi dụ cho chính mình. “Ngã” dụ cho Như lai, bốn dụ còn lại dễ hiểu.

“Há sẽ có v.v…” trở xuống, là kết thúc cúng phẩm ít ỏi ở trước, không thể được nhiều ích lợi. Sao là ít? Cúng phẩm mà Tự tại đã dâng thế nào là nhiều? Cái gọi là quả y báo Tịnh độ của Như lai, chỉ kết bốn dụ sau:

1. Thí dụ đầu tiên không luận, đâu có ích lợi như biển cả, là kết trước.

2. Thí dụ thứ hai, là nói một chén nước không ích gì cho biển cả, dụ cho phẩm vật của mình dâng cúng, không lợi ích gì cho quả y báo Tịnh độ của Như lai, đâu ích gì cho ánh sáng của mặt trời, kết thúc đoạn ba ở trước, nói không có lợi ích trong nhiều ngày, kết đoạn ba ở trước, nói một ngọn đèn nhỏ không ích gì cho nhiều mặt trời, đâu ích lợi cho các hoa, kết thúc đoạn thứ tư, trước nói một đóa hoa kia không ích gì cho nhiều hoa, đâu ích lợi cho Tu-di, kết thúc đoạn năm ở trước, nói một ngọn đèn không lợi ích cho Tu-di. Dưới là hợp rất dễ hiểu.

Trên đây là đoạn thứ tư, chính là nói về cúng phẩm ít ỏi. Sau đây là đoạn hai, nêu nhiều, làm sáng tỏ cho ít: Ơn đức của Phật rất sâu. Dù cho cúng phẩm đầy dẫy khắp Tam thiên Đại thiên thế giới, mà vì cúng dường, còn không nói đủ, so với cúng phẩm mà chúng tôi đã bày biện, đâu không quá ít ỏi ư?

Sau đây là đoạn ba, nêu ơn Phật sâu nặng, để nói về sự ít ỏi của cúng phẩm ở trước, vì sao lại hỏi? “Vì sao tam thiên đại thiên cúng dường mà vẫn gọi là không đủ?” Sau đây sẽ giải thích:

Vì Đức Phật đã vì chúng sinh mà thường dấn thân vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh để chịu khổ, cứu khổ, nên Phật đã đem tam thiên đại thiên cúng dường, vẫn gọi là không đủ. Địa ngục tiếng phạm là Nê-lê. Luận Địa Trì giải thích: “Tăng thượng đáng nhàm chán, gọi là Nê-lê.”

Luận Tạp tâm giải thích: “Vì không đáng ưa thích nên gọi là địa ngục. Nghĩa ấy là một. Hai nghĩa này đều đối tâm nhàm chán, để vạch rõ lỗi lầm của địa ngục, chẳng phải tướng thích hợp. Tướng thích hợp được giải thích đúng là y cứ nơi chốn để nêu rõ danh. Lao ngục ở phía dưới quả đất là nơi sinh của người đó, nên gọi là địa ngục, nói ngạ quỷ: Luận Tạp Tâm giải thích: Vì cầu từ người khác nên gọi là ngạ quỷ, lại thường đói khát gọi là ngạ, thường hay sợ sệt nên gọi là quỷ.

Nói súc sanh: Luận Tạp Tâm giải thích: “Vì chúng sinh đi ngang, nên gọi là súc sinh. Đây là nói về tướng, chứ chẳng phải giải thích danh nghĩa. Giải thích đúng là súc vật được chứa, nuôi từ chủ, mà đặt tên. Tất cả người đời được nuôi gia súc để ăn thịt, hoặc để sai khiến, rong chạy. Chứa, nuôi có từ đây, vì một nửa được rút ra từ nghĩa này, nên gọi là súc sinh.

Các đường ác: Nghĩa là Tu-la v.v… Đức Phật vì chúng sinh nên thường ở chốn này để chịu khổ. Vì cứu giúp chúng sinh nên hợp thành đoạn hai, đủ rõ cung cấp ít súc sinh này hợp thành đoạn hai, đủ rõ đã cung cấp ít ỏi. Sau đây là đoạn ba, thỉnh Phật thương xót nhận cúng dường, là Phật vì chúng sinh, nên thường ở các đường ác để chịu khổ. Vì cứu giúp, nên hôm nay lẽ ra Phật thương xót mà nhận cúng phẩm nhỏ mọn của tôi, vì sao kinh này nói Phật không nhận, không nhận trụ lại đời?

Có người giải thích rằng: “Vì khách đến từ phương khác, nên sơ lược không nói. Lẽ ra không đúng. Dù cho khách đến, thì đâu ngại gì không thọ, không nhận trụ lại đời? Nói thẳng là nhà dịch kinh lược qua không nói!”

Đại Bát-niết-bàn kinh Nghĩa Ký quyển 1, phần đầu hết.

Phần Cuối

Sau đây là phần hai, nói về chúng phương khác nhóm hợp dâng cúng. Vì sao chúng phương khác lại đến đây? Giải thích rộng có ba:

1/ Tự vì mình mà đến, vì muốn đến nơi này để cúng dường và hỏi pháp. Cúng dường sanh phước, hỏi pháp sinh trí, nên văn sau nói: “Ông dâng cúng cơm này lên Đức Phật kia, đều hãy lễ kính để xin Đức Phật giải quyết những nỗi nghi ngờ. Sao không đến chỗ Phật ở cõi kia cúng dường, thỉnh pháp, mà lại đến nơi này? Vì có duyên đời trước với chỗ của Đức Phật này. Như nói Đại Phẩm, Phổ Minh từ xa đến, đều bình đẳng như thế.

2/ Vì người khác cho nên đến, trong đó có hai:

a)  Vì chúng sinh ở cõi nước này nên đến. Chúng sinh ở cõi nước này lẽ ra thấy chúng kia đến, sinh ra gốc lành.

b) Vì chúng sinh ở cõi nước kia nên đến. Chúng sinh ở cõi đó đã có nhân duyên từ đời trước với Đức Phật ở cõi này, nên thấy sinh ra điều lành. Vì năng lực đức lành của chúng sinh yếu kém nên không thể tự vận dụng, nên Bồ-tát phải dẫn dắt chúng đến. Cho nên dưới đây nói: “Trong thân vô biên, Bồ-tát đã từng đem vô lượng chúng sinh từ cõi kia đến cõi này. Đây là đoạn hai, vì người khác nên đến.

3/ Vì ảnh hưởng mở mang Phật pháp nên đến. Trong văn, nói rộng vô lượng, Vô Biên Thân từ bốn phương đến. Trước nêu phương Đông, văn được chia thành sáu:

1- Nêu tên nước kia và danh hiệu Phật.

2- Bày tỏ Đức Phật kia bảo Bồ-tát Vô Biên Thân giúp chúng được đến cõi này.

3- Bồ-tát Vô Biên Thân vâng lệnh Phật đến cõi này.

4- Đến rồi, dâng cúng.

5- Đức Như lai không nhận.

6- Không nhận trụ lại.

Theo đoạn văn đầu nói phương Đông, nghĩa là chỉ cho biết chỗ ở của Đức Phật kia, cách cõi này vô lượng, rõ được cõi nước kia xa gần với danh hiệu là ý lạc là nêu danh hiệu cõi nước đó.

“Hiệu Phật là “Không” v.v…” trở xuống, là nêu danh hiệu Đức Phật kia. “Hư không” là tên riêng, Như lai ứng cúng v.v… là hiệu chung của Đức Phật kia. Chư Phật đều có hai tên gọi này. Vì hóa thân phải khác, nên lập tên riêng. Vì thật đức cần làm sáng tỏ, nên đặt tên chung. Tên chung có mười, như dưới đây sẽ giải thích rộng.

Trong lời dạy bảo thứ hai, trước nêu rõ cõi này, “cõi này có Phật v.v…” trở xuống, chứng tỏ hóa chủ này sắp nhập Niết-bàn. “Ông hãy đến đó v.v…” trở xuống, khuyên đến cúng dường, để sinh công đức.

“Đều hãy lễ v.v…” trở xuống là khuyên đến hỏi pháp, để sinh ra trí tuệ, lễ kính là thân thỉnh, xin Đức Phật giải quyết nghi ngờ là miệng thỉnh.

Thứ ba là Bồ-tát Vô Biên Thân vâng lệnh Phật đến cõi này. Tùy hóa thân đến từ phương Đông, thật ra là vì hiện trong pháp thân bình đẳng, nên gọi là “đến”. Y theo dưới đây, lưu ly phát ra ánh sáng như vậy. Nay, y theo tướng hóa thân. Văn chia ra làm chín:

1. Cung kính từ giã Đức Phật ở cõi kia, vì muốn đến cõi này.

2. Sắp đến cõi này, trước hiện điềm lành.

3. Nói về cõi này thấy tướng liền kinh hãi.

4. Bồ-tát Văn-thù an ủi.

5. Nói về chúng cõi này tìm xét lời nói mà được nhìn thấy cõi kia.

6. Bồ-tát Văn-thù bảo chúng rằng, do oai lực Phật, nên nhìn thấy được chín phương.

7. Nói về đại chúng đều biết khi chúng ở cõi kia đã đến cõi này rồi, chắc chắn Đức Như lai sẽ nhập diệt, nên đều buồn, than.

8. Nói về đại chúng, do năng lực oai đức của Vô Biên Thân nên được nhìn thấy thần biến kia.

9. Nói về hạn lượng của Vô Biên Thân, chỉ có Phật mới thấy được, các Bồ-tát không thể thấy. Vô Biên Thân ban đầu liền thọ giáo v.v…, là đoạn đầu thời gian thích hợp dưới đây là đoạn hai.

Sáu thứ rung chuyển: Như Địa kinh nói, cái nói là: Rung chuyển, nước suối vọt lên, muôn vật hăng hái trỗi dậy.

“Lúc đó, chúng v.v…” trở xuống, là đoạn ba, nói chúng sợ hãi. Vì sao? Vì oai đức của Bồ-tát này đáng tôn trọng rất đáng kinh sợ, nên đã làm cho chúng sợ sệt. Lại, khi chúng đến rồi, Đức Như lai chắc chắn sẽ nhập diệt, khổ lớn sắp đến, vì sự, lý như thế, nên làm cho chúng sợ hãi.

Sau đó, Đức Phật ấy đến, vì sao lại không như vậy?

Bởi Đức Phật kia đến là vì muốn mở bày phát ra nghĩa thật, giúp cho người sẽ chứng nhập. Lại vì muốn dẫn dắt người vãng sinh Tịnh độ. Vì lợi ích cao quý sắp đến, nên đã làm cho chúng hớn hở, vui vẻ. Nay, Bồ-tát Vô Biên Thân đến, ý chưa thuần thành, vì thêm lưu luyến, kính mến, nên đã làm cho đại chúng kinh sợ. Công hạnh hóa độ còn tùy thuộc vào sự biến chuyển của thời gian, không thể nhất định.

“Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù v.v…” trở xuống, là đoạn thứ tư, Văn-thù an ủi. Đầu tiên, khuyên chúng đừng sợ. “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích. “Cho nên v.v…” trở xuống là kết luận.

“Bấy giờ, đại chúng đều nhìn thấy từ xa v.v…” trở xuống, là đoạn năm, y theo lời nói mà được nhìn thấy chúng kia.

“Văn-thù-sư-lợi lại bảo v.v…” trở xuống, là đoạn sáu. Bồ-tát Văn-thù dự ký, nói do oai lực Phật nên chúng được nhìn thấy cả chín phương.

“Được thấy chỗ nào? “Nói là v.v…” trở xuống, Đức Như lai biến hóa nhìn thấy cõi nước ngay trong cõi nước mình, chính là thấy khắp cõi nước Phật trong mười phương, chứ chẳng phải chỉ nhìn thấy chỗ Bồ-tát

Vô Biên Thân đến. Nơi vô biên đến, chỉ ở bốn phương.

“Lúc bấy giờ, đại chúng bảo nhau rằng v.v…” trở xuống, là đoạn bảy, đại chúng buồn than! Bậc đại nhân đã đến, bậc Thánh sắp nhập diệt không xa, cho nên đại chúng than thở cõi đời này rồi đây sẽ trống rỗng!

“Bấy giờ, đại chúng, tất cả đều v.v…” trở xuống, là đoạn tám, nói chúng do năng lực của Bồ-tát Vô Biên Thân kia mà được nhìn thấy cảnh tượng thần biến ấy, trong đó có hai:

a) Thấy thần biến kia.

b) “Do năng lực thần thông của Bồ-tát này v.v…” trở xuống, là nói về lý do nhìn thấy.

Trong phần trước có ba:

1/ Nhìn thấy được thân Bồ-tát và quyến thuộc của Bồ-tát ấy.

2/ “Mỗi sợi lông v.v…,” trở xuống, là nhìn thấy người dân của cõi nước trong thân Bồ-tát kia.

3/ “Bấy giờ, Bồ-tát Vô Biên Thân và vô lượng Bồ-tát đồng vây quanh v.v… trở xuống, là thấy chúng Bồ-tát đó đem đến các vật cúng dường. (Đoạn đầu dễ hiểu).

Trong đoạn hai, đầu tiên là thấy cõi nước, “Mỗi thành này đều có tám muôn bốn ngàn vị vua v.v…,” trở xuống, là thấy người dân nước kia, trong đó có ba:

a) Thấy dân chúng cõi kia thọ vui.

b) “Trong đây v.v…,” trở xuống, là thấy dân chúng cõi đó tu điều lành.

c) “Nghỉ ngơi v.v…” trở xuống, là thấy đại chúng kia than thở thảm thiết!

Trong phần đầu, trước là thấy các cõi người thọ vui, sau thấy người dân, văn rõ ràng dễ hiểu. Thấy trong sự tu điều lành, đầu tiên là nói về đối tượng được nghe, nghe thuần túy Đại thừa.

“Trong mỗi đóa hoa đều có tòa sư tử v.v…,” trở xuống, nói về vị trí, nơi Bồ-tát kia nói pháp, nói ròng rặt Đại thừa.

“Y phục của chúng Bồ-tát kia rất mầu nhiệm, vượt ngoài ba cõi”, nghĩa là vì quả báo thanh tịnh xuất thế, nên vượt ngoài ba cõi. Hoặc có chúng sinh viết chép, giữ gìn chánh pháp v.v… trở xuống, là nói về sự tu hành của chúng kia, tu ròng rặt Đại thừa.

Trong phần nhìn thấy than thở là an trụ trong vô lượng, đối với chính bản thân mình đã xong, là nhắc lại trước khởi sau, làm cho chúng sinh xả bỏ niềm vui thế tục, sinh tâm nhàm chán, đều nói cõi đời trống không, tâm càng thêm lưu luyến Đức Phật kia, luyến mến bậc Thánh, sợ nhập diệt, nên nói ra lời than thở!

Hỏi: Những cảnh tượng đã thấy ở đây đều là thật hay biến hóa?

Giải thích: Là thật.

Hỏi: Nếu là thật thì vì sao phải trụ trong Vô Biên Thân?

Giải thích:

Thân, cõi nước đều nương vào nhau không nhất định: hoặc thân nương vào cõi như điều mà ta thường nhìn thấy. Hoặc cõi nước nương vào thân, như kinh Hoa Nghiêm chép: “Chỗ nương của cõi nước Chư Phật không nhất định. Hoặc nương vào mão trời của Bồ-tát, hoặc nương vào nếp áo của Bồ-tát, hoặc trụ trong lòng bàn tay của lực sĩ, hoặc an trụ vào nguyện lực của Phổ Hiền.”

Nay, dừng lại trong lỗ chân lông của Bồ-tát Vô Biên Thân, đâu có gì đáng kinh ngạc!

Trên đây là đoạn hai, là thấy người dân, cõi nước trong thân Bồtát kia.

Dưới đây là đoạn ba, là thấy cúng phẩm của chúng Bồ-tát mang đến.

“Bấy giờ, Vô Biên đã thị hiện thần thông rồi, nêu trước, khởi sau.

Dưới đây, sẽ nói về sự cúng. Trước là nói về hương, hoa, cờ phướn, lọng báu v.v… Các thứ rất nhiều, rộng lớn vô lượng. Nghĩa là mỗi thứ đều có vô lượng. Sau đây, là nói về các thức ăn uống thơm ngon, hấp dẫn, là thể thức ăn vượt hơn. Nếu nghe nói nhơ bẩn bị tiêu diệt, là do công dụng của tư chất vượt hơn.”

Trên đây là đoạn thứ nhất, nhìn thấy thần biến.

“Do năng lực thần thông của Bồ-tát này v.v…” trở xuống là đoạn hai, là phần kết, nói về lý do đại chúng được nhìn thấy. Theo chúng đều thấy Vô Biên Thân đến, hợp thành đoạn tám.

Dưới đây là đoạn chín, nói về hạn lượng của Bồ-tát Vô Biên Thân kia, chỉ Đức Phật mới thấy, ngoài ra, không ai thấy được.

“Thân lớn Vô biên, kích cỡ đồng với hư không” là lượng đồng với Phật Hư Không của thế giới kia. Cũng có thể đồng với hư không ở Pháp tánh.

Trên đây, đại chúng chỉ thấy hóa thân của Bồ-tát kia, thật ra thì rộng lớn như pháp giới. Chư Phật ba đời, thể của pháp thân đồng, nên chỉ có Phật mới biết, Bồ-tát khác không thể thấy. Bồ-tát Đẳng hạnh có lẽ cũng nhìn thấy. Nay, lược qua không nói.

Trên đây, có chín đoạn, hợp thành đoạn ba, vâng lịnh Phật đến đây. Đoạn bốn, là dâng cúng. Đoạn năm, là Phật không nhận. Đoạn sáu, từ chối trụ lại đời. Văn rõ ràng dễ hiểu. Sau đây, sẽ nói về Vô Biên Thân ở cõi khác đến:

Phương Nam, Tây, Bắc nói rõ chỗ các Bồ-tát đến, cũng có vô lương Vô Biên Thân: Nói về nêu số người, nghĩa là mỗi phương đều có vô lượng, vô số Bồ-tát, tự là Vô Biên Thân, đồng đến dâng cúng, chẳng phải nói mỗi phương đều có một vị đến.

Cúng phẩm gập bội ở trước: cúng phẩm mà phương Nam sắp bày nhiều gấp bội phương Đông, đều đã dâng lên cúng, cho đến cúng phẩm của phương Bắc lại gấp bội hơn Vô biên của ba phương trên sắp bày và phương trên dâng cúng. Vượt ngoài thỉnh cầu, không nhận, vượt qua số nêu, Phật từ chối không ở lại đời nữa. Cho nên nói “Cho đến”.

Dưới đây, là đoạn tám, tổng kết số chúng nhóm họp, trong đó có bốn:

1) Nói về chúng ở Ta-la nhóm hợp nhiều, ít. Mỗi bề rộng ba mươi hai do-tuần, đại chúng đầy dẫy. Chỗ này sinh ra điều lành, gọi là địa an lành. Mỗi do-tuần có bốn mươi dặm, ba mươi hai do-tuần gồm có một ngàn hai trăm tám mươi dặm, chúng đều đầy dẫy. Ở trước, trong chỗ mà Ưu-bà-tắc trang nghiêm, chí có mười hai do-tuần, còn trong đây đến ba mươi hai do-tuần. Trong tòa sư tử ở phía dưới có bốn mươi do-tuần, vì sao không bằng nhau? Vì lẽ ra phải là ba trụ xứ rộng, nên mới được như vậy, đồng với kinh Pháp Hoa.

2) “Bấy giờ, Vô Biên Thân ở bốn phương v.v…,” trở xuống là nói về ngăn dứt nghi ngờ, thưa hỏi. Tướng trạng nghi ngờ như thế nào? “Vô Biên Thân cao lớn ba mươi hai do-tuần, mà chỗ kia thì quá hẹp, đâu thể tiếp nhận nhau, lại còn chứa chúng khác?” Cho nên ở đây giải thích:

Chỗ ngồi của Vô biên ở bốn phương, hoặc như đầu cây chùy, đầu mũi kim có chút bụi, nên được thọ nhận với nhau. Người thường nói: “Có Vô Biên Thân ở mười phương đến. So với trước, nghiệm ở đây chỉ có bốn phương.” Ba mươi phương v.v… trở xuống, là nói đại chúng đều nhóm hợp. Trong đó, trước là nói về chúng ở các cõi khác nhóm hợp, chỉ có Bồ-tát và chúng ở cõi này nhóm họp dưới Diêm-phù, cùng các loại đều nhóm hợp lẫn lộn. Trước là nói về loài người nhóm hợp, trừ Bồ-tát Ca-diếp v.v… “Cho đến v.v… trở xuống, là chúng khác đều nhóm hợp.”

Mười sáu hành vi ác, như đã nói rộng trong phẩm Sư Tử dưới đây.

“Bốn Đà-na-bà v.v… trở xuống là nói về chúng nhóm hợp, đều bỏ ý nghĩ xấu xa, dùng tâm từ nhìn nhau, trong đó đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp, dưới là phân biệt với Xiển-đề.

Dưới đây là đoạn chín, biến cõi nước thành thanh tịnh, giới hạn phần tịnh của Tam thiên Đại thiên, dùng thần lực Phật là lý do cõi nước thanh tịnh. “Đầt đều mềm mại v.v…” chính là nói cõi nước thanh tịnh. Giống như phương Tây, giống như làm sáng tỏ tướng thanh tịnh. Cõi kia thường thanh tịnh. Vật thể vốn thấy nhơ, do tâm trước tốt lành, và oai lực Phật chuyển hóa .

Nay, mới thấy thanh tịnh, gọi là biến cõi nước, về lý, thật ra là biến tâm.

Dưới đây là đoạn mười, nói các đại chúng do cõi nước thanh tịnh, nên thấy suốt các cõi nước nhiều như số cát bụi ở mười phương, trong đó, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp pháp, dụ.

Bồ-tát Văn-thù hướng về phía trước nói: “Nhờ oai lực Phật sẽ nhìn thấy chín phương, là chỉ định việc này.”

Ở đây thấy mười phương, vì sao nói chín?

Vì trước đây là thời gian thông báo. Sau khi thấy phương Đông, đối với cõi này đã thấy, nên nói nghiêng một bên là chín. Sau đây là đoạn mười một, Đức Như lai hóa độ khắp, thu nhiếp ánh sáng trở vào miệng.

Trước nói Phật phát ra sáu tia sáng, vì sao nay lại nói có năm?

Lý do này đã giải thích như trên: Pha lê, mã não hợp thành sắc lẫn lộn, nên nói là năm. Vả lại, tương truyền người nước ngoài, giải thích rằng: “Trong sáu tia sáng mà Phật đã phát ra, vì để lại một tia sáng truyền pháp, nên chỉ thâu lại năm tia sáng.”

Trước là, nói ánh sáng Phật chiếu khắp mười phương. Nay, ở đây vì sao chỉ nói che khắp đại hội?

Cũng như giải thích ở trên. Vì tùy theo chúng sinh được soi chiếu, cho nên như vậy. Vì Đức Phật thị hiện hóa độ đã khắp, nên ánh sáng từ miệng vào. Sau đây là đoạn mười hai, nói các đại chúng nhìn thấy tướng liền thương xót, sầu não, trong đó có bốn:

1. Thấy tướng, liền kinh sợ. Thấy ánh sáng vào miệng Phật, đều rất sợ hãi, nội tâm kinh sợ, nổi ốc khắp mình đứng không vững.

2. “Lại nói lời này v.v…” trở xuống, là nói về ánh sáng nhập vào ý.

3. “Kỳ hạn nào? v.v…” trở xuống, nói ra lời, than thở, điều tổn hại có bốn:

a) Tổn hại đã khổ, nay lại, buồn rầu, sẽ rơi vào sinh tử, chính là khổ kia. Vì không lo cái chết đến , nên nói là “Kỳ hạn nào?”

“Thay!” là trợ động từ, rất oán trách, thở than. Lời nói lặp lại là để than thở.

b) “Một mai v.v…” trở xuống, là than Phật không nhận cúng dường. Xưa, thực hành bốn đẳng, làm lợi ích thế gian. Nay, “Phế” gọi là bỏ.

(Bốn tâm vô lượng, sẽ nói cụ thể như ở dưới.) Không nhận cúng dường, là tướng lìa bỏ.

c) Tuệ Thánh diệt hẳn, lo nghĩ sẽ mất Minh sư. Vì Tuệ Thánh xua tan bóng tối, như mặt trời, mặt trăng, nên từ dụ đặt tên.

d) Thuyền pháp chìm mất, lo nghĩ chánh pháp sẽ diệt sớm. Chánh pháp có công năng cứu giúp rộng khắp. Từ thí dụ mà gọi thuyền. Đây là đoạn ba đã xong.

