CHUYỆN NGỠ HOANG ĐƯỜNG NHƯNG CÓ THẬT
Ni sư Hạnh Đoan thuật

 

Hồi hai mươi mấy tuổi tôi rất kiêu ngạo, ưa bắt bẻ.

Năm đó chắc khoảng 8X (1984 – 86…gì đó tôi nhớ không rõ), nghe đài khí tượng báo tin “Cần Giờ đêm nay sẽ có bão to khủng khiếp”…

Nhưng rồi Cần Giờ vẫn bình yên. Sau đó mấy tháng khi vào thành phố sực nhớ đến chuyện này, tôi cười bảo chị tôi:

Đài khí tượng của mình dự báo dở ẹt! Nghe nói Cần Giờ sẽ bị bão to, vậy mà có thấy gì đâu?

Chị tôi đáp: Chèn ơi em không biết gì hết hả! Đêm đó dân Cần giờ họ lập bàn hương án, lạy dài, cầu nguyện suốt đêm, nhờ vậy mà bão không tới đó!

Tôi nghe xong xúc động, hết dám hó hé.

Gần đây, mấy năm trước tôi nghe tin Đà Nẵng sắp có bão to giáng, nhưng chư Tăng Ni và Phật tử đã cùng nhau ra bờ biển, tụng chú cầu nguyện… kết quả bão không vào Đà Nẵng mà chuyển hướng dạt qua bên Phi Luật Tân.

Chứng tỏ lời cầu nguyện, lễ bái, trì kinh chí thành nhất là của tập thể… rất hữu dụng.

Năm tôi 34-35 vẫn kiêu kỳ, dù chứng kiến ma nhập, thần nhập nhiều, tôi vẫn không tin, nhất là gặp mấy kẻ xưng thần hay hoàng đệ long vương.

Ma quỷ… dễ nhập người và binh cua tướng tép cũng dễ nhập người, nên rồng nhập vào người cũng là chuyện đương nhiên, nhưng chúng ta không nên dễ tin quá, vì dễ tin sẽ bị gạt.

Đầu tiên tôi kể chuyện tiên nhập nhé. Tiên nhập thì tôi không chứng kiến, chỉ nghe người thân kể lại thôi.

MA VÀ TIÊN

Năm 1976. Tôi chỉ độ mười bảy. Nhà hàng xóm chỗ tôi có một chị tên Thu, cao khoảng 1m62, dáng gầy ốm cũng thuộc loại giai nhân.

Mẹ chị dòng dõi Ngô Đình, nhưng nhà chị theo đạo Phật.

Trước 75 nhà chị rất giàu, nhưng sau 75 lâu đài biệt thự không còn, chị phải đi thanh niên xung phong để tồn sinh.

Nhưng chị đi một thời gian thì bị trả về với lý do bị bệnh tâm thần.

Chị về nhà với trạng thái kỳ lạ, theo y khoa thì gọi là bịnh tâm thần phân liệt đa nhân cách, còn dân gian thì gọi là bị… ma nhập.

Biết ba tôi hay trì chú Lăng Nghiêm cũng giỏi giao lưu với ma, nên người nhà dẫn chị qua gặp ba tôi và nguyên nhân là thế này:

Lúc công tác trên rừng, tối tối chị thường hay ngồi một mình ngắm trăng, chị thấy từ xa có một quân nhân đi tới mỉm cười chào làm quen.

Anh xưng là Đại Uý VNCH, sau đó mời chị đi khiêu vũ.

Người ngoài chỉ nhìn thấy chị vô bụi tre nhảy nhót trong đó, cười nói một mình, bịnh ngày càng nặng nên họ phải trả chị về nhà.

Khi ba tôi hỏi người nhập trong chị, anh ta xưng tên Vinh, nói rõ số quân, nơi công tác và ngày giờ chết.

Khi được yêu cầu lìa xa chị Thu, anh không chấp nhận và nói:

Tôi thương Thu, tôi vô xác là cũng để bảo vệ Thu. Vì hiện thời Thu rất yếu, ai cũng nhập được. Nếu tôi bỏ đi thì mấy tên côn đồ nhập vào, sẽ càng khổ cho Thu hơn. Để chứng minh tôi sẽ rời khỏi Thu và quý vị hãy xem, tôi không nói dối.

Vinh vừa rời khỏi năm phút thì lập tức một tên du đãng nhập vào, chửi thề như bắp nổ, bộ điệu vô cùng hung dữ, khác hẳn phong cách tao nhã lịch sự đàng hoàng của Vinh.

Thế là tên du đãng được trục ra. Vinh vào xác lại. Nhưng một hiện tượng kỳ lạ xảy ra, đánh bật Vinh ra khỏi xác chị Thu. Và người nhập này xưng là tiên nữ cõi Tứ thiên vương, xuống để cứu và bảo vệ Thu.

Cô Tiên này kể Thu vốn là tiên trên trời, thuộc nhóm 12 cô tiên, vốn là chị em với họ.

Do Thu lầm lỗi nên bị đoạ xuống nhân gian. Các cô tiên này giải thích vì ba tôi có tay phục dược nên họ muốn hợp tác với ba tôi, cùng chữa bịnh từ thiện để hồi hướng phúc cho Thu.

Lúc đó tôi đang tu ở chùa, quy luật nghiêm không được về nhà, nên mọi chuyện đa phần tôi chỉ nghe người thân kể rồi góp nhặt viết lại… nên chuyện sẽ không rõ bằng đích thân chứng kiến.

Do Vinh rất ngoan cố, không chịu rời xa Thu nên các cô tiên đã đấu phép bắt nhốt Vinh. Thứ mẫu tôi kể đêm đó dậy trời dậy đất, họ đấu phép nhau giống như phim chưởng… Và sau đó vĩnh viễn không còn thấy Vinh nhập vào Thu nữa.

