HƯ VÂN NIÊN PHỔ
THƠM NGÁT HƯƠNG LAN
Kiến Châu – Như Thủy – Hạnh Đoan dịch

 

Chương 6
HÀNH ĐẠO, ĐỘ SINH

(TT)

DÂN QUỐC 32 – QUÍ MÙI (1943) 104 TUỔI

Tháng giêng, Pháp Hội Tiêu Tai cử hành nghi thức lễ sám đến ngày 26 thì viên mãn. Lâm chủ tịch cùng các quan lớn như ông Tưởng, ông Đới, ông Hà v.v. chia nhau thiết trai chiêu đãi. Nhóm ông Tưởng thỉnh pháp, hỏi về các thuyết Duy vật, Duy tâm, về Chúa trời và giáo lý Cơ Đốc. Tôi biên thư giải đáp cho họ. Tại các chùa Từ Vân, Hoa Nghiêm, tôi thượng đường khai thị, thị giả Duy Nhân đã ghi lại các thời pháp thoại này.

Lược ghi:

THƯ GIẢI ĐÁP CHO ÔNG TƯỞNG

… Phật Giáo hiện nay đã truyền khắp quốc tế, có xu hướng tiến đến một tôn giáo đại đồng duy nhất.

Trong Thế giới hiện có hai thuyết: Duy thần Duy vật, phủ nhận lý luân hồi quả báo, ảnh hưởng khó thể nói hết được.

Phật dạy: “Ba cõi (vũ trụ) vốn không kiến lập một pháp, do chân tâm khởi vọng mà sinh ra muôn pháp. Gọi chân tâm chẳng qua vì – có vọng, có vật đối đãi mà lập giả danh này, chứ thật ra gọi chân tâm cũng chẳng phải. Dụ như biển cả: Tâm ví như nước, vạn pháp vạn sự, vạn vật ví như sóng. Biển lặng thì gọi là nước, cuộn ầm ầm thì gọi là sóng. Nhưng dù tĩnh hay động thảy đều là nước cả. Nước động dữ thì là ba đào, vì có ba đào – Nên mới nói không nổi sóng là nước tĩnh lặng – Từ căn bản nếu không có tướng ba đào thì giả danh sóng cũng chẳng lập,giả danh tĩnh lặng cũng không nốt. Có lập thành, chỉ là giả danh do ta và người lập nên. Phải biết Vật tức là Tâm, Vọng tức là Chân, Phiền não tức Bồ đề, chúng sinh tức chư Phật v.v… Một niệm mê thì Tâm thành Vật, Chân thành Vọng, Bồ-đề thành Phiền não, Chú Phật thành Chúng sinh… Giống như nước khi dấy động ầm ầm là sóng. Một niệm giác ngộ thì Vọng chẳng khác Chân, Phiền não chẳng khác Bồ-đề, chúng sinh chẳng khác chư Phật, giống như nước không gợn sóng thì tĩnh lặng.

Vì mê mà sinh khởi vật, hữu, sắc, vọng, phiền não, chúng sinh… đối đãi nhau. Cho nên mới có những giả danh: Tâm, vô, không, chân, Bồ-đề, chư Phật…

Từ căn bản nếu không mê thì các giả danh này chẳng lập.

Gọi là Duy Tâm, Duy Vật, Hữu Thần, Vô Thần đều do thức tâm phân biệt suy diễn nên thôi.

Còn nói: “Vậy, Phật học cũng thuộc về Duy Tâm Luận?”.

Phật giáo tuy nói Duy tâm nhưng rất khác xa Duy tâm của triết học.

Người theo thuyết Duy tâm thì chấp“Có tâm không vật”. Đức Phật đã dạy: Đây là chấp tâm phan duyên làm tự tính, chấp vọng tưởng sinh diệt cho là thật.

Còn người theo thuyết Duy Vật thì “Chấp vật có, tâm không”. Phật nói: “Đây là hành sự điên đảo, nhận lầm vật là mình, khư khư chấp thủ, trôi lăn trong luân hồi”.

Người theo Duy Thần phân định vật chất và thần linh, chia ra hai thế giới chẳng đồng. Phật dạy: Đó là lầm cho tâm ở trong sắc thân, nhận tí tẻo bọt nước cho là toàn hồ.

Những chấp trước thiên kiến này giống như kẻ nhận bóng trâu cho là trâu, hay những người dòm qua khe vách thấy được cái sừng, cái đầu hay một phần nhỏ nào đó của con trâu… đã vội cho đó là toàn thể con trâu, ai cũng nghĩ mình phải, nhưng thực sự chẳng ai đúng cả – vì không thấy được con trâu trọn vẹn. Phật Giáo thì phăng đến tận nguồn, đem con trâu trắng thật sự chỉ rõ ra. Nếu nhờ chỉ mà thấy trâu, thì không ai là không thấy con trâu thật.

Cho nên, muốn nghiên cứu, biện biện rõ sự sai khác của các luận thuyết Duy tâm-Duy vật mà phế bỏ lời Phật dạy thì không thể.

Phật từng dạy: Minh tâm tánh (sáng tâm tánh) hoặc gọi là Chân Tâm Thường Trụ, Chân Như Giác Tánh, Pháp Thân, Thật Tướng… đều là tên khác của chân lý.

Tánh giác thanh tịnh bản nhiên, lìa các danh tướng, không chỗ nơi, thể tự giác, tự sáng, là cái đức tánh sẵn có của chính mình, dứt hết Năng, Sở, đối đãi, không thuộc mười phương (không gian), ba đời (thời gian). Không thuộc về đại địa, người, súc sinh, cây, đá, địa ngục, thiên đường… chỉ do một niệm vọng lập mà sinh khởi pháp hữu vi (vạn sự vạn vật trong vũ trụ), như Kinh Lăng Nghiêm tả (Kinh này, không pháp nào chẳng đủ, không căn cơ nào chẳng nhiếp, những vị nghiên cứu về triết học Phật Giáo đều phải nên xem), Đức Thích Ca đáp câu hỏi của tôn giả Phú Lâu Na: “Tánh giác thanh tịnh bản nhiên, vì sao bỗng sinh ra núi sông, đại địa…?”

“Tánh giác tất sáng, nhưng vọng thành ra có cái (minh) biết sáng. Giác không phải là cái bị biết. Nhân biết mà lập ra cái bị biết. Cái bị biết do vọng lập, liền sinh ra cái vọng biết (chủ quan). Trong chỗ không đồng, dị, bỗng thành có sai khác, nhân dị mà lập đồng. Đồng, dị chia chẻ rõ ràng, nhân đây lại lập không đồng không dị. Cứ thế, tạo đối đãi nhiễu loạn nhau, sinh ra mệt mỏi. Mệt mỏi lâu, pháp sinh trần cảnh, tự làm vẩn đục nhau, từ đó sinh ra trần lao phiền não, thành ra thế giới. Cái tĩnh thành hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Cái không đồng dị, thật ra chỉ là pháp hữu vi”.

Phật dạy Phú Lâu Na: “Tưởng và ái đồng kết, ái không thể lìa, nên cha mẹ con cháu trong thế gian sinh ra không dứt, đều do dục tham làm gốc. Tham và ái đồng tăng trưởng, không thể dừng nên các loài thai, noãn, thấp, hóa trên thế gian, tùy sức mạnh yếu mà ăn nuốt lẫn nhau. Do lòng hiếu sát làm gốc. Người ăn dê, dê chết làm người, người chết làm dê… như thế cho đến mười loài sinh, chết chết sống sống, ăn nuốt lẫn nhau mà thành ác nghiệp, đến tận đời vị lai. Còn lỗi trộm, cắp cũng do tham làm gốc. Anh thiếu mạng tôi, tôi trả nợ anh, do đó mà trải qua trăm nghìn kiếp, thường ở trong sinh tử. Anh ưa tâm tôi, tôi thích sắc anh, nên trải qua trăm nghìn kiếp vẫn còn ràng buộc. Đều do các lỗi căn bản là Sát, Trộm, Dâm mà nghiệp quả tiếp nối nhau.

Người theo Duy tâm, đề xướng Duy Tâm Luận nhận lầm thức thần là Chơn tâm. Người theo Duy vật chấp biên kiến về “vật” đề xướng Duy Vật Luận. Rồi căn cứ theo duy vật mà đề xướng thuyết Vồ Thần Luận. Người theo Duy thần cũng chấp biên kiến, vọng sanh phân biệt. Chẳng biết, tâm là vật, vật tức thần – tâm, vật, thần, đồng một lý thể. Có vật thì có tâm, có thần – không tâm thì không thần, không vật. Nhưng, “có” đây chẳng phải như có không, mà là “diệu hữu” chẳng phải có mà có. “Không” đây chẳng phải là cái không của đoạn tuyệt, mà là cái không vi diệu “diệu vô”, vượt lên trên không. (Cái diệu hữu, diệu vô này, cùng với lời nói “vô sinh mà sinh”, “hữu sinh mà sinh” nghĩa của nó rất sâu, ngữ ngôn văn tự chẳng bàn đến được, là điều quan trọng của Thiền môn.)

Duy tâm, luận, Duy vật luận, Duy thần luận… đều chẳng rõ nghĩa lý này, nên kích bác lẫn nhau. Sự thật thì họ đều đúng mà cũng chẳng đúng, chỉ cần nghiên cứu Phật học một phen, thì tự họ có thể vỡ hết tất cả tình chấp.

Phật giáo đối với việc nghiên cứu bốn thể của vũ trụ, ngoại trừ những điều đã nói trên đây, đối với việc cấu tạo, thành, hoại của thế giới, người, việc và mọi vấn đề khác, thì trong Kinh Lăng Nghiêm cùng các Kinh, Luận, đều có bàn luận thuyết minh rất rõ, phần nhiều phù hợp với những sáng kiến phát minh của khoa học, triết học sau này. Bây giờ, chưa thể chỉ rõ được.

Bàn về giá trị nhân tánh, thì hạnh nguyện của chư vị Bồ Tát, chư vị Thánh hiền của các tôn giáo khác không thể bì kịp.

Kinh điển hiện nay ở đâu cũng có. Giáo pháp vi diệu tuyệt không nêu sự kỳ lạ lập dị nào để huyễn hoặc người. Mỗi hành động, mỗi lời nói đều y theo tam học Giới, Định, Huệ, phải đích thân hành mới đạt lợi ích thực .

Sao gọi là Giới, Định, Huệ? Giới là ngăn điều quấy, dứt điều ác. Định là sáu căn tiếp cảnh, tâm chẳng duyên theo. Huệ là: Tâm cảnh đều không, chiếu soi chẳng lầm. Ngăn ngừa được thân khẩu ý không tạo tội thì nước tâm tự lóng sáng. (Nghĩa là nhờ Giới sinh Định) Nước tâm lóng sáng thì có thế tự chiếu soi muôn vật, (như vậy là nhờ Định sinh Huệ). Nho gia cũng có câu: “Định rồi tĩnh, tĩnh thì an, an rồi tư duy, tư duy mới đạt”.