“Bốn lời kêu gọi v.v…” trở xuống, là thương, oán trách áo não. Buồn trách lỗi lầm thêm nhiều, lệ rơi xuống đất. Đó là phần tựa đã xong.

Đoạn hai của kinh là đoạn hai trong phần mở rộng tông chỉ để làm sáng tỏ đức, trước nêu thuyết khác. Kế là nói về được, mất. Sau, là chỉ rõ nghĩa đúng.

Thuyết khác là gì?

Xưa nay tương truyền, từ đây đến phẩm Ca-diếp ở sau, đồng là chánh tông. Pháp quyến thô trong chánh tông có hai, phần tế có sáu.

Phán quyết thô có hai, là lược và rộng. Từ phẩm đầu tiên đến phẩm Chúng là nói lược. Từ phẩm Chúng về sau, là nói rộng.

Phần tế có sáu: Trong lược có ba:

  1. Nói về quả hiện tại của Phật.
  2. Ba phần khuyến cáo v.v… trở xuống, là chỉ rõ “Duyên” nhân của Phật.
  3. Hai mươi lăm “Hữu” (cõi) có “Ngã” hay không? v.v… trở xuống, làm rõ chánh nhân Phật tánh.

Trong rộng cũng có ba:

  1. Phẩm Đại Chúng Vấn, nói rộng về quả hiện ở trước.
  2. “Bệnh hiện tại v.v…” trở xuống, là nói rộng về “Duyên” nhân ở trên.
  3. “Phẩm Sư tử v.v…” trở xuống, là nói rộng về chánh nhân ở trước. Nói khác lạ là như vậy.

Kế là, là nói về được, mất.

Theo truyền thuyết xưa nay, cái thô sơ, xem dường như “Phải”. Nghiên cứu kỹ thì “Quấy”, dùng hai nghĩa để giải thích:

1. Y theo câu hỏi để trắc nghiệm: nếu trước phẩm Chúng và sau phẩm Chúng, rộng lược khác nhau thì lẽ ra cả hai chỗ phải hỏi riêng, đáp riêng, chứ sao lại “Duyên” trong lược và rộng để làm câu hỏi? Trong văn rộng và lược để làm lời đáp? Nhưng ba khuyến cáo v.v… trở xuống, là Bồ-tát Ca-diếp hỏi rộng, Đức Như lai đã đáp rộng chưa xong, bỗng nhiên, nửa chừng lại chia ra trước lược, sau rộng, phải chăng cũng không phải luống uổng? Ba khuyến cáo v.v… trở xuống, đều là hỏi, đáp chung, nói là một phần, chứ chẳng phải chia ra rộng, lược. Lại, nếu sáu phần thì một nói thứ lớp là phải, thì lẽ ra năm phẩm đầu chương Thuần-đà đều hỏi về nương gá, sau đó, Đức Phật đều đáp, chẳng lẽ sau chương Ai Thán của Thuần-đà mới được hỏi? Sau hai chương Ai Thán của Thuần-đà, thì hỏi đáp, riêng, là nói biết với giới hạn ở trước hoàn toàn khác nhau, không được theo nhau hợp thành sáu phần. Nếu cho rằng phẩm Ai Thán của Thuần-đà đã nói khác với nghĩa sau, thì sẽ không được một chỗ đều hỏi, đều đáp. Ba khuyến cáo về sau, đều hỏi, đều đáp, nói là một phần, không được kết hợp với trước thành sáu phần. Y theo câu hỏi là như thế. Kế là phải y theo văn để trắc nghiệm xem pháp thô kia là đúng hay sai?

2. Y theo phần đầu trong sáu phần đã lập trước, để nói về quả, và trong phần hai, nói về “Duyên” nhân, vì thô, nên có tướng này. “Nếu nói hai mươi lăm cõi v.v…” trở xuống, đến phẩm Chúng ở sau là nói chung, đều nói về chánh nhân Phật tánh kia. Nghĩa này không đúng! Như trong văn dưới nói về Bồ-tát thấy câu hỏi về thấy tánh, người đã hiểu bán tự, mãn tự, nhưng chưa phát tâm, sẽ được làm Bồ-tát. Không có sợ sệt đối với chúng, ở trong đời vẩn đục mà không ô nhiễm, như hoa sen, ở ngay trong phiền não, mà phiền não không làm nhiễm được. Quán sát Tam bảo được chúng không hư hoại, làm mắt sáng dẫn đường cho đám người mù.” Đây là Phật đáp chín câu hỏi, đều để giải thích hạnh “Duyên” nhân của Bồ-tát.

Thế nào gọi là chánh nhân Phật tánh?

Lại, như thuyết ở dưới nói: “Đức Như lai hiện đang hóa độ, như Calân-đề, mặt trời, mặt trăng, sao tuế. Phật là thuyền sư (thuyền trưởng). Phật bỏ sinh tử, như rắn lột da. Phật thị hiện nhiều đầu. Nói như trăng thượng tuần.” Đây là Phật đáp tám câu hỏi, đều nói về tác dụng hiện quả của Như lai.

Thế nào gọi là chánh nhân Phật tánh?

Có người lại giải thích: “Vì nói về tông chỉ của nghĩa này để làm rõ Phật tánh, nên được gọi là chánh nhân, nhưng vì văn không nói, thì làm sao biết được? Ngần ấy văn kinh, chỉ làm rõ Phật là điều rất khó hiểu! Lại, nếu thuyết này thật sự không nói về tánh mà nói làm rõ tánh, thì Thuần-đà buồn than, thật ra không nói về nhân, lẽ ra gọi là hiển nhân. “Ba khuyên cáo v.v…” trở xuống, thật sự không nói là quả, lẽ ra gọi là hiển quả. Tuy nhiên, nói là vị trí của quả không thể gọi là nhân.

Nói về lĩnh vực của nhân, thì không thể gọi là quả, không nói về lĩnh vực tánh thì làm sao gượng gọi là tánh, vì người đời không hiểu văn ấy, đã giả làm sáu phần của phán quyết này, phân tích văn đã phạm rất nhiều lỗi là do đây.

Có người nói: “Phẩm Chúng nói rộng về hiện quả ở trước là cũng không đúng! Vì sao không đúng? Trong Phẩm Chúng dưới đây sẽ đáp cụ thể bảy câu hỏi.

Đáp một câu hỏi đầu là nói về Phật thường trụ, có thể gọi là quả, là đáp sáu câu hỏi sau, đều nói về nhân hạnh, đâu được gọi là nói rộng về hiện quả ở trước? Lại nói: “Hai phẩm Sư tử Hống và Ca-diếp nói rộng về Chánh nhân ở trước, điều này cũng không đúng! Vì y theo hỏi đáp ở dưới thì phẩm Ca-diếp ở sau, là nói về đức dụng khéo léo của Như lai, có công năng giúp ích cho Xiển-đề, chứ chẳng phải làm rõ tánh, thì làm sao được gọi là nói rộng về chánh nhân ở trước, do trắc nghiệm này, nên tìm tòi sáu phần nhất định là sai.” Kế đây, là nói về nghĩa đúng.

Văn trước, sau của kinh này, được chia thành năm phần đầy đủ như phán quyết ở trước).

Trên đây, là phần tựa. Phần cuối cùng của phẩm Ai Thán này là đoạn hai, mở ra tông chỉ, nhằm làm sáng tỏ phần đức.

“Ba khuyến cáo v.v…” trở xuống, là đoạn ba, nói về đức tu hành:

“Nếu biết được, thì đây gọi là Sa-môn, Bà-la-môn v.v…” trở xuống, là đoạn thứ tư, phá tà, bày chánh.

Một phần thứ năm, là Như lai diệt độ. Người, trời, đại chúng Xàduy cúng dường. Nước ngoài không đến. Phần đầu trong năm là ba lợi ích chính đáng trong phương tiện lợi ích của hóa độ. Một phần sau rốt là hóa độ xong, nhập diệt, còn ba phần trung gian chính là giúp ích con người trong lợi ích của sự nghiệp hóa độ, gồm có ba. Văn được chia thành bốn. Phần tế có sáu, giúp ích con người có ba, hóa độ, đem lại lợi ích cho phàm phu, Thanh văn, Bồ-tát là ba. Văn chia làm bốn:

1. Từ đầu đến cuối dụ cho “Vì sao” v.v… đến nay, là hóa độ giúp ích Thanh văn làm cho họ học Đại thừa, nên trong đoạn văn sau, thường nói về Đức Như lai phá Tiểu thừa, về Đại thừa.

2. “Ví như mặt trời vừa mọc, thì sương mù đều tan biến v.v… trở xuống, là hóa độ giúp ích phàm phu, làm cho họ được vào pháp Phật, cho nên trong văn sau, thường nói về hóa độ, đem lại lợi ích cho ba người tội v.v…, giúp họ đi vào Phật pháp.

3. “Hạnh Thánh v.v… trở xuống, vì hóa độ giúp ích cho Bồ-tát, nên trong văn dưới thuần nói về sở tu, sở chứng của Bồ-tát.

4. “Phẩm Ca-diếp, đến phẩm Kiều-trần-như, vì hóa độ giúp ích cho phàm phu, nên trong văn dưới, nói về hóa độ Xiển-đề, các ma, ngoại đạo, làm cho họ đi vào Phật pháp.

Phần tế có sáu: Tướng trong đoạn hai ở trước, được chia thành hai. Từ đầu đến tận cùng phẩm Đại Chúng Vấn, phần nhiều nói về hóa độ giúp ích cho phàm phu có tội, giúp họ xa lìa ba tội, được vào Phật pháp. Phẩm Hiện bệnh, thường nói giúp ích cho phàm phu bị khổ, hiện thần thông nói pháp, giúp họ lìa khổ.

3) . Lại nói trong hóa độ giúp ích phàm phu, về tướng, cũng chia làm hai: Đầu tiên là phẩm Ca-diếp, nói về hóa độ Xiển-đề, làm cho họ tin Phật, pháp. Trong phẩm Trần-như, hóa độ ma, ngoại đạo, giúp họ quy y Phật, Pháp, thông qua thuyết khác có sáu. Ba phần trung gian giúp ích cho người như thế.

4) Y theo đầu tiên trong phần mở bày tông chỉ để làm sáng tỏ công đức, có bốn câu để giải thích:

1. Nói về mở rộng tông chỉ, nói rõ nghĩa đức. Tông là quả thường, mở bày có hai thứ:

2. Quét ứng, bày chân, gọi là mở bày.

3. Phá tiểu, mở đại, gọi là mở bày.

Quét ưng, bày chân trong chương Thuần-đà, gọi là khai tông. Phá Tiểu thừa, mở rộng Đại thừa trong chương Ai Thán, gọi là khai tông. Vì tông là thường, giáo xưa là vô thường, vết dấu hóa độ đã bị che ngăn, nên phải quét ứng, bày chân để mở rộng. Xưa vì Tiểu thừa nói dấu vết bị che lấp, nên phải phá Tiểu, bày đại để mở bày.

4. Y theo người để giải thích mở bày, người có hai hạng:

  1. Bị gửi gắm.
  2. Bị làm.

Bị gửi gắm là Phật, bị làm là chúng sinh. Thân chúng sinh bị làm, có tánh thường, bị hoặc chướng che lấp mà không hay biết, giống như cô gái nghèo không biết trong nhà mình có sẵn kho báu. Nay, dứt vọng, bày chân, giúp cho chúng sinh ngộ nhập, chỉ y theo giả dối để nói về chân lý, vì vẫn tồn tại khá rõ rệt, nên phải nhờ Đức Phật mở bày cho. Dù nói Phật là thường, nhưng ý là nhằm chỉ rõ thân chúng sinh có tánh thường, giúp cho chúng sinh hội nhập.

3. Đối với người để nói về mở bày. Người có hai loại:

a) Dòng ảnh hưởng được bậc Thánh hóa độ đối trị.

b) Được bậc Thánh hóa độ, chúng đương cơ. Thuần-đà, Văn-thù chính là ảnh hưởng của chúng đó. Người học vô thường như: Các Tỳkheo v.v… là đối tượng làm (được làm). Đối tượng làm với trí kém, cho nên chia ra nghĩa thường bên ngoài, không thể hỏi han, thưa thỉnh. Cho nên trước, đối với ảnh hưởng kia trong chương Thuần-đà mở bày pháp thường. Vì trước đã khai tông, nêu các Tỳ-kheo v.v… có thể ngộ nhập dần trong pháp thường, nên từ phẩm Ai Thán trở xuống, Đức Phật đối với đối tượng được làm để giải thích rộng về nghĩa thường.

4. Phân tích văn để giải thích: Đối với ảnh hưởng của chúng kia trong chương Thuần-đà, nhằm mở bày báo thường Bồ-đề của Như lai. Đối với hành vi của chúng kia trong chương Ai Thán để nói rõ về pháp thường Niết-bàn của Như lai. Hai chương này đâu khác nhau mà phải nói riêng? Nên giải thích chung thành một, vì tất cả các đức vắng lặng đều được gọi là Niết-bàn, rỗng suốt vô ngại, đều gọi là Bồ-đề. Phân biệt theo tướng, chẳng phải không khác nhau. Khác có ba thứ:

a) Nhân quả phân biệt. Nhân gọi là Bồ-đề, Bồ-đề là Đạo. Những gì đã làm trong nhân đều hướng về quả cõi người, nên đều gọi là Đạo.

Quả, gọi là Niết-bàn. Niết-bàn là diệt, khi đã đến quả thì bỏ tu. Vì vô vi vắng lặng, nên đều gọi là diệt.

b) Hạnh đoạn là nói riêng, tất cả hạnh đức đều được gọi là Bồ-đề. Tất cả đoạn đức đều gọi là Niết-bàn.

c) Y theo phương tiện của tánh tịnh để nói riêng, như văn dưới nói: “Sinh nhân” đã khởi quả của phương tiện, đều gọi là Bồ-đề. “Liễu nhân” đã làm sáng tỏ quả của tánh tịnh, gọi là Niết-bàn. Nay, dựa vào quả báo phương tiện của môn sau, vì thô nên nói trước. Vì pháp của tánh tịnh sâu kín, nên nói sau.”

Hỏi: Kinh Niết-bàn này là tông chỉ, nay vì sao lại nói Bồ-đề?

Giải thích:

Phân tích về tướng, thì hai môn Bồ-đề, Niết-bàn đều khác nhau. Nếu y theo vào tướng nhiếp hóa thì sẽ được thành tựu lẫn nhau. Nay, vì y theo tướng nhiếp hóa, nên nói Bồ-tát cũng thành tựu Niết-bàn. Cũng có thể kinh này nói đủ quả thường của Bồ-đề, Niết-bàn. Tựa đề kinh nói: “Đại Niết-bàn được gọi là pháp bất tận, nếu nêu một bên thì không nói đủ.” Trong chương Thuần-đà, nghĩa có hai, văn có ba. Nói nghĩa có hai là:

  1. Nói chân thân của Như lai là thường trụ.
  2. Nói ứng thân của Như lai là Vô thường.

Hỏi: Chân thường xưa nay bị che lấp. Nay phải mở bày ứng thân là hóa thân xưa, xưa nay thường thấy, thì cần gì phải nhọc công nói ư?

Giải thích:

Ứng thân dù là hóa thân xưa, nhưng xưa gọi là thật! Nay mới gọi là Ứng thân. Cho nên phải nói. Lại, vì “Quyền” ẩn che dẫn dắt, cho đến hóa thân phế bỏ, nên phải nói về Ứng thân. Nói Phật là chân, thường, vì muốn cho chúng sinh hướng vào vô vi, chỉ bày Ứng thân Phật nhập diệt, là vì khiến cho chúng sinh đều nhàm chán pháp hữu vi. Văn chia làm ba:

1. Phật bày chân thân, nói Ứng thân cho Thuần-đà nghe.

2.“Thuần-đà bạch Phật: “Đúng thế, đúng thế, đúng như bậc Thánh v.v… trở xuống, là Thuần-đà đối với Văn-thù nói rộng về chân thân ở trước.

3. Từ “Ánh sáng Phật chiếu Văn-thù v.v… trở xuống, là Đức Phật đối với Thuần-đà, nói rõ về Ứng thân ở trước. Trong phần trước, đầu tiên, nhân Thuần-đà dâng cúng, nói về Ứng thân Phật thọ lãnh, thật ra thì không có đối đãi, vì không có khác nhau, nên thuộc về thường. Hai là, “Lúc bấy giờ, đại chúng nghe nói Phật, Thế Tôn khắp vì v.v… trở xuống, là nhân Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại, để nói về Ứng thân Phật nhập diệt. Thật ra thì không dời đổi, vì vô vi nên thuộc về thường.

Đầu tiên, trong phần trước, do Thuần-đà thưa hỏi, nên Phật mở bày sơ lược về pháp Thường. Hai là, Thuần-đà bạch Phật: “Hai thứ bố thí không khác nhau là không đúng v.v…” trở xuống, do Thuần-đà đặt ra câu hỏi, nên Phật nói rộng về nghĩa Thường.

Y theo đoạn đầu, trước hỏi, sau đáp. Đầu tiên trong phần hỏi, trước là nêu người hỏi. Bấy giờ, hiện diện trong hội, có Ưu-bà-tắc được nêu riêng cho người hỏi kia. Ở đây, thật sự bậc Đại Thánh bảo cho biết ở người mới học, dẫn dắt không bằng. Ở trụ xứ kia, ngoài thành Câuthi-la này, có con của một người thợ khéo, cho biết rõ tên họ mình là Thuần-đà. Nói về tên “Húy” của ông với đồng loại của mình gồm mười lăm vị đều nêu trước chúng.

Hỏi: Những người này có phải là các Ưu-bà-tắc đã được nêu ở trước không?

Giải thích: Không phải! Sao biết là không phải?

Vì chúng trước ở từ xa đến, còn ở đây là chúng cũ. Vả lại, Ưubà-tắc v.v… ở trước, đã dọn bày thức ăn, vật dụng để dâng cúng, Phật không nhận. Nay, ở đây, Thuần-đà chưa sắp bày cúng phẩm, sau, mong Phật nhận cho, mới sắm sửa đủ, nên biết là khác nhau. Vì, nếu chẳng phải chúng trước, thì vì sao trong bài tựa trước không nêu chúng cũ của thành Câu-thi-la? Số không nêu thì nhiều, đâu trách riêng ở đây? Sau đây, chính là thỉnh, vì giúp cho thế gian được quả tốt. Với phương tiện của ý nghiệp, và lòng yêu thương sâu xa của Bồ-tát, nên bất cứ làm điều gì, Bồ-tát cũng vì chúng sinh, cho nên nay dâng cúng là vì thế gian được điều lành. Thiện nghĩa là nhân lành, quả là quả vui. Thuần-đà tự dâng cúng, sao lại làm cho thế gian được quả lành ư? Bởi dâng cúng sẽ được thành Phật, rồi hóa độ người cũng đồng với mình, thế, nên làm cho đời được quả lành.

“Bỏ thân v.v…” trở xuống, phương tiện của thân nghiệp là oai nghi có bốn: đi, đứng, ngồi, nằm. Nay, bỏ oai nghi ngồi để tiến đến chỗ Phật. Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chứng tỏ rằng đã bỏ tướng. Vén y bày vai phải, là nói lên việc đã làm. Gối bên phải sát đất, giải thích có ba nghĩa:

– Gối phải có sức, quỳ xuống sẽ giữ yên thân người.

– Gối phải có sức, đứng dậy dễ dàng.

– Gối phải thường cử động nhiều nên sát đất cho vững. Vì thế, người ngồi thiền, tay chân phải xếp ở dưới, chắp tay hướng về Phật để chuyên chú tâm mình. Thương, khóc rơi lệ, đề cầu Phật thương xót, thương xót khổ lâu dài của thế gian, nghĩ đến nỗi chìm đắm của chính mình, đều do cách xa Đức Phật, cho nên thương xót khóc lóc.

Đảnh lễ dưới chân Phật, để nói lên sự kính cẩn chí thành của mình. Đầu là phần cao quý của mình, chân là phần thấp của Phật, đem cái cao quý để tiếp xúc với cái thấp, để nói lên cử chỉ cùng cực của sự tôn kính.

“Mà bạch Phật v.v…” trở xuống, miệng nói chính là thỉnh. Trước hết, thỉnh Phật nhận cúng, “Như Sát-lợi v.v… trở xuống, là thỉnh Phật nói pháp.

“Nay, tôi dâng cúng, dù là phẩm vật mọn v.v… trở xuống, là thỉnh Phật nhận cúng lần nữa. Thuần-đà nhân đại chúng ở trước dâng cúng, Như lai không nhận, nên trước hết là thỉnh cúng. Thỉnh cúng là phước. Vì cầu trí nương vào pháp, nên kế là thỉnh pháp. Ở trước, dù thỉnh cúng, nhưng vì sợ rằng, Như lai sẽ không nhận đồng như trên, nên thỉnh lại lần nữa.

Trong phần thỉnh cúng ở trước, trước là vì người.

“Kể từ nay, chúng con sẽ không có chủ v.v…” trở xuống là đoạn hai tự vì mình. Y theo người khác, thì trước thỉnh nhận cúng, sau nói lên việc mình đã làm. Văn rõ ràng dễ hiểu.

Y theo tự vì mình, trước nói việc mình đã làm, sau là thỉnh Phật nhận cúng. Về mặt đúng sai của văn, câu nói về việc đã làm, có chia làm tám:

1. Sáu câu đầu, nói không có người, một câu kế là nói không có pháp, một câu sau là kết cầu thỉnh. Từ nay, sẽ không có chủ, không có chỗ lìa ác. Nói không có thân thích nghĩa là không có nơi gom nhóm điều lành. Đối với ở trước có Phật, nên nói là “Từ nay”.

“Không có ai cứu giúp không có ai che chở”, là nói về lỗi không có chủ, nên việc xấu ác, ở hiện tại sẽ không có ai cứu giúp, điều gian ác ở đương lai, sẽ không có người nào che chở.

“Không có chỗ trở về, không có chỗ hướng đến”, là nói lỗi không có người thân. Đầu tiên không có nơi trở về, cuối cùng, không có chỗ hướng đến! Đây là sáu câu về không có người.

“Nghèo đói, khốn khổ”, là nói không có pháp lành, muốn từ Như lai để cầu được thức ăn ở tương lai, kết thúc điều mình đã mong cầu. Bởi từ nay về sau, không có chủ, người thân v.v…, nên từ Như lai mong cầu thức ăn ở tương lai. Cúng Phật để mong được kết quả, nói là cầu. Quả Phật tương lai sẽ giúp ích cho sự thiếu thốn luống dối của mình. Theo thí dụ, gọi là thức ăn, lại là quả của nhà cho thức ăn ở hiện tại. Từ nhân, gọi là thức ăn ở trên đã nói việc làm.

“Cúi mong v.v…” trở xuống là kết thỉnh nhận cúng. “Duy” là chỉ vì chỉ cầu nhận cúng, nên nói là “Cúi mong”. Thọ thực xong, nhập diệt, gọi là “Hậu Niết-bàn”.

Thuần-đà nay, nghĩa là chẳng trực tiếp dâng cúng, cũng muốn thỉnh Phật trụ lại thế gian, vì sao trong đây lại nói là nghe Phật Niếtbàn? Vì về sự, không phải đều nói. Vả lại, xin thọ cúng, được thọ cúng xong, sau đó sẽ thỉnh Phật trụ lại. Lại nữa, Thuần-đà vì Đức Phật sắp nhập diệt, đến sau cùng mới dâng cúng, không được thỉnh Phật trụ lại. Nếu thỉnh Phật trụ lại thì sẽ không được nhập diệt.

Thỉnh Phật nhận cúng đã xong. Kế đây là thỉnh pháp. Đầu tiên, vì cứu giúp mình và trở xuống v.v… là đoạn hai, vì người khác và đúng sai ở trước. Y theo phần tự vì mình, đầu tiên là thí dụ, kế là hợp. “Cúi mong v.v…” trở xuống, kết thỉnh để Phật nói. Trong dụ có sáu câu, như Sát-lợi v.v… là câu thứ nhất, dụ cho người cầu pháp đối với tự mình. Dòng vua Sát-lợi, người Bà-la-môn, tịnh hạnh cao đẹp, bình dân trong Tỳ-xá, làm việc nặng nhọc trong Thủ-đà. Trong bốn họ này, nêu giống người nghèo làm dụ, không lấy đủ bốn.

Có người nói: “Nêu người nghèo ở đây là vì muốn cầu thỉnh. Nếu Phật nói pháp thì tôi sẽ đồng với Sát-lợi và Bà-la-môn. Nếu Phật không nói, thì tôi sẽ đồng với hạnh Tỳ-xá, Thủ-đà! Nếu vậy, thì người đời sẽ được trời rãi mưa, chính là Tỳ-xá và Thủ-đà. Về nghĩa thì không có việc này, vì nghèo nàn nên là câu thứ hai, dụ cho cái mình thiếu thốn.