Thứ mẫu tôi là người chất phác thật thà, không biết nói thêm bớt, thấy sao thì kể vậy. Tôi tiếc là mình không mục kích để nhìn cho mãn nhãn và bây giờ không phải kể cho bạn nghe mơ hồ như vầy.

Phần mấy cô tiên họ thay phiên nhau xuống vào xác chị Thu để làm thiện, tạo phúc cho chị.

Khi tiên nhập vào, mặt Thu rất hồng, hồng như hoa đào và người có mùi thơm, mắt Thu một mí bật thành hai mí, đôi má bình thường bỗng thành má lúm đồng tiền trông rất duyên dáng.

Điểm đặc biệt là tiên rất thích cài hoa lên tóc, mỗi khi nhập vào, họ thường ra trước nhà tôi, hái một đoá hoa cài lên tóc rồi mới làm việc.

Nhóm tiên này tính rất trầm, ít nói; chỉ im lặng ngồi xếp bằng làm việc. Riêng có cô tiên út (cả nhà tôi thường gọi cô Út) là hay nói chuyện và dễ dụ khai ra các bí mật, vì cô còn rất nhỏ tuổi). Mấy cô tiên mỗi lần thấy hình Phật là tỏ vẻ rất tôn kính. Cô Út thấy hình Phật nằm trong bao nhang bị gió thổi bay cô vội lượm để lên đầu. Cô nói nhạc cõi trần nghe nặng quá, nó “giựt gân” và hông thanh bai như cõi trời. Thấy cái gì cô cũng tò mò vì cô còn nhỏ, có lần cô bị anh chị tôi dụ ăn trái ớt đỏ, nói là ngon lắm, cô liền cắn ăn thử, sau đó cô… khóc quá chừng.

Cô Út cũng rất nghịch phá, khi không nhập vào chị Thu cô vẫn có thể xuống nhà tôi trêu ghẹo trong dung mạo vô hình, nên ba má tôi không biết được.

Có đêm đang nằm thấy đèn sáng tắt liên hồi, thứ mẫu tôi rất ngạc nhiên.

Sáng ra gặp cô (qua xác chị Thu) cô nói:

– Gia gia! Đêm qua con bật tắt đèn lia lịa đó, gia gia thấy không?

Hoặc có ngày ba tôi làm vườn, ông thấy khát và uống nước liên hồi.

Sau đó cô Út khai:

– Con bấm huyệt khát trên người gia gia khiến gia gia uống nước không ngừng đó!

Tôi có xem hình cô tiên út vẽ tả người cõi cô, thấy mặc đồ cổ trang giống như phim Tàu hay cải lương, tóc cũng giống vậy. À, giống như tiên trong Tây Du Ký ấy.

Các cô tiên luân phiên nhập vào Thu ( có lẽ ai rảnh thì xuống) cô tiên cả ít nói nhất, khi vào có thể ngồi xếp bằng suốt bốn tiếng để trị bịnh (mỗi lần cô xuất ra chị Thu đều khóc và than nhức chân quá). Ba tôi nói:

Cái chảo nóng như vậy mà các cô tỉnh bơ rang thuốc bằng tay, nhúng tay vào chảo mà không lộ vẻ bị nóng phỏng gì, họ có thể cầm ly nước tụng chú đại bi vào là nước nguội hoá sôi.

Họ phối hợp với ba tôi (vốn rành thuốc lẫn châm cứu để cùng trị bịnh rất hiệu quả). Dạo đó nhà tôi bịnh nhân đến rất đông. Việc trị bịnh này vang động đến chính quyền, khiến ba tôi và Thu bị công an nhốt, vì truyền “mê tín dị đoan”

Nhưng sau đó do người thân của bên chức quyền (ở Tây ninh) bị bịnh nặng, ba tôi và Thu được họ nhờ chữa trị thành công, thế là họ thả ba tôi và chị Thu ra.

Các cô tiên chỉ xuống nhập xác Thu trong thời gian ngắn vài tháng, họ nói mục đích là tạo phúc cho Thu. Sau đó họ từ biệt không nhập nữa. Trước khi đi họ khoá huyệt nơi đỉnh đầu chị Thu để không còn ai có thể nhập vào. Họ nói, theo luật nhập thì người cùng huyết thống, cha mẹ, anh em, thân nhân có thể nhập, nhưng vong cà lơ phất phơ thì không.

Nhưng từ lúc đó trở về sau, chị Thu không bao giờ bị nhập nữa. Chị sống vững vàng, an định.

Thường thường người cõi trên nhập, chị Thu sẽ thấy mặt họ áp sát mặt mình nơi trán (tôi không rành lắm, chỉ nghe kể mà thuật lại e có khi thiếu và sai). Còn người cõi dưới nhập họ sẽ vào từ chân.

Các cô tiên còn dạy chị Thu tụng chú Đại bi tiếng Phạn. Họ nói cõi họ toàn xài và tụng tiếng Phạn. Chị Thu tụng Chú Đại Bi tiếng Phạn cũng rất hay. Ba tôi thì quen tụng chú tiếng Việt rồi nên ông không chuyển sang tụng Phạn làm chi. THỰC RA CHÚ TỤNG SẼ LUÔN LINH NẾU BẠN ĂN CHAY VÀ TỤNG BẰNG TÂM THÀNH. Nên ai quen tụng chú âm Việt thì cứ tụng Việt, ai thích tụng âm Phạn thì tụng. (Trên mạng có đầy, tuy có khác nhau chút nhưng tụng vẫn linh).

(Ghi chú: Tất cả tên thật trong chuyện đã được đổi)