CHUYỂN PHÁP LUÂN TỒI MA OÁN ĐỊCH PHÁP

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

_Bấy giờ Tồi Ma Oán Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các hàng Bồ Tát mọi mỗi đều nói Giáo Pháp của Chân Ngôn bí mật

Thế Tôn! Nay con vì muốn ở thời Mạt Pháp sau này, hộ trì quốc vương với hộ Quốc Giới, các hữu tình cho nên nói Pháp Tồi Ma Oán Địch bí mật trong bí mật bí thắng tối mật. Nguyện xin Đức Thế Tôn xót thương nghe hứa”

Đức Phật bảo:”Hãy nói”

_ “Thế Tôn! Nếu có nước lân cận xâm nhiễu bờ cõi của đất nước (quốc giới). Hoặc quân chúng trong nước của mình quá ít, hoặc lại khiếp nhược, hoặc có bề tôi khởi ác phản nghịch…Liền nên lấy cây Giản Mộc làm một cây phướng dài 12 ngón tay, giáp vòng tròn 08 ngón tay, khiến vót cho thật tròn trịa. Như Đức Thế Tôn đã Sắc cho tất cả tám Bộ Trời Rồng khiến hộ giúp các nước, giúp các quốc vương với giúp giữ bờ cõi đất nước, tất cả hữu tình. Vì trừ tai hoạ khiến được an vui.

Nếu lúc nạn khởi thời đều tô vẽ chư Thần hộ giúp bờ cõi đất nước ở trên cây phướng. Như bậc hộ giúp cho nước Đại Đường là: Tỳ Thủ Yết Ma Dược Xoa, Kiếp Bỉ La Dược Xoa, Pháp Hộ Dược Xoa, Kiên Mục Dược Xoa, Quảng Mục Dược Xoa, Hộ Quân Dược Xoa, Châu Hiền Dược Xoa, Mãn Hiền Dược Xoa, Trì Minh Dược Xoa, A Tra Phộc Câu Dược Xoa (Phần trên là mười vị Đại Dược Xoa). Phộc Tô Chỉ Long Vương, Tô Ma Na Long Vương, Bổ Sa Tỳ Ma Đại Long Vương (Phần trên là ba vị Đại Long Vương). Ha Lợi Đế Đại Thiên Hậu, Ế La Phộc Tha Đại Thiên Hậu, Song Mục Đại Thiên Hậu (Phần trên là ba vị Đại Thiên Hậu) đều có năm ngàn Thần Tướng dùng làm quyến thuộc. Chỗ nên vẽ đều vẽ Bản Hình, cầm nắm tiêu xí…ở trên cây phướng

Lại ở trên đỉnh của cây phướng, viết Vô Ngại Thập Tự Phật Đỉnh Chân Ngôn, sau cùng viết chữ Tra (悈_ ṬA) ngay trong trục bánh xe (luân tề)

Hết thảy chủ soái oán định phản nghịch, nên viết tên của họ ở khoảng giữa các cây căm xe. Ở đáy của cây phương, tô vẽ một bánh xe đầy đủ tám cây căm, như trên để chữ Tra (悈_ ṬA) trong trục bánh xe.

Nếu lúc tai nạn khởi thời nên thỉnh một người Giải Pháp, ở trong Giáo đã từng vâng nhận.

Vào lúc nửa đêm, xoa tô một cái Đàn vuông vức. Ở trên Đàn vuông lại vẽ Đàn tam giác, dựng đứng cây phướng này ngay chính giữa Đàn. Ở bốn mặt của Đàn, đặt mọi loại thức ăn uống và hai bình Át Già, đốt An Tất Hương với thắp đèn bơ.