“Xa đến người khác v.v…” trở xuống, là câu thứ ba, dụ cho những gì xưa đã làm. Ngày xưa, Thuần-đà đã bỏ tà, về chánh. Vì tà khác xa với chánh, nên gọi là xa. Quy đầu Phật pháp, gọi là đến nước khác. Nhân hạnh giúp quả, gọi là tác động của năng lực sai khiến.

“Được tốt đẹp v.v…” trở xuống, là câu bốn, dụ cho cái mình đã có. “Không có các ruộng muối cát v.v…” trở xuống, là câu năm, dụ cho cái “Không có”, chỉ hy vọng ở thiên hạ là câu sáu, dụ cho điều mình mong cầu, hợp với câu giữa không thứ lớp mà lại không hết. Trước hợp với ba câu sau, vì từ chối hợp với hai câu đầu, nên nói là, không thứ lớp. Câu thứ ba vì không hợp, nên nói “Không hết”. Trước hợp với câu bốn, nói là “Người điều phục con bò”, là nhắc lại thí dụ trước. Dụ cho thân miệng có bảy, hợp với dụ ở trước để làm rõ pháp. Đây là nói về có “Hạnh”. Trước khi đến đây, Thuần-đà là Ưu-bà-tắc đã dứt trừ ba điều tà của thân, xa lìa bốn lỗi của miệng là bảy.

“Thuở ruộng màu mỡ, bằng phẳng,” là nhắc lại thí dụ ở trước, dụ cho tuệ, làm sáng tỏ chánh pháp. Đây là nói có “Giải”. Trước nay, Thuần-đà tu tập theo kiến giải Tiểu thừa, vì có công năng là nhân của Đại thừa, nên gọi là ruộng. Sự hiểu biết chân chánh, không tà vạy, gọi là “Bằng phẳng”. Nói chung, là những gì đã tu trong quá khứ. Hiểu biết nhiều về Đại thừa, đó gọi là trí tuệ.

Kế là hợp với câu thứ năm, không có các thứ bụi cát v.v…, là nhắc lại thí dụ ở trước, dụ cho dứt trừ phiền não, kết hợp để làm rõ pháp. Thuần-đà xưa nay đã dứt kiến hoặc, như nhổ cỏ, gốc cây mục. Cũng có thể đã dứt bốn trụ địa phiền não, như ruộng cát bụi nọ. Bốn trụ đã khởi, như cỏ, gốc cây khô mục.

“Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống, là hợp với câu sáu. “Nay, thân tôi có bò điều phục, ruộng tốt, là nhắc lại câu bốn ở trước, đã cày bỏ cỏ dại, gốc cây mục, là nêu lên câu năm ở trước. Vì cầu pháp dựa vào ruộng tốt này, cho nên nhắc lại.

“Chỉ hy vọng v.v… trở xuống, chính là hợp với câu sáu. Đức Như lai hợp với trời mưa pháp cam lộ, là hợp với mưa ở trước. Cứ theo dụ gọi là pháp, gọi mưa cam lồ. “Ngã” của dòng họ là hợp với câu thứ nhất.

Nghèo về pháp, của báu, hợp với câu hai.

Trên đây, đã hợp xong.

“Cúi mong thương xót dứt trừ cái nghèo của con”, là kết thúc xin Phật cho nói.

Trên đây, tự vì mình v.v… trở xuống, là nói về người khác. “Chửng” cũng giống như “Tế” (cứu giúp). Nhân nói cứu giúp rộng, gọi là cứu giúp vô lượng chúng sinh khổ não. Sau đây là thỉnh cúng dường lần nữa:

“Cúng phẩm của con dù ít”, là nói một cách khiêm tốn về cúng phẩm hèn mọn của mình. Như văn dưới nói: “Vì cơm chỉ có tám hộc, nên nói ít ỏi. Phẩm vật dâng cúng dù ít, nhưng hy vọng sẽ được đầy đủ, nhiều hơn. Nói cái ít bao gồm cái nhiều, do đó nên nói là “Dù”.

Hỏi: Thuần-đà sau này vì Như lai mà trang nghiêm nơi chốn, đã giúp cho thế giới Tam thiên như cõi nước An lạc, đáng lẽ có khả năng giải thích nhiều, vì sao lại nói là mọn, ít?

Giải thích:

Thật ra Thuần-đà có thể nói nhiều, nhưng vì muốn mượn số ít để

nói lên oai lực không thể suy nghĩ bàn luận của Như lai, làm sao cho chúng trở về với niềm tin, nên đại chúng ở dưới nhìn thấy cảnh tượng thần biến này, đều vô cùng vui mừng và mong muốn sẽ được đầy đủ. Như lai, đại chúng đồng bày tỏ ý nguyện rộng khắp của mình. Sự mong muốn cũng giống như hy vọng. Hy vọng do thức ăn này sẽ giúp đầy đủ cho chúng đệ tử Phật. Như Bồ-tát Duy-ma-cật dùng một bát cơm, hy vọng sẽ làm cho tất cả chúng sinh được đầy đủ.” Vì lời nói này là muốn cho Như lai sẽ giúp cho viên mãn tâm nguyện của mình. Giảng nói ít thành nhiều để cho đại chúng được ngắm nhìn hiện tượng thần biến của Phật mà vui mừng, tin ưa.

“Nay, con không có chủ, không có thân thích v.v…” trở xuống, là xin Phật thương xót nhận cho! Đây là nhắc lại việc không có chủ, người thân v.v… nói trên, để xin Phật thương xót. Cầu xin Phật thương xót sâu xa, xin được đồng với La-hầu-la. La-hầu-la là con ruột của Phật, với lòng từ ái sâu nặng, thương xót các chúng sinh, thường lấy đây để so sánh.

Sau đây, là Phật đáp:

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nêu người đáp lại, Nhất Thiết Chủng Trí Điều Ngự Vô Thượng, nêu đức cao quý. Đối với tất cả pháp chủng khác nhau, đều nhận biết, gọi là Nhất thiết trí. Tự điều phục, điều phục người, là cùng cực trong điều ngự, gọi là điều ngự Vô thượng. “Biệt”, là chủng trí, là đức năng thuyết. Điều ngự Vô thượng là đức nhận cúng. Vì tự điều phục tâm mình, nên có khả năng nhận phẩm vật cúng dường. Nói chung, về nghĩa là bình đẳng. Vì Nhất thiết trí nên có thể nói pháp cho nghe, có thể thọ cúng phẩm của Thuần-đà, đại chúng. Đều nhận biết thời gian nói pháp, và thời gian nhận cúng. Vì Điều ngự Vô thượng, nên có khả năng điều phục chúng sinh, nói pháp cho chúng sinh nghe, vì chúng sinh mà nhận cúng.

“Phật bảo Thuần-đà v.v…,” trở xuống là nói về lời giải đáp. Trước là Đức Phật khen chung, rất tốt đẹp về việc khéo thưa hỏi. Nên nói: “Lành thay, lành thay! Là trợ từ. Do lời thưa hỏi rất khế hợp, nên Phật nói lại để khen ngợi! Sau đây chính là đáp:

Trước là thừa nhận nói pháp, sau là bằng lòng nhận cúng.

Vì sao không theo thứ lớp với lời thỉnh trước?

Vì ý của Thuần-đà là chỉ dâng cúng, nên trước là thỉnh nhận cúng, còn ý của Phật thì ở pháp, nên trước là nói pháp.

“Nay ta vì ông dứt trừ sự nghèo thiếu, khốn cùng”, đối đáp lại với lời thỉnh trên: “Cúi xin thương xót dứt trừ sự nghèo thiếu của con.”

Do nói được quả, nên dứt nghèo cùng, đây là nói về điều bị dứt bỏ.

“Mưa pháp Vô thượng, mưa xuống thân ruộng của ông” là “Chỉ mong mưa pháp” trong lời thỉnh trên.

Dựa vào bảy chi của thân, miệng ở trước để trao pháp, gọi là “Mưa trên thân ông”. Dựa vào thửa ruộng tốt, trí tuệ ở trước để trao cho Pháp, gọi là mưa xuống ruộng ông.

Y theo thí dụ gọi là pháp, nên gọi là mưa. Vì nói khởi hạt giống của pháp thân Phật, gọi là sinh mầm pháp. Đây là nói về vật cho trong hứa nhận cúng, “Nay ông muốn cầu được sống lâu v.v… đối với ta”, là nhắc lại điều Thuần-đà mong cầu, gọi là điều mong cầu ở trước. Thức ăn tương lai là tuổi thọ v.v…

“Ta sẽ nói v.v… trở xuống, chính là hứa nhận cúng. Do Phật nhận cúng, sẽ làm cho Thuần-đà được quả, nên gọi là bố thí ruộng thường, gieo trồng phước sẽ được quả báo không dời đổi, nên nói là thường. Tuổi thọ, sắc lực v.v… là thể của quả kia. Cho thức ăn ở hiện tại, có công năng làm cho người tiếp nhận sẽ được sống lâu. Sắc lực ổn định, nói về lợi ích của năm việc, nên ở vị lai, sẽ được lại quả này.”

“Vì sao? v.v…” trở xuống, là giải thích. Trước là, gạn hỏi, hỏi có hai ý:

a) Hỏi về nhân hạnh tự sẽ được quả. Vì sao ta nói rằng, bố thí ông?

b) Hỏi về năm quả là pháp hữu vi, vì sao ta lại nói: “Cho ông được thường? Sau đây sẽ giải thích riêng:

Trước, nói về bố thí thường, ý giải thích ra sao? Do ta thường, nên có thể cho ông thường. Nhưng, nay trong văn chỉ nói Phật là thường. Phật là thường đã thành, thì thường kia sẽ thể hiện rõ ràng, không nhọc công nói lại?

Hỏi: Vì sao không y cứ trực tiếp vào đối tượng chứng đắc kia để nói về thường, mà y theo Đức Phật?

Giải thích:

Vì nghĩa thường kia, ở vị lai thì chưa có, hiện tại lại mờ mịt, khó sáng rõ, nên phải y theo Đức Phật để nói. Đức Phật thường là vì theo giáo xưa đã bị che giấu bởi dấu vết “Quyền”. Nay, phải bỏ “Quyền” để làm sáng tỏ “Thật” kia, nên y theo hai thời gian không khác nhau để được rõ ràng hơn. Cái gọi là Thuần-đà vì đã khởi sự phát tâm, nên cho rằng thức ăn sẽ có hai quả báo không khác nhau.

Giải thích đúng về nghĩa thường, cho thức ăn có hai, vì văn ít nên

khó hiểu! Nếu cụ thể thì nên nói: “Người nhận bố thí thứa ăn có hai.” Người dịch vì muốn bốn chữ thành văn, nên bỏ bớt chữ “Thọ” ở đầu câu.

Vấn đề này làm sao biết được?

Sau đây, sẽ y theo người nhận để nói, vì có hai nên quả không khác nhau.

Bỏ “Quyền” bày “Thật”, là nói theo tùy hóa. Trước khi nhận là nhân, chẳng phải quả, sau khi nhận cho là quả chẳng phải nhân. Hai thứ nhân, quả khác nhau, tức là Vô thường. Y theo“Thật”, thì hai thời gian đều là quả Phật, vì quả báo không khác nhau, cho nên là thường.

Hỏi: Ở trên đã nói đoạn này nhân việc Thuần-đà dâng cúng để nói về Đức Phật vì không có đối đãi, nên gọi là thường. Nay, vì sao không có khác nhau là giải thích thường?

Giải thích:

Bởi không khác nhau vẫn là không có đối đãi. Hai thời gian, xưa và nay đều không có giả đối đãi, nên nói là không khác. Sau đây, là nói về hai tướng, trước hỏi, sau giải thích:

2. Nhận thức ăn xong, chứng đắc Bồ-đề: Khi chưa thành Phật, Đức Như lai trước đã nhận bát cháo sữa do hai cô gái dâng cúng. Sau đó mới thành Phật.

A-nậu Bồ-đề là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô thượng Chánh chân Chánh đạo. “A” dịch là “Vô”, Nậu-đa-la, dịch là “Thượng”, “Tam” dịch là “Chánh”. “Miệu” dịch là “Chân”. “Tam” còn dịch là “Chánh”, Bồ-đề dịch là “Đạo”.

3. Người nhận đã nhập Niết-bàn, chỉ cho vật được nhận hiện nay.

Trên đây, giải thích nghĩa thường. Sau đây, giải thích nghĩa bố thí.

“Nay, ta nhận sự cúng dường sau cùng của ông, sẽ giúp cho ông có “Đàn”. Vì ở vị lai sẽ được quả, nên gọi là bố thí. Đây là pháp thí, chẳng phải thí khác.

Trên đây, nhân thỉnh Đức Phật chỉ bày sơ lược về pháp thường. Dưới đây là đoạn hai, nhân Thuần-đà đặt ra câu hỏi, nên Phật giải đáp rộng về nghĩa thường.

Trước hết, Thuần-đà nêu câu hỏi về lời nói “Không có khác nhau”, trái với pháp mà ông đã nghe nói từ giáo xưa. Chẳng hạn như Phật nói: “Quả báo của hai thí không khác nhau” là không đúng! Đây là nhắc lại để bác bỏ chung!

“Vì sao? v.v…” trở xuống, chứng tỏ là không đúng: Trước là tự tra gạn, trách cứ: “Vì sao tôi nói lời Đức Phật nói là không đúng! Sau đây, sẽ nêu năm việc để hỏi, nhằm đả phá “Nghĩa không khác nhau” để chứng thành “Không đúng” ở trước:

  1. Y theo ruộng để đặt ra câu hỏi.
  2. Y theo người.
  3. Y theo thân.
  4. Y theo nhân.
  5. Y theo duyên.

Vì người nhận bố bố thí là ruộng, nên trước, y theo ruộng. Ruộng, là con người, nên kế là y theo người. Vì là con người, thì có tự thể, nên kế là, y theo thân. Thân thì phải có gốc, nên kế là y theo nhân. Vì thân là giả tạm, nhờ vả, nên kế là y theo “Duyên”.

Trong năm câu hỏi này, lẽ ra có ba trường hợp:

  1. Bày tỏ giáo nay khác với giáo xưa.
  2. Nói giáo nay khác với giáo xưa.
  3. Kết luận, phá nghĩa không khác nhau.

Tuy nhiên, trong văn nay có đủ, không đủ. Y theo thửa ruộng đầu, chỉ có hai trường hợp trước:

1. Chứng tỏ giáo nay khác với giáo xưa: Người nhận bố thí ở trước, phiền não chưa hết, đoạn đức không thành. Chưa thành tựu chủng trí, trí đức chưa đủ, do đó vẫn chưa có khả năng làm cho chúng sinh có đủ “Đàn”, nghĩa là phước của chúng sinh không vượt hơn.

2. Nói nay khác xưa: Người nhận bố thí ở sau, phiền não đã hết. Nói về đoạn đức đã hoàn thành. Đã thành chủng trí: nói trí, đức đã đủ, giúp cho chúng sinh đầy đủ, nói phước của chúng sinh vượt hơn. 3. Ứng với kết luận đả phá. Trong văn, lược qua không có.

Trong người thứ hai cũng nên có đủ ba câu hỏi. Văn chỉ có hai:

1. Nói nhận cúng ở trước, trực tiếp với chúng sinh này, để nói lên giáo nay khác với giáo xưa: Trước khi nhận thí thì sinh tử chưa hết, vẫn thuộc về sinh tử, nên gọi là “Chúng sinh”.

2. “Nhận bố thí sau v.v…” trở xuống, là nói giáo nay khác với giáo xưa. Như trong văn dưới nói trời có năm hạng:

a) Trời thế gian, trong luận Đại Trí gọi là “Trời giả hiệu”, là vua cõi người gọi là Thiên tử, hoặc gọi là Thiên vương.

b) Trời Sinh: Từ bốn Thiên vương, cho đến Phi tưởng.

c) Trời Tịnh: Từ Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi.

d) Trời Nghĩa: Từ Sơ địa trên đến địa Pháp Vân, vì các Bồ-tát đồng hiểu thấu nghĩa “Không”, nên gọi là Trời Nghĩa.

e) Trời Đệ nhất nghĩa: Phật, Như lai vì đã thấy tánh cùng cực, nên gọi là Nghĩa bậc nhất.

Đối với năm vị trời trên đây, Đức Phật là vị trời trên hết, gọi là trời trong đời.

Đoạn ba, thích ứng với kết phá, văn lược qua không có. Y theo câu hỏi về thân, có đủ ba:

1- Nói rõ giáo nay khác với giáo xưa: Trước là người nhận bố thí là thân tạp thực. Y theo “Duyên” nói về thân. Thân phiền não là y theo nhân mà nói về thân. Từ phiền não sinh, vì sinh phiền não, nên là thân hậu biên. Thân Vô thường, là y theo tướng để nói về thân. Hậu biên phân biệt với cùng tận của sinh tử ở trước, nên nói là hậu biên. Vô thường khác với hậu biên, vì động cơ thuyên chuyển chưa dứt, nên gọi là vô thường.

2- Nói giáo nay khác với giáo xưa: Người nhận bố thí sau không có thân phiền não, trái với phiền não ở trước. Kim cương biệt luận cho rằng, chẳng trái với phiền não trước, vì thân khó hư hoại, nên như Kim cương. Pháp thân trái với thân tạp thực ở trước. Vì pháp của các công đức nhóm góp thành thân Phật, nên gọi là pháp thân. Thường trái với vô thường, vô biên trái với biên.

Hỏi:

Thuần-đà hỏi để phá nghĩa không khác nhau, thành Phật là Vô thường. Nay, nói Như lai về sau khi nhận cúng dường thì pháp thân, thường thân và Vô Biên Thân đều bình đẳng.

Đã biết Phật là Thường, đâu cần phải hỏi nữa?

Giải thích:

Thuần-đà nói Phật là thường vì lẽ:

Đức Phật đã chứng được không lui sụt, nên gọi là Thường, chứ chẳng phải do im lặng, nên được đặt ra câu hỏi. Cũng có thể Thuần-đà đặt giả sử Phật là Thường để khác với giáo xưa nói vô thường. Giáo nay đã khác với giáo xưa, lại là vô thường. Ý câu hỏi là như vậy.

“Thế nào là v.v…” trở xuống là kết phá “Không khác nhau”.

3- Y theo văn trong câu hỏi về nhân, cũng có ba:

1. Nói lên giáo nay khác với giáo xưa: Người nhận cúng dường ở trước chưa có “đàn” v.v…, là nói về công hạnh chưa viên. Về nghĩa sáu độ, đã nói rộng như chương riêng. “Chỉ được nhục nhãn v.v…” trở xuống, là nói lên “giải” không có.

Vì sao phải đủ năm nhãn mới được gọi là “Giải”?”

Vì pháp nhãn, tuệ Phật trong năm nhãn là “Giải” của trí, do đó, nghĩa năm nhãn cũng như chương riêng. Nhục nhãn trong năm nhãn là mở đầu. Thiên nhãn là kế đó, tuệ nhãn đứng thứ ba, pháp nhãn đứng thứ tư, Phật nhãn đứng thứ năm. Nhục nhãn trong năm nhãn này vì có trước, nên nói rằng “Chỉ được”. Bốn nhãn còn lại, là do tu mà sinh.

“Lúc bấy giờ chưa được”: Y cứ ở pháp phàm của Thiên nhãn, trong chưa được, nay bỏ không nói, ba-nhãn còn lại là Thánh trí, nay ở đây sẽ nói.

Y theo ba nhãn này, vì từ dưới hướng lên trên, nên phải nói là chưa được tuệ nhãn, cho đến Phật nhãn. Nay, trong văn này, vì từ trên hướng xuống dưới, nên phải nói là chưa được Phật nhãn, cho đến tuệ nhãn.

Pháp vượt qua, gọi là “Cho đến”. Đây là nói theo Biệt giáo của Ba thừa. Y theo Bồ-tát thật thừa, cũng chia làm năm nhãn.

2. Nói giáo nay khác với giáo xưa. Sau khi người nhận bố thí (cúng dường), đã đủ “Đàn” v.v…, là nói công hành của họ đã viên, vì các độ này đã tu ở Bồ-tát. Vì thành tựu Phật, nên có Phật nhãn v.v…, chứng tỏ “Giải” của người đó đủ.

Y theo Thánh nhãn, vì từ trên hướng xuống dưới, nên nói rằng Đức Phật có đủ, cho đến tuệ nhãn. Về Thiện nhãn, nhục nhãn không nói đến.

3. “Thế nào v.v…” trở xuống, là kết phá “Không khác nhau”. Y theo “Duyên” câu hỏi, văn cũng có ba:

a) Nói người nhận cho ở trước, nuốt vào bụng, tiêu hóa v.v… đủ rõ giáo nay khác với giáo xưa.

b) “Sau khi nhận rồi v.v…” trở xuống, là nói giáo nay khác với giáo xưa.

c) Không có năm quả: không có thức ăn nào đã thành tựu kết quả của năm việc: Sắc lực, mạng sống lâu v.v…

4. “Thế nào là v.v… trở xuống là kết phá “Không khác nhau.”Sau đây, là Phật giải thích câu hỏi và hỏi không thứ lớp.

5. Trước y theo thân để giải thích thành “Không khác nhau”.

  1. Y theo nhân.
  2. Y theo người.
  3. Y theo ruộng.
  4. Y theo duyên.

Thân là thể của đức, nên trước y theo thân. Vì thân phải có gốc, nên kế tiếp là y theo nhân. Thân vì có khả năng thành người, nên kế là y theo người vì thân có khả năng thọ cúng, cho nên kế là y theo ruộng.

Vì thân có giả dối đối đãi, nên kế là căn cứ vào duyên.

Cứ so sánh năm y cứ này lẽ ra có ba:

  1. Nói giáo xưa đồng với giáo nay.
  2. Nói giáo xưa đồng với giáo nay.
  3. Kết thành không có khác nhau.

Nhưng “Có” và “Không” trong văn nay không bình đẳng. Trong y theo thân ở đầu chỉ có một câu trước, không có hai câu sau. Văn rõ ràng dễ hiểu.

Trong nhân thứ hai, lẽ ra cũng đủ ba, mà trong văn chỉ có y cứ thứ nhất và thứ ba, lược qua không có y cứ thứ hai.

Y theo đoạn đầu, nói về câu hỏi không hết. Không hết là sao? Nhắm vào câu hỏi ở trước nói: “Người nhận bố thí trước, sáu độ không đủ, năm nhãn không đủ. Nay, chỉ nói nhãn, còn sáu độ thì không nói.

Y theo năm nhãn, chỉ nói về Phật nhãn, bốn nhãn còn lại, vì không giải thích, nên nói là “Không hết”.

Một nghĩa đã suốt qua, các nghĩa khác so sánh dễ hiểu, nên không giải thích đủ.

Làm sao biết được giải thích nghiêng về Phật nhãn, vì soi thấy Phật tánh là Phật nhãn? Lời nói đầu trong văn là nói: “Chưa thấy Phật tánh, gọi là thân phiền não, thân ăn tạp v.v… Y theo làm rõ “Thật” ở trước, cũng được gọi là y cứ quả để làm rõ nhân. Làm rõ nhân là sao? Chưa thấy Phật tánh, gọi là thân phiền não. Vì thân Vô thường, hậu biên của thức ăn tạp, nên hướng về trước để nói là từ vô lượng kiếp đến nay, không có thân ăn tạp, thân phiền não v.v…, là nói biết được từ vô lượng kiếp đến nay, ta đã thấy Phật tánh. Vì đã thấy tánh, nên có Phật nhãn.

“Bấy giờ, Bồ-tát nhận thức uống ăn v.v…” trở xuống, là y cứ chân thân để hiển bày ứng thân. Làm rạng rỡ là thế nào? Thật ra là Như lai từ vô lượng kiếp đến nay, đã là thân thường, đã thấy Phật tánh, mà nói “Lúc bấy giờ, thọ thức uống ăn xong, nhập định Kim cương, mới thấy Phật tánh, được Bồ-đề”, nên biết là ứng thân.

“Cho nên, ta v.v…” trở xuống là kết thành không khác nhau, vì giáo nay, xưa đồng thấy tánh, nên hai quả không có khác nhau.” Trong người thứ ba, văn có đủ ba:

1. Nói “Lúc bấy giờ, Đức Phật phá hoại bốn ma”, chứng tỏ xưa đồng với nay. Ấm phiền não chết và ma trời, cộng chung là bốn. Phá ma phiền não, lìa nhân sanh tử, phá hoại ma trời lìa “Duyên” sinh tử, phá ấm, phá chết, xa lìa quả sinh tử. Vì phá bốn ma này, nên chẳng phải chúng sinh.