Nhưng Nho gia, Khoa Học gia, Triết gia thì dùng tâm phan duyên để suy gẫm về vạn vật vũ trụ, mà chẳng biết vũ trụ vạn vật cũng do tâm phan duyên tạo thành. Cái suy nghĩ và cái được nghĩ đều là tâm phan duyên, dùng tâm phan duyên nghiên cứu chân lý thì giống hệt như người đang ngồi xếp bằng trên ghế mà muốn nhấc cái ghế lên, là chuyện chẳng thể nào làm được.

Về nhận thức, các Triết gia đối với các vấn đề, vẫn còn bàn cãi phân vân, chưa rút ra kết luận, chưa có ai đúng. Phật ly ngôn dứt nghĩ, đem trí giác chiếu soi vũ trụ, vạn sự vạn vật. Vì vậy, giống như bước xuống đất và nhấc chiếc ghế lên, cho nên tự tại như như.

Phật giáo bao quát cả Triết học, Khoa học, Tôn giáo. Nhật Bản chọn đạo Phật làm quốc giáo, thời gần đây rất hưng thịnh. Chư vị hiền nhân duy tân của họ, thâm thiền hành sự đắc lực. Việc này mọi người đều biết. Nếu chẳng vì đám quân phiệt say mê vũ lực, ngược đạo, lấy giết hại làm công, cho xâm lược là tài, thì đâu chuốc phải thất bại!?

Có người cho Phật giáo là tiêu cực, mê tín, chẳng đủ sức làm Quốc giáo, đó là vì họ chưa rõ lời Phật dạy. Sự thật thì Phật pháp chẳng hề làm hoại thế gian, sao có thể nói là tiêu cực? Phật giáo hướng dẫn người lìa mê về giác, sao có thể gọi là mê tín được?

Chữ Phật, tiếng Phạn là Buddha, nghĩa là người giác ngộ. Vì đã tự giác ngộ, nên giúp người giác ngộ, do giác ngộ đạt được hạnh phúc viên mãn nên gọi là Phật.

Bồ Tát, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là Giác hữu tình (loài hữu tình đã giác ngộ). Có hai loại: Bồ Tát Xuất GiaBồ Tát Tại Gia. Bồ Tát là người phát đại tâm, đại nguyện, vì chúng sinh cầu đạo vô thượng, vừa tự tu, vừa độ người. Sự tích cực và chánh tín của Bồ Tát, e không ai hơn. Phật giáo dựa vào nghĩa Chiết và Nhiếp, lập ra nhiều phương tiện.

Chiết là sao? là chiết phục ác nhân. Xưa, Thạch Lặc hỏi ngài Phật Đồ Trừng về giới sát. Ngài dạy: “Ông là vua, không (vọng sát) – giết bậy – là đã giữ giới sát”. Bởi vì hàng Bồ Tát Tại Gia, có trách nhiệm dẹp ác để lợi sinh. Dù phải thi hành án định tội, trừng phạt nặng – song lại sinh công đức. Nếu khởi ác ý giết hại người, thì ai cũng biết là không nên. – Song vì thiện ý mà phải trừng trị người thì đây chính là hạng tay mắt Kim Cang, là hạng Bồ Tát tại gia có quyền lực lớn.

Nhiếp là sao? Là nhiếp thọ thiện nhân. Phật và Bồ Tát vì lợi ích của chúng sinh nên chẳng nề gian khổ. Có bốn pháp nhiếp:

1. Bố thí nhiếp: Dùng bố thí nhiếp phục, tùy tầm nguyện chúng sinh mà bố thí tiền của, giáo pháp, khiến họ phát tâm kính ái, học đạo.

2. Ái ngữ nhiếp: Dùng lời thân thiện, hòa nhã, dịu dàng để an ủi, tùy theo căn tánh chúng sinh mà nhiếp phục, khiến họ sinh lòng kính ái phát tâm học đạo.

3. Lợi hành nhiếp: Suy nghĩ, nói năng, hành động đều nhắm vào giúp ích chúng sanh, khiến họ sinh lòng kính ái phát tâm học đạo.

4. Đồng Sự nhiếp: Quán sát căn tánh chúng sanh, tùy sở thích của họ mà phân thân thị hiện, khiến cho các cộng sự với mình đều được lợi ích, sinh tâm kính ái, học đạo.

Qua đây đủ thấy, sự tích cực của Phật và Bồ Tát có ai bằng?

Phương tiện là sao? – là xét căn khí của chúng sanh, đặt ra phương tiện khéo léo hóa độ họ. Bốn pháp nhiếp trên đây cũng là pháp môn phương tiện. Trong Kinh Pháp Hoa, Phẩm Hóa Thành Dụ viết:

Thí như có con đường hiểm ác, không có cỏ nước, người đi qua gặp nhiều thú dữ nên rất sợ hãi. Song có vô số, nghìn vạn người phải đi qua con đường này. Đường lại quá dài, trải qua 500 do tuần. Bấy giờ có một người dẫn đường, trí huệ cao viễn, Thấy mọi người mệt mỏi, than: “Chúng tôi không đủ sức đi, chỉ muốn quay về”. Người dẫn đường nghĩ thầm: “Những người này thật đáng thương, sao lại muốn quay lui để chịu mất kho trân bảo?”. Ông ta suy nghĩ và dùng thần lực, hoá ra một thành phố lớn, nói: “Các bạn hãy vào thành này, sẽ được tùy thích”. Khi mọi người đã vào thành, ai cũng vui vẻ, người dẫn đường nói: “Đây chỉ là hóa thành, vì thấy các bạn mệt quá, giữa đường muốn thối lui nên tôi tạm hóa ra thành phố này. Bây giờ, các bạn phải cố gắng đi đến chỗ chứa đồ quí...”

Xem qua đoạn Kinh trên, đủ biết thâm ý của Đức Thích Tôn đã chia thời mà lập giáo, quyền lập phương tiện. Cho nên, đối với hàng căn cơ Tối thượng, Ngài dạy Thiền, đối với hàng căn bậc Thượng Ngài dạy Giáo, đối với người hay phân tích thì dạy Duy thức, đối với tầng lớp phổ thông thì dạy Tịnh Độ. Ngài tạm đặt ra Đại Thừa, Tiếu Thừa, chẳng kể tại gia hay xuất gia đều tùy căn cơ mà hóa độ, khiến tất cả chúng sanh đều được lợi.

Ngày nay, người theo thuyết vô thần, thấy Phật tử ở trước tượng, quỳ lạy, trì niệm danh hiệu Phật, thì cho là mê tín, họ chẳng hiểu việc quỳ lạy cùng đối với bậc trưởng thượng tỏ lòng cung kính, đâu khác gì nhau?

Niệm Phật, đối với việc tu tâm rất có ích. Vả lại, trì danh niệm Phật chẳng qua là một phương tiện đơn giản để độ kẻ sơ cơ, còn có các pháp môn Quán tưởng niệm Phật, Thật tướng niệm Phật v.v… Pháp môn Tịnh độ có nhiều ích lợi, diệu dụng vô cùng, chỉ tại người không hiểu, nào phải mê tín?

Có người bảo: “Cơ Đốc giáo cũng thoát thai từ Kinh A Di Đà của tông Tịnh Độ” – Họ lý luận: “Thử nhìn xem, Đức Jésus thân đắp y, cùng Phật đâu khác nhau?” – trong Kinh A Di Đà nói: “Thế giới Tây Phương Cực Lạc” thì bên Chúa Jésus cũng nói: “Thiên đàng”. Nếu sinh về Tịnh độ chia thành 9 phẩm thì sách “Lý Lâm Thiên Thần Phố” cũng chia Thiên thần làm 9 hạng. Kinh A Di Đà nói: “Chẳng thể nhờ chút căn lành, phước đức nhân duyên mà được sinh về Cực Lạc”. Chúa cũng dạy: “Nếu con chẳng lập công đức tại nhân gian, thượng đế chẳng cho con vào nước Chúa”. Theo Tịnh độ tông, sáu thời phải niệm danh hiệu Phật, cầu Phật tiếp dẫn, thì đạo Gia Tô cũng bắt sáng chiều cầu nguyện Thượng đế thương mà cứu giúp cho. Phật có pháp quán đảnh, thì Gia Tô cũng có nghi thức rửa tội… Họ nói rằng xem giáo nghĩa của đạo Gia Tô cùng Tông Tịnh Độ, thấy giống nhau. Rằng Chúa Jésus sinh trễ sau Phật hơn nghìn năm. tức là đã từng nhận sự giáo hóa của Phật (?), đã được truyền cho Kinh A Di Đà (?). Rồi trở về căn cứ theo đó mà sáng lập tôn giáọ. Vả lại, Chúa đã từng ẩn tích ba năm, chắc là đi Ấn Độ tham học(?), việc này dù không căn cứ nhưng dấu vết thì cũng tựa như tơ nhện hay vết chân ngựa, có vẻ chẳng dối lầm v.v… dường như không còn nghi ngờ gì nữa?

Những luận thuyết này, chẳng phải là quay vào vách mà đặt bày hư cấu, chắng qua là nhìn sơ thì thấy Gia Tô giáo, có giống với pháp trì danh niệm Phật của tông Tịnh Độ, nhưng sự thật rất khác xa. Đạo Gia Tô chủ trương tha lực, nói rõ về Chúa mà chẳng nói rõ về cái gì tạo ra Chúa, Còn pháp trì danh niệm Phật thì trọng tha lực, lực tác tương ứng. Như trong Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí Viên Thông nói:

“Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nếu con chạy trốn thì mẹ dù nhớ cũng chẳng biết làm sao. Con nếu nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con trải qua nhiều đời chẳng cách xa nhau. Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hoặc mai sau, chắc chắn được thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng cần phương tiện, tự mở mang tâm địa”… ngài Thế Chí trình với Phật: “Nhân tu của con, do niệm Phật mà nhập Vô sinh nhẫn. Nay cõi này, giúp người niệm Phật, trở về Tịnh độ”.

Có nhân, có quả nên lý sự vô ngại. Vả lại, Gia Tô giáo nói Vĩnh sinh, Tịnh độ tông thì nói Vãng sinh Tịnh Độ, thấy Phật, nghe pháp, ngộ vô sinh nhẫn. Cái sinh của Vĩnh sinh, do diệt mà hiển bày cái sinh, có sinh đối đãi thì sẽ có lúc diệt. Còn sinh của vô sinh, là vốn tự vô sinh nên không có diệt, do đó mới gọi là Vô Lượng Thọ (dịch nghĩa chữ A Di Đà vậy).

Hạnh nguyện của Bồ tát là cầu đạo vô thượng, chẳng phải là sau khi xuất gia mới thực hành, mà ngay khi còn tại gia cũng có thể thực hiện. Chẳng qua hàng xuất gia từ biệt vua chúa lìa thân thuộc, xả bỏ gia đình, ý muốn thoát ly sự ràng buộc của tình dục, xả bỏ tình riêng để phát triển tình đại đồng bao la của Phật, xả bỏ yêu thích riêng, phát huy lòng bác ái vĩ đại. Lấy chuyện độ tất cả chúng sanh làm Trung, thờ tất cả chúng sanh làm Hiếu. Đây là nghĩa đại đồng. Tiên sinh Tôn Trung Sơn đã từng nói:

“Phật Giáo là đạo cứu thế, Phật học là mẹ của Triết học. Tôn giáo là một động lực tự nhiên, rất hùng mạnh để đào tạo và duy trì dân tộc. Nhân dân chẳng thể không có tư tưởng tôn giáo. Nghiên cứu Phật Giáo sẽ thấy có những điều giúp ích, bổ túc cho những thiên lệch của khoa học”.

