TRÊN ĐỈNH THÁI SƠN
Hạnh Đoan

 

CON RẮN
Hạnh Đoan (Viết theo lời kể của người bạn)

Từ lúc dời về ngôi chùa quê hẻo lánh ẩn cư, cuộc sống bình dị khiến ông Năm hết sức mãn nguyện.

Đã từng là một phú gia, từng đấu vật với cuộc sống nhiều thành bại thăng trầm chốn thương trường, ông Năm thấy mình hoàn toàn hạnh phúc khi được buông bỏ hết để làm một “vô sự nhân” sớm mõ chiều chuông, mặc lũ con ông phản kháng. Chúng đã quen với cuộc sống nhung lụa, chưa mòn mỏi với thế sự như ông. Giờ ông đã là người bên lề – bên lề mọi tranh giành, mọi đua chen ham muốn – Ở tuổi sáu mươi, ông đã từng nếm trải đủ mùi đời thì còn có gì nữa đâu mà thèm khát? Ờ, có chứ – ông còn thèm một điều – là ngày nào đó khi lìa bỏ cõi đời này, ông sẽ ra đi một cách tự tại giải thoát – mà giải thoát không thể ngồi đó mà mơ, phải thực hành! Phải chịu khó chăm chỉ tu, giống như hồi xưa ông dồn hết tâm huyết để mà làm giàu vậy. Hòa thượng đã dạy ông cách nhiếp tâm, ông tập sự gieo nhân giải thoát, theo dõi tâm trong từng phút giây, không để những vọng niệm phù hư lúc nào cũng cuồn cuộn trong tâm dẫn dắt, lôi kéo mình mê muội chạy rong. Tuổi già, tu muộn là điều đáng tiếc, ông cố không để tâm trói buộc bởi điều gì. Ông chẳng muốn sinh sự mà sự cứ sinh – tất cả là tại con rắn!

Ông về chùa mới chưa được một tuần thì con rắn xuất hiện. Ông vốn là chúa sợ rắn, lại càng sợ hơn khi thấy con rắn cứ quẩn quanh ở mãi trong chùa, hễ ông công phu bái sám bao nhiêu là con rắn hiện đủ, như thể nó cùng tu với ông vậy. Điểm khiến ông nhìn ra con rắn không thể lầm với con rắn nào khác là cái mào đỏ rực ở trên đầu. Ở thôn quê có nhiều rắn là thường, nhưng vị khách không mời này cứ lì lợm tới mãi khiến ông cũng hoảng, nhiều lúc nó làm ông sợ tới muốn vất mõ chuông mà chạy (chuyện này người ta mà biết thì cười ông chết thôi ), có lúc con rắn ngự hẳn trên bàn thờ Phật, quấn quanh lư hương, lo le cái lưỡi trông mà khiếp. Ông Năm đành ngồi thiền nhiều hơn, ngồi trong mùng, trên giường, khỏi sợ con rắn chui vô, vì nó có vẻ thích chánh điện lắm. Ông Năm niệm Quan Âm chí tử, khẩn khoản xin ngài chiếu cố “cứu vớt đời ông” ra khỏi con rắn, hoặc “cứu” con rắn ra khỏi chùa ông, làm sao cho ông hiểu được lý do rắn đeo mình hoài để bớt sợ. Ôi! nói huyễn mộng dễ chứ hành thiệt khó và ông chí thành niệm Quan Âm miên mật, quên hẳn đêm đã quá khuya, quên hẳn tất cả cảnh vật bên ngoài…

… Anh thanh niên mặc quân phục lấm lem bụi và máu. Anh có vẻ mệt mỏi, đau đớn vì vết thương đang mang, lê từng bước khó nhọc vào chùa. Ông Năm chưa kịp hỏi thì anh đã lên tiếng:

– Thầy không nhìn ra con sao?

– Anh là ai?

Anh thanh niên kể: – Hồi sắp giải phóng, thân quyến con chạy loạn, gom góp vàng bạc tư trang đưa con cất. Cả nhà con đều bị cướp giết chết hết. Phần con ôm số vàng chạy đến bờ sông trước chùa này thì bị thương nặng, con gượng sức tàn ráng chôn vàng ở kế cây me gần bờ sông. Sau đó lòng lo lắng không yên cứ sợ vàng bị lấy cắp, thêm oán hận lũ cướp giết người đoạt của, con trút hơi thở cuối cùng…

Ông Năm lắp bắp:

– Vậy… anh là người đã chết?

– Dạ con là con rắn! Con bị đọa làm thân rắn do bởi lúc gần chết khởi ác niệm sân hận và tiếc của… Giờ con cầu Thầy ra ân, xin Thầy đào lấy số vàng đó lên đem trai tăng cúng chùa để siêu độ cho con và gia quyến giùm…

– Tui biết ở đâu mà đào?