2. “Nay nhập v.v…” trở xuống, là nói giáo nay đồng với giáo xưa.

3. “Cho nên v.v…” trở xuống là kết thành không khác nhau.

Trong ruộng, văn cũng có ba:

a) Đầu tiên là nói “Lúc bấy giờ”, dù không bày tỏ giáo xưa đồng với giáo nay, nhưng giải thích không hết, hướng về trước để hỏi rằng: “Người nhận bố thí ở trước, vì phiền não của họ chưa hết, nên chưa thành chủng trí, chưa có khả năng làm cho người đầy đủ đàn, độ. Nhưng nay, giải thích trực tiếp người có trí thì sáng rỡ, người khác đều không nói.

Đây là nói Như lai trước khi nhận cúng dường, dù không nói rộng mười hai bộ kinh, nhưng trước đã thấu suốt. Cho nên trước, ta đã có đủ Nhất thiết trí. Về mười hai bộ kinh, sau đây sẽ giải thích cụ thể:

b) “Nay nhập v.v…” trở xuống, là nói giáo nay đồng với giáo xưa.

c). “Cho nên v.v…” trở xuống là kết thành không khác nhau.

Đoạn năm, trong “duyên” lẽ ra cũng có ba:

  1. Nói lên giáo xưa đồng với giáo nay.
  2. Nói giáo nay đồng với giáo xưa.
  3. Kết thành không khác nhau.

Nay, có hai câu trước, lược qua không có câu thứ ba. Trong câu đầu, Đức Như lai đã không nhận thức uống, ăn trong vô lượng kiếp, chính là làm rạng rỡ cho cái “Thật” kia.

“Vì Thanh văn v.v…” trở xuống là bỏ “Quyền”, bày “Thật”. Trước nêu “Quyền” xưa, nói là Đức Thế Tôn đã nhận sữa mà Nan-đà và Nanđà-bà-la dâng cúng: Thuở xưa, có hai cô gái, cô gái: lớn tên là Nan-đà, cô gái nhỏ tên Nan-đà-bà-la, cùng chăn một ngàn con bò. Trong một giờ, hai nàng đã vắt lấy sữa của một ngàn con bò, để cho một trăm người uống. Lại vắt sữa một trăm con bò cho mười người uống. Lại, vắt lấy sữa mười con bò để cho một người uống. Vắt lấy sữa một con bò, đem nấu thành cháo. Đun sôi cháo giữa trên hư không cách mặt đất bảy thước. Cô gái thấy hiện tượng kỳ lạ, không dám tự ăn, mà dâng lên vị thọ thần. Đức Phật ở dưới gốc cây, hai cô gái không biết. Khi đến đây mới gặp Phật, liền vội vàng dâng cúng.” Vì thế, nay nêu ra ở đây.

Trên đây là nêu “Quyền”, tức là nói về thân ứng cúng. “Ta thật sự không ăn”, là bỏ “Quyền” bày “Thật”.

“Nay, ta vì v.v…” trở xuống, là đoạn hai, nói giáo nay đồng với giáo xưa. Ta đã vì chúng hội này mà nhận phần dâng cúng của ông, lẽ ra đồng với xưa. “Thật ra ta cũng không ăn”, tức là chân đồng với xưa.

Hỏi: Ứng thân là một bề ăn, cũng có khi không ăn. Các thứ hóa thân Phật chẳng phải là hoàn toàn ăn. Như kinh Chuyển Nữ Thân chép: “Ứng thân Phật, như Toàn đoạn Kim cương, không có sinh tạng, Thục tạng, không có đại tiện, tiểu tiện, không có hơi thở ra vào. Thức ăn đã thọ nhận, bố thí cho các đại hội trong mười phương. Vì tự không có cái ăn, cho nên biết Ứng thân cũng có khi ăn, có khi không ăn. Nay, y cứ một hóa thân, nên nói là ăn.

Dưới đây là đoạn hai, nhân Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại. Nói Ứng thân Phật nhập diệt, thật ra không dời đổi. Vì vô vi nên thường Thuầnđà thỉnh trước, Như lai đáp sau. Trong phần thỉnh có hai:

  1. Chúng đề cử Thuần-đà làm chủ thỉnh.
  2. “Thuần-đà vui mừng v.v…” trở xuống, là ví chúng chính thức thỉnh.

Đầu tiên trong phần trước, là nói chung chúng vui mừng.

“Lúc bấy giờ, đại chúng đề cử người vui mừng nghe Đức Phật vì khắp cả đại hội nhận cúng”, nói lý do “Vui mừng phấn khởi” chính là nói về vui mừng. Vui mừng có hai ý:

a) Thuần-đà dâng cúng, khắp vì đại chúng. Nay, Như lai nhận cúng dường, thì chúng sẽ có phần, cho nên vui mừng. Vì Phật thành đạo, sẽ độ thoát ta.

b) Thuần-đà đã vì chúng dâng lên cúng dường. Như lai vì chúng nhận, vì chúng thỉnh ở lại. Phật cũng nên lưu lại. Hy vọng Phật sẽ trụ lại, vì cho nên vui mừng.

“Cả hai đồng thanh v.v…” trở xuống là bày tỏ riêng về ý vui mừng. Trong phần riêng có hai:

1. Cuối đoạn văn xuôi, nói về ý vui mừng ban đầu. Sau đây, có bốn bài kệ nói về ý vui mừng như sau:

Trong văn xuôi trước,

Trước khen, sau quy.

Lành thay! Là khen

Nam-mô, quy mạng

Vì Thuần-đà thành

Hạnh thí đáng quý

Nếu chúng đồng khen

Hạnh thành đáng phục

Nên chúng đồng quy.

Trong phần khen, đầu tiên nói:

“Lành thay! Ít có”

Là lời khen chung

Nay ông trở xuống

Là lời khen riêng.

Trong riêng có bốn:

Theo đức nghiệm chữ

Khen danh không dối

Hai, khen danh lợi

Ba, khen nguyện đủ

Bốn, khen năm câu

Ở trong đoạn đầu

Có riêng bốn câu:

Một khen danh thật

Hai, Thuần-đà xuống

Giải thích danh nghĩa

Ba, ông lập xuống

Bày thật đức kia

Như trong Địa kinh

Mười Ba-la-mật

Có nghĩa lợi lớn

Đồng gọi nghĩa đại

Thuần-đà dâng Phật

Thành tựu đàn, độ.

Gọi lập nghĩa lớn

Nên gọi Thuần-đà.

Hỏi: Nghĩa Đại thừa do Thuần-đà lập ra. Thời nay mới lập, danh tự đã có trước. Nay, sao lại nói rằng, từ nghĩa lập danh, gọi là Thuầnđà?

Giải thích:

Tất cả danh tự của các bậc Hiền, Thánh. Dù khi cha mẹ sinh mới lập ra, nhưng “minh” và đức đã hội ngộ. Như Duy-ma-cật hiệu là Vô cấu xưng. Như Tu-bồ-đề được gọi là Không sinh, là như thế v.v…

Sau đây là đoạn hai, khen được danh lợi. Do Phật đã nhận cúng dường, tiếng tăm tốt đẹp vang xa, gọi là danh đại. Do được danh, nên chúng đều quy về, trở thành công hạnh nhiếp hóa người, thành ra nói là được lợi lớn.

Sau đây là đoạn ba, Phật ngợi khen nguyện của ông đã mãn:

Ở đời quá khứ, thời Phật Ca-diếp, Thuần-đà đã từng khởi xướng

việc cúng Phật, nhiếp hóa các nguyện công đức. Nguyện đó đến nay đã được viên mãn, danh, đức, nguyện đều được viên mãn.

Lại, ở hiện tại, ông đang phát tâm cúng dường Phật, cũng là Thuần-đà gồm thâu nguyện công đức. Nguyện này đã được viên mãn: là danh, đức, nguyện viên mãn.

Sau đây là đoạn thứ tư, khen thành tựu năm việc khó. Lạ thay Thuần-đà, là nêu chung lời khen ngợi, dưới đây sẽ giải thích riêng để làm rõ:

Năm việc khó là:

  1. Thân người khó được.
  2. Đức Phật ở đời rất khó gặp.
  3. Lòng tin khó sinh.
  4. Kinh pháp khó được nghe.
  5. Dâng cúng sau khó thành.

Được sinh trong loài người là điều khó đầu tiên. Dưới đây, sẽ nêu bốn điều khó còn lại. Lại, được việc khó là được lợi ích vô thượng. Nêu chung là trên thân người lại có bốn việc khó, nên nói: “Lại được” thân người, lợi thế gian. Bốn việc khó sau là danh xuất thế, lợi ích vô thượng. Sau đây là nêu riêng: Trong đó, trước nói về Phật ra đời, là khó như hoa Ưu-đàm rất ít có ở thế gian. Dụ thuyết để làm sáng tỏ việc khó. Trung quốc gọi là hoa điềm lành linh ứng. Khi Luân vương ra đời, mới có hoa này, gọi là việc ít có ở thế gian. Đức Phật xuất hiện ở thế gian là khó, hợp dụ để làm sáng tỏ việc khó. Sau đây, là y theo Đức Phật này để nói về bốn việc khó sau, sự khác nhau có thể biết là dường nào. Bởi vì sự khéo này đều đối với cái khó ở cạnh Phật ra đời mà thành tựu, cho nên rất khó.

Trên đây, là khen xong, dưới đây là trong quy mạng, đầu tiên là quy hạnh cúng Phật của Thuần-đà. “Dù là người nhận…” trở xuống, là quy mạng tâm cúng Phật của Thuần-đà. Vì công hạnh thường hóa độ chúng sinh, nên trở vế với công hạnh của ông. Vì tâm ông vì chúng sinh, nên quy tâm ông.

Trong hạnh quy y ở trước, đầu tiên là pháp, kế là thí dụ, sau là hợp. Sau đây là phần kết thúc về pháp, đầu tiên nói “Nam-mô Thuầnđà” là lời quy mạng. Nam-mô là tiếng Phạm, Hán dịch là quy mạng, thành tâm quy mạng, lời nói lặp lại để làm sáng tỏ việc quy mạng. Ông đã có đàn, vượt ngoài chỗ quy y.

Trong thí dụ như mặt trăng, cho đến không bị mây, sương mù che khuất, dụ cho chỗ quy y ở trước. Trăng thu chính là dụ cho thân Thuần-đà. Đêm rằm, dụ cho thời gian Phật nhập diệt. Trong sáng tròn đầy không bị sương mù che khuất, dụ cho thành tựu hạnh đàn (bố thí). Tất cả chúng sinh đều chiêm ngưỡng, dụ cho năng quy y ở trên.

Trong việc hợp, đầu tiên là nói: “Ông cũng như thế”, là hợp với dụ trên, như mặt trăng trong sáng, tròn đầy không bị sương mù che khuất.

“Mà vì tôi v.v…” trở xuống, là hợp với tất cả chúng sinh, đều chiêm ngưỡng, dưới đây là nhắc lại kết. Trước là nêu pháp ở trước, Đức Phật nhận ông cúng dường, giúp ông có đủ đàn, là nhắc lại chỗ quy y ở trên. “Nam-mô Thuần-đà, là nhắc lại năng quy y ở trên. “Cho nên v.v…” trở xuống là dụ đồng với hợp, là “Ông có đủ đàn”, nên nói như mặt trăng. Vì chúng đều quy y ông, nên nói “Tất cả đều chiêm ngưỡng”. Sau đây, trong tâm cúng Phật của Thuần-đà, Nam-mô Thuầnđà là lời quy mạng.

“Dù người nhận v.v…” trở xuống, là nêu ra chỗ quy y, dù thân, tâm người nhận như tâm Phật, chính là nêu ra chỗ quy y. Thân kém, tâm vượt hơn, nêu thua kém, gồm vượt hơn, cho nên nói “Dù”. Tâm Phật vì chúng sinh, Thuần-đà cũng vậy. Cho nên nói: “Như ông là chân Phật tử”. Là khen người để chứng tỏ tâm họ, vì tâm như Phật, nên cuối cùng có khả năng kế thừa, gọi là chân Phật tử. Như La-hầu-la, là so sánh để làm sáng tỏ cho tâm của Thuần-đà chính là đệ tử của pháp thân Phật, còn La-hầu-la là con ruột của Phật. Nghĩa con không nhau, cho nên nói “Như”.

Sau đây là đoạn hai, nói về ý vui mừng.

Suy tôn làm chủ thỉnh, một bài kệ đầu trong kệ thỉnh, là đại chúng đồng suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh. Một bài kệ thứ hai, chính là khuyên nên thỉnh Phật. Một bài kệ thứ ba nói về việc thỉnh, nhằm thỉnh Phật trụ lại đời, thân, miệng làm lại lợi ích cho chúng sinh. Bài kệ thứ tư, là kết khuyên hãy thỉnh.

Nửa bài kệ trên trong phần đầu, là khen cử chỉ tôn trọng người của đại chúng, vì người tôn quý có khả năng đi đầu dẫn đường, vì chúng thưa hỏi, cho nên khen ngợi Thuần-đà.

Giải thích có hai nghĩa:

1/ Y theo nội tâm của Thuần-đà để giải thích: Tâm Thuần-đà vì chúng sinh như Phật. Cho nên dù Thuần-đà lại sinh ở cõi người, nhưng là người đã vượt lên trên tầng trời thứ sáu.

2/ Y theo đức thỉnh của Thuần-đà để giải thích: Khi Phật mới thành đạo, Phạm vương Sơ thiền thỉnh Phật nói pháp. Nay, Thuần-đà thỉnh, Phật cũng đồng với Phạm vương. Cho nên, dù rằng sinh trong loài người, nhưng đã vượt lên tầng trời Tha Hóa thứ sáu. Nay, ta và tất cả cố ý cúi đầu suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh.

Nửa bài kệ trên trong bài kệ thứ hai là nêu việc Đức Phật nhập diệt. Nửa bài kệ dưới, chính là khuyên thỉnh Phật trụ lại. Nửa bài kệ trên trong bài kệ thứ ba, là thỉnh Phật trụ lại bằng thân nghiệp để làm lợi ích cho chúng sinh. Giảng nói văn nửa bài kệ dưới là thỉnh Phật trụ lại bằng khẩu nghiệp để lợi ích chúng sanh. Cam lộ vô thượng là pháp Đại thừa, vì được trí của Phật khen ngợi, nguyện trụ lại giảng nói.

Nửa trên trong bài kệ thứ tư là nói Thuần-đà không thỉnh Phật trụ lại sẽ có tổn giảm, có hai nghĩa:

1/ Hiện tại buồn khổ, là thân mạng không bảo toàn.

2/ Trôi lăn trong sinh tử, tuệ mạng không bảo toàn. Nửa bài kệ dưới, là kết khuyên để thỉnh. Kệ này phải ghi nhận.

“Thuần-đà v.v…” trở xuống là thuật lại việc này để thỉnh.

Trên đây, đại chúng đồng suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh. Sau đây là đoạn hai, Thuần-đà sẽ vì chúng thỉnh Phật trụ lại thế gian, trong đó, đầu tiên là nói về tâm vui mừng của Thuần-đà, vì sao Thuần-đà vui mừng? Lại có hai ý:

1/ Mong Phật nhận cúng, vì thành tựu đàn, cho nên vui mừng.

2/ So sánh trước sau, mong thỉnh Phật trụ lại, cho nên sinh vui mừng.

Đầu tiên trong văn là pháp, kế là dùng thí dụ để làm rõ.

Cha mẹ đã chết, bỗng nhiên sống lại, giải thích có hai nghĩa:

1/ Y theo hạnh đàn để giải thích nghĩa sống lại: Gốc lành cúng Phật thật đáng tôn trọng, như cha mẹ thế gian. Ở trước Phật, không nhận trời, người cúng dường gọi là chết mất. Nay, được nhận phần mà Thuần-đà dâng cúng, giống như sống lại.

2/ Y theo Phật để giải thích: Đức Phật như cha mẹ, trước tuyên bố nhập diệt, gọi là chết mất. Nay, Thuần-đà y cứ trước để nghiệm sau, với hy vọng thỉnh Phật trụ lại. “Nói là sống lại v.v… trở xuống, là hợp rất dễ hiểu. Kế là dùng thân lễ kính. Sau đây, dùng miệng thỉnh. Kệ nói: “Khéo tốt”. Trong chữ “Ít” có thể gồm thâu nghĩa “Nhiều” nên dùng kệ thỉnh, trong đó kệ có mười tám hàng rưỡi, được chia làm hai: mười bài kệ rưỡi đầu là chúc mừng chứng đắc, ở trước, tám bài kệ dưới là khái thỉnh ở sau, đối với đại chúng ở trước là khen thành tựu năm đều khó cho nên vui mừng ở trước đối với đại chúng ở trên, dùng bốn bài kệ để suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh, cho nên thỉnh sau. Hai việc này là nói rõ hai ý trong sự vui mừng.

Hỏi: Nay, Thuần-đà đã vì chúng thỉnh Phật trụ lại, thỉnh trực tiếp là đủ rồi, cần gì phải chúc mừng trước?

Đáp: Vì muốn cho Như lai thuật lại sau đồng với trước, cho nên phải chúc mừng trước, qua đó bài kệ đầu là chúc mừng được thân người. Vui thay! Là được lợi ích chúc mừng. Sau đây, là phát ra sự chúc mừng:

Khéo được thân người, là nói lên cái mình được. Vì được thân tu điều lành, nên gọi là “Khéo được”. Dứt trừ tham v.v…, lấy xa lìa si mê, lìa hẳn ba đường ác, là nói lìa quả khổ.

Theo kinh loại sáu quyển, thì đây là lìa khổ địa ngục. Nay, vì thân người vượt hơn ba đường, nên nói lìa hẳn ba đường ác.

Một bài kệ thứ hai là mừng được gặp Phật. Vui thay là lời chúc mừng. Sau đây là nói đối tượng mừng: gặp được đống vàng ròng là gặp đấng Điều Ngự Sư, nói cái mình được, trước là dụ sau là pháp, không sợ đọa vào súc sinh, nói lên cái mình xa lìa. Vì gặp Phật thì dứt nghi, nên xa lìa súc sinh. Trước được thân người, lẽ ra lìa địa ngục, giấu riêng bày chung, sau là gặp Phật… lẽ ra cũng đều lìa, là giấu chung bày riêng hai bên của văn.

Một bài kệ rưỡi kế đó mừng vì được sinh niềm tin và nghe pháp. Trước, nói lên điều mình đã được.

Đức Phật như hoa Ưu-đàm, là nói Đức Phật ít có. Sau đây, đối với Đức Phật này nói chúng kia sinh niềm tin. Nghe pháp là khó, sinh niềm tin cũng khó, mừng vì được sinh niềm tin. Gặp Phật rồi, gieo trồng gốc lành, mừng vì được nghe pháp. Sau đây, là nói về sự xa lìa.

Diệt hẳn ngạ quỷ, sinh niềm tin được lìa. Vì tin ưa cúng dường, nên lìa ngạ quỷ. Cũng lại làm cho giảm bớt hạt giống Tu-la. Nghĩa là nghe pháp được xa lìa, nghe pháp được dứt bỏ nghi ngờ, nên lìa Tu-la. Sau đây, có bảy bài kệ nói lên sự vui mừng vì đã hoàn thành đàn độ, trong đó có hai:

Năm bài kệ đầu, là nêu điều vui mừng kia. Hai bài kệ sau, nói lên sự vui mừng của mình:

Trong năm kệ trước

Trước nói sở đắc

Độ khắp mọi người

Nói lên chỗ lìa

Trong sở đắc trước

Hạt cải đầu kim

Phật ra đời khó

Khó gặp được Phật,

Nói Phật khó gặp

Nói ở chỗ Phật

Thành đàn rất khó,

Trước nêu việc khó

Sau hiển bày Phật

Ta đã có đàn

Nói hướng về trước

Khó gặp chỗ Phật

Thành đàn đáng mừng

Dưới nói chỗ lìa

Độ người, trời chết

Nói chung chỗ lìa

Từ Phật không nhiễm

Nói riêng chỗ lìa

Trong đó có hai:

Một, dùng hạnh đàn

Trên cầu quả Phật,

Nên được hóa độ,

Trời người sanh tử

Hai, mọi phiền não

Dẹp tan trở xuống.

Không dùng hạnh đàn

Cầu báo người, trời,

Cho nên được độ,

Người, trời, sanh tử

Trong trước nói,

Phật thoát sanh tử

Sinh ra đời khó,

Dùng hạnh đàn mình

Hồi hướng cầu cho

Nói Phật ra đời

Phật không nhiễm đời

Lìa duyên sinh tử

“Duyên” là phiền não

Khéo dứt giống lậu

Lìa nhân sinh tử

Nhân, là hành nghiệp

Phi tưởng cùng tận

Của ba cõi kia

Gọi là Hữu đảnh

Phật dứt giống đó

Dưới tức quên lời

Qua dòng sinh tử

Lìa quả sinh tử”

Sau đây, trong phần dùng đàn độ để nguyện cầu, trước là nói sinh ra đời làm người rất khó. Nêu điều này đã chứng tỏ rằng, trong cái khó được thân mà khởi hạnh đàn, chỉ nên cầu Phật, không nên cầu điều gì khác, kia nói có gì là khó. Như văn dưới đây nói: “Bỏ thân người rồi lại sinh làm người, ít như đất dính trong móng tay.

“Gặp Phật ra đời v.v…” trở xuống là nói rất khó gặp Phật. Trước pháp sau dụ, nêu thí dụ này để chứng tỏ rằng, khó gặp Phật mà thành tựu hạnh đàn, thì chỉ nên cầu Phật, không nên cầu ai khác: “Nay, tôi dâng cúng thực phẩm, nguyện báo Vô thượng. Chính là nguyện cầu Phật, cầu cho trước không nhiễm, cho đến lội hẳn qua dòng sinh tử. Đức Phật được gọi là quả báo Vô thượng. Vì cầu mong được quả báo này, nên được độ người, trời v.v… sinh tử Trở xuống là không cầu quả người, trời tất cả kiết sử phiền não đều phá bỏ không còn bền chắc, phá nhân trời người, thực hành bố thí để cầu quả Phật, cho nên có khả năng phá bỏ. Ta ở đây trở xuống là lìa quả trời, người. Nay tôi ở đây không cầu người trời, chưa được không cầu, nghĩa là nay, đối với việc cúng Phật mày đã thành tựu chỗ hạnh đàn, không mong cầu được thân người, trời ở vị lai. Dù cho được, tâm cũng không ưa thích, đã được cũng không nhận.

Trên đây, năm bài kệ đã vui mừng đối tượng mừng vui của mình. Sau đây, sẽ nói về vui mừng, trong đó, đầu tiên là pháp. Kế là dụ, sau hợp, dưới kết rất dễ hiểu.

Trên đây là vui mừng ở trước. Dưới đây, sẽ thỉnh sau. Thuật lại bốn bài kệ đã khuyên đại chúng ở trước, tức là thỉnh. Một bài kệ đầu trong tám bài kệ dưới, là thuật lại ý bài kệ thứ nhất của đại chúng ở trước, nói đại chúng suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh rồi. Kế có hai bài kệ thuật lại ý bài kệ thứ hai của đại chúng ở trước, gọi chính là thỉnh.

Kế là, có ba bài kệ nói lại ý bài kệ thứ ba của đại chúng, bày tỏ về mục đích thỉnh là vì thỉnh Phật trụ lại đời, thân, miệng làm lợi ích cho chúng sinh, đây cũng nói về bậc Thánh ở lại sẽ có ích. Dưới có hai bài kệ thuật lại ý bài kệ thứ tư của đại chúng, nói đại chúng có khổ, đây cũng chính là chứng tỏ cách Thánh đã xa, sẽ có tổn hại. Y theo bài kệ đầu: “Ta được hiện báo, là chỗ hơn hết”, thuật lại trong bài kệ trên: “Dù ông sinh trong loài người, đã vượt trên sáu tầng trời cõi Dục.” Do

Phật nhận cúng, được vì đại chúng, làm Thượng thủ pháp nhiếp, gọi là được chỗ trên hết của hiện báo.

“Đế-thích, Phạm Thiên v.v… đều đến cúng dường ta”, là thuật lại câu: “Ta và tất cả, nay cúi đầu thỉnh” trong bài kệ trên.

Trong hai bài kệ kế là, đầu tiên là đến tiếng lớn lên rằng: “Không có đấng Điều ngự”, là nói “Tôn quý trong loài người” trong bài kệ trên.

“Nay, sẽ Niết-bàn”, là nói về khổ thương xót của chúng, tất cả thế gian đều sinh khổ não, vì biết Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn. Nói về nỗi khổ tâm của chúng, nói lớn lên rằng: “Đời không có đấng Điều ngự!” là nói chúng buộc miệng oán trách: “Phật nhập Niết-bàn, gọi là không có Điều ngự, chẳng lẽ Phật ruồng bỏ chúng sinh, lẽ ra nên xem như con.”