Nay, ông cũng cho rằng sự du nhập của Phật Giáo vào Trung Quốc giúp ích nhiều cho tư tưởng học thuật Trung Quốc nên mới nói: “Phật giáo là tôn giáo lớn duy nhất truyền khắp quốc tế, có xu hướng tiến đến đại đồng vào thời nay”… không phải là lời hồ đồ đâu. Vả lại, ngày nay tự do tín ngưỡng, chẳng thể bắt người ta mê tín, chỉ nên giúp người vui lòng mến phục mà sinh chánh tín. Bởi vì, bỏ Phật Giáo thì dân chúng biết quy hướng vào đâu?

GIẢNG VỀ QUI Y

Chủ Nhật 17/1/1943 A.L Quí Mùi

Tại chùa Từ Vân – Trùng Khánh

Hôm nay chư vị thọ giới, Qui y làm đệ tử Phật. Quý vị giống như sinh vào nhà đế vương, làm con cháu đế vương. Phải cố gắng tu hành, mới xứng là dòng tôn quý, hưởng được lợi ích.

Từ đây về sau chư vị phải y theo lời Phật dạy mà tu hành, phải quán muôn sự trên thế gian này là huyễn hóa. Suốt cuộc đời, con người luôn bận rộn với ba việc ăn, mặc, ở, tạo nghiệp tự trói. Do vọng niệm mà nhập thai, theo tham, sân, si mà tạo nghiệp, mọi toan tính đều nhắm vào ích lợi cho mình, lo tích lũy tiền tài cho mình và thân quyến, cả đời tất bật lo toan vì gia đình, không chút rỗi rảnh, không lối thoát, tự buộc tự trói. Cuối cùng vì vô minh mà đọa lạc.

Từ nay, quý vị phải y theo lời Phật dạy, phải ăn chay trường suốt đời, chẳng nên ăn chay tháng hay ăn chay ngày, tuyệt đối không nên giết hại loài vật để ăn. Sao lại nhẫn tâm giết vật, biến chúng thành đồ bổ dưỡng cho mình?

Quý vị hãy nhìn xem lúc quý vị giết vật, nó kêu la rất thảm thiết, luôn vùng vẫy đòi trốn thoát. Chỉ vì nó yếu ta mạnh, nó không chống cự lại nên cam đành bị ta giết. Nhưng lòng oán thù giây phút đó cao như núi, tích chứa trong tâm, nên sang đời sau hễ có dịp là báo thù. Hiện tại các cường quốc dùng vũ khí giết các tiểu quốc, cũng là mạnh hiếp yếu. Sở dĩ có chiến tranh xảy ra – là do con người tạo nghiệp sát quá nặng.

Quý vị là Phật tử, việc gì trái đạo thì đừng làm. Phật pháp không có gì lạ lùng kỳ đặc, hãy giữ tâm chân chánh, hành động luôn hợp đạo lý.

Nhiều người thấy tôi tuổi cao, mỗi lần gặp tôi thường thắc mắc hỏi dò, xem tôi có thần thông chăng? Có biết tiền kiếp hậu kiếp, tiên tri quá khứ vị lai gì chăng? Họ hỏi tôi chừng nào hòa bình? Chừng nào chiến tranh kết thúc?…

Quý vị đừng quá mê thần thông như vậy! Vì thiên ma ngoại đạo, quỷ thần đều có ngũ thông. Thật ra thần thông này vốn có đủ trong tự tánh chúng ta, nhưng đừng quá lưu tâm chú trọng nó. Học Phật pháp quan trọng là để minh tâm kiến tánh, liễu sinh thoát tử, phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ-tát.

Quý vị chỉ cần: “Việc ác chớ làm, chuyên làm các việc lành” theo đúng lời Phật dạy là được.

Không nên làm tổn người lợi mình, mà còn phải hi sinh mình giúp người, chân thật trì giới. Vì từ giới sinh định, từ định sinh huệ. Phải sáng trí hiểu việc, thì Qui y mới không uổng.

Quý vị hỏi về yếu chỉ Kinh Lăng Nghiêm, tôi xin nói sơ:

Kinh Lăng Nghiêm nói về hành đạo, chứng quả và trình tự của sự tu. Trong Kinh tả rõ các ma chướng. Ngài A Nan vì chúng thị hiện hỏi đạo. Phật chứng minh các pháp đều do tâm tạo.

Chúng ta luân hồi trong sáu đường, do ái dục là cội gốc. Ngài A Nan vì chúng sinh thị hiện mình tuy tu bao kiếp cũng không thoát được nạn Ma Đăng Già. Trong các tội chướng, dâm đứng đầu. Dâm nhiều thì tổn hại thân thể, nên giết hại mạng chúng sinh đế bồi bổ, rồi tội ăn cắp, vọng ngữ cùng theo đó mà sinh.

Chúng ta thường bị vọng tưởng điên đảo hành hạ, quay đến rối mòng. Hồi nhỏ khi tôi chưa xuất gia, cả ngày giao tế toàn nghĩ tưởng việc thế. Đêm đến mộng thấy cha mẹ nội ngoại thân quyến, mơ đủ việc đời. Khi xuất gia rồi, làm và nghĩ đều không ngoài Phật sự, tối ngủ mộng mị chỉ là Phật sự: niệm Phật, lễ sám v.v…

Năm thứ ngũ tân: hành, hẹ, tỏi, nén… tôi không ăn được. Vì muốn tránh sự kích thích dục niệm, dẹp những nhân phụ này cốt đế hỗ trợ nhân chánh, tinh tấn chuyên cần thì có thế thành tựu, bản thân mình phải siêng năng tự nhắc nhở mình, không nên ỷ lại vào ai khác.

Ngài A Nan là Hoàng tử em họ Phật, xả bỏ vinh hoa phú quý theo Phật xuất gia, lầm mong Phật sẽ giúp đỡ cho mình chứng đắc.

Thế nhưng, phải biết rõ là chính bản thân mình phải thực hành, tự tu tự chứng, không thể nhờ ai. Nếu quý vị không làm biếng, luôn phát tâm tinh tấn tu thì sẽ có ngày thành dạt.

Ba cõi, sáu đường đều là huyễn, đều không ngoài tâm. Tánh giác vi diệu của chư Phật cũng không ngoài tâm. Thế nên tâm, Phật, chúng sinh cả ba không khác. Đồng tử Hương Nghiêm cũng có thể là mũi chúng ta, Bồ-tát Kiều Phạm cũng có thể là lưỡi của ta. Nhân địa và cách thức tu của 25 vị Thánh trong kinh Lăng Nghiêm tuy không đồng, nhưng khi chứng ngộ vốn không sai khác.

Hiện tại những vị mới phát tâm có thể tu theo hai ngài Đại Thế Chí hoặc Quan Âm. Bồ tát, Quan Âm sẽ là Phật nối tiếp Phật Di Đà cõi Tây Phương, và ngài Thế Chí sẽ là Phật nối tiếp ngài Quan Âm. Ngài Thế Chí tu pháp niệm Phật mà chứng viên thông. Chúng ta cũng phải tu niệm Phật, thu nhiếp sáu căn, nhờ niệm Phật miên mật mà được chánh định.

Bồ tát Quan Âm nhờ Văn, Tư, Tu mà nhập chánh định. Trên đồng từ lực mười phương chư Phật, dưới vì lòng bi thương xót chúng sinh. Tùy nghi hiện thân hóa độ khiến chúng sinh nhập đạo. Trải qua vô lượng kiếp Ngài độ vô lượng, vô tận chúng sinh, bi nguyện Ngài cũng thật là vô tận. Quý vị nên học theo hạnh các Ngài.

ĐỪNG MÊ THẦN THÔNG

Thứ Hai, 18/1/1943 A.L Quí Mùi

Quý vị nên buông bỏ tất cả, thúc liễm thân tâm, thân là gốc khổ, tâm là nguồn tội. Bây giờ không nỗ lực tu, thì đợi đến bao giờ? Phải biết thân người khó được. Xả bỏ vọng tưởng thì tâm như như. Nếu tinh tấn tu thì lo gì không có ngày cắt đứt sinh tử.

Nho gia nói: “Từ thiên tử đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc”.

Thời nay, người ta không biết chánh trị và tôn giáo liên quan và hỗ tương nhau rất mật thiết. Chánh trị giúp sửa thân, còn tôn giáo giúp sửa tâm. Tôn giáo và chánh trị luôn song hành cùng nhau, nếu không nhờ sự hợp tác đồng nhất củaa đôi bên thì không cứu được hoạn nạn thiên tai trong đời. Hiện tại nguyên thủ quốc gia cùng chư tướng lãnh phát tâm lập Pháp Hội Đại Bi Hộ Quốc mong giải trừ thiên tai hoạn nạn cho chúng sinh – chính là ý nghĩa này.

Ngày xưa, việc tổ chức Pháp hội, lập Đàn tràng rất thường. Các vị Lạt-ma Tây Tạng gần đây hoằng pháp gần Trung Nguyên rất đông, rất được chính phủ tôn sùng kính trọng. Những năm gần đây Mật giáo thịnh hành tại Trung Quốc, vì có thể hiển nhiều thần thông. Dù vậy, nếu quý vị lúc rảnh không chịu tu, khi cấp bách mới chạy đến cầu Phật thì khó mà thành tựu.

Hư Vân tôi đi hành cước khắp nơi, các nước lân cận đều đã đặt chân tới. Tôi là phàm phu, không thẩn thông, cũng chẳng biết biến hóa. Tôi không dám ăn mặn (không ăn thịt) quá ngọ không ăn. Nhiều người không hiểu Phật pháp, ưa danh lợi, mê đắm thần thông. Nếu còn ôm vọng tưởng này, thì chẳng lạc tà cũng theo ma.

Phải hiểu Phật pháp nơi tâm, không nên hướng ngoại tìm cầu. Thần thông phát là do trình độ huân tu chứ không phải do mong cầu mà được, cứ ngóng thần thông, thiệt là đáng thương.

Hiện nay, quý vị phát tâm hành Đại Bi Sám Pháp, vì muốn hộ quốc tiêu tai nên mời tôi làm chủ Pháp hội. Xin mọi người hãy chánh tâm nhất ý, cùng lễ sám xưng tán Thánh hiệu Bồ-tát Quan Âm. Ngài có duyên với cõi Ta-bà này rất sâu, linh cảm vô cùng. Nhưng nếu quý vị không chí thành sẽ không được cảm ứng. Giữa 25 vị Thánh trong Kinh Lăng Nghiêm, Bồ-tá.t Quan Âm là chứng quả viên thông vi diệu nhất.

Ngài trình bày với Phật:

“…Con nhờ văn, tư tu nhập chánh định, ngay trong lúc nghe không chạy theo âm thanh trần cảnh, xoay lai nghe tự tính, đạt được thanh tịnh vô sinh”.