Người Giải Pháp ấy ngồi hướng mặt về phương Nam, liền kết Nhất Thiết Như Lai Câu Ấn. Hai tay cùng cài chéo các ngón làm quyền, đem ngón trỏ phải làm móc câu, với tụng Chân Ngôn, xưng tên, thỉnh triệu 16 vị Đại Hộ với quyến thuộc, các hàng

Thần Tướng có uy đức lớn, trong Đàn cúng dường

“Nẵng mạc tát mãn đa một đà nam_ Ác, sa phộc đá-la, bát-la để hạ đá, đát đà nghiệt đảm câu xá, bột địa tả lý dã, bá lý bố la ca, bà-phộc hạ”

*)NAMAḤ SAMANTA-VAJRAṆAṂ (?BUDDHĀNĀṂ)_ AḤ _SARVATRĀPRATIHATA TATHĀGATA-AṂKUŚA BODHI-CARYA PARIPURAKA _ SVĀHĀ

_Hành Giả tiếp nên nhập vào Tam Thế Thắng Kim Cương Phẫn Nộ Tam Ma Địa, quán uy đức rực rỡ, bốn mặt tám cánh tay. Chân trái đạp lên Ổ Ma Thiên Hậu (栥亙_ UMA), chân phải đạp lên Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara).

Liền kết Tam Thế Thắng Ấn. Hai tay tác Kim Cương Quyền, Đàn Tuệ (2 ngón út) trợ móc nhau, dựng thẳng nơi Tiến Lực (2 ngón trỏ). Thành xong, tụng Chân Ngôn ba lần, năm lần hoặc bảy lần. Chân Ngôn là:

 

“Án, tốn bà, nễ tốn bà, hồng phát tra, cật-lý hạ-noa, cật-lý hạ-noa, hồng phát tra, cật-lý hạ-noa bả dã, hồng phát tra, a na dã, hộc, bà nga tông, phộc nhậtla, hồng phát tra”

*)OṂ_ SUMBHA NISUMBHA HŪṂ PHAṬ_ GṚHṆA GṚHṆA HŪṂ PHAṬ_ GṚHṆA PAYA (?APAYA) HŪṂ PHAṬ_ ĀNAYA HOḤ_ BHAGAVAṂ VAJRA HŪṂ PHAṬ

_Lại nữa, tiếp kết Thượng Phương Chư Thiên Giáo Sắc Ấn. Hai tay đều nắm Kim Cương Quyền, hai ngón trỏ trỡ nhau xoay quấn quanh. Kết Ấn thành xong, dùng Giáo Sắc nói: “Các Ngài ! Mười sáu vị Đại Hộ Đại Dược Xoa Tướng đã nhận lời phó chúc của Đức Phật, hộ trì quốc vương với hộ giúp bờ cõi đất nước, tất cả hữu tình khiến được an vui, trừ bỏ tai hoạ. Nay nước của tôi gặp nạn (tên là….) Xin các Ngài đại hộ trợ cho quân trân của tôi tồi phá oán địch. Các Ngài nên khiến cho quấn kia bị cột trói mê man, khiến cho giặc kia (tên….) hoang loạn, khiến cho quân binh của tôi được cường thịnh được thắng”

Tác Sắc đó xong, liền tụng Chân Ngôn ba biến là: (phần bên dưới là Triệu Thỉnh

Chư Thiên kèm đồng với kết Bản Ấn này)

“Hồng, bả lý để, na-phộc lý đa, phộc nhật-la yết sái, ham, nhược”

*)HŪṂ _ PALIḤTID VALIḤTAḤ _ VAJRA-KARṢA (?VAJRA-AKARṢA) HŪṂ JAḤ

_Tiếp lại nên kết Du Không Chư Thiên Giáo Sắc Ấn. Hai tay tác Kim Cương Phộc, co hai ngón trỏ cùng chung lưng móng, kèm dựng hai Không (2 ngón cái) đè ở hai Phong (2 ngón trỏ). Kết Ấn thành xong, y như văn lúc trước mà Giáo Sắc xong, liền tụng Chân Ngôn ba lần là:

“Án, phộc nhật-la nghiệt-la, bả noa dã, phộc nhật-la, hồng”