Thuật lại trong bài kệ trên: “Ông nên thương xót tôi, hãy mau chóng thỉnh Phật, vì chúng chính thức thỉnh.”

Kế là “Như lai ở trong Tăng, thuật lại trong kệ trên, trụ lâu lại thế gian, lợi ích vô lượng chúng”, là nói về lợi ích trụ thân. Tăng vẫn là vô lượng chúng ở trước.

Giảng nói pháp vô thượng”, là thuật lại: “Nói người trí đã khen, cam lộ vô thượng” trong bài kệ trước là nói lợi ích trụ ở miệng. Như ngồi trong chỗ yên định của núi Tu-di, biển cả, để nói rõ lợi ích ở trong tăng của Như lai ở trước. Vật báu của Tu-di hình thành, ánh sáng phát ra biển cả. Các Đức của Phật thành tựu, phát sáng soi tỏ đại chúng.

“Trí Phật có công năng v.v… trở xuống, là chứng minh rõ về lợi ích của pháp vô thượng đã giảng nói ở trước. Trí Phật có năng lực cắt đứt vô minh như ngã v.v…, diệt trừ địa vô minh, như hư không nổi lên áng mây trong mát, dụ để làm rõ. Đức Phật như hư không, nói là như nổi lên áng mây, do dứt vô minh, bốn trụ chẳng sinh, giống như mặt trời mọc, phá tan mây đen, ánh sáng soi khắp, dụ để làm rõ. Dứt trừ bốn trụ, do diệt vô minh, nên như mặt trời xuất hiện. Phá tan mây che, ánh sáng soi chiếu, đây chính là gốc, ngọn hiển bày lẫn nhau.

Trong hai bài kệ dưới là kệ đầu nói lại việc trong kệ thứ tư ở trên: “Nếu ông không thỉnh, mạng ta không toàn.” “Các chúng sinh này khóc than đến sưng cả mặt”, nói lên nỗi khổ thương xót, thân mạng không an toàn, “Đều bị nước khổ sinh tử nhận chìm”, là nói đã chìm trong sinh tử, thì tuệ mạng không bảo toàn.

Bài kệ sau nói lại ở trên: “Cho nên, phải thấy vì chúng mà Thuầnđà thưa thỉnh Đấng Điều Ngự Sư. “Vì cho nên”, nghĩa vì chúng khóc than, nên phải nổi trôi trong dòng sinh tử.

“Nên làm cho niềm tin thêm lớn”: Đối với sự khóc than ở trước, để thỉnh Phật trụ lại đời. Chúng cho rằng, Đức Phật diệt độ cho nên khóc than, kể lể: “Phật nên trụ lâu để làm cho niềm tin thường của họ được kéo dài. “Vì dứt sinh tử”, nghĩa là đối với nước khổ sinh tử ở trước, chúng đã bị trôi nổi, xin Đức Phật dứt trừ cho.

“Trụ lâu trên thế gian” là nói chung để kết thỉnh. Sau đây, là Phật đáp:

Văn lại có hai:

  1. Thuật lại những sự vui mừng ở trước của chúng.
  2. “Chúng không nên thỉnh v.v… trở xuống, là trái với thỉnh sau.”

Trong phần trước, trước là nói lại năm việc khó đã thành. “Nay ông đã v.v… trở xuống, là nói lại lời khuyên khiến chúng vui mừng.”

Trong phần trước, đầu tiên là nói: “Đúng thế, đúng thế! Như lời ông nói”, là thuật chung lời Thuần-đà nói.

“Phật ra đời v.v…” trở xuống là thuật riêng lời Thuần-đà nói, là có năm việc khó ở trên. Nay, thuật lại ba. Thân người nghe pháp, lược qua không nêu, trong đó trước nói về Như lai khó xuất hiện. Sau đây sẽ y theo Đức Phật này để nói về sự khó được gặp Phật, phát sinh niềm tin v.v…, dưới là khuyên chúng hãy vui mừng, trong đó, đầu tiên Phật nói: “Chớ nên quá sầu khổ, khuyên tâm sầu khổ hãy nên hăng hái v.v…”, là Phật bảo đại chúng hãy sinh tâm vui mừng, vì được gặp Như lai, cúng dường v.v… sau cùng là việc khó sau nêu trên thành vui mừng ở trước.

Sau đây là trái với thỉnh Phật trụ lại, văn chia làm hai:

1/ Nói về hóa thân của Như lai, tất nhiên phải nhập diệt, chúng không nên thỉnh Phật trụ lại thế gian.

2/ Từ “Lìa dục, khéo suy nghĩ v.v…” trở xuống là nói về chân thường tồn tại, không nên thỉnh Phật trụ lại. Trước mở bày Ứng thân, sau mở bày chân thân.

Trong phần trước có hai:

1/ Chính là trái với sự thỉnh Phật trụ lại, không nên thỉnh Phật trụ lâu trên thế gian.

2/ “Nay ông xem v.v…” trở xuống là nói hóa thân phải nhập diệt, trở thành không ứng thân ở trước, trong đó trước là nói Ứng thân phải nhập diệt, nói lên thỉnh không ứng, chính vì Thuần-đà mà Phật nói kệ. Văn của chín bài kệ rưỡi ở dưới, là nói có người không ưa thích, nên trở thành thỉnh không ứng.

Trong phần trước, đầu tiên, Phật nói: “Ông quán cảnh Phật đều vô thường”, là nói ứng với sự vô thường của cảnh giới. Giới hạn của ứng thân được gọi là cảnh giới Phật. Vì tùy theo hóa thân thị hiện nhập diệt, nên nói là vô thường. Sự kiện này mới là Như lai được đại Niết-bàn, không bỏ thường và vô thường của thế gian.

“Tánh tướng các hành pháp cũng giống như vậy”, nghĩa là lấy Thánh so với phàm, các pháp năm ấm thường dời đổi, gọi là “Hành”. Vì đồng với Phật vô thường nói là “Như vậy”. Chánh ứng, trước nói về các hành pháp vô thường, sau là so sánh với Phật. Nay, vì sao ở đây lại nói là “Trước nói cảnh giới của Chư Phật vô thường, sau so sánh với các hành?”

Giải thích: Vì lấy mặt trái của nghĩa khác nhau: Nếu muốn biết Đức Phật là hữu vi, vô thường, thì nêu “hành” để so sánh. Nếu muốn cho người biết “hành” là vô thường, thì hãy nêu Phật để so sánh. Tuy nhiên, ý của hóa thân nay, làm cho chúng sinh do Đức Phật Vô thường, mà biết được “hành” của hữu vi là vô thường đáng nhàm chán. Cho nên trước nêu Phật, sau so sánh với các hành.

Sau đây là đoạn hai, nói có người không ưa thích, nên thành thỉnh mà không ứng. Vì Thuần-đà nói: “Nhà dịch Kinh nêu chung, sau đây, chính là nói rõ, trong đó, gồm có văn của chín bài kệ rưỡi. Chín bài kệ trước, nói rộng về hữu vi có nhiều lỗi lầm. Nửa bài kệ sau cuối là kết thúc điều mình không ưa thích.

Trong chín bài kệ trước, là nói pháp hữu vị có năm lỗi vô thường. Ba bài kệ rưỡi đầu, nói về vô thường của pháp hữu vi kia. Một bài kệ kế là nói về khổ. Nửa bài kệ kế là nói về “không”. Hai bài kệ rưỡi tiếp theo là, nói về “vô ngã” của pháp hữu vi. Một bài kệ rưỡi dưới, là nói về sự “Bất tịnh” của pháp hữu vi.

“Không” và “Vô ngã” có gì khác nhau không?

“Không” là “Pháp không”, còn “Vô ngã” là chúng sinh chẳng có “Ngã”. Trong phần đầu, giả định y cứ ở sinh già, bệnh, chết để nói về vô thường, bài kệ đầu nói pháp sanh ấy vô thường tất cả pháp sinh của thế gian đều trở về với cái chết là nói vô thường rộng khắp. Sự sống lâu dù vô lượng, nhưng rồi cũng cùng tận, là nói vô thường quyết định, vì sinh vô thường, nên đều sẽ phải chết.

Kế là, có ba câu nói về già vô thường, hễ có hưng thịnh, thì đều phải có suy đồi, có hội hợp, thì phải có ly tan. Thông thường, nêu việc đời để so sánh với thân phải già, tuổi trẻ không dừng, chính là nói về thể của già. Một câu “Sắc thịnh vượng bị bệnh xâm chiếm, là nói về bệnh.

Một bài kệ rưỡi ở dưới là nói về chết vô thường. Mạng bị chết

nuốt, ngay nơi tướng để nói về cái chết. “Chẳng có pháp nào là thường v.v…” trở xuống là nêu pháp giống nhau để làm rõ cái chết. “Không có pháp nào thường, là nêu pháp để so sánh: Với thế lực tự tại của các vua là vô song (không hai), nhưng tất cả đều không tránh khỏi sự dời đổi, là nêu con người để so sánh. Về tuổi thọ cũng giống như vậy, ước định so sánh để làm rõ cái chết.

Y theo phần nói về khổ, đầu tiên, có nửa bài kệ, nói về nỗi khổ của thô kia. Nói các khổ, nghĩa là nỗi khổ nặng nề kia bên trong có những nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết v.v…, bên ngoài, có các khổ gây ép ngặt v.v…, gọi là “Các khổ”. Không có bờ mé, không có thôi dứt là khổ rất sâu. Quá khứ không có bờ mé, vị lai không có thôi dứt.

Nửa bài kệ dưới là nói về nỗi khổ nhỏ nhiệm của sinh, diệt kia. Ba cõi vô thường, nói về lý do khổ. Các “Hữu” không có vui, chính là nói về khổ ấy. Vì ba cõi đều vô thường, nên trong “Ba hữu” đều không có vui.

Y theo phần nói về “Không”, tánh tướng của “Hữu”, “đạo”, tất cả đều không v.v… Nghĩa là nhân duyên của ba hữu, sáu đường là sự nhóm họp không thật, tìm kiếm tánh tướng của chúng tất cả đều là không. trong giả không có, tánh gọi là tánh không. duyên giả cũng không gọi là tướng không.

Trong phần nói về vô ngã, hai bài kệ đầu chính là nói về vô ngã. Sau, có nửa bài kệ, y theo trí để chỉ rõ lỗi lầm. Trong hai bài kệ trước, một bài kệ rưỡi đầu là y theo quả sinh tử để nói là vô ngã. Một bài kệ rưỡi sau, y theo nhân sinh tử để nói vô ngã.

Trong nửa bài kệ trước chính là giải thích. Nửa bài kệ sau là kết luận vô ngã.

Trong phần chính nói ở trước, có thể hư hoại, lưu động. Y theo nghĩa vô thường để làm sáng tỏ vô ngã. Thường có âu lo v.v…, là y theo lỗi lầm của khổ đó, để làm rõ vô ngã. Khổ tâm lo lắng, e là bằng với khổ thân. Y theo khổ thân, e sợ các điều xấu xa đều là nỗi khổ bên ngoài kia. Già, bệnh, chết v.v… là khổ bên trong thân. Cũng có thể lo, nghĩa là khổ của tâm mình. Bệnh hoạn là khổ của thân. Hai khổ này đều nêu, nên gọi là vân vân. E sợ các điều xấu, ác sẽ phát ra nỗi lo âu. Già, bệnh, chết v.v… sẽ gây ra những bệnh tật kia.

Trên đây, chính là giải thích. Kế sau đây là kết. “Các vô biên này” là tổng kết, phần nhỏ nhiệm của các lỗi trước rất rộng nhiều, nên nói là vô biên. “Dễ hư hoại, kẻ thù xâm chiếm” là kết riêng. “Dễ hư hoại” là kết thúc “Có thể hư hoại, lưu động” ở trước. “Kẻ thù xâm chiếm” là kết “Thường có âu lo v.v…” ở trước.

Trên đây là y theo quả. Sau đây, sẽ nói theo nhân: Bị phiền não ràng buộc, dùng pháp thuyết để giải thích. Như con tằm ở trong kén, so sánh để thấy rõ phiền não. Chỉ là vọng tưởng, phiền não ràng buộc, nêu là thể của vô ngã. Trên đây là chính nói, đâu có người trí nào mà ưa thích điều này. Y theo trí để hiển bày lỗi. Sau đây, là nói về bất tịnh:

Thân này do khổ nhóm hợp, tất cả đều bất tịnh, thể của quả là bất tịnh, là căn bản của ách, ràng buộc, ung thư, mụt nhọt, không có lợi ích, vì hạt giống bất tịnh. Ách, là bốn ách, đó là dục, hữu, vô minh và kiến. Phiền não cõi Dục, trừ vô minh, kiến, gọi là ách dục. Tất cả phiền não cõi Sắc, Vô sắc trừ vô minh, kiến, gọi là “Ách hữu”. Vô minh của ba cõi, gọi là Ách vô minh. Các kiến của ba cõi, gọi là Ách kiến. Bốn thứ này làm cho chúng sinh bị khổ ách, nên gọi là ách. Như Tạp Tâm giải thích: “Phược, nghĩa là bốn ràng buộc, tên gọi đồng với bốn ách. Mụt, nhọt là lậu. Lậu có ba thứ: Dục, hữu và vô minh lậu. Như ở dưới có giải thích rộng.

Dùng các lậu này để làm căn bản cho thân, nên không có ý nghĩa, lợi ích. Trên, đến thân trời đều cũng giống như vậy, nói phạm vi của chúng. Dưới, đến địa ngục, trên đến thân trời, đều là khổ tập. Vì căn bản không lợi ích, nên thuộc về bất tịnh.

Trên đây đã nói rộng về năm lỗi chẳng phải thường. Vì các dục đều vô thường, nên ta không tham, là tổng kết lìa bỏ.

Trên nói có năm lỗi, do nghĩa gì mà nói nói nghiêng về vô thường?

Vì vô thường đứng đầu, nên phải nói nghiêng về nó. Cũng có thể làm nghĩa lẫn nhau để xét cho rõ, vả nói là vô thường.

Trên đây là đoạn thứ nhất, đã nói rằng, phải nhập diệt, không nên thỉnh Phật trụ lại thế gian.

Sau đây là đoạn hai, sẽ nói về “Chân” thường tồn tại, không nên thỉnh Phật trụ lại, trong đó, văn kệ nhiều ít không nhất định. Gồm có ba phần:

  1. Dựa vào bản kinh này chỉ có hai bài kệ.
  2. Dựa vào bản kinh này có năm bài kệ rưỡi.
  3. Dựa vào bản kinh này có sáu hàng kệ. Sáu hàng là đúng.Nay, dựa theo giải thích, trong đó chia làm hai:

– Ba bài kệ rưỡi ở trước, nói Chân thân là thường trụ, đủ nói lên lý do chúng không nên thỉnh Phật trụ lại. Hai bài kệ rưỡi sau chính là khuyên không nên. Trong phần nói về Ứng thân ở trước, trước khuyên không nên, sau phát ra lý do không nên thỉnh Phật trụ lại thế gian. Nay, ở đây, trước là nói về lý do không nên. Sau, khuyên không nên, là mặt trái của văn. Ba bài kệ rưỡi ở trước, nói trong Chân thường, được chia làm bốn:

  1. Dứt tập, chứng chân.
  2. “Rốt ráo đoạn” trở xuống là dứt khổ được diệt.
  3. “Ta đã lội qua hữu v.v…” trở xuống, là nói Phật đã dứt khổ, được diệt, nên vui.
  4. “Do duyên này v.v… trở xuống, là nói Đức Phật vì dứt tập, chứng diệt nên thường.

Trong phần đầu, lìa dục, nói các lỗi của dứt tập đều dứt. Lỗi của dục sâu nặng, là gốc của thọ sinh, đứng đầu ba độc, nên nói riêng là lìa.

“Khéo suy nghĩ v.v…” trở xuống, là nói về chứng chân. Khéo suy nghĩ là phương tiện hướng về chứng mà chứng được chân thật, chính là nói về nhập chứng. Như lai tạng tánh là chân thật nói bỏ vọng, hợp chân gọi là chứng.

Rốt ráo dứt “Hữu” trong đoạn hai, là nói Đức Phật kia đã dứt trừ khổ, nay sẽ Niết-bàn, nói Đức Phật đã chứng được diệt, thật ra Ngài đã tự chứng từ lâu. Đối với hiện nay, thôi hóa độ, mới trở về “Thật” kia, nên nói “Hôm nay” sẽ Niết-bàn.

Trong đoạn ba, Phật nói: “Ta đã lội qua bờ, là nhắc lại việc dứt “Hữu” ở trước. “Ta đã vượt qua khổ”, là nhắc lại Niết-bàn ở trước, vì quả Niết-bàn vượt ngoài các khổ, nên nói là qua khổ

Sau đây, sẽ y theo nghĩa này, để nói về niềm vui của Phật, vì Ngài đã thoát ra các khổ, nên mãi cho đến nay, ngài vẫn thuần thọ hưởng niềm vui vô thượng.

Trong đoạn thứ tư, do “Duyên” này” nghĩa là dùng nhân duyên lìa dục trong đoạn đầu để chứng minh rằng, không có bên hý luận, cũng như khéo suy nghĩ chứng thật trong đoạn đầu. Tâm vọng phân biệt, gọi là hý luận. Được thật sự dứt bỏ, nên gọi là chứng bên không có hý luận.

Sau đây, sẽ y theo nghĩa này để nói Phật thường trụ, dứt hẳn mọi buộc ràng, nay nhập Niết-bàn, là đã lìa nhân vô thường, do lìa dục ở trước, nên đã cắt đứt ràng buộc.

Triền có mười thứ: Vô tàm, vô quý, thùy hối, san, tật, điệu, miên, phẫn, phú, đó là mười. Nói chung là các kiết, ở đây gọi triền là ràng buộc. “Phược” như trên đã nói.

“Ta không bị già, bệnh, sống lâu không cùng, đã lìa quả vô thường, do ta đã chứng “Thật” ở trước, nên mạng không hết.

Trên đây là thứ nhất, nói về Phật thường trụ.

Sau đây là đoạn hai, sẽ bày tỏ việc không nên thỉnh, trong đó chia làm hai:

1/ Một bài kệ rưỡi đầu, đối với các triền, ràng buộc v.v…, mà Phật đã dứt hẳn ở trước, nên khuyên chúng đừng lo nghĩ. Dưới, có một bài kệ, đối với ở trước và hiện nay, là Đức Phật chỉ thuần thọ hưởng niềm vui vô thượng, nên ngài khuyên chúng đừng kêu khóc.

Trong phần trước, đầu tiên, Phật nói: “Nay ta Niết-bàn, giống như lửa tắt!” Đối với “Dứt hẳn triền phược” trong văn trước nay nhập Niếtbàn, nói về các lỗi của mình rốt ráo dứt hẳn.

“Thuần-đà không nên suy nghĩ Như lai: Đối với “Ta không có già, bệnh, chết v.v…”, nên khuyên Thuần-đà chớ lo nghĩ. Chớ lo cho Như lai bị các lỗi già, bệnh, chết. Phải quán Như lai như núi Tu-di. Đối với “Tuổi thọ không cùng tận” trong văn trước, Phật bảo Thuần-đà hãy quán sát cho đúng. Quán sát cho đúng Như lai là thường trụ, không lay động như núi Tu-di.

Trong phần sau, trước tiên Đức Phật nói: “Ta nhập Niết-bàn, được vui bậc nhất” là nhắc lại: “Cho nên, nay ta được vui ròng rặt vô thượng” trong văn trước.

“Chư Phật như thế, không nên than khóc”, kết thúc Phật khuyên hãy thôi thương xót buồn bã!”

Trên đây là thứ nhất, Phật đối với Thuần-đà, khai thị Chân thân, giải thích Ứng thân.

Sau đây, Thuần-đà đối với Văn-thù, giải thích rộng về chân ở trước. Lại nữa, trước đây đối với Thuần-đà, Đức Phật dùng lý để dạy bảo cho đúng, sinh ra hiểu biết thường của mình.

Sau đây là Bồ-tát Văn-thù thử ngược lại Thuần-đà, xem ông có am hiểu vững chắc về nghĩa thường của Phật hay không?

Nhưng, sau đây Thuần-đà đối với Văn-thù, lại chứng minh rõ ràng về “Chân” trong hai đoạn trước. Trước là đối với đoạn sau. Chỉ bày rộng về Chân bất diệt của Như lai. “Như lai kế sau, tự sẽ giảng rộng v.v… trở xuống, đã chỉ bày rộng về “Chân” chẳng có đối đãi của Như lai. Nhân lời nói tiện lợi, nên từ sau hướng tới trước, thứ lớp chỉ bày rõ ràng:

Trong phần đầu có bốn:

  1. Thuần-đà nhân lời thưa thỉnh làm lý do.
  2. Văn-thù thử ngược lại.
  3. Thuần-đà nhân so sánh, tự bày tỏ sự hiểu biết của mình.
  4. Văn-thù thuật lại lời Phật khen, Thuần-đà hiểu rõ nghĩa thường một cách vững chắc.

Trong phần đầu có ba:

  1. Thuần-đà thuật lại lời trước đây của Phật, nhằm nói lên trí hèn mọn của mình, vì không thể suy nghĩ nghĩa sâu sắc Niết-bàn Phật, nên rất cần Đức Phật trụ lại thế gian.
  2. “Nay, tôi và v.v… trở xuống là nói về điều mình đã hiểu. Tham dự cao và thượng lưu để nghe Phật nói pháp và có khả năng nhận lãnh, đã lưu Phật trụ lại thế gian.
  3. “Ví như đói v.v… trở xuống, là xin Phật thương xót sâu xa, sẽ vì mình mà trụ lại.

Trong phần đầu, thật như lời dạy bảo của bậc Thánh như thế, thuật chung lời Phật dạy. Dựa vào bổn kinh cũ, hướng về lời Phật khuyên Thuần-đà trong bài kệ trước, không nên suy nghĩ, đo lường nghĩa của Như lai, nên nay thuật lại. Nay, tôi trí kém, nhỏ nhen, đâu có khả năng suy nghĩ, suy lường nghĩa sâu của Như lai, nên chỉ nói riêng về lời Phật, vì trí tôi nhỏ nhen, không thể suy nghĩ suy lường Niết-bàn của Như lai, nên cần Phật trụ lại.

Trong lần thỉnh Phật thứ hai, trước là pháp, kế là dụ, sau là hợp, dưới là kết.

Trong pháp, nói bản thân mình có hiểu biết về nghĩa Thường, nên ngang bằng với Pháp vương tử Văn-thù. Trong dụ, trẻ nhỏ mới xuất gia, tu đạo chưa lâu, gọi là trẻ nhỏ. Kiến giải về thường mới sinh, gọi là mới xuất gia. Chưa có hạnh thường, gọi là chưa thọ giới cụ túc. Đồng với sự hiểu biết về Thường, gọi là thuộc về số tăng. Trong phần hợp, đầu tiên là nói: “Ta cũng giống như vậy” chính là hợp với dụ trước, do năng lực thần thông của Phật, Bồ-tát, nên ta được ở trong số Bồ-tát như vậy, nghĩa là Thuần-đà nói về lý do mình ở trong số Bồ-tát, do thần lực Phật hiện tại và năng lực giáo hóa của Bồ-tát ở quá khứ, đã sinh cho ta hiểu biết về nghĩa Thường, nên ở trong số đại Bồ-tát như vậy.

“Cho nên v.v…” trở xuống là kết, là ta có hiểu biết đồng với Bồtát ở trên, vì có khả năng thọ lãnh pháp, nên mới thỉnh Phật trụ lại.

“Như đói không có nhả ra” trong lần thỉnh thứ ba, là lập dụ để nói về Phật. Đức Phật thường suy nghĩ hóa độ chúng sinh, như người đói ở thế gian thường kêu than: “Xin đừng bỏ tôi!”, gọi là không đổi thay lời nói.

“Nguyện cho v.v…” trở xuống là y cứ dụ để cầu Phật, nguyện như người đói, “Xin đừng bỏ chúng con mà nhập Niết-bàn!