Bộ Đại Bi Sám Pháp này do đại sư Từ Minh Pháp Trí soạn, bi nguyện không nghĩ lường, cảm ứng đươc sử ghi chép đầy đủ. Từ sáng đến tối quý vị chí thành lễ lạy, năm vóc sát đất, ba nghiệp thanh tịnh ắt đoạn được tội sát, đạo, dâm, trừ được tham, sân, si chuyển nghiệp thập ác thành thập thiện. Quý vị cần phát bốn Hoằng thệ nguyện, dùng hương hoa đức hạnh tự trang nghiêm thân cho đầy đủ phước đức trí huệ. Có ích như vậy vì sao không làm? cần hành trì chân thật. Quý vị phải nhớ: Phật là trượng phu, chúng ta cũng thế.

Đời vua Khang Hy, Hòa thượng Nguyên Thông Trụ trì chùa Tây Vực, một hôm nọ thấy một vị Tăng đắp y vàng đến chùa mình, vua rất tôn kính, bảo sư Nguyên Thông ra tiếp đón. Nguyên Thông nói: – “Đây chẳng phải là Tăng, mà là con nhái tu thành tinh, có thần thông biến hoá”.

Lúc đó trời đang hạn, vua bảo vị Tăng nhái kia cầu mưa. Quả nhiên có mưa trút xuống. Vua càng thêm kính tin. Nhưng Nguyên Thông bảo: “Hãy lấy nước mưa đem so với nước tiểu con nhái”…

Kết quả, mưa và nước tiểu rất giống nhau, tà chánh phân rõ. Quý vị phải tìm hiểu năm mươi loại ma trong Kinh Lăng Nghiêm tả cho rõ ràng, để không bị mê hoặc rồi lạc vào đường tà. Phải hết sức cẩn thận.

PHƯỚC HUỆ SONG TU, TRƯỜNG TRAI

Thứ Ba, 19/11/1943 A.L Quí Mùi

Quý vị mỗi người phải chọn cho mình pháp môn thích hợp đế hành trì. Tu quan trọng ở thực hành.

Bất kể quý vị tu pháp nào, phải lấy việc trì giới làm căn bản. Nếu ỷ thông minh không trì giới thì lạc vào đường ma, các pháp môn tuy khác, nhưng về nguồn chỉ có một.

Tu phải phước huệ song tu. Tu mà không đoạn trừ tâm hiếu sát thì đời sau nếu không làm Thành hoàng cũng làm Thổ địa.

Tôi thấy nhiều người tu không nghiêm cẩn ăn chay, tôi thật đau lòng vì hành động này rất trái với tâm từ.

Mạnh Tử nói: -“Nghe tiếng loài vật kêu la không nỡ ăn thịt chúng”. Mạnh Tử còn nói vậy, huống nữa chúng ta là Phật tử. Sao có thể nhẫn tâm giết hại, đoạt mạng sống sinh vật để thỏa bụng mình? Ăn chút vị ngon vào miệng, qua khỏi lưỡi là hết, vậy mà vì món ăn lại tạo tội sát vô biên. Quý vị đã xuất gia thì không nên ăn thịt, là Phật tử cũng không nên ăn thịt. Quý vị đã tập tu thì nên nuôi dưỡng tâm bi. Lời tôi nói nghe không êm tai nhưng xin quý vị hãy lưu tâm, cố gắng tu hành.

PHẬT GIÁO CẦN ĐOÀN KẾT

Thứ Bảy, 1/2/1943 A.L Quí Mùi

Theo lời mời thỉnh của Thủ tướng chính phủ cùng chư Phật tử, tôi đến đây thuyết giảng và chủ trì Pháp Hội Đại Bi Hộ Quốc Tiều Tai. Do thời gian có hạn nên tôi không thế đến các đạo tràng khác như lời mời. Mong quý vị thông cảm.

Quý vị đều là những bậc Đại đức tu hành lâu năm. Có trình độ Phật học uyên thâm, đâu cần nghe tôi giảng. Chỉ vì quý vị nằng nặc đòi tôi phải thuyết nên tôi không thể không chìu ý, đành nói vài lời.

Hiện nay chiến tranh tràn lan trên thế giới, con người sống trong cảnh giết chóc, lửa bỏng dầu sôi, có thể nói là dân không biết nương vào đâu mà sống. May là còn có Hòa thượng Quảng Diệu hoằng pháp độ sinh đây.

Hôm nay chúng ta tụ hội tại nơi này chẳng phải tình cờ mà đều là có thiện duyên. Phần tôi chỉ được cái lớn tuổi chứ thật sự chẳng có gì hay ho hơn quý vị.

Sau khi thể chế Dân Quốc thành lập, chính phủ cho tự do tín ngưỡng. Di ngôn của Tôn tiên sinh được ban hành, tuyên bố rõ. Song các Tôn giáo bạn như Hồi Giáo, Thiên Chúa, Tin Lành đều được chính phủ bảo hộ, còn riêng Phật giáo lại bị cảnh phá chùa đuổi Tăng trên khắp toàn quốc, dẫu bị oan ức cũng kiếm không ra chỗ để kêu oan. Việc này quý vị hãy ngẫm nghĩ mà xem – Quả tình việc phá chùa đuổi Tăng là không đúng. Song quý vị có tự xét lại mình hay tự hỏi vì sao mà bị như thế không?

Hãy nhớ câu: “Vật gì thối rửa sẽ tự hoại, những vết thương ung thối mới sản sinh ra dòi trùng”. Hiện nay tu sĩ Phật tử phần nhiều bỏ quên trách nhiệm bổn phận, không hiểu rằng làm con Phật thì phải làm Phật sự (Hành đúng pháp). Phật sự là gì? Là tu Giới, Định, Huệ, là những việc thuộc Phật pháp. Là tu sĩ, Phật tử thì bắt buộc phải thực hành y theo giáo pháp. Nếu quý vị thật sự tu trì chân chánh, tự nhiên sẽ biết cách cảm hóa ác ma, chuyển tà thành chánh, biến kẻ nghịch thành bậc hộ pháp chân chánh đắc lực.

Hiện nay các tu sĩ phạm luật pháp làm lụy đến chư Phật, bị chính quyền tịch thu chùa, đuổi hết Tăng, Ni. Thực sự thì chùa đâu có tôi? đâu liên can gì đến những Tăng, Ni có phẩm hạnh bất hảo? Có thể giải thích rằng: -Một đảng viên tha hóa đâu liên quan đến toàn đảng – không phải là tội của toàn đảng. Nếu Tăng Ni bất hảo, chính quyền phá chùa, song nếu đảng viên bất hảo chẳng lẽ phải hủy toàn đảng hay sao? Nói thế này tôi mong tất cả hiểu rõ, để cùng nhau góp tay vào chấn chỉnh. Chớ bảo người Quý Châu chỉ cần lưu tâm tới Phật pháp Quý Châu là đủ – phải hiểu Phật giáo vốn là một đoàn thể thông nhất – quý vị không nên phân biệt, hãy như đất không phân biên cương. Quý vị nên nhớ sinh tử sự đại mà nỗ lực, tinh tấn tu, đừng để một đời trôi suông.

Phụ ghi:

Các việc làm của Sư

Thư ký Duy Nhân nhắc Biên giả rằng: Khi Sư ở Trùng Khánh về chùa, do nghe đồn Sư quí đồ cổ nên các ông lớn đều mang ngọc báu cùng các bức tranh chữ đến biếu, tặng phẩm chất đầy năm rương lớn.

Lúc đi đường, Sư đem cho người ta hết. Duy Nhân hỏi thì Sư bảo: “Của không mất tiền mua mà giữ thì loạn tâm người”, rồi chẳng lưu lại một vật.

Lượt về, ven đường, Sư qui y cho hơn bốn ngàn người. Có ai cúng dường gì, Sư đều trao cho Duy Nhân giữ để sửa Tháp Hải Hội.

Tháng ba, Sư trở về Nam Hoa sửa tháp Hải Hội của Thất chúng. Khi đào đất đổ nền tháp, phát hiện một số quan tài vuông, mỗi cạnh dài một trượng sáu. Bên trong không hài cốt mà chỉ có gạch u cung, mỗi viên hơn một tấc tám, chạm nhiều hoa văn cùng chim thú, giữa có mấy chữ viết nhưng không rõ niên đại nên không thể khảo sát.

Tháng 6, Học Viện Giới Luật (để giáo hóa chúng tăng trẻ) được xây xong.

Sư còn cho mở Trường Tiểu Học Từ Thiện trong chùa Bảo Lâm để con em dân nghèo trong làng vào học.

Tháng 11 âm lịch, Tháp Hải Hội xây xong. Ông Thang Anh làm bài ký khắc vào đá.

THÁP HẢI HỘI THẤT CHÚNG CHÙA NAM HOA

Thang Anh ghi

Trà tỳ là một trong bốn phép đại táng cổ xưa của Ấn Độ. Khi Phật giáo được truyền sang Trung Hoa, cũng áp đụng cách này cho bốn chúng. Đời Minh rất thịnh hành, nhưng đến đời Thanh thì không dùng nữa.

Tại các Tùng Lâm Quảng Đông cũng có xây Tháp Phổ Đồng, nhưng không được lớn. Năm Dân Quốc 23 (1934), Hòa thượng Hư Vân đến trụ Nam Hoa, muốn xây một Tháp Hải hội dành cho bảy chúng và cho cất Điện Phật, Tăng Đường để chúng trì tụng huân tu, làm lợi khắp hai cõi U-Minh.

Lúc ấy, Tổ đình thì xiêu vẹo đổ nát, trăm việc hư phế chờ trùng hưng, xây dựng bao năm vẫn chưa xong. Đến mùa xuân năm Quí Mùi, nhờ cư sĩ Trịnh Tử Gia ở Triều Châu tới tài trợ phụ giúp, mới hoàn tất được hết. Và cái nhân duyên thần linh phò trợ, cảm ứng rất lạ lùng này không thể nào mà không ghi lại.

Nguyên Trịnh cư sĩ là một Đại thương gia rất giàu có Hương Cảng. Mùa đông năm Dân Quốc 30 (1941), Hương Cảng bị bao vây, xóm làng sinh biến, người ta thôn tính, chém giết nhau, dân chúng hằng ngày sống trong lo sợ hãi hùng. Đêm nọ, Trịnh Cư sĩ nằm mơ thấy một võ sĩ mặc giáp, cầm chày, bảo hãy đi lánh nạn và còn chỉ chỗ cho ông đi. Tỉnh dậy, lòng còn nhớ rõ như in, Trịnh vội vã kéo hết quyến thuộc lên đường. Dọc đường có gặp bao hiểm nạn, thảy đều hóa dữ thành lành cả. Y như là có Thần ngấm ngầm trợ giúp vậy. Trịnh đi được một tuần, lúc ngang qua chùa Nam Hoa, thì liền xuống xe nghỉ xả hơi. Ông đi lòng vòng quanh chùa ngắm cảnh. Khi ra phía sau chùa, tới chỗ Điện Thiên Vương, Trịnh ngước lên nhìn, mắt vừa thấy tượng Bồ-tát Vi Đà, thì toàn thân ông rúng động, bởi đây chính là vị võ sĩ đã báo mộng chỉ đường cho cho ông đi tỵ nạn. Lệ tuôn như mưa, mừng sợ đan xen trăm mối, Trịnh vội vào Phương trượng, yết kiến Hòa thượng Hư Vân, kể lễ mọi chuyện.