*)OṂ_ VAJRA GRA (?AGRA) PĀDAYA (? PĀṆAYA) VAJRA _ HŪṂ

_Tiếp lại nên kết Trụ Hư Không Chư Thiên Giáo Sắc Ấn. Như Giáng Tam Thế Ấn, hai Thực (2 ngón trỏ) cùng quấn quanh nhau. Đem Ấn an ở trên đỉnh đầu, liền thành. Kết Ấn xong, y như văn lúc trước mà nói lời Giáo Sắc. Liền tụng Chân Ngôn ba lần là:

“Án, phộc nhật-la, ma la, cật-la, tông”

*)OṂ_ VAJRA MALA ( ?MĀLA)-AGRA _ VAṂ

_Tiếp lại nên kết Địa Cư Chư Thiên Giáo Sắc Ấn. Hai tay tác Kim Cương Phộc, duỗi hai Phong (2 ngón trỏ) cùng hợp đầu ngón, như Kim Cương Hộ Bồ Tát ấn liền thành. Kết Ấn xong, y như văn lúc trước mà nói nời Giáo sắc. Liền tụng Chân Ngôn ba lần là:

“Án, phộc nhật-la, mãn đà, hồng”

*)OM _ VAJRA-BANDHA _ HAṂ

_Tiếp kết Địa Để Chư Thiên Giáo Sắc Ấn. Hai tay đều giương duỗi, mở lòng bàn tay hướng ra ngoài, hai Không (2 ngón cái) cùng vịn đầu ngón, hai Phong (2 ngón trỏ) cùng móc nhau, hai Hoả (2 ngón giữa) cùng trụ đầu ngón. Đem Ấn an ở tam tinh (my gian), y theo văn lúc trước mà nói lời Giáo Sắc. Liền tụng Chân Ngôn ba lần là:

“Án, hạ lỗ ca, phộc nhật-la, sa ma dã, sa phộc nỗ sắt-tra, sa ma dã, mẫu nạila, bát-la hám nhạ ca, hồng phát tra”

*)OṂ_ HĀRUKA (?HERUKA)-VAJRA-SAMAYA _ SARVA DUṢṬASAMAYA Ā_ PRAPĀṂJAKA HŪṂ PHAṬ

_Đã Khải Cáo xong, liền kết tay Tuệ (tay phải) tác Kim Cương Quyền đè ở trên cây phướng, tụng Thập Tự Phật Đỉnh Chân Ngôn 108 biến.

Muốn tụng Thập Tự Phật Đỉnh Chân Ngôn này, trước tiên nên kết Ấn, tụng bảy biến. Ấn là: Hai tay cài chéo các ngón bên trong nắm quyền, hai Không (2 ngón cái) ở trong lòng bàn tay), hai Phong (2 ngón trỏ) đều co trụ ở lưng hai Không (2 ngón cái) liền thành. Tụng Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la tát đát-vũ sắt-nê sái, hồng phát tra”

*)OṂ_ VAJRA-SANDHOṢṆĪṢA (?VAJRA-SATVA UṢṆĪṢA) HŪṂ PHAṬ

Niệm tụng xong, liền đốt hương, hiến hoa. Liền nâng Át Già dâng phụng, vì Đế Vương kèm với trăm họ, phát Nguyện lợi ích an vui thù thắng rộng lớn.

_Liền kết Kim Cương Phộc, dựng hợp hai Hoả (2 ngón giữa) liền thành. Tụng Kim Cương Giải Thoát Chân Ngôn ba biến, tống tiễn chúng Thánh đều quay về cung của mình. Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la, mục”

*)OṂ_ VAJRA MUḤ

Việc Pháp đã xong. Liền thu cây phướng để trong cái hộp sạch sẽ, hoặc an trí trong cái rương . Nhóm thức ăn uống cúng dường, y theo Pháp tiễn đi trong giòng sông.

 

TỒI MA OÁN BỒ TÁT PHÁ THA TRẤN ĐỊCH PHÁP

_Hết_

 

Thời tiết ra quân, y theo ngày trực của Tú Diệu.

Trinh Hưởng , năm thứ ba, tháng chín, ngày mười chín. Một lần xem xét hiệu chỉnh xong

Hà Nam, Diên Mệnh Sa Môn Tịnh Nghiêm (48 tuổi)

14/12/2009