Đoạn hai, trong phần Văn-thù thử ngược lại, trước quở trách, sau dạy bảo. Đầu tiên, Bồ-tát Văn-thù bảo: “Nay, ông không nên nói những lời như vậy”, là lời quở trách. Nói Phật là vô thường, vì thế không nên thỉnh. “Nay, ông hãy quán sát v.v…” trở xuống là lời dạy bảo, bảo quán sát Như lai là hữu vi, vô thường, hãy chấm dứt ý nghĩ thỉnh Phật trụ lại của ông đi! “Nay ông phải quán tánh tướng của các hành”, chính là bảo phải khởi quán. Trong pháp Tiểu thừa, Phật là hữu vi thuộc về các hành. Nếu quán tánh tướng các hành là vô thường, thì tự nhiên biết được Phật cuối cùng sẽ tận diệt. Do đó, ông không nên thỉnh Phật trụ lại đời. Quán như vậy là thực hành đầy đủ “Tam-muội Không”, là nêu ích lợi để khuyên Thuần-đà: Nhờ quán vô thường, nên biết pháp là vô tánh, nên có đủ “Không định”. Muốn cầu chánh pháp, ông nên học như vậy” là lời kết luận, khuyên tu tập. Muốn cầu “Pháp không”, thì phải học như vậy, quán tánh tướng hữu vi là vô thường.”

Đoạn ba, trong phần Thuần-đà trình bày kiến giải của mình, đầu tiên là được lời Văn-thù ở trước đã bảo: “Dùng lý để quán Phật chẳng phải hữu vi.”

“Dụ tuổi thọ ngắn v.v…” trở xuống, là Thuần-đà đem điều mình biết để dạy bảo và quở trách Văn-thù:

Trong phần trước, đầu tiên là nói: “Đức Như lai chính là Đấng Tối Tôn, Tối Thắng trong trời, người, trực tiếp lập ra đạo lý v.v… trở xuống, là y theo lý này để suy nghiệm về Như lai, nói chẳng phải hữu vi, trong đó, trước là nói đồng với hữu vi thì không phải tôn, không phải thắng. “Thí dụ lực sĩ v.v…” trở xuống, nói là tôn quý, hơn hết, tất nhiên là đả phá hữu vi.

Trong phần trước có hai:

  1. Chính là nói Như lai là hữu vi, chẳng phải tôn quý, chẳng phải tối thắng.
  2. Lại nữa, Văn-thù là như thuyết v.v… trở xuống, là xem xét lại Văn-thù.

Trong phần trước có bốn:

  1. Như lai như thế chẳng lẽ là hành: Xét lại lời nói của Văn-thù.
  2. “Nếu là hành v.v…” trở xuống, để bảo cho biết lỗi lầm, nói Như lai đồng với các hành, thì sẽ có lỗi sinh diệt, trôi lăn.
  3. “Ta nghe v.v…” trở xuống, là nói có lỗi sinh diệt, trôi lăn, tức chẳng phải là đấng tôn quý, tối thắng.
  4. “Cho nên v.v…” trở xuống là kết luận, quở trách Văn-thù.

Y theo đoạn đầu, “Đức Như lai như thế” là nhắc lại lời trên, cái gọi là Như lai, đấng tối thắng trong người, trời như thế, chẳng lẽ là “Hành” ư? Là xét lại lời Văn-thù đã nói. Vì nghi ngờ không quyết định, nên nói là chẳng lẽ?

Trong đoạn hai, nếu là “Hành” thì nhắc lại lập luận của Văn-thù. Sau đây, sẽ y cứ làm rõ lỗi, trong đó, trước y theo Phật để nói lỗi, tất cả hành, v.v… trở xuống là so sánh để làm rõ lỗi, trong phần trước đầu tiên là nói pháp sinh diệt, pháp nói về lỗi có sinh diệt. Ví như bọt nước vừa nổi lên, liền tan mất, là dụ thuyết để nói về lỗi có sinh diệt.

“Trôi lăn qua lại” là pháp thuyết nhằm nói về lỗi có trôi lăn. “Giống như bánh xe”, lập dụ để chỉ rõ lỗi. Sau đây, so sánh để được sáng tỏ, tất cả các hành cũng giống như vậy, nghĩa là các hành sinh tử cũng đều có hai thứ lỗi này. Các hành so sánh như vậy, Phật là hữu vi, thì đâu riêng gì không như vậy?

Trong đoạn ba, trước y theo sinh diệt, để nói Phật không được là Đấng Tôn Quý, Tối Thắng! Như chùm bọt nước trở xuống là y theo sự trôi lăn ở trước mà nói Phật không được gọi là đấng Tôn quý, Tối thắng.

Trong phần trước, “Ta nghe nói tuổi thọ của chư thiên rất dài” nêu phàm để suy ra Thánh, cũng được gọi là phân biệt phàm hơn Thánh. Như bốn vị thiên vương thọ năm trăm tuổi, cho đến Phi Tưởng thọ hưởng tám muôn kiếp, gọi là rất dài. Vậy, vì sao Đức Thế Tôn là trời trong loài trời mà tuổi thọ lại không đầy một trăm năm? Là nêu phàm để trách Thánh, cũng gọi là chứng tỏ Thánh kém phàm. Đức Thế Tôn đã là trời trong loài trời, thì tuổi thọ đáng lẽ phải vô lượng, sao tuổi thọ lại ngắn ngủi không đầy một trăm năm? Vì không đầy một trăm tuổi nên Phật không được gọi là trời trong loài trời rất tôn quý, rất hơn hết? Sau đây, sẽ y theo sự trôi lăn để nói Đức Phật chẳng phải Đấng Chí Tôn.

Trước là lập dụ: Như người trưởng làng, dụ cho Phật được làm Hóa chủ cõi Tam thiên, có thế lực tự tại, có năng lực chế ngự người khác, dụ cho Phật tự tại, có khả năng điều phục chúng sinh. “Về sau, Ngài bị người nghèo hèn kia khinh dễ” dụ cho Đức Phật sẽ trôi lăn, bị con người khinh thường. Bị người khác sai khiến, trái lại được người khác hóa độ.

“Sở dĩ v.v…” trở xuống, là giải thích. Sau đây, là hợp để làm rõ pháp.

“Đức Thế Tôn cũng giống như vậy”, hợp với thế lực tự tại của vị trưởng làng, có khả năng chế phục người khác, đồng với các hành, hợp với phước tần không được gọi là trời trong loài trời. Hợp với sự nghèo hèn kia bị người khinh dễ.

“Vì sao v.v…” trở xuống, là giải thích, tức là hợp với “Vì mất thế lực ở trên.

Trong đoạn thứ tư là kết: Cho nên Văn-thù chớ xem Như lai đồng với “Các hành”, vì đồng với các hành, tức là có lỗi sinh diệt trôi lăn, sẽ không được gọi là trời trong loài trời. Ngài chớ quán Như lai đồng với các hành hữu vi, chẳng phải tôn quý, chẳng phải hơn hết.

Sau đây là đoạn hai, xét lại Văn-thù. Cao nhân Văn-thù mừng vì có kiến thức khác lạ, nên phải xét kiến thức đó.

“Lại nữa, Văn-thù biết mà nói hay không biết mà nói?” Xét định lời nói của Văn-thù: Vì biết Phật chắc chắn là hữu vi, nên nói đồng với các hành, hay sẽ không biết, tâm mình mờ tối nên nói giả dối?

“Dù cho v.v…” trở xuống, là nếu vì chỉ bày lỗi lầm, đặt ra biết Như lai đồng với các hành, với quả báo tuổi thọ ngắn ngủi, không được gọi là trời trong loài trời. Trôi lăn không nhất định, như người trưởng làng, không được gọi là Pháp vương tự tại.

Trên đây, nói Phật đồng với hữu vi, chẳng phải Đấng Tôn Quý, Tối Thắng.

Sau đây là đoạn hai, nói Như lai là Đấng Tôn Quý, Tối Thắng, hẳn phá hữu vi, phá lìa bốn ma, hữu vi sinh tử, mới được gọi là đấng tôn quý duy nhất của ba cõi, trong đó, trước là dụ, kế là hợp, sau là kết. Trong dụ có ba:

  1. Dụ Phật phá hữu vi.
  2. “Lực sĩ như thế, được vua sủng ái v.v…” trở xuống là dụ cho đấng Tôn quý chung của thế gian.
  3. “Cho nên v.v…” trở xuống là dụ cho Phật là vô vi, trong phần đầu, như vua có lực sĩ, là chúng sinh có năng lực chiêu cảm bậc Thánh kia, vì được theo hầu Phật, nên gọi là vua. Phật có năng lực dẹp tan bốn ma, kẻ thủ mạnh mẽ, gọi là lực sĩ. Năng lực tương đương với ngàn người, là kết thúc năng lực cao quý của Phật.

Trong đoạn hai, “Lực sĩ như vậy” là nhắc lại Phật, Như lai Được nhà vua rất sủng ái, nhớ nghĩ, kính mến làm Thế Tôn, ban riêng cho chức tước v.v…, đặc biệt là thêm kính trọng, nuôi nấng.

Trong đoạn ba, “Cho nên được gọi là bằng ngàn người”, hỏi trước khởi sau là người này chưa hẳn chống lại ngàn người, nghĩa là phân biệt trước khởi sau, chưa hẳn chỉ dùng năng lực để phá chướng, tương đương chống lại các thứ kỹ năng của ngàn người. “Khả năng chiến thắng ngàn người” đầy đủ các thứ công đức vô vi, vượt hơn ngàn người.

“Nên gọi” là kết, Như lai v.v… trở xuống là hợp: Dựa vào ba đoạn trước, thứ lớp tự hợp.

Trong đoạn đầu của hợp, “Như lai cũng vậy” là kết hợp với lực sĩ ở trước.

“Hàng phục phiền não” v.v…, là hợp với thể lực, tương đương với ngàn người. “Lại không có hàng phục: Hàng phục ma phiền não, dứt nhân sinh tử. Hàng phục ma trời, dẹp bỏ “Duyên” sinh tử. Hàng phục ma năm ấm và ma chết lìa quả sinh tử. Do hàng phục bốn ma này, nên chẳng phải hữu vi. Vì thế, Như lai gọi là Đấng tôn quý của ba cõi.

Hợp với đoạn hai, được vua nhớ nghĩ, sủng ái, đặc cách ban cho chức tước, bổng lộc.

“Như Thái tử kia v.v…” trở xuống, là nêu dụ, để trùm nhiếp, trùm riêng. Đoạn đầu, “Do duyên này v.v… trở xuống, là kết hợp với đoạn ba. “Do duyên này”, nên là nhắc lại trước, làm rõ sau. Vì Đức Phật đã phá tan nhân duyên hữu vi, thành tựu các công đức vô vi, thành tựu các thứ vô lượng công đức chân chính, kết hợp với các thứ kỹ năng hơn ngàn người, ở trên nên được gọi là Như lai, Ứng Chánh Biến Tri. Vì trong hợp dụ ở trước, nên nói tương đương ngàn người.

“Văn-thù không nên nghĩ rằng Như lai đồng với các hành, là kết quở chung.”

Trên đây, Thuần-đà đã thọ giáo với Văn-thù, là “Dùng lý để suy ra” rằng, Đức Phật chẳng phải hữu vi.

Sau đây, Thuần-đà đem điều mình biết để dạy bảo, quở trách Văn-thù, trong đó trước là quở:

“Cô gái nghèo v.v…” trở xuống, trong dạy bảo, quở trách, trước là thí dụ. “Như trưởng giả giàu có sinh được đứa con trai” dụ cho phàm chiêu cảm Thánh. Bên trong người chiêu cảm Thánh có căn cơ với Đạo gọi là Trưởng giả giàu có, chiêu cảm bậc Thánh xuất hiện, gọi là sinh được con trai. Thầy tướng đoán xem, thấy đứa con đó có tướng chết yểu, dụ cho ở trước Văn-thù nói Phật là hữu vi. Thầy tướng Văn-thù xem Phật, gọi là đoán, nói nay Phật nhập diệt, gọi là tướng tuổi thọ ngắn ngủi.

“Cha mẹ nghe nói v.v…” trở xuống là dụ cho người đời khinh chê, xem thường. “Dụ cha mẹ nghe nói v.v…” là nói căn cơ chúng sinh cảm về đạo Thánh, nghe nói tuổi thọ của Phật ngắn ngủi, đều không ưa thích. Biết Phật không thể thường lưu truyền pháp, hóa độ, gọi là không gánh vác nối dõi gia tộc, do đó nên không yêu thích.

“Xem Như lai đồng với phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, gọi là xem như cỏ.”

“Nói về tuổi thọ v.v… trở xuống, là nói ngoài ra, chúng sinh không có đạo, nghe nói Đức Phật tuổi thọ ngắn ngủi, cũng không kính trọng.”

Kế là hợp để làm rõ pháp: “Nếu cho rằng Như lai đồng với các hành, thì hợp với “Sinh con trai” có tuổi thọ ngắn ngủi, cũng còn không được thế gian tôn kính, nghĩa là vượt qua hợp, cũng không được Sa-môn v.v… kính trọng.

Pháp chân thật không biến đổi mà Như lai nói cũng không có người thọ. Lại hợp với cha mẹ, không còn ái v.v…. Vì không ái, nên những lời Phật dạy không thọ. “Cho nên Văn-thù không nên nói v.v… trở xuống là tổng kết để quở.”

Sau đây, Thuần-đà dùng sự hiểu biết của mình để dạy bảo ngược lại Văn-thù, trong đó có hai thí dụ:

  1. “Thí dụ cô gái nghèo”, bảo ngược lại Văn-thù, để chứng tỏ Đức Phật là vô vi.
  2. “Thí dụ đại nhân”, dạy ngược lại Văn-thù; trái với Phật hữu vi.

Trong phần trước là dụ, kế là khuyên, sau là hợp.

Trong dụ có sáu câu:

  1. “Thí dụ ở trong cảnh khổ, mong cầu điều lành.”
  2. Dứt ác của người khác v.v… trở xuống, là dụ cho nương tựa kiến giải của Giáo chủ.
  3. “Là nhà khách v.v… trở xuống, là dụ truyền dạy cho xuất gia.”
  4. “Sản phụ kia chưa v.v… trở xuống, là dụ cho ôm ấp kiến giải hướng về quả.
  5. “Đến giữa đường gặp kẻ gian ác v.v… trở xuống, là dụ cho gặp khổ không lùi bước.”
  6. “Lòng từ nghĩ đến v.v… trở xuống, là dụ cho khen thưởng hiểu biết được quả.

Trong phần đầu của dụ nói, cô gái nghèo dụ cho người tu hành không có đức, gọi là nghèo. Vì có khả năng sinh ra hiểu biết nghĩa Thường, nên gọi là người nữ. Không có cảnh an tâm, gọi là không có nhà ở. Lìa thiện tri thức, gọi là không có người cứu giúp. Phiền não ràng buộc, gọi là thêm khổ bệnh. Không có pháp nào bổ sung cho tâm thần, gọi là đói khát. Hỏi thăm khắp các bạn cùng đi dạo, cầu pháp, xin ăn.

Trong câu thứ hai, tạm dừng chân ở nhà khách (quán trọ) của người khác, sinh một con trai: gọi Phật là người khác. Giáo pháp Đại thừa là Đức Phật nhiếp hóa con người đã được chỗ nghỉ ngơi yên ổn, gọi là nhà khách. Y giáo, gọi là “Chỉ”, khởi giải gọi là sinh, cuối cùng vì có khả năng thừa kế, nên gọi là con.

Trong câu thứ ba, chủ của nhà khách này đuổi đi. Đức Phật là chủ nhà, truyền dạy hướng về quả, gọi là đuổi đi. Cũng có thể bảo hãy bỏ giải thích để mong cầu chân thật, gọi là đuổi đi.

Trong câu bốn, sản phụ kia chưa lâu, bèn bồng con đến nước khác, mới sanh không lâu gọi là chưa lâu, ôm ấp hiểu trong tâm gọi là ẳm đứa con này. Tâm hy vọng hướng quả, gọi là “Muốn đến” Bồ-đề Vô thượng, là chỗ ở của Phật, gọi là “Nước khác”.

Trong câu thứ năm, lúc tu hành, gọi là giữa đường. Tiếp xúc với cảnh trần, gọi là gặp phải gió, mưa. Khởi điều xấu ác, vời lấy quả khổ, ép ngặt thân mình, gọi là khổ rét mướt tột độ, thêm vào đó, bị bạn ác lấn hiếp, hãm hại pháp lành, gọi là bị trùng độc rút rỉa cắn ăn.

Giữa đường gặp Tiểu thừa, gọi là trải qua sông Hằng, thưởng hiểu biết cầu ra khỏi, gọi là ôm con lội qua sông. Chúng sinh Tiểu thừa ép ngặt lẫn nhau, gọi là trôi nhanh theo dòng nước. Bảo thủ kiến giải không theo danh, không buông bỏ, thậm chí bị Tiểu thừa giết chết. Người mất, đạo bỏ, nên gọi là cả mẹ lẫn con đều chìm, chưa hẳn có hiểu biết này! Đó là giả thiết phần lỗi là lời nói, dù có hiểu biết về nghĩa thường này, cũng phải giữ chắc.

Trong câu sáu, người nữ như thế, sinh lên cõi trời Phạm thiên, dụ cho các Bồ-tát được thưởng công đức hiểu biết, cuối cùng được Bồ-đề.

Trên đây là lập dụ, kế là dạy khuyên, trong đó có hai:

  1. Khuyên người ngu, tất cả chớ nói.
  2. “Nếu chánh kiến v.v…” trở xuống, là khuyên người trí kia nhất định nói Phật là vô vi.

Trong phần trước, Văn-thù muốn giữ gìn chánh pháp nên không nói là Như lai đồng với các hành. Thuần-đà khuyên Văn-thù chớ nói. Như vậy, vì người ngu, tâm họ chưa thấy pháp, lời nói nhiều lỗi lầm! Cho nên, “Khuyên họ, tất cả đừng nói”.

Kế là dạy bảo chớ mê đắm, chỉ nên tự trách, nay tôi ngu si, khuyên bỏ tâm giải, chánh pháp của Như lai không thể suy nghĩ bàn luận, là dạy sinh tín tâm.

“Cho nên v.v…” trở xuống, là kết khuyên chớ nói, vì pháp Như lai không thể suy nghĩ bàn luận, không nên nhất định là hữu vi, vô vi.

Sau đây khuyên người trí nhất định nói là vô vi. Nếu là người có chánh kiến, thì nên nói Như lai chắc chắn là vô vi, vì dùng ý đúng để khuyên.

“Vì sao…” trở xuống là giải thích, trước hỏi, sau giải thích. Do nói vô vi, nên giúp cho người được hiểu biết đúng, khởi tu, thu hướng, gọi là sinh pháp lành, không nói hữu vi, làm cho người từ bỏ sự chê bai, sẽ không đọa vào ba đường ác, gọi là sinh tâm thương xót.

Sau đây, kế là hợp dụ. Trong sáu câu trước, chỉ hợp với hai dụ sau: Như người phụ nữ ở bờ sông, yêu thương, nhớ nghĩ đến con v.v…, là nêu câu năm ở trước. Bồ-tát giữ gìn chánh pháp cũng nên như thế.

“Thà bỏ thân v.v…, là nêu pháp để hợp, vì nói Như lai đồng với vô vi v.v…” trở xuống, là hợp với câu sáu, trong đó có hai:

  1. Nói đắc quả.
  2. Nói người kia được quả tự nhiên.

Trong phần được quả ở trước, đầu tiên chính là hợp; “Như phụ nữ kia v.v…” trở xuống, để bắt chước theo.

“Vì sao v.v… trở xuống là giải thích.”

“Giữ gìn là thế nào? v.v…” trở xuống là giải thích rõ về sự che chở giữ gìn, nghĩa là nói Như lai đồng với vô vi, cái gọi là đồng với Niết-bàn vô vi, cũng đồng với pháp tánh vô vi.

Sau đây là nói về trong tự nhiên, trước là nêu pháp, sau, dùng dụ tấm thiếp lời văn dễ hiểu.

Dưới đây, trong phần bảo Văn-thù che giấu hữu vi, đầu tiên là lập dụ, kế là khuyên, sau là hợp.

Trong dụ có sáu:

  1. Thí dụ bỏ phế trong hạnh tu.
  2. “Nghỉ nhờ v.v… trở xuống là dụ cho thối lui, dừng lại ở Tiểu thừa.”
  3. “Nằm ngủ v.v… trở xuống, là dụ cho nghe nói vô thường.”
  4. “Tức thời sợ hãi v.v… trở xuống là dụ cho sợ nói lạm quá Phật.”
  5. “Dụ như hổ thẹn v.v… trở xuống, chính là nói dụ cho che giấu Phật.
  6. “Sinh lên trời Đao-lợi v.v… trở xuống là thí dụ che giấu Đức Phật đắc quả.”

Y theo câu đầu, là khởi sự tu lâu dài, gọi là đi xa. Bỏ trong hạnh tu, gọi là rất mệt mỏi.

Trong câu hai, nghĩa là ở nhà người: Pháp Tiểu thừa là chỗ mà người Tiểu thừa yên nghỉ, gọi là nhà người. Thối lui ở lại, gọi là dừng nghỉ, tạm dừng gọi là gởi.

Trong câu ba, hiểu nhiều chưa phát ra, gọi là trong lúc nằm ngủ nghe nói về vô thường đốt cháy các thế gian, gọi là ngôi nhà bỗng nhiên lửa lớn bốc cháy. Giáo pháp quyền bỗng nhiên lập bày, nên nói là chết.

“Giác biết lỗi vô thường lạm quá Phật” trong câu bốn, gọi là liền tỉnh ngộ. Buồn lo thân Phật bị vô thường kia. Quyền giáo đã bị che giấu, gọi là tự suy nghĩ. “Hôm nay ta”, nghĩa là chắc chắn chết không nghi ngờ. Đây là tự thân dụ đối với thân Phật, vì pháp thân Chư Phật là thể của mình.

Trong câu năm, vì có hổ thẹn, nên áo quàng lấy thân: Đức Phật biểu hiện vô thường, giống như thân xấu xí, hổ thẹn vì Phật vô thường, gọi là có hổ thẹn. Nói Phật chân thường là ẩn giấu vô thường Phật, gọi áo quàng thân, giữ gìn Phật đến chết, tức gọi là qua đời.

Trong câu sáu, sinh lên trời Đao-lợi dụ cho Phật được quả ba mươi hai tướng, đủ tám mươi lần trở lại làm Đại phạm vương dụ cho được tám mươi vẻ đẹp của Như lai, đủ trăm ngàn đời làm Luân vương v.v…, dụ cho được vô lượng công đức của mười tám pháp bất cộng v.v…

Trên đây lập dụ, sau đây là dạy khuyên, trong đó, văn có sáu câu, ba cặp:

1- Tà chánh đối nhau: Người có hổ thẹn, không nên quán Phật đồng với các hành, chính là nói không nên. Tà kiến ngoại đạo có thể nói Như lai đồng với các hành, vì chứng tỏ chúng hợp với tà.

2- Trì, phạm đối nhau: Tỳ-kheo giữ giới không nên nghĩ là hữu vi, nói trì không nên. “Nếu nói Như lai là hữu vi” v.v… trở xuống, là bày tỏ mọi hành vi của mình đã trái phạm. Nếu nói Đức Phật là hữu vi, thì đó là nói dối, nói nhân có tội khi chết sẽ đọa vào địa ngục, là chứng tỏ quả có tội.

3- Tâm và lời nói đối nhau. Như lai vô vi, không nên nói Như lai hữu vi, là Thuần-đà khuyên Văn-thù hãy bỏ lời nói bất chính: “Kể từ hôm nay, ông nên từ bỏ “Vô trí” để cầu chánh trí v.v…”, là khuyên bỏ tà tâm.

Trên đây là khuyên bảo. “Nếu có thể v.v… trở xuống, là hợp. Chỉ hợp thứ sáu trong sáu câu trước, lời văn dễ hiểu.

Trên đây là đoạn ba, Văn-thù thuật lại lời khen vững chắc về kiến giải thường của Thuần-đà. Bồ-tát Văn-thù khen: “Lành thay, lành thay! Là lời khen chung, sau đây là khen riêng Thuần-đà:

Trong phần khen riêng này, trước y theo thí dụ cô gái nghèo, để

khen lại Thuần-đà: “Hiện nay, ông đã gieo nhân duyên sống lâu”, khen đối tượng lập ra của Thuần-đà, có thể biết Như lai là pháp thường v.v…, khen chỗ hiểu biết của Thuần-đà, là thường, chung. Không thay đổi, vô vi, là cách riêng của Thuần-đà. Lìa sinh diệt nhỏ nhiệm, gọi là không biến đổi. Lìa phần đoạn thô, gọi là vô vi. Cũng có thể chân thân của Như lai vô sinh, gọi là vô vi. Vì không có cuối cùng diệt, nên nói là không thay đổi.

Dưới đây, lại y theo thí dụ người và lửa ở trước để khen lại Thuầnđà: “Nay, ông đã khéo che giấu tướng hữu vi của Như lai như thế.” Đây là Bồ-tát Văn-thù khen những gì mà Thuần-đà đã nói, trong đó, trước là pháp, sau dùng thí dụ để làm dấu hiệu đáng tin cậy.

Do tâm lành sẽ sinh lên tầng trời Đao-lợi v.v… trở xuống là khen kết quả đạt được của Thuần-đà, trong đó, trước là dùng thí dụ.

“Ông cũng v.v… trở xuống là hợp: “Ông cũng khéo che giấu hữu vi như thế, hợp với lời nói “Do tâm lành này” ở trước. “Chắc chắn sẽ được ba mươi hai tướng”, hợp với “ Sinh lên tầng trời Đao-lợi”.

“Tám mươi vẻ đẹp” hợp với “Làm Phạm vương”. Mười tám pháp bất cộng, vô lượng tuổi thọ, hợp với “làm Luân vương”. “Không ở trong sinh tử”, hợp với “Không sinh điều ác”. “Thường thọ hưởng yên vui”, hợp với “Thường hưởng yên vui”.

Trên đây, bốn đoạn hợp thành thứ nhất, nói Đức Phật là vô vi.

Sau đây là đoạn hai, nói Đức Phật không có đối đãi, trong đó có bốn:

  1. Nói thân Như lai bệnh rồi mất.
  2. “Phật bảo v.v…” trở xuống, là Như lai nói lại lời Thuần-đà và khen ngợi.
  3. Nhân lời nói ở trước, nên nói lại lần nữa rằng tâm lo lắng của Như lai đã hết.
  4. “Văn-thù nói: “Đúng thế, đúng thế! Như lời ông vừa nói v.v…” trở xuống, Văn-thù thuật lại lời Phật khen.

Theo đoạn đầu, trước là Văn-thù thúc giục chúng, thử lại Thuầnđà.

“Thuần-đà nói v.v…” trở xuống, Thuần-đà dùng lý để nói Phật không có đối đãi. Trong sự thúc giục của Văn-thù, trước là ngăn dứt lời nói trước.

Sau đây, chính là thúc giục Thuần-đà. Trong phần ngăn cấm lời nói ở trước, kế là Như lai sẽ nói rộng. Dò xét về thuyết nói quy y Phật. Phật thương xót thở than v.v… trở xuống, là nói rõ về nghĩa thường của mình, gọi là “Sau sẽ tự nói”.

“Ta và ông v.v… trở xuống, là tự đè nén ngăn cấm nhau: Ta và ông đều che lấp hữu vi, hãy dứt bỏ tâm biện luận của mình. Hữu vi, vô vi chúng ta hãy cùng nhau gác lại.” nghĩa là ngăn dứt lời giải thích của chúng ta, mà tạm dừng, chẳng phải dứt hẳn chứ không phải nên nói “Hãy gác lại”.

Sau đây, câu trong chính là thúc giục, được chia làm bốn:

  1. Thúc giục sao cho mau chóng cúng dường.
  2. “Bố thí như thế v.v… trở xuống, là khen vượt hơn, khuyên hãy thực hành hạnh bố thí.

Vì sao cúng phẩm này lại nghiêng về là vượt hơn?

Giải thích có ba nghĩa:

  1. Nhân cúng phẩm này vì được biểu thị rõ ràng, sâu rộng pháp hóa độ, nên thành vượt hơn.
  2. Đức Phật thọ thực ở đây xong, liền nhập đại Niết-bàn. Vì sự nghiệp bố thí đã thực hành quá lớn lao, nên cúng dường là hơn hẳn.
  3. Đức Như lai sắp diệt độ, đạo chúng đều nhóm hợp ở đây. Vì cúng phẩm hiến dâng rộng rãi, cho nên được vượt hơn.

“Nếu Tỳ-kheo v.v… trở xuống, là nêu ra so sánh cúng phẩm để làm rõ sự vượt hơn. Nhưng, ở đây, nêu rộng tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni v.v…, vì đi xa mệt mỏi, nên tùy theo thời gian cấp thí, có hạt giống đàn. So sánh với nay cũng vậy, không nói hội này.

3. “Nếu có cúng dường Phật sau cùng v.v… trở xuống, là nêu Phật diệt độ, nhằm thúc giục lần nữa!”

Trên đây, Bồ-tát Văn-thù thúc giục cúng dường, thử lại Thuần-đà.

Sau đây, Thuần-đà nói Phật không có đối đãi. Trong bố thí có bốn:

1/ Quở trách Văn-thù: “Vì sao ông tự tham thức ăn này? Khiến đúng thời cúng dường?” Ý hỏi: “Văn-thù đã vì Phật mới thúc giục cúng, vì sao Thuần-đà lại quở trách Văn-thù rằng, tự tham thức ăn này?” Giải thích:

Văn-thù vì Phật mà đôn đốc cúng dường, vì tự khởi tâm niệm cần ăn của mình. Tự bản thân mình cần ăn, rồi cho rằng Phật cũng vậy. Thuần-đà trắc nghiệm sâu sắc về mặt tâm lý, nên y theo gốc để quở trách Văn-thù, cho nên mới nói rằng: “Vì sao tự tham thức ăn này?” Lại nữa, Văn-thù từ trước, đã thôi thúc cúng dường Phật và Tăng, mà Vănthù là tăng, nên rõ ràng là đã vì cá nhân mình mà đôn đốc thức ăn. Cho nên quở trách Văn-thù: “Vì sao hôm nay ông tự tham thức ăn này? Nói Văn-thù tự tham, đủ thấy rõ Phật không có đối đãi.”

2/ “Đức Như lai xưa v.v… trở xuống, chính là nói không có đối đãi, trong đó nêu khổ hạnh xưa kia để nghiệm.

3/ “Nay ông thật sự cho rằng Như lai v.v… trở xuống, là xét định Văn-thù.

4/ “Tôi biết chắc chắn v.v… trở xuống, bày tỏ điều mình đã hiểu, rõ ràng Đức Phật không có đối đãi.

Đoạn hai, trong phần Đức Như lai khen ngợi Thuần-đà, trước là, đối trước Văn-thù, ấn khả cho Thuần-đà. Bồ-tát Văn-thù với trí sâu sắc, nói “Luyện” là “Phi”, nên đối với Thuần-đà thuật lại lời Phật “Ấn khả”, để chứng tỏ lời Thuần-đà nói là quyết định.

“Lành thay! v.v…” trở xuống, Văn-thù chính là đối diện với Thuần-đà mà thuật lại lời Phật đã khen cho Thuần-đà nghe. Thuầnđà như học, người thường không tin, nên Phật thuật lại “Ấn khả” để cho con người quy tín.

“Ông thành đại trí” chính là lời khen.

“Bâc Thiện nhân v.v… trở xuống, là chỉ bày tướng của bâc Đại trí. “Nhập” giống như “Giải”, nghĩa là hiểu được nghĩa sâu sắc trong kinh Đại thừa.

Sau đây là đoạn ba, nói lại tâm lo lắng của Như lai đã hết.

Vì sao nói việc này?

Vì ở trước, Như lai nói lại việc “Ấn khả” cho Thuần-đà. Vì dường như có yêu, ghét, nên dưới đây sẽ quở trách, trong đó có hai:

  1. Nói về thể của Như lai không có phân biệt.
  2. “Như vị vua v.v…” trở xuống, là nói Phật đã vượt ngoài cảnh giới phân biệt.

Trong phần trước có bốn:

  1. Nhân Văn-thù thử nghiệm trơ lại, Thuần-đà nói Phật không có thiên vị.
  2. Văn-thù nói: “Như lai đối với ông và kể cả tôi v.v…” trở xuống, nhân Văn-thù thử nghiệm lại, Thuần-đà nói Phật không có vui thích.
  3. “Như lai không có niệm tưởng đến ái v.v…” trở xuống, đã nói trong đoạn hai ở trước.
  4. Xem tất cả bình đẳng như La-hầu-la trở xuống, là nói đoạn thứ nhất ở trước.

Trong phần đầu, trước tiên Văn-thù vì thử nghiệm lại, nên nói với Thuần-đà rằng: “Ông cho rằng Như lai là vô vi”, là nhắc lại lời của

Thuần-đà rằng: “Thân Như lai là sống lâu”, Văn-thù tự thuật lại lời Thuần-đà nói.

“Nếu nói như vậy v.v…” trở xuống là nói Đức Phật đã cảm thấy hài lòng, nên “ấn khả” cho ông?

Thuần-đà đáp: “Chẳng phải Đức Phật cảm thấy hài lòng riêng mình tôi, thật ra Ngài cũng hài lòng tất cả!”, ý nói Phật không thiên vị.

Trong đoạn hai, trước Văn-thù nói: “Như lai đối với ông và tôi, tất cả đều cảm thấy hài lòng, nên ấn khả cho ông, Văn-thù thử lại Thuầnđà.

“Thuần-đà đáp v.v…” trở xuống, là nói Phật không hài lòng, trong đó có bốn:

  1. Quở chung Văn-thù: “Ông không nên nói Như lai vì vui lòng, nên “Ấn khả” cho tôi!”
  2. “Nói về vì hài lòng, nên Phật ấn khả v.v…” trở xuống là nói sự hài lòng có thể phạm lỗi, nói về lỗi có bốn lớp:
    1. Phật vì hài lòng nên ấn khả cho tôi.
    2. Tưởng điên đảo.
    3. Sinh tử.
    4. Hữu vi.
  3. Kết luận, quở Văn-thù bằng câu: “Ông cho rằng, Như lai là hữu vi”, là y theo câu sau để quở.
  4. Cho dù để bảo cho biết lỗi, nhưng nếu nói là hữu vi thì tôi và Ngài đều hành động điên đảo. Vì sao ông nói Đức Phật vì vui lòng nên ấn khả cho tôi, tức là hữu vi rồi, nên là điên đảo!

Sau đây là đoạn ba, nói Đức Phật không có ái, trở thành nghĩa không có hài lòng ấn khả của đoạn hai ở trước.

“Như lai không có ý nghĩ về ái, chính là nói không có ái.”

“Nói về ý niệm ái v.v… trở xuống, là nêu ra lỗi để nói lìa ái. Trước là nêu lỗi của ái.

Nghĩ đến ái: là nói chung để nêu.

“Như bò mẹ kia v.v…” trở xuống, là mượn dụ để chỉ rõ lỗi: Như bò mẹ ở đời, vì yêu thương, nhớ nghĩ con mình, nên cho dù đang đói khát, nhưng nó vẫn đi tìm kiếm nước, cỏ cho con nó, hoặc có đủ không có đủ thì nó cũng quay về chỗ con nó, dụ này nói về người đời vì có ý nhớ nghĩ yêu thương, nên dù rằng đang thực hành hóa độ, lợi ích cho người, hoặc xong, không xong, nhưng cũng buông bỏ, quay lại giúp ích cho người thân yêu của mình. Đức Phật không có ý niệm này, trái lại, đối với lỗi, thường có thái độ xa lìa.

Dưới đây là đoạn thứ tư, nêu lòng từ bình đẳng của Phật, trở thành nghĩa không có nghiêng về thứ nhất nói trên. Đức Phật xem tất cả bình đẳng như La-hầu-la. Chinh là nói đức từ bình đẳng, nhớ nghĩ như thế là cảnh giới Phật, kết thúc các Đức thuộc về con người.

Trên đây nói về Thể của Phật không có phân biệt. Sau đây, nói vượt ngoài cảnh giới phân biệt, trong đó có hai thí dụ:

Thí dụ đầu là nói về cảnh giới gần kia không bắt kịp cảnh giới xa, cũng được gọi là đần độn không theo kịp lanh lợi, nhạy bén.

Thí dụ sau nói về cảnh giới dưới không suy lường được cảnh giới trên.

Trong phần trước, trước là thí dụ: “Ví như vị vua điều khiển xe ngựa lực lưỡng, dụ cho Đức Phật xuất hiện vượt hơn, tu tập lâu trí tuệ cao siêu. Muốn cho con lừa theo kịp, thì thật không có việc ấy!”, dụ cho chính mình không theo kịp, hợp với ở dưới rất dễ hiểu.

Sau đây là trong không suy lường, trước dụ, sau pháp. Trong dụ, nói nghiêng về trên có thể biết dưới, như chim cánh vàng dụ cho chân thân của Phật. “Bay lên hư không”, là dụ cho chân thân Phật. Trụ pháp tánh không, vô lượng do-tuần, chứng đắc sâu xa, đó là nói về chứng trí.

Sau đây là quán biển: Dụ cho trí giáo của Phật soi rọi biết biển cả sinh tử của thế gian, đều nhìn thấy tánh chất nước, cá, trạnh v.v…, dụ cho Phật thấy chúng sinh, ngu, trí khác nhau. Và thấy hình ảnh của thân mình, dụ cho nhìn thấy chính ứng thân của mình tùy theo thế gian.

Trong pháp, nói nghiêng về dưới không suy lường được trên, mặt trái của văn. Tiểu trí, phàm phu không thể suy lường: Ý nói phàm phu, nhị thừa đều không thể biết ở trên. Người Nhị thừa gọi là Tiểu trí. “Tôi và nhân giả cũng giống như vậy, không thể suy lường”, nghĩa là nói các Bồ-tát không thể biết ở trên. Thuần-đà nói: “Mình và Văn-thù cũng như tiểu trí, phàm phu ở trước không thể suy lường”.

Nói “Mình và Văn-thù không suy lường, suy ra, các Bồ-tát, tất cả đều như vậy.”

Trên đây nói về nỗi lo trong tâm Phật đã hết.

Sau đây là đoạn thứ tư, Văn-thù thuật lời khen Thuần-đà. Vì sao phải làm như vậy? Vì cao nhân Văn-thù nói lập phi lý, vì nhiều người theo thọ lãnh, nên khen Thuần-đà khiến cho mọi người đều trở về tin tưởng Thuần-đà. “Đúng thế, đúng thế là “Ấn khả” lời nói của mình: “Tôi từ đây về sau, sẽ xoay về sự hiểu biết của chính mình, để chứng tỏ những hiểu biết trước đây của mình đã trở thành thuyết của Thuần-đà đã nói là đúng! Trực tiếp muốn thử quét dưới để lãnh tội lời nói trên.

Chính mình đã biết từ lâu, chỉ vì thử Thuần-đà kia, nên nói rằng, thử trực tiếp: Thuần-đà ông đồng với việc mà các Bồ-tát đã hiểu, nên nói rằng so sánh ông với sự nghiệp của các Bồ-tát. Vì trước đây, Thuần-đà tự nói rằng, “Mình đã hiểu” vì mình bình đẳng với các đại Bồ-tát, nên phải thử nghiệm.

Sau đây là đoạn ba, Đức Phật đối với Thuần-đà giảng giải rộng, để làm rõ ứng thân ở trước.

Hỏi: Trực tiếp giải thích như vậy, là đủ đâu nhọc công nói ứng thân?

Giải thích: Quyền che giấu sự lãnh đạo, dẫn đến hóa thân bỏ phế, nên phải nói về ứng thân. Nghĩa ấy ra sao? Nếu không nói về ứng thân của Phật có diệt độ thì không thể nào làm cho người nhàm bỏ hữu vi. Nếu không nói về Ứng thân Phật nhận cúng dường thì sẽ không thể nào giúp cho người được thành tựu công hạnh đàn (bố thí), và hướng vào vô vi, nên phải nói về Ứng thân. Trong văn có bốn:

  1. Đức Phật đôn đốc cúng dường, là nói Phật có đối đãi.
  2. “Bấy giờ nghe Phật nói xong, Thuần-đà cất tiếng kêu khóc v.v… trở xuống là nói ứng thân là hữu vi.”
  3. Như lai không muốn trụ lâu ở thế gian v.v… trở xuống, là đối với đoạn hai ở trước nói Ứng thân có diệt độ.
  4. Nay, ta nhận cúng phẩm mà ông đã dâng v.v… trở xuống là đối với đoạn thứ nhất ở trên nói Ứng thân có thọ cúng.

Hỏi: Vì sao có bốn đoạn này?

Vì trái với đoạn trước, thành đoạn trên, nên có bốn đoạn như vậy. Hai đoạn trước trong bốn, trái với hai đoạn sau của hai chân mà Thuầnđà đã nói ở trên, trở thành hai Ứng thân mà Như lai đã nói rõ ở trước, thế nên có bốn đoạn. Nghĩa này thế nào? Ở trước, đầu tiên là Thuần-đà nói về chân thân của Như lai là vô vi. Về sau, lại nói rõ chân thân của Như lai không có đối đãi. Nay, nương lời nói, tiện, lợi tức là trái với thứ lớp là từ sau tới trước: đoạn đầu trái ngược với “Chân thân không có đối đãi” của đoạn sau, là nói Ứng thân có đối đãi.

Đoạn hai trái với “Chân thân vô vi của đoạn trước, Ứng thân là hữu vi. Hai đoạn sau trở thành hai Ứng thân mà Như lai đã nói ở trên. Như lai hướng về trước, đầu tiên là nói Ứng thân của Như lai có thọ. Sau nói Ứng thân của Như lai có diệt. Nay, nương lời nói tùy tiện, theo thứ lớp từ sau tới trước mà thành lập.

Đoạn ba trở thành Ứng thân có diệt ở trên. Đoạn thứ tư trở thành Ứng thân có thọ ở trước.

Trong phần đầu có hai:

1/ Ánh sáng Phật soi chiếu thân nghiệp của Văn-thù thúc giục cúng dường.

2/ Nói bảo, là khẩu nghiệp của Thuần-đà thúc giục cúng.Trong phần trước có ba:

a) Ánh sáng Phật chiếu soi Văn-thù. Vì sao Phật phải làm như vậy? Vì trên đây, trong văn, Thuần-đà nói về chân thân Văn-thù thì biểu dương sáng tỏ về Ứng thân. Nay, vì muốn thuật lại thành đối tượng được Văn-thù làm sáng tỏ, nên Phật phát ra ánh sáng chiếu ngay Vănthù. Lại nữa, trước đây, Văn-thù đã thúc giục cúng dường. Nay, Như lai vì muốn cho Văn-thù thúc giục cúng lần nữa, nên Phật dùng ánh sáng chiếu soi. Lại, Phật là Bậc Đại Nhân muốn nói thẳng, tự vì mình thôi thúc thức ăn. Vì đối với hóa thân thì bất tiện, nên Phật dùng ánh sáng soi rọi Văn-thù, làm cho ngài thúc giục cúng trước, rồi sau đó mới giúp đỡ khuyến khích.

b) Văn-thù gặp ánh sáng, biết ngay biểu hiện thúc giục khiến cho mau chóng cúng dường. Gặp ánh sáng này là thân Văn-thù gặp ánh sáng Phật. Biết việc này, là biết của nội tâm. Biết việc Phật diệt độ, cũng biết Đức Phật phát ra ánh sáng vì thúc giục sự cúng dường.

“Tìm tòi, bảo v.v…” trở xuống là miệng nói thúc giục. Trước nói về ý nghĩa ánh sáng, Phật hiện tướng này thì không bao lâu nữa sẽ Niết-bàn.

Kế là Phật khuyên hãy mau chóng cúng dường v.v… trở xuống, là khuyên Thuần-đà biết ý ánh sáng, Phật phát ra ánh sáng này là vì thúc giục ông cúng dường, chẳng phải không có nhân duyên.

c) Thuần-đà nghe Phật nói, cảm thấy thương xót, nghẹn ngào, im lặng. Trong miệng Phật thúc giục, ý Thánh tha thiết, trịnh trọng đến ba lần.

Trên đây là đoạn thứ nhất nói Ứng thân có đối đãi. Dưới đây là đoạn hai, nói Ứng thân là hữu vi, trong đó, Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại là lý do. Sau là Phật giải đáp.

Trong thỉnh có hai:

1- Nghe Đức Như lai sắp nhập Niết-bàn, nên thương xót, kêu gào, than khóc .

2- “Lại bạch chúng v.v…” trở xuống là cầu chúng cùng với mình thỉnh chung. Vì sức cảm của một người không bằng nhiều người, nên mong cầu chúng thỉnh.

Trong phần Phật giải đáp, lại có hai:

1/ Đạp lại tình cảm của Thuần-đà, thương tiếc, khóc kể ở trước, Đức Phật khuyên ông đừng kêu khóc nữa!

2/ “Phải quán v.v…” trở xuống là đáp lại lời thỉnh trụ lại ở trước của Thuần-đà, Đức Phật khuyên quán năm điều lỗi quấy, nói Ứng thân là hữu vi, không thể trụ lâu. Đầu tiên, Đức Phật khuyên Thuần-đà và đại chúng hãy quán nghĩa “Không” vô ngã.

“Đồ dựng chén bát v.v…” trở xuống là khuyên quán vô thường, nên quán các hành như thức ăn có trộn lẫn thuốc độc. Khuyên quán khổ kia đều là hữu vi, thường có nhiều lỗi lầm. Khuyên quán bất tịnh: Ba mươi sáu vật nhóm hợp, hình thành thân mình, gọi là nhiều tai hoạ lỗi lầm!

Sau đây là đoạn ba, sẽ nói về Ứng thân có diệt. Văn chia làm bốn:

  1. Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại.
  2. Như lai đáp.
  3. Thuần-đà lãnh hội hiểu biết.
  4. Như lai nói lại lời khen.

Trong phần đầu có hai:

1/ Đối với lời khuyên Thuần-đà đừng kêu khóc của Như lai ở trước là nói Phật không trụ lại, nên thương xót, kêu khóc khó dừng.

2/ “Cúi mong v.v…” trở xuống, là đối với lời khuyên quán hữu vi của Như lai ở trên, thỉnh Phật thương xót vì tôi mà trụ lại lâu. Ý thỉnh như thế nào? Dù biết rằng Như lai tự nhàm chán hữu vi, nhưng vẫn xin Phật hãy thương xót, trụ lại đời lâu hơn, để dạy chúng con cách lìa bỏ.

Trong phần đáp cũng có hai:

  1. Đối với lời thỉnh sau nói trên, nói vì thương xót ông, nên hôm nay ta mới nhập Niết-bàn.
  2. “Nay ông hãy quán v.v…” trở xuống, là đối với lời thỉnh đầu, Như lai nói pháp hữu vi không thể trụ lại lâu. Khuyên Thuần-đà đừng nên thương tiếc!

Trong phần trước gồm bốn câu:

1/ Quở trách lời thỉnh của Thuần-đà: “Ông không nên nói rằng: “Vì thương xót con, mà trụ lại!”

2/ “Ta vì thương xót v.v…” trở xuống là nói biểu thị rõ ý hóa độ của mình trái với lời thỉnh của Thuần-đà: “Ta vì thương xót ông”, đối với “Cúi mong thương xót con” ở trước. “Và, tất cả”, nghĩa là đối với lần thỉnh trước và các chúng sinh mà nói. “Nay, ta nhập Niết-bàn”, trái với lời trụ lại lâu, chớ nhập Niết-bàn” ở trước, vì Đức Phật mong sao chúng sinh đồng lìa bỏ hữu vi, thú nhập vô vi, nên nói “Thương xót”.

3/ “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích, biểu lộ dáng vẻ thương xót: “Vì sao hôm nay ta nhập Niết-bàn?”, gọi là “Thương xót ông”. Pháp như vậy của Chư Phật, hữu vi cũng giống như vậy. Đối với câu hỏi, trình bày giải thích. Chư Phật vì hóa độ, pháp như vậy tận diệt, nên nói: “Pháp nhĩ”. Vì pháp hữu vi đồng với Phật, nên nói “Cũng như vậy”, làm cho các chúng sinh biết Phật là “Pháp nhĩ”, pháp hữu vi cũng thế, nhàm lìa hữu vi nên nói là “Thương xót”. Pháp hữu vi này và cảnh giới của Chư Phật ở trước đều vô thường. Các hành pháp cũng như vậy, tương tự với nghĩa đó.

4/ “Cho nên v.v…” trở xuống, chứng minh rõ tướng trạng cũng giống như vậy của hữu vi ở trước, hữu vi là vô thường, sinh rồi thì không trụ nói đồng với Như lai hữu vi, vô thường. Vì vô thường nên khổ, vì vắng lặng nên vui, nói đồng với Như lai “Diệt rồi là vui”.

Sau đây là đối với lời thỉnh đầu, trong phần khuyên dứt thương xót, trước là đối với lời nói “Không muốn trụ lại lâu” của Như lai ở trước nói pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm, khó trụ lại.

“Thế nên v.v…” trở xuống, đối với “Ta làm sao mà không kêu gào, khóc lóc” ở văn trên, là kết khuyên dứt, buồn thảm. Trong phần trước, “Ông hãy quán tất cả hành”, là khuyên bảo lẫn lộn với quán khổ kia. “Các pháp vô ngã” là khuyên quán vô ngã, vô thường không dừng trụ là khuyên quán vô thường. Thân này có vô lượng tai hại lỗi lầm, là khuyên quán bất tịnh. Giống như bọt nước, là khuyên quán không kia. Cho nên, nay ông không nên kêu khóc. Pháp hữu vi này có đủ các lỗi trước nên không thể trụ lại, không nên kêu khóc.

Đoạn ba, trong phần nhận hiểu của Thuần-đà, “Đúng thế, đúng thế” là thành thật như lời Thế Tôn đã dạy bảo, thuật chung lại lời Phật đã dạy, như Phật đã nói “Tất cả đều phải lìa” nên nói “Như thế”

Sau đây, là thứ lớp giải đáp: Dù biết Như lai phương tiện Niết-bàn nhưng con chẳng thể không ôm lòng khổ não. Đối với “Sau khi Đức Phật khuyên nhủ, không nên gào khóc”, đủ thấy rõ thương xót khó ngăn dứt. “Che giấu lo nghĩ của mình v.v…” trở xuống, là đối với lời đáp trước của Phật, nói về sự vui mừng của mình, là do Đức Phật thị hiện diệt độ, mà được biết lỗi của hữu vi, hướng vào vô vi, cho nên vui mừng.

Đoạn thứ tư, trong phần Như lai thuật lại lời khen, đầu tiên là đối với ở trước, dù biết rằng, Như lai phương tiện Niết-bàn mà vì khen ngợi.

Lành thay! Là lời khen.

“Có thể biết mình v.v…” trở xuống, là nói ra lời Phật đã khen.

“Nay, ông v.v…” trở xuống là đối với câu “không thể không mang khổ não” ở trước, mà Phật phải vì Thuần-đà và đại chúng mà mở rộng giải thích, trong đó có ba:

1/ Nói về hóa thân của Như lai sẽ phải diệt độ.

2/ “Không nên lo nghĩ v.v…” trở xuống, là nói tuổi thọ của Phật dài ngắn khó có thể suy lường, không nên buồn rầu không nhiễm đắm đối với tâm hữu vi, bảo phải cầu lìa bỏ không nên buồn rầu, trong đó trước là thí dụ. Như chim Ta-la-ta dụ cho Ứng thân Phật. Tháng xuân dương là tháng nuôi con, dụ cho thời gian căn cơ các chúng sinh thành thục, đều nhóm hợp ở ao A-nậu kia, dụ cho Đức Phật đồng quy tận diệt ở sông lớn. Chim bay vào ao lớn, dẫn con cùng vào. Đức Phật nhập Niết-bàn vì dẫn dắt chúng sinh tiến vào vô vi.

3/ Sau đây, kế là hợp dụ. “Chư Phật cũng giống như vậy”, hợp với chim Sa-la-sa, “đều đến chỗ này” hợp với tháng xuân dương. Nhóm hợp ở ao A-nậu, cái gọi là đến chỗ tận diệt.

Trong câu hai, “Không nên lo nghĩ tuổi thọ của Phật là dài hay ngắn, vì dùng lý để khuyên răn dài, ngắn khó suy lường, vì thế không nên lo nghĩ.”

Trong câu thứ ba nói: “Tất cả các pháp đều như ảo thuật”, nghĩa là nói hữu vi luống dối, Như lai đã tận dụng năng lực phương tiện, nên không đắm nhiễm ô, vướng mắc là nói Đức Phật không nhiễm ô, không mê đắm, nên nói “Phương tiện”.

“Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích: Đối với pháp hữu vi, Chư Phật đều không tiêm nhiễm, nên nói “Pháp nhĩ”. Do không chấp mắc, nên hôm nay nhập Niết-bàn, ông không nên buồn rầu.

Trên đây là đoạn ba, đã nói về Ứng thân có diệt độ. Sau đây là đoạn bốn, sẽ nói về ứng thân có thọ, trong đó có hai:

  1. Đức Phật hứa nhận cúng, thúc giục chúng mau cúng dường.
  2. Thuần-đà vâng lời Phật, trở về nhà để sửa soạn cúng phẩm.Trong phần trước lại có hai:
  1. Đối với Thuần-đà ở trên, tâm tự vì mình, nên Phật hứa vì Thuầnđà mà nhận cúng.
  2. “Nếu ông vì chúng sinh mà làm ruộng phước v.v…” trở xuống, đối với Thuần-đà ở trên, tâm vì người khác, thúc giục mau chóng cúng dường.

Trong phần trước nói: “Nay ta nhận cúng phẩm mà ông đã dâng”, chính là hứa nhận cúng,vì muốn cho ông vượt qua biển sinh tử, là nói ý nhận cúng của mình. “Nếu về sau, các người, trời cúng dường”… trở xuống là khen lợi ích, khuyên làm, nghĩa là sẽ được quả báo bất động của Như lai. Vì sao? v.v… trở xuống là giải thích lý do được. Vì ta là ruộng phước tốt của chúng sinh, nên người cúng đều được. Đối với trong vì người khác, ông muốn làm ruộng phước cho chúng sinh: Là nêu chỗ cầu mong của Thuần-đà là mau chóng nói về quyền thí.

Y theo phần nói về Thuần-đà sắm sửa cúng phẩm được chia làm ba:

1/ Nói: “Vì chúng sinh được độ thoát, nên Thuần-đà phải đành cúi đầu nuốt lệ, gắng gượng đè nén tình cảm thương đau. Nếu không cúng Phật để cầu thoát khỏi sinh tử, thì luống thương xót, buồn bã vô ích, nên phải gắng gượng đè nén cảm xúc, cắt đứt tình thương tiếc, bèn không rơi lệ, gọi là nuốt lệ.”

2/ “Bạch Phật v.v…” trở xuống, là lãnh hội lời khuyên ở trước của Phật, nói trong hiện tại, mình không thể lo nghĩ suy lường tuổi thọ của Phật là dài hay ngắn, trong đó trước nói về đương lai, có thể biết. “Nay, chúng con v.v…” trở xuống, là nói hiện tại không biết. Đó gọi là ứng, hóa thân của Như lai, thị hiện diệt độ, cho là Niết-bàn, chân thân sẽ ở lại là chẳng phải Niết-bàn. Nếu khi ta thành Phật, thì sẽ có khả năng vì chúng sinh làm ruộng phước, biết hóa thân Phật diệt, gọi là biết Niếtbàn. Biết chân là thường còn gọi là chẳng phải Niết-bàn. Vì hiện tại chưa biết hóa than của Như lai diệt độ, nên nói “Chúng con không thể suy nghĩ, suy lường Niết-bàn của Như lai. Cũng không biết được chân thân của Phật là thường trụ, nên gọi là chẳng phải Niết-bàn.

3/ Lúc bấy giờ v.v… trở xuống: giã từ Đức Phật để sắm sửa cúng phẩm. Thuần-đà dâng cúng phải có người chỉ bảo, nên thường đi theo Văn-thù.

Trên đây là đoạn thứ nhất, đối với ảnh hưởng của Thuần-đà, nói quả báo Bồ-đề là thường.

Sau đây là đoạn hai, đối với hành vi của Thuần-đà, nói pháp Niếtbàn là thường, trong đó, đầu tiên quả đất rung chuyển là lý do. Bấy giờ “Trời, rồng v.v…” trở xuống là Tỳ-kheo hết lòng thỉnh, Như lai nói pháp cho họ nghe.

Trong phần trước có ba:

  1. Chính là nói về quả đất rung chuyển.
  2. “Động có hai v.v…” trở xuống, là nói rộng về mặt đất rung chuyển, lớn nhỏ khác nhau.
  3. “Từ Đâu-suất v.v…” trở xuống, là nói về hiện tượng xảy ra trong thời gian quả đất rung chuyển.

Y theo đoạn đầu, cách Phật chưa lâu, là nói thời gian quả đất rung chuyển, là thời gian mà mặt đất rung chuyển sáu cách, nghĩa chính là nói quả đất rung chuyển. Hiện tượng này gây rung chuyển mặt đất có sáu:

Như Địa kinh nói:

  1. Chuyển động.
  2. Nhảy vọt lên.
  3. Nổi dậy.
  4. Rung động, phấn phát lên.
  5. Tĩnh.
  6. Tiếng rống.

Cho đến Phạm thiên, là nói về phạm vi của việc rung động.

Trong đoạn hai, trước là nêu hai số. Kế là nêu hai danh. Có khi đất rung chuyển là tiểu động, hoặc có khi rung chuyển cả mặt đất, là đại động. Theo Địa kinh, thì sự rung chuyển chia làm ba: rung động, rung động khắp và rung động bình đẳng.

Xứ động: gọi tắt là động, rung chuyển cùng khắp theo thứ lớp trước sau, gọi là biến động. Rung động khắp cùng lúc, gọi là đẳng biến động. Nay, xếp vào hai: Đầu tiên là rung chuyển trực tiếp, gọi là tiểu.

Biến và đẳng biến, gọi là đại. Sau đây, sẽ nói rộng:

Về câu, được chia làm năm:

  1. Y cứ sự rung động để nói về lớn, nhỏ. Rung động, như xe lắc lư.
  2. Y theo tiếng rống phát ra từ trong lòng đất.
  3. Y theo địa chấn. Rung chuyển thì đi xuống, đứng dậy như cây lúa đứng dậy.
  4. Y theo hiện tượng phun vọt lên. Vọt lên, như suối nước sôi sùng sục.
  5. Y theo thức tỉnh, làm cho người tỉnh biết, lời văn dễ hiểu. Người kiết tập kinh này đã phân biệt rõ.

Trong đoạn ba, trước là người kiết tập kinh, đã nói rộng về đối tượng đã làm. Trong tám tướng thành đạo của Như lai, y theo sáu tướng để nói về việc mà Phật đã làm:

  1. Lúc từ Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề.
  2. Lúc mới sinh.
  3. Lúc xuất gia.
  4. Lúc thành đạo.
  5. Lúc xoay bánh xe pháp.
  6. Lúc Niết-bàn.

Hai thời kỳ sinh lên Đâu-suất và ở trong thai mẹ thì không nói.

“Ngày nay v.v…” trở xuống, là tự nói về việc mà Phật đã thực hành trong tiếng rung chuyển của mặt đất, nên văn sau nói: “Người, chẳng phải loài người, khi vừa nghe âm thanh này rồi, khắp mình đều nổi óc.

Sau đây là đoạn hai, Tỳ-kheo lộ vẻ thảm thương, thỉnh Phật giảng nói. Về nghĩa trong phần này có hai, văn có bốn.

Nói nghĩa có hai:

  1. Nói về ba việc Niết-bàn của Như lai.
  2. “Lúc bấy giờ v.v…” các Tỳ-kheo nghe Phật, Thế Tôn nói chắc chắn Niết-bàn v.v… trở xuống, là nói về nghĩa thật của bốn pháp.

Văn có bốn:

  1. Các Tỳ-kheo tha thiết thỉnh Phật là lý do.
  2. Phật bảo Tỳ-kheo: “Đừng như phàm phu, các trời, người v.v…” trở xuống, là Như lai vì chúng nói ba việc Niết-bàn.
  3. Các Tỳ-kheo nghe Phật, Thế Tôn chắc chắn nhập Niết-bàn v.v… trở xuống, là Tỳ-kheo lại tha thiết thỉnh Phật lần nữa là lý do.
  4. Phật bảo Tỳ-kheo: “Hãy lắng nghe cho kỹ v.v…” trở xuống, Như lai vì chúng nói bốn pháp thật nghĩa.

Trong đoạn thứ nhất, đầu tiên là nói đại chúng thấy tướng mà thương xót trước nêu người buồn khóc. Nghe lời này rồi là lý do thảm thương. Nghĩa là nghe tiếng rung chuyển của mặt đất ở trước. Nay vì Như lai sắp nhập Niết bàn, nên mặt đất mới rung chuyển mạnh như thế.

“Rùng mình v.v…” trở xuống chính là nói về nỗi thảm thương. “Thân trước, miệng sau” trở xuống là thỉnh Phật trụ lại, trong đó có hai:

  1. Nêu lên sự tổn hại và lợi ích của việc Như lai ra đi, trụ lại, cho nên cầu thỉnh Như lai.
  2. Sau bài kệ, là văn xuôi nêu việc bậc Thánh ra đi, không nên gạn thỉnh Như lai.

Trong phần trước, kệ có mười ba hàng rưỡi, được chia thành hai:

đầu tiên là mười một bài kệ rưỡi, nói bậc Thánh ra đi sẽ gây ra tổn hại.

Hai bài kệ sau cuối, nói về bậc Thánh ở lại có lợi ích.

Trong tổn hại có bốn:

  1. Bốn hàng rưỡi, nói chính mình không có người cứu giúp.
  2. Có bốn bài kệ chỉ bày rõ ràng mình không có nơi nương tựa.
  3. Có một bài kệ nêu việc bậc Thánh ra đi không trở lại, thành ra không có người cứu giúp ở trước.
  4. Có hai bài kệ, nói không có người cứu giúp.

Hai bài kệ rưỡi sau, nói về tổn hại không có người cứu giúp.

Trong không có người cứu giúp, đầu tiên có nửa bài kệ tự giảng nói tâm mình. Kế là, có nửa bài kệ nói không có người cứu giúp. Một bài kệ sau, bày tỏ nỗi khổ thương xót của mình.

Trong tổn hại không có người cứu giúp, trước là pháp, kế là dụ, sau là hợp, dưới là kết.

Nghèo cùng không ai cứu giúp là pháp thuyết, nghèo, không có của cải tốt lành, ác không có ai cứu giúp.

“Giống như v.v…” trở xuống là dụ. “Chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp. “Cho nên v.v…” trở xuống là kết.

Bốn bài kệ kế là nói trong không có nương tựa, bài kệ đầu là nói không có công đức sở y. Trước là dụ, sau là hợp.

“Chúng ta” hợp với người, “Mất Bồ-tát”, hợp với nước không có vua chúa trước và pháp vị, nghĩa là hợp với đói khát ở trước.

Bài kệ thứ hai nói về nỗi khổ thương xót của mình, trước là pháp, sau là dụ.

Bài kệ thứ ba, không có chỗ nương của tuệ. Đại tiên nhập Niếtbàn, mặt trời Phật đã lặn. Không có người để nương tựa.

“Chúng ta chắc chắn phải chết”, là nói tổn hại không có ai để nương tựa. Vì tuệ mạng không nối tiếp nên nói là chắc chắn chết.

Bài kệ thứ tư là nói về nỗi khổ thương xót của mình, trước pháp, sau dụ.

Bài kệ kế là, nêu Đức Phật không thể trở lại, trở thành không có người cứu giúp. Nửa bài kệ đầu, là nêu Đức Phật không trở lại, nửa bài kệ sau, là nói không ai cứu giúp mình.

Hai bài kệ kế là, nêu Đức Phật buông bỏ, trở thành không có ai nương tựa, đầu tiên có một bài kệ rưỡi, nói về nỗi khổ thương xót của mình. nửa bài kệ sau, oán trách Phật buông bỏ, trở thành không có người nương tựa.

Trên đã nói về việc tổn hại của sự ra đi. Dưới là bày tỏ lợi ích của việc trụ lại. Một bài kệ rưỡi đầu, là nói Đức Phật trụ ở đời, giúp cho người lìa khổ. Bài kệ đầu lập dụ, nửa bài kệ sau là hợp. Ánh sáng, thần thông của Như lai hợp với ba câu trước, có thể dứt trừ nỗi khổ của con, hợp với một câu sau. Dưới, có nửa bài kệ, nói về công năng sinh ra điều lành, trước pháp, sau dụ.

Sau đây là đoạn hai, nói về bậc Thánh ra đi., không nên gạn thỉnh

Như lai. Về thỉnh, riêng có năm được gọi bằng hai nghĩa:

1. Y cứ đối tượng hóa độ để chia ra năm cách thỉnh. Chia thế nào?

  1. Chúng sanh được hóa độ có thỉnh trước.
  2. Chúng sanh được hóa độ có khả năng nhận thỉnh.
  3. Chúng sanh được hóa độ chưa nói ra lời thỉnh.
  4. Chúng sanh được hóa độ chưa thỉnh ngang nhau.
  5. Chúng sanh được hóa độ thỉnh một cách mê hoặc.

2. Y theo chủ thể hóa độ, để chia thành năm cách thỉnh. Phân chia thế nào?

  1. Nói về thỉnh Như lai có đầu, không có cuối.
  2. Thỉnh có sự sợ hãi chưa dứt trừ.
  3. Thỉnh việc chưa làm xong.
  4. Thỉnh việc làm chưa ngang nhau.
  5. Thỉnh chưa đồng với đức Từ dẫn đường.

Trong phần thỉnh thứ nhất, đầu tiên là dụ, kế là hợp.

“Cúi mong v.v…” trở xuống là kết thỉnh Phật trụ lại đời. Trong dụ, như vua dụ cho Phật, Như lai. Sinh ra, nuôi dạy các con dụ cho các Tỳ-kheo. Vì từ Phật hóa độ mà khởi, nên nói là sinh ra, nuôi dạy. Căn cơ đạo không cong vạy, gọi là dung mạo khôi ngô. Tâm Thánh thương xót, gọi thường yêu thương, nhớ nghĩ. “Khuyên dạy ba học”, gọi là dạy về kỹ nghệ. “Việc tập đều thành” gọi là “Đều thông minh, nhạy bén”. Đây là dụ cho có đầu. Sau đây, so sánh với không có cuối: Đức Phật bỏ diệt độ, làm cho các Tỳ-kheo sẽ bị biến dịch sinh tử “gọi là giết kẻ đầu sỏ. Sau đây kế là hợp. Ngày nay chúng ta là Pháp vương tử hợp với Vương tử ở trước, được Phật dạy bảo, hợp với dạy kỹ nghệ, đã có chánh kiến lại thông minh nhạy bén”. Cũng có thể hợp với “Dung mạo khôi ngô” ở trước. Đây là hợp với có đầu.

Sau đây, là hợp với không có cuối.

“Xin đừng xả bỏ, trái với sự gửi gắm cho sự giết hại, như cử chỉ xả bỏ của Phật hợp với phó thác cho sự giết hại. Kết thỉnh, rất dễ hiểu.

Trong lần thỉnh thứ hai, trước là nói Như lai còn có sự sợ sệt. Trong phần trước, trước là dụ: “Có người” là dụ cho Phật. “Người khéo học biện luận, dụ cho tự mình biết pháp, lại sinh ra sợ sệt đối với luận này, sợ người khác không tin.

Sau đây, kế là hợp: “Như lai cũng thế”, hợp với “Có người” ở trước. Người thông suốt pháp, hợp với “Học các luận”, nghĩa là thấu suốt các pháp Đại thừa. Người sợ sệt đối với pháp, hợp với “Người học biện luận này mà sinh ra sợ hãi”, sợ người không tin, sẽ đọa vào địa ngục.

Sau đây trong phần thỉnh Phật trụ lại, nếu làm cho Như lai trụ lâu trên thế gian, để nói vị cam lộ, đầy đủ tất cả, thì thỉnh Phật trụ lại để nói pháp, gọi pháp Đại thừa cho là cam lộ. Với chúng sinh như vậy, thì không còn sợ đọa địa ngục: Là nói về lợi ích, cho rằng đối với chúng sinh đã được hóa độ như thế, Như lai không còn sợ họ không tin để phải đọa vào địa ngục nữa.

Trong lần thỉnh thứ ba, trước là dụ, sau là hợp. Trong dụ, “Như người mới học làm việc, bị quan bắt bỏ tù”, là dụ cho Đức Phật hóa độ, mở đầu tùy theo chúng sinh ở “Hữu”. “Có người” dụ cho Đức Phật. Thời kỳ còn ở trong nhân ở trước, Đức Phật mới tập hóa độ người, gọi chung là học làm việc. Cảm căn cơ của bậc Thánh, gọi là quan. Cảm Phật tồn tại hữu vi, gọi là bị quan bắt. Thường theo không bỏ, gọi là bị giam trong tù. Theo xưa, ngục vuông vức, được gọi là nhà tù.

“Có người hỏi v.v…” trở xuống là dụ cho việc hóa độ chưa xong, không được yên ổn. Có người hỏi Thuần-đà: “Ông đã nhận việc gì?

Mượn câu hỏi để khởi phát. Hạng đồng hành, gọi là “Có người”.

Hỏi: Đức Phật ở trong ba cõi, nên gọi là “nhận việc gì?”

Đáp: Nay, ta cảm nhận khổ lớn. Giả đáp để bày đức. Vì chúng sinh đang đau khổ mà khuyên bảo, gọi là cảm nhận nỗi khổ lớn.

“Nếu chúng sinh kia thoát khỏi v.v…” trở xuống là dụ cho nói về sự nghiệp hóa độ đã xong, mới được niềm vui.

Dưới đây là hợp. “Đức Thế Tôn cũng vậy”, hợp với “Có người”. “Vì chúng con, nên Phật mới tu các khổ hạnh”, hợp với “vì mới học làm việc, nên đã bị quan bắt.” Nay, chúng con chưa thoát khỏi sinh tử, làm sao Như lai được niềm vui?, là hợp với có người hỏi: “Ông nhận việc gì?”

Đáp: Nay, ta chịu khổ não lớn”. Con chưa thoát khổ, nay Đức Phật chính là vì con mà chịu khổ, sao nỡ bỏ con để tự thọ hưởng yên vui?

Nếu thoát khỏi thọ hưởng niềm vui, thì lược bớt mà không hợp.

Trong lần thỉnh thứ tư, văn chia làm ba:

  1. Nói về công hạnh mà Như lai đã làm không bình đẳng.
  2. Như lai đối với pháp, lẽ ra không có bỏn xẻn v.v… trở xuống, dùng lý để trách Phật.
  3. “Cúi mong v.v…” trở xuống, là kết thỉnh Phật trụ lại.

Trong phần đầu, trước là dụ. Y vương, dụ cho Phật. “Hiểu rành phương thuốc” dụ cho Phật biết được bí pháp Đại thừa, truyền dạy riêng cho con mình, nghĩa là dụ cho Phật chỉ dạy cho Văn-thù, không dạy người khác, dụ cho Phật không dạy các Tỳ-kheo v.v…

Dưới đây là hợp. “Như lai cũng vậy”, hợp với “Thầy thuốc hiểu rành phương thuốc”. Chỉ dùng bí tạng, truyền dạy riêng cho Văn-thù, hợp với thầy thuốc truyền dạy bí phương cho con mình.

“Bỏ sót chúng con” hợp với “Không dạy người thọ học bên ngoài khác.”

Trong lời trách thứ hai, trước nói đối với pháp, Như lai không có bỏn sẻn, trách đồng với thầy thuốc thế gian. Sau là nói Như lai không có nghiêng về đối với người, trách đồng với thầy thuốc ở đời.

Trong phần trước, đầu tiên là nói: “Như lai đối với pháp lẽ ra không có bỏn xẻn, nghĩa là lượng Thánh khác với phàm. Dùng lý để trắc nghiệm, tìm tòi, chưa dám chuyên quyết, do đó nên nói “Lẽ ra”.

“Như thầy thuốc kia dạy riêng con mình v.v…, là trách Thánh đồng với phàm.”

Trong phần sau, đầu tiên nói: “Sở dĩ thầy thuốc kia không thể truyền dạy khắp, là vì tâm còn thấy hơn, thua còn phân biệt phàm khác với Thánh, tâm Như lai không hề hơn kém. Lượng Thánh khác với phàm. “Sao không thấy dạy bỏ”, là trách Thánh đồng với phàm.

Đoạn ba, là kết thỉnh. Văn rõ ràng, dễ hiểu. Trong lần thỉnh thứ năm thì trước dụ, sau hợp. Trong dụ, ví như người già bệnh, trẻ, Tỳkheo dụ cho mình, lìa xa người lành, đi vào chốn nguy hiểm, rõ ràng là mình đã mê hoặc. “Lại, có người v.v…”, dụ cho Ứng thân của Phật, Như lai nhìn thấy liền chỉ bảo, dẫn dắt họ. Người khác dụ cho Phật, thấy vậy thương xót, dụ cho Ứng thân thương xót, “liền chỉ bảo v.v…” dụ cho nên dạy bảo.”

Trong hợp, đầu tiên là hợp với “Mê hoặc của mình”.

“Ta cũng như thế” là tổng hợp. “Nghĩa là v.v… trở xuống, là riêng”.

“Cúi mong v.v…” trở xuống là y theo người khác ở trước để thỉnh Phật chỉ bảo, dẫn đường cho họ. Cúi mong chỉ bảo cho con đường chánh cam lộ, thỉnh Phật nói pháp Niết-bàn vô thượng. Vì có công năng dứt trừ phiền não, nóng bức, nên nói là cam lộ.

Y theo dụ để gọi pháp, nói là chánh đạo, trụ lâu trên đời v.v…, là xin Phật không diệt độ.

“Nhưng hai lần thỉnh này v.v…” trở xuống là Phật giải đáp có thuận, có trái, cần phải xem xét, ghi nhận.