Sau đó, ông xin qui y, phát tâm hiến cúng tài sản để xây dựng chùa, hầu đáp tạ ân Bồ Tát đã giúp đỡ chở che. Hòa thượng thấy các ngôi Điện vũ ở Nam Hoa xây đã hoàn tất, nên bảo với ông là chỉ còn thiếu Tháp Hải Hội. Trịnh nghe xong, phát tâm dũng mãnh, lập tức hỷ cúng năm vạn. Ông còn nhanh nhẩu tình nguyện quyên góp phụ. Cư sĩ Châu Hoài Viễn nghe kể chuyện ông, cũng tùy hỷ trợ giúp hai vạn. Cư sĩ Trương Tử Liêm góp vào một vạn. Sau đó, các thiện nam tín nữ cũng lục tục đóng góp. Nhờ vậy mà đủ kinh phí xây tháp.

Tháp khởi sự xây cất từ đầu xuân Quí Mùi (1943), đến tháng chạp thì hoàn tất, nhìn rất trang nghiêm. Phí tổn tổng cộng hơn trăm vạn. Phương danh quí vị hỷ cúng được khắc vào đá.

Kinh nói: “Tùy duyên cảm khắp, không đâu không tới, nhưng vẫn luôn ngồi tòa Bồ-đề”. Phật pháp không thể nghĩ bàn, hàng phàm phu còn bị trói buộc làm sao có thể suy lường được? Trịnh cư sĩ nhờ đời trước gieo nhân thiện nên nay mới thu được quả lành. Rồi nương duyên lành này mà có được niềm tin, tâm thanh tịnh và nhờ quả thiện này mà trồng thêm thiện nhân. Vạn thiện rỡ ràng, sáng ngời Thánh trí, thế nên tôi ghi lại chuyện này để giới thiệu cho người sau vậy.

Ghi thèm:

Mùa xuân Quý Tỵ, Thang Anh xuất gia ở Hương Cảng, pháp hiệu Dung Hy.

Phụ lục:

TRÙNG HƯNG CHÙA NAM HOA Ở TÀO KHÊ

Hư Vân ghi

Trong một mảy lông hiện cõi bảo vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân, tận hư không, khắp pháp giới, chỗ nào mà không là đạo tràng? Một hòn đất, một hạt cát, việc gì mà không là Phật sự? Nói cho cùng thì động niệm liền trái, há có thể dùng ngữ ngôn văn tự để ghi chép? Nhưng, đời có dời đổi, cõi giới có phương hướng, đạo có ẩn hiện, việc có phế hưng. Huống chi đạo do người hoằng truyền, nhân lý mà hiển sự, muôn nối bước người trước, khai mở cho người sau, kê tục huệ mạng thắp truyền đuốc tuệ, lẽ nào không dùng ngôn ngữ văn tự để ghi?

Tào Khê là Đạo tràng của Thiền sư Đại Giám, vị Tố đời thứ 6, truyền pháp mạch Đông Sơn, mở rộng tông phong Nam Đốn. Một giọt nước Tào Khê, rưới khắp hoàn vũ. Năm tông đua nhau trổ hoa, vang vọng đến nghìn năm, dù âm thầm hay hiển lộ, thành Phật thành Tổ không biết đã bao nhiêu người. Muốn báo ân, phăng đến cội nguồn, hiển bày điểm cao tột, long trọng chuyển tải cho thế nhân, thì càng không thể không dùng văn tự để ghi lại.

Hư Vân tôi, gần trăm tuổi mới đến được Tào Khê, vì Lục Tổ ra tay quét sạch tệ trạng, tìm hiểu ghi lại những việc đã qua, nhờ túc duyên mới tiến hành sửa sang chấn chỉnh, song phải trải qua mười năm trời mọi việc mới dần dần ổn định. Phải dốc hết tâm lực, ra sức mỏi mòn, mới tạo thành quy củ nề nếp.

Mong Tăng đồ ngày sau gìn giữ được như thế này dài lâu, bảo tồn đạo tràng không làm suy thất… hầu báo đáp chút đại ân Phật Tổ, và chẳng phụ hùng tâm nguyện lực sâu dày của chư đàn việt hộ pháp. Đó là những điều mà Vân này luôn mong mỏi nơi hàng hậu lai.

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 7 (1918), Mậu Ngọ, Vân tôi đang tại Kê Túc Sơn, Điền Nam. Ông Lý Căn Nguyên giữ chức Đôc Biện Quân Vụ ở Thiều Châu, lo tu sửa chùa Nam Hoa, gởi thơ đến tỉnh Điền mời tôi đến chủ trì việc này. Lúc đó do việc tôi với Kê Túc Sơn chưa xong, đành cảm tạ, từ chối.

Đến Năm Dân Quốc thứ 17 (1928), Mậu Thìn, tôi và cư sĩ Vương Cửu Linh cùng sang Hương Cảng. Lúc này Chủ tịch Quảng Đông là Trần Minh Xu đến Châu Giang, cũng mời tôi Trụ trì Nam Hoa. Nhưng trước đó, Bộ trưởng Hải quân là Dương Thọ Trang, Phương Thanh Đào, thấy chùa Cổ Sơn cần phải chỉnh lý gấp nên phái người sang mời tôi. Do Vân này buổi đầu xuất gia tại Cổ Sơn nên không thể từ chối, phải đến đó. Trải qua nhiều năm vất vả gian nan mới tạm chỉnh qui chế xong.

Đến tháng 4 năm Dân Quốc 23 (1934) Giáp Tuất, chư Tăng Quảng Đông như Kính Thiền, Chí Thanh, Phược Quả… đến tham lễ Cổ Sơn, than thở: “Phật pháp ở Quảng Đông suy vi đọa lạc thậm tệ, còn Tổ đình thì đổ nát”… họ muốn mời tôi đến đó trùng hưng. Tôi chưa quyết định thì ngay trong đêm, nằm mơ liên tiếp ba lần, thấy Lục Tổ giục mình về Nam Hoa. Ngày kế, tôi thuật lại điềm mộng cho mọi người nghe, ai cũng cho là hy hữu. Vài hôm sau, Lý Hán Hồn (nay là Chủ tịch phủ Quảng Đông), gởi điện thỉnh tôi đến Trụ trì chùa Nam Hoa. Mọi người nghĩ việc này ứng hợp đúng điềm mộng nên đồng thúc tôi đi, tôi xin ông Lý ba điều:

1. Mong rằng chùa Nam Hoa, đạo tràng của Lục Tổ vĩnh viễn là chốn Tùng lâm mười phương cho Tăng chúng ở.

2. Xin kêu gọi những con cháu sơn môn từng trú đóng trước đây đồng ý nhượng giao và ra ngoài ở, chứ không ép buộc.

3. Những tài vật thuộc chùa sở hữu, từ việc xuất nhập, thanh lý sản nghiệp, giao thiệp, tranh tụng… đều do thí chủ phụ trách.

Nếu như ba điều này được chấp nhận thì tôi sẽ đến đấy xem xét. Ông Lý đánh điện trả lời ưng thuận và cử bí thư Ngô Chủng Thạch qua Hương Cảng, Quảng Châu… đi cùng với đoàn tu sĩ, Phật tử… hơn mười người đến Cổ Sơn rước tôi.

Tôi đến Quảng Đông, thăm Tào Khê, lễ Tổ Đình, xem xét hình thể, địa thế. Thấy chung quanh đều bị vây bít, hướng Bắc nhìn chẳng hợp cách, nên bảo ông Lý rằng:

– Việc này phí tổn rất lớn, kéo dài dằng dai, bần tăng sức lực mỏng manh, e khó đảm đương chu toàn. Lý hỏi:

– Nghĩa là sao?…

Tôi đáp:

– Chùa này là Tổ đình nổi tiếng trong thiên hạ, mà nay tàn phế thế này, chẳng thể trùng tu một lần mà xong hết. Muốn thiết lập lại cho có trật tự, làm cho đúng pháp, chỉnh chu… thì công trình này chưa kế là phải kéo dài nhiều năm, mà sở phí tôn có đến mấy mươi vạn kim, e khó bề lo nổi, bần đạo làm thê nào mà lo liệu, an bày đây?

– Ngài ráng nhận đi, con sẽ tận lực lo phụ…

Thế là bản thiết kế được phác họa để tham cứu. Tôi vì quý trọng Tổ đình nên phải hứa nhận. Lúc ấy là ngày mồng 2 tháng 8, năm Dân Quốc 23 (1934), nhằm ngày Thánh đản Tổ Sư.

Sau đó tôi từ chức ở Cổ Sơn, cúc cung tận tụy tiến hành công việc nơi Tổ đình Tào Khê. Trước hết phải đo lường hình thể toàn núi.

Đầu niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, Tôn giả Trí Dược – Tổ khai sơn Tào Khê – cho xây ngôi Bảo Lâm Thiền Tự, nền móng này xưa nằm bên mé tả, giờ thuộc bên dưới Tịnh xá Nam Hoa. Đến năm Nghi Phụng đầu tiên (676), nhà Đường, lúc Lục Tổ đến đây thì chùa đã trải qua 170 năm. Lúc đó ngôi chùa cũ đã hư nát, vùng núi này thuộc về tài sản riêng của họ Trần. (Bấy giờ, phần mộ ông bà của Trần Á Tiên đang an táng bên hữu chùa) Lục Tổ muốn khôi phục lại chùa cũ, Ngài cảm được Tứ Thiên Vương xuống phân định ranh giới, Trần Á Tiên xin cho họ giữ lại phần mộ (còn bảo tồn đến ngày nay). Do vậy mà khi Lục Tổ xây chùa, thì ngoài tường chùa là mộ tổ Trần Á Tiên. Phía hữu mộ là đầm Rồng (Lục Tổ đã hàng phục con rồng và nó bỏ xác tại đây). Tổ định lấp cái đầm này để làm Tăng Đường. Nhưng việc tiến hành chưa được phân nửa thì Tổ đã nhập diệt. Sau đó, đệ tử phụng thờ nhục thân Ngài, cho xây tháp trước mộ tổ Trần Á Tiên. Mới đầu vì là tháp cây nên chẳng thể làm cao. Đến đời vua Hiến Tông, năm Nguyên Hòa thứ 7 (813), vua ban thụy Tổ là Đại Giám Thiền Sư, tháp tên Nguyên Hòa Linh Chiếu, đặc cách cho tu bổ và bài trí lại.

Đến đời vua Tống Thái Tông, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm đầu (974), vua ban chiếu truyền xây ngôi tháp mới 7 tầng cho Tổ (Sự thay đổi này có ghi vào bia). Tên tháp mới này là Thái Bình Hưng Quốc. Từ đó về sau, dù tháp có trải qua nhiều lần tu sửa, vẫn theo nền cũ. Người sau quan sát thấy tháp cao ngất, đè lên mộ tổ của Trần Á Tiên (không rõ sự thật về chuyện đã qua).