– Con sẽ chỉ chỗ cho Thầy. Số vàng đó con gói tới mấy lớp giấy, cuộn trong bịch ni-lông rồi bỏ trong cái lon guigoz chôn xuống đất. Con chôn cạn lắm vì lúc đó bị thương sức yếu… Thầy đào độ hai tấc là gặp ngay. Xin Thầy từ bi giúp con…

Nói vừa dứt lời anh thanh niên vội vàng xá chào bỏ đi ngay, như thể sợ đứng đấy lâu bị thầy từ chối. Ông Năm gọi giật lại:

– Này! Anh kia! Cho tôi hỏi… Đứng lại!….

Bàn tay ông Năm quờ quạng trong khoảng không, ông giật mình thức giấc, mới hay mình vừa chiêm bao. Giấc mộng cứ ám ảnh khiến ông Năm băn khoăn mãi, cuối cùng ông quyết định cứ ra bờ sông đào thử xem thực hư thế nào?

Thật ra ông Năm pháp danh Thường An, nhưng ở vùng quê khỉ ho cò gáy này, cư dân hiểu đạo chẳng nhiều, họ cũng kiêng không dám gọi tên mà cứ gọi là ông Năm. Cái danh kêu nghe bình dân như tâm hồn chất phác của người dân miền sông nước. Buổi sớm mai nắng chưa lên, sương còn giăng mờ cảnh vật. Ông Năm vác cuốc đi tới bờ sông, dừng cạnh cây me, nhìn quanh quất ông lẩm bẩm than:

– Người ta ký thác nhờ mình giúp, không làm thì tội, chẳng biết là thật hay chiêm bao hoang đường đây? Chèn ơi, trời đất mênh mông biết chỗ nào mà đào?

Đang băn khoăn, ông Năm chợt thấy con rắn bò đến, vẫn cái mào và khoang đỏ ở cổ, sao mà nó lạ vậy chớ? Chắc là lửa sân tích tụ thành khoang đỏ và cái mào đỏ? Nghĩ lan man, ông bỗng thấy con rắn bò đến khoảng đất trống, cách cây me và bờ sông bốn, năm thước. Con rắn gục đầu mấy lần nơi đất, ý như muốn ông đào chỗ đó. Ông Năm bảo nó:

– Tui hiểu rồi, làm ơn bò ra chỗ khác cho tôi làm việc, chứ ở đây tui… run, đào không nổi đâu!

Con rắn liền bò đi xa, ông Năm khởi sự đào, quá hai tấc, ba tấc… rồi đến bốn tấc… chẳng thấy tăm dạng gì.

Ông gọi:

-Ấy…. ơi, có chỉ sai chỗ không? Hay ai lấy mất rồi, chẳng thấy tăm dạng gì cả!?

Con rắn bò tới, săm soi chỗ ông đang đào rồi gục đầu, vẻ van lơn ông đào tiếp. Phải đào gần chín tấc, ông Năm mới thấy cái lon chứa đủ số vàng như đã tả. Hóa ra vì chôn gần bờ sông, sau những cơn lụt và đất phù sa bồi đắp, của chôn đến nay đã bảy tám năm nên hai tấc biến thành chín tấc.

Vài ngày sau, ông Năm lại nằm mơ thấy anh thanh niên đến tạ ân. Anh kể lể: – Con vì chút lòng tham ngu muội lúc cận tử mà đọa thân rắn. Nhờ con biết nghe kinh và trì Thánh hiệu Đức Quán Âm theo Thầy mà được phúc có thể báo mộng nhờ Thầy giúp đỡ. Cảm tạ Thầy đã thỉnh chư Tăng chú nguyện siêu độ cho con và thân quyến. Trong thời gian con chờ mãn thân rắn, xin phép Thầy cho con ở đây, ngày ngày nghe kinh gieo duyên với đạo, để khi xả thân thú hoàn phục thân người, con được gặp Phật pháp, biết tu mà không đọa lạc nữa… Đây là lần báo mộng cuối cùng của con, kính chào Thầy!

Chiều nay, ông Năm vừa chôn xác con rắn xong. Ông đặt pháp danh cho rắn là Xả Ly. Mong rằng nó giữ được hạnh nguyện đó dù tái sinh bất cứ cảnh giới nào. Trong cuộc sống có lắm chuyện lạ kỳ. Hồi nhỏ mỗi lần đọc chuyện tiền thân Phật, thấy mấy cái tựa “ Vàng và rắn”, “Tham vàng hóa rắn”, ông không tin, nhưng giờ tự mình mục kích chuyện con rắn, ông mới thấy mình còn ngu nhiều quá. Phật thường dạy của cải vốn phù du và thuộc về năm nhà: Vua quan, lửa, nước, trộm cướp, giặc giã. Tất cả “nhà” này đều có thể lấy tiền của ông bất cứ lúc nào, biến ông thành tay trắng hệt thuở mới sinh, nhưng đến và đi đều phải trở về tay trắng là qui luật chung của con người, có ai mang được gì theo đâu? Chuyện con rắn và ông, người ta có tin hay không chẳng quan trọng. Quan trọng là ông đã kể được những gì mình biết và chân thành trao nó như một quà tặng hiến dâng cho đời.

*
(Đã đăng trên báo G-N 52-53 ra ngày 31/1/2001
qua bút danh H.T.H)