Nhưng căn cứ vào hình thể mà nói thì toàn ngôi tháp đè lên phía tay hữu của chùa, làm trở ngại sự co dãn – nên cả trăm phòng con cháu, đến đời Minh chỉ còn hơn mười phòng.

Đọc sơ Nam Hoa Sử Lược, Vân tôi chẳng thể xếp sách, thở dài mãi. Mùa thu, năm Canh Tý – Vạn Lịch thứ 28 (1601), Ngài Hám Sơn Đức Thanh, khi đến đây trùng hưng Tổ đình, muốn lấp đầm Rồng, nên đã thống nhất vị trí phương hướng các ngôi kiến trúc lại, thu lại hướng núi chánh… Ngài làm ngót tám năm, công trình mới tiến hành được một nửa thì gặp ma sự phải bỏ đi. Sau đó, tuy Ngài có trở lại nhưng không lâu lại viên tịch.

Đọc Mộng Du Tập, Thệ Nguyện văn… Ngài Hám Sơn viết hy vọng hàng hậu bối sẽ trùng hưng, hoàn thành tâm nguyện ấy giúp Ngài… tính đến nay đã 300 năm rồi.

Vào niên hiệu Khang Hy đời Thanh, chùa tuy có được Bình Nam Vương Thượng Khả Hỷ trùng tu lại, song theo nhận xét của các nhà nghiên cứu địa lý thì hồ Rồng được lấp kín, toàn bộ Điện Đường chùa được dời qua bên hữu mộ tổ Trần Á Tiên. Còn Bảo tháp Linh Chiếu thì trấn ngay tay tả của trụ chùa. Thêm nữa, suối Trạc Tích phun ra từ miệng voi, nằm ngang sau núi là răng voi nên chùa chủ tựa vào núi.

Từ khi ngài Hám Sơn bồi đắp đến nay, trải qua nhiều người tu sửa, họ chẳng khảo sát mạch núi, không lưu tâm đến thế tựa núi của chùa, để dòng chảy nơi cầu Phi Tích mặc tình đâm thẳng vào sau chùa, đây là điều tối kỵ thứ nhất.

Bên hữu đầm Rồng có một gò nhỏ, hình dạng giống mũi voi, liên hệ đến gò Bạch Hổ trong chùa, song gò này bị đào đứt nhiều chỗ, bao quanh không kín, thiếu sự che chở. Đây là điều tối kỵ thứ hai.

Phía ngoài, con đường Toán Khê trũng như thung lũng và bị đào khuyết gây lõm nhiều chỗ, hứng trọn gió bấc mà không có rừng cây ngăn che. Đây là điều tối kỵ thứ ba.

Còn phía trước và sau chùa, thế tựa chẳng được chánh. Ngày trước, lối vào sơn môn (tức chỗ cây Chương cổ thụ phía Tây khu rừng hiện nay) ở đó có cái hố rất sâu, (hiện giờ là cổng trước Tào Khê), đã vậy còn thêm dãy mồ mã gò nổng nằm ngổn ngang (do chôn cất bừa bãi), cảnh lộn xộn lồi lõm nhìn rất chướng mắt – cõi u hay Minh đều bất an. Đây là điều tôi kỵ thứ tư.

Cái giếng La Hán ở dưới Lầu Vân Hải thuộc phía tây Điện Thiên Vương cũ, bên hữu giếng có một gò cao chạy quanh co vòng vèo đến cổng Điện Thiên Vương tạo thành thế Bạch Hổ vỗ bụng. Đây là điều tôi kỵ thứ năm.

Còn núi lớn mặt sau chùa, tuy gọi là Song Phong nhưng thực chất rất yếu – vì thế tựa của chùa chẳng chánh – lại lấy phần lõm khuyết làm lưng, khiến con cháu ngày càng suy vi.

Lúc Vân tôi đến Tào Khê, phòng ốc có 5 ngôi mà con cháu sơn môn trụ chẳng được mười. Vì họ chẳng ở trong chùa, ai cũng có gia đình. Họ thường trú trong làng, lo trồng tỉa, cày bừa và chăn nuôi, sống hệt như người thế tục. Ngay cái chức tăng Hương đăng trông nom Điện Tổ, là người do dân làng cử đến. Mỗi năm vào (tháng 2 và tháng 8) giỗ Tổ, nếu có thu nhập gì thì dân làng quản hết. Họ giết mổ, ăn uống, cờ bạc, hút sách, phóng uế bừa bãi, đất đầy phân người lẫn phân thú, hơi thối xông nồng nặc đến nỗi ai đi qua đây cũng phải bịt mũi. So với tình trạng thời ngài Hám Sơn mô tả, còn kinh khủng hơn nhiều.

Đức Lục Tổ – Thiền sư Đại Giám – của chúng ta, bậc được tán tụng là Đạo ngang nghìn Phật, Đức trùm hàm linh, chiếu soi đời sau đến vô cùng. Vậy mà ngay nơi Đạo tràng thờ nhục thân Ngài (là chốn gương mẫu tiêu biểu), chưa đầy trăm năm đã bị suy tàn đến thế! Tuy nói dự tính của người khó thể bảo tồn, nhưng chính địa hình bất lợi cũng gây ảnh hưởng cực kỳ quan trọng. Vì vậy chuyện khảo sát về âm dương, sông suối, chẳng phải là hư vọng.

Tôi xem xét xong xuôi, mới bàn với ông Lý, trước phải định hình thế, vẽ họa đồ, rồi khai triển rộng ra. Ông Lý cùng ông Ngô, lo chôn đá đánh dấu ranh giới nền chùa, ấn định khu vực rừng, khuôn viên chùa… Đất núi có 500 mẫu, giao cho chùa kiến trúc. Vân này không thể không dốc hết tâm sức để thực hiện, chương trình đã hoạch định.

Khi Vân tôi đến núi, trừ Điện Tổ, Bảo tháp, am Tô Trình… là còn nguyên, nhưng Đại Điện, Lầu Kinh, Phương Trượng, Tăng Đường, đều mục nát hư hoại hết… vì không còn chỗ cho chúng ở, nên phải dựng tạm 20 ngôi nhà tranh để làm nhà khách và chỗ ăn uống, nghỉ ngơi cho thợ thuyền, tu sĩ, Phật tử…

Trước khi trùng tu Điện Tổ, cái khám cây (Tổ ngồi) trong điện, do trải qua nhiều năm, bị mối ăn hư hết, nên phải thỉnh Thánh tượng, nhục thân của Tổ ra ngoài để làm cái mới (theo kiểu tháp vua A Dục), tức là làm một cái khám cho Tổ ngồi, còn bốn bên phía ngoài thì dựng tượng bốn vị đệ tử Tổ như: Nam Nhạc, Thanh Nguyên, Pháp Hải, Thần Hội cho đứng hầu bốn bên.

Nam Nhạc và Thanh Nguyên là hai vị đệ tử thượng thủ lúc Tổ còn sinh thời (năm tông phái Thiền cũng từ hai Ngài mà lưu xuất). Pháp Hải là vị đã biên chép quyển Pháp Bảo Đàn, còn Thần Hội là người đại chấn Đốn giáo tại Hoạt Đài (tương tự như bốn vị Thánh bên đạo Khổng vậy).

Ngoài ra, hai bên Điện Tổ tôi cho xây Đông Hiền Điện, Tây Hiền Điện, dựng tượng chư vị Tổ Sư có công với đạo, thuộc năm Tông (giống như 72 vị hiền triết bên cửa Khổng). Tào Khê là quê hương của Thiền môn, nên đầu tiên phải định danh, định vị lại cho rõ ràng. Trước Điện Tổ, bên tả thờ Thánh Phụ, Thánh Mẫu (song thân Tổ), bên hữu thờ thần Già Lam. Giữa có đặt Tửu đình của thị giả Linh Thông (không phải để thờ, mà là ghi lại việc đương thời ngài Hám Sơn đã cấm tuyệt không cho Linh Thông uống rượu nữa và khuyên ông gắng sức thêm).

Còn nhục thân ngài Hám Sơn (trước đây tuy được đặt trong tháp Linh Chiếu), nhưng tượng đồng Bồ-tát Quán Âm cao một thước tư, lại đặt phía sau ngài Hám Sơn, sắp vậy là không đúng! Riêng nhục thân ngài Đan Điền, trước đây đặt ở chái Đông điện Tổ, chỗ này lại bị trưng dụng làm chỗ trú binh, lâu ngày dơ uế không chịu được. Tôi cho xây Báo Ân Đường, trước thờ song thân Lục Tổ. Còn hai bên khám Tổ tôi cho xây thêm hai khám nữa, để thờ ngài Hám Sơn bên tả và thờ ngài Đan Điền bên hữu. Còn xây thêm Điện Già Lam để thờ thần Già Lam. Nhóm thị giả của Linh Thông thì cho phía trong và phế bỏ cái bàn rượu của ông ta.

Tôi cho xây tòa Quan Âm Đường bên phía Tây Điện Tổ và rước Thánh tượng Quán Âm ra đây thờ. Tổng cộng có 15 gian.

Dựng nhà vệ sinh (WC) cho chúng Ngoại trú cùng các ngôi nhà lặt vặt khác là 9 gian. Nhà vệ sinh cho chúng Nội Trú cộng với nhà tắm là 7 gian. Xây chỗ ở tạm dành cho chư Ni đên thọ giới, đem tượng đồng của Lục Tổ ở trong Phương Trượng đặt vào tháp Linh Chiếu (tượng này nguyên ở chùa Đại Giám, Thiều Châu, vì chùa bị cháy nên mới rước về Nam Hoa).

Phía sau Điện Tổ, xưa là am Tô Trình, chỗ này do quá nhớp nhúa nên phải tẩy uế, cho dọn dẹp sạch sẽ rồi mới khởi sự xây lại, còn cất thêm tầng gác ăn thông với Điện Tổ, tạm làm Phương Trượng.

Phía Đông của Phương Trượng có một gò đất, đào đất này để bồi vào sơn chủ. Cất thêm dãy lầu cao hai tầng, mỗi tầng có năm gian, chia làm Tổ Đường, thờ lịch đại Tổ Sư cùng bài vị, văn bia… của những vị từng Trụ trì chùa Nam Hoa. Tình hình nội bộ đã định xong, tôi bèn lên kế hoạch sẽ tuần tự thực hiện mười việc.

1. Sửa lại dòng sông để tránh thế hung sát

Tôi nghiên cứu thấy con sông Tào Khê chảy từ phía Đông núi Thiên Vương, uốn lượn ra mặt tiền chùa, còn phía Tây chảy đến cầu Hồng Quang thì đổ xuống vùng Mã Bá. Sông nằm cách cổng chùa hơn 140 trượng (1940m), do nhiều năm không tu sửa nên bị cát đá ùn tắc gây nghẽn và xẻ dòng nước chảy đổi sang hướng Bắc, thế như đâm vào đại lộ chính trước chùa (bắn thẳng vào hướng cổng chùa), nhìn rất phản cách. Cho nên, việc trước nhất là phải chuyển đổi dòng sông, khôi phục lại đường chảy cũ để tránh thế hung sát.

Mùa hạ năm Dân Quốc 24 (1935) Ất Hợi

Tôi bỏ công nghiên cứu thẩm định lại dòng nước để khởi sự đào đường mới cho con sông, lấp hướng đi cũ của nó. Toàn công trình này tính ra dài hơn 870 trượng, sở phí kếch xù. Định sáng mai khởi công thì ngay trong đêm 20 tháng 7, trời bỗng đổ mưa to, sấm chớp đùng đùng, nước chảy tràn bờ, xẻ dòng sông sang hướng mới. Còn dòng cũ bị bùn đất, cát sỏi bồi lấp cao lên, biến thành một con đường thẳng tắp hình chữ nhất trước chùa. Đây là nhờ sức Thần phụ giúp, chứ Vân tôi thật chẳng có công lao gì.

Ngày nay, nhờ phù sa dòng nước bồi đắp, phía trước chùa cây cối xum xuê, chẳng còn dáng vẻ phản cảm như trước kia.

2. Sửa lại chủ thể hướng núi cho chánh

Hồi trước, Sơn Môn nằm về phía Tây cây Chương, muốn đi ra hay vào tất phải lách tránh cái hố sâu, nhìn chẳng ra vẻ Chánh Biện có đường chính hay cổng chính gì. Thêm nữa, ngoài Sơn Môn dù có con đường lớn bằng phẳng, nhưng lại là khu nghĩa trang, phần mộ chôn cất bừa bãi, nằm lộn xộn, ngổn ngang. Vì vậy, trước hết phải bốc dời mộ đi, ban đắp lại cho bằng, rồi đem số đất đá thừa đắp Thành Hộ Vệ (cao khoảng vài trượng) hai bên tả hữu núi. Tôi chọn chỗ này làm cổng chính Tào Khê, phía ngoài phát rộng ra, làm quảng trường trồng cây, từ xa nhìn vào đã thấy cây cối tỏa bóng mát rượi, mây trắng phủ đất, đầy khí thế Tùng Lâm, hùng vĩ thanh tịnh

3. Bồi núi chánh để tránh thế tọa không và đắp cao tả hữu để hộ sơn, tạo thành thế chỉnh chu cho cuộc đất

Chỗ chùa tựa vào núi hình giống như con voi, người sau đặt Phương trượng nằm đằng sau núi, lại chia cắt rời rạc, khiến hậu diện chùa rơi vào khoảng trống, không có điểm tựa (là thế vô chủ). Chùa nằm trên miệng voi, hai bên tả hữu nép phía dưới, khiến hàm voi bị san thành bình địa, âm dương chẳng phân. Phía bên hữu nối với mũi voi, đáng lẽ phải cao vót, thì lại chia thành từng đốt, chỗ lồi, chỗ lõm, còn bị. người cắt đứt tại giếng Tỳ Lô (giếng ở phía góc tây Thiền Đường hiện nay) Riêng con đường chạy thẳng đến đầu Sơn

Môn bị khuyết trầm trọng (rơi vào thê Đại Không), chung quanh trống lốc, không có cây cối che chắn, nên nếu nhìn xa thì thấy chùa nằm trơ vơ cô độc, không điểm tựa… còn nhìn gần thì phần vòi lại bị bít, thật đáng tiếc.

Vân tôi cho san bằng các Điện Đường cũ cùng hành lang, phần đất đá dư được đem đến bồi ba chỗ: bên hữu cao hơn tả để tạo hình vòi voi, hơi cong về hướng Đông để tạo thành chỗ uốn cong của cái vòi. Khoảng giữa cho đào hồ sen, là chỗ hút nước của vòi voi và đắp cao phía sau núi tạo thành chỗ dựa vững chắc. Cả ba nơi này đều được trồng cây cối, hiện nay rất xum xuê sầm uất.

4. Cất Điện Đường mới cho trang nghiêm

Dân Quốc năm 25 (1936), Bính Tý:

Tôi cho xây Đại Hùng Bảo Điện mới trên nền cũ (sau Công Đức Đường hiện tại). Giờ thì Tháp Linh Chiếu nằm bên tả, tọa cấn hướng khôn., (do ông Thượng Khả Hỷ ở đất Bình Phiên xây dựng nên).

Tôi chọn Chánh Điện làm chủ thể toàn chùa, vì đây chính là chỗ quan hệ trọng yếu, rồi cho đo định địa thế, hợp thợ lại xây cất, dời Chánh Điện ra trước tháp, biến Tháp Linh Chiếu thành chỗ tựa lưng cho Đại Điện, tạo thành thê trang nghiêm vững vàng. (Tọa phương Quí Sửu hướng Đinh Mùi, đồng hướng với Cổng Bào lâm). Nhìn rất đường hoàng trang nghiêm, sáng rỡ… Phía ngoài voi (giống như chỗ trụ của vua), bên trong là tòa Sư tử, tạc kim thân Đại Phật cao năm trượng, xây tượng Tôn giả Ca-diếp, A-nan đứng hầu hai bên. Gọi chung là Tam Tôn. Cho dựng năm trăm tượng La hán chung quanh. Còn hai bên tả, hữu đặt tượng hai vị Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền. Phía sau Tòa đắp tượng Quan Âm. Khách thập phương nghe danh tìm đến chiêm ngưỡng Tào Khê, lòng đầy hân hoan mến mộ, thỏa nguyện ra về.

Khi xây móng điện, đào đất bắt gặp một tòa tháp bằng sắt, cao khoảng một trượng, đúc vào năm Ung Chính, triều Thanh (1723 1735). (Trong Chí Thư ghi là Tháp Hàng Long, điều này không đúng). Tôi đem tháp này để dưới lầu trống (Cổ Lâu), phết vàng lại cho trang nghiêm. Rồi mang hai tấm bia Bình Phiên khảm vào Lầu Chuông Trống để khảo cổ. Đồng thời, san bằng nền đất Cổng Tào Khê, cùng những gò đất ngổn ngang nơi cổng.

Cho xây rãnh dẫn nước dài hơn 50 trượng từ gò mũi voi chảy xuyên qua núi, tạo thành hang nước, dòng chảy rót vào ao nơi cổng Tào Khê. Chu vi ao hơn bốn mươi trượng, giữa có Đình Ngũ Hương, hình dáng giống như cái vòi voi cuốn hoa sen. Các loài có vảy, mai, cư ngụ nơi đây.

Năm Dân Quốc 26 (1937), Đinh Sửu:

Tôi cho xây cổng Tào Khê (nguyên trước đây cổng ở phía Tây, nằm dưới tàng cây Chương lớn), nay được dời về phía Đông, giữ thế tọa Quí Sửu hướng Đinh Mùi, đồng hướng với Điện Thiên Vương. Dạo trước, Điện Thiển Vương ở sau Tây Quy Đường hiện thời. Nền điện có nhiều gò đất ngổn ngang, phải san bằng hết để lập điện thờ Tứ Thiển Vương. Bên tả điện là Lầu Hư Hoài, bên hữu là Lầu Vân Hải. Xây thêm Trai Đường, Bếp Hương Tích, các kho, phòng v.v…

Khi xây Bếp Hương Tích, lúc đào đất nhặt được một cái nồi đồng to (có thể nấu cho một ngàn vị Tăng dùng), tôi cho đặt phía sau Đại Điện (trước tòa Bồ-tát Quán Âm), để trồng sen.

Năm Dân Quốc 27 (1938) Mậu Dần:

Xây Cổng Bảo Lâm, nguyên nền đất ở mé Tây bị trống khuyết, gập ghềnh không bằng, nên đào đất của nó để bồi thêm hai bên tả hữu.

Dưới Lầu Vân Hải có một cái giếng xưa, tên Giếng La Hán, thuở trước miệng giếng thấp, giờ cho đắp cao lên một trượng năm đế xứng với khoảng vườn bằng phẳng. Hai bên tả, hữu đều lập ao sen.

Cho xây lại Lầu Chuông, (Chung Lâu) quả chuông đồng này mới đào được, là di vật từ đời Tống, đem treo lên, tiếng nó vang xa đến năm cây số, giúp người cảnh tỉnh. Cho xây Báo Ân Đường, Điện Già Lam cùng Khánh Đường.

Năm Dân Quốc thứ 28 (1939), Kỷ Mão:

Xây Lầu Trống, (Cổ Lâu), Điện Tổ Sư, an trí thờ từ tổ Đạt Ma cho đến Lục Tổ và Tổ khai sơn bổn tự là Tôn giả Trí Dược (tất cả bảy vị). Xây thêm Tây Quy Đường để thờ giác linh Tăng chúng và xây Điện Công Đức để thờ bài vị của chư đàn việt thí chủ hộ pháp. Xây Vân Thủy Đường dể tiếp đãi chư Tăng vãng lai.

Năm Dân Quốc thứ 29 (1940) Canh Thìn:

Xây Thiền Đường, Điện Vi Dà, Liêu Ban Thủ, Liêu Duy Na để kiểm soát chúng.

– Xây bệnh viện Như Ý Liêu để chẩn bệnh và điều dưỡng, cho bán trà Nam Hoa làm tiền thang thuốc.

– Đục vách núi phía sau Phương trượng để dẫn nguồn nước suối Trạc Tích chảy vào hồ nước, đặt ống dẫn nước ăn thông đến Bếp Hương Tích cùng các Liêu, Đường.

Năm Dân Quốc thứ 30 (1941) Tân Tỵ:

phía sau Chánh Điện, trước tháp Linh Chiếu, xây một tòa Pháp Đường, tầng trên là (Tàng Kinh Lâu) Lầu chứa Kinh, trong cất toàn bộ Long Tạng được thỉnh về từ năm Dân Quốc 25 và bộ Đại Tạng Di Trân. Chủ tịch Lý Bá Hào mang đến một bộ Thích Sa Toàn Tập.

Khi xây Giới Đàn, đào được tấm bia ghi việc sửa tháp năm Vạn Lịch (1573-1615).

– Dựng lập Vũ Hoa Đài trong vách núi.

– Xây Hồi Hướng Đường để thờ những cô hồn chết yểu.

– Xây Lầu Nghinh Hiền để chiêu đãi khách, cho họ có nơi ăn chốn nghỉ.

– Xây Am Vô Tận cho chúng nữ đến tu học. Nền am xưa hình như ở bên hữu suối Trạc Tích (Sư Hám Sơn đã từng trùng tu) giờ mục nát vì bỏ hoang quá lâu, tôi thấy am và chùa nằm quá gần nhau nên cho dời am về phía Đông, cách chùa khoảng 1.500m, truyền hạ cây Bách để xây dựng thôn trang và cho đề bảng là Cổ Vô Tận Am, dời Ni chúng đến đây tu trì. Chân thân của ni Vô Tận hiện còn ở Am Tây Hoa, thôn Loan Đầu, Khúc Giang. (Hiện nay, tôi cho đắp một bức tượng phỏng y theo diện mạo đó, đặt trong am để làm gương cho Ni chúng).

Năm Dân Quốc 31 (1942) Nhâm Ngọ:

Bên tả của Điện, tôi xây Niệm Phật Đường cho người tu Tịnh Độ. lúc đào đất, được tấm bia khánh thành Am Tô Trình niên hiệu Vạn Lịch (1573-1615), tôi cho trưng bày nơi vách Niệm Phật Đường làm căn cứ khảo cổ.

– Tiếp tục xây Diên Thọ Đường cho chư vị già cả an dưỡng, khi ban nền đất, phát hiện một bức chân tượng của Lục Tổ làm vào năm Thuần Hy đời Tống (1174-1189) và một tấm văn bia, bèn đem vào trong Điện Tổ, đặt lưu niệm nơi vách hành lang.

– Phía sau Lầu Chuông, (Chung Lâu) xây Kho Gạo, Nhà Tắm, Liêu Thợ, các Kho, Khố… chứa đồ, còn Nhà Vệ Sinh ở phía Đông.

Trong lúc đào đất phát hiện vô số xương người cùng một cái quan tài dài 1 trượng 6, bên trong cổ quan có rất nhiều đụng cụ chứa ngũ cốc bằng đất nung (khảo cứu sau).

Năm Dân Quốc thứ 32 (1943) Quí Mùi:

– Cho xây Tháp Hải Hội, cách chùa một cây số nằm về phía Đông, do chùa Nam Hoa cũ không có Tháp Phổ Đồng, nên chư Tăng nhiều đời thị tịch đều bị đem chôn bừa bãi trên núi, lâu ngày thi thể phơi bày, bỏ mặc. Để an ủi vong linh của tiền nhân, tôi cho xây Lò Trà Tỳ. Hài cốt sau khi hỏa thiêu xong sẽ cho nhập tháp thờ. Tháp chứa hài cốt bảy chúng, nên tôi cho xây bằng cốt sắt và ciment rất kiên cố, rộng đủ chứa cả triệu bình hài cốt. Phía trên có xây Niệm Phật Đường, cho niệm Phật quanh năm, để cõi u cõi Minh gì cũng được lợi ích. Bên tả và hữu của tháp tôi cho xây thêm bốn dãy lầu phòng, làm chỗ cho người niệm Phật và trông nom tháp ở. Chung quanh tháp có tường bao quanh, trước tháp trồng nhiều cây cối. Ngoài cửa có đào ao trồng sen.

Cho tu bố lại Suối Trạc Tích (vì ngày trước không có hồ chứa nước nên ăn uống không được sạch), giờ phải đào hồ chứa, bên trong có đặt ống, dùng ống dẫn nước đến các Liêu lớn.

– Sửa Cầu Phi Tích đế bảo tồn cố tích.

– Sửa Đình Phục Hổ để dứt hố họa.

– Lập Thiết Nghĩa Đường để dạy trẻ em nghèo thất học trong các thôn làng quanh vùng Tào Khê.

Đó là những việc thuộc năm Dân Quốc 32.

Tổng kết ngót mười năm, Vân tôi trùng tu, xây cất Tổ đình đến đây xem như được đầy đủ.

5. Đuổi hết côn đồ – Quét sạch thói tệ

Vân tôi đến núi vào tháng tám năm Giáp Tuất, chứng kiến cảnh Đạo Tràng Thánh Địa biến thành ác cảnh Tu La, Tổ Đình hóa thành nơi chăn nuôi súc vật, Chánh Điện thành Lò mổ thịt. Phương Trượng trở thành chốn trú binh, Liêu Tăng hóa thành Nhà hút thuốc phiện. Đường Bồ Đề thì thịt bày bán la liệt, Lâm Viên hóa Quán Rượu, Cà-sa mọc sừng, cảnh khiêu vũ nhảy nhót, hát hò, làm dơ uế đầy, không điều ác nào mà chẳng làm.

Mới đầu tôi nhỏ nhẹ khuyên can thì họ chẳng thèm nghe. Hễ tôi tạm hiển chút quyền thì họ xách dao rượt chém, khiến tôi lâm vào cảnh lao đao, nhiều phen suýt chết.

Cuối cùng, nhờ đại lực chư Hộ pháp, Đàn việt, thiết thực nghiêm cấm, răn đe, phụ khuyên dạy đuổi trừ, phải mất ba-bốn năm, những việc tranh chấp này mới chấm dứt.

Còn ngoài chùa, trên con đường lớn phía Nam, tôi cho dựng hơn mười gian hàng nhỏ, tuyển chọn người hiền thiện lân cận cho bán trà nước rau quả, chỉ cho bán đồ chay. Họ răm rắp tuân lời.

Từ đó đến nay, các ngôi Điện Vũ được trùng hưng, chốn này biến thành đạo tràng tôn nghiêm thanh tịnh.

6. Đo, định lại địa giới chùa để bảo tồn cổ tích

Từ khi Tổ sư mộ hóa, đàn việt Trần Á Tiên cúng đất, lấy ngọn Tứ Thiên Vương làm ranh giới, trải qua nghìn năm, đến nay đã thành quy định. Thời gian lâu xa, nhân sự biến đổi, mặc dù trong Chí Thư đã ghi rất rõ nhưng thực tế chùa không còn sở hữu gì. Tăng Đường chỉ còn mấy căn nhà hư vách. Tượng Phật ngồi trơ phủ bụi, chuyện ranh giới bỗng hóa thành thước trời tấc đất, chỉ điểm mơ hồ.

Đến tháng 9 Dân Quốc 25 (1936) năm Bính Tý, trên tỉnh phái người đến xem xét, xác định ranh giới chùa để bảo tồn cổ tích, cho tiến hành vẽ bản đồ, ra thông báo ấn định, chùa cứ theo bản vẽ mà quản lý sản nghiệp, nhờ vậy những vùng thuộc đất chùa được khôi phục phân minh.

7. Sắp xếp tăng gia sản xuất để duy trì thường trụ

Khảo sát về sản nghiệp chùa Nam Hoa, trong Chí Thư có ghi rõ: “Trải qua nhiều năm bị cường hào thôn tính, thêm gặp cảnh gian tăng bán trộm đất chùa”… nên khi Vân tôi lên núi thì phần lúa ruộng chỉ còn hai chục gánh, nghìn phần chẳng còn được một. Tôi bèn ra tay chỉnh đốn. Nghỉ trước muốn thanh lý sản nghiệp thì phải căn cứ vào văn tự khế ước. Hễ vùng đất nào thuộc tài sản chùa mà người chiếm không có sổ đỏ thì sẽ thu lại, còn phần đất nào họ có giấy tờ mà truy nguyên thấy gốc gác thuộc chùa thì sẽ xuất tiền ra mua, chuộc lại theo luật định. Trong lúc tôi còn đang dự tính, thì thời cuộc sinh biến, dấy động phong ba, khiến tôi khó thể tiến hành, chỉ có khu vực Lâm Trường phía Bắc trước đây là yên, có thể thực hiện được.

Năm Dân Quốc 25, nhờ chính phủ phê chuẩn cho chùa được quản lý sản nghiệp lại, nhưng việc thu nhập rất ít, chẳng đủ để lo cho chúng thường trụ. Tôi bắt buộc phải quyên góp để mua, chuộc lại đất chùa dần dần.

Đến năm Dân Quốc 28 (1939), tôi liên tục mua lại và sắm được vài mẫu ruộng nước, mỗi năm thu vào khoảng vài trăm đảm (một đảm tương đương 50kg). Đến lúc này, chùa mới có lúa để ăn, nhưng phải trải qua rất nhiều gian khổ… khó mà tả cho hết được. Khổ nhất là việc giải quyết Trang Trại Tử Duẩn (của chùa) ở sau núi, nguyên do là trong đây có khoảng ba trăm mấy chục thửa ruộng bị hai họ Lê, Tạ xâm chiếm nên họ thường gây hấn, phá rối thậm tệ, đến nỗi chùa phải nhờ chính phủ can thiệp. Rồi do thời cuộc biến đổi nên đến nay vẫn chưa thu hồi giải quyết được gì, đành hy vọng hàng hậu lai làm thay.

8. Nghiêm trì giới luật cứu vãn phong hóa suy đồi

Xưa, khi Đức Phật nhập diệt, đã dạy đệ tử về sau phải lấy giới làm Thầy, tuân thủ nghiêm quy. Tuy rằng thời này mạt pháp, Tăng-già đọa lạc… song đọa như thế này thì quá thậm tệ! Tôi nghĩ đến Tổ đình chùa Nam Hoa ngày xưa, thì sao có thể dung được sự tuột dốc, ô hợp, đồi bại này? Nhưng bây giờ, muốn nhóm lửa lên từ đống tàn tro hoang lạnh mà không hoằng pháp thì khó thể trùng hưng. Chẳng giữ giới thì khó thể truyền pháp. Tôi bèn nương theo Bách Trượng Thanh Quy, chỉnh đốn kỷ cương, dù lúc cháo lúc cơm vẫn ăn đúng ngọ, nhất bộ nhất hướng đều phải giữ uy nghi, vậy mới đúng là đệ tử Phật, có thế mới mong bảo tồn Tùng lâm lâu dài.

9. Lập Thiền Đường, an tăng, tiếp nối huệ mạng

Sơ Tể Tây lai, Thiền truyền trực chỉ. Lục Tổ đắc pháp, hoằng dương năm Tông… là Thiền Ba la mật. Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi: “Chư Phật, chư Tổ đều trong Thiền định mà ra, được đại cơ đại dụng, độ chúng sinh không tính được”. Nay vì đạo tràng Đốn giáo của Đức Lục Tổ lạnh lẽo đã lâu. Vân tôi mới lập Thiền Đường, định giờ tĩnh tọa, cho đánh chùy nhắc nhở cảnh tỉnh, giúp hành giả mài dũa thân tâm, độ mình độ người, nối huệ mạng Phật.

10. Truyền giới, lập trường đào tạo nhân tài

Đang thời kiếp mạt, truyền pháp vào buổi tàn thu, tôi đau lòng đến rơi lệ. Vì sao?

Phật từng dặn dò: “Giới là Đại Sư của các ông”.

Lại nói: “Giới như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, có thể xua tan bóng tối của đêm dài”. Lại nói: “Kinh này hay trụ thế, Phật pháp được hừng thịnh. Nếu không trì giới này, thế giới đều tối tăm”.

Ngày nay Phật pháp suy vi, tam môn đen tối, không phải là không có duyên cớ. Chẳng lẽ Thích tử mang danh thọ giới mà chẳng tôn sùng, bên ngoài khoác áo cà sa, mà hạnh giống như người thế tục ư? Như vậy chỉ là đệ tử, quyến thuộc của ma Ba Tuần, là loại dòi, trùng, trong thán sư tử mà thôi. Vân này vì muốn cứu vãn sự suy đồi, không muôn tốn hao tài vật của tín thí vô ích nên mới thông nhất lại, tất cả đều làm đúng pháp, đào tạo nhân tài, thường chuyển bánh xe pháp cho huệ mệnh được tiếp nối mãi.

Vì vậy mới mở Giới đàn trường kỳ, gặp năm truyền giới, đạo chẳng kể xa gần, người chẳng nề nhiều ít. Người cứ đúng thời mà đến, nhận truyền giới pháp. Thọ giới xong thì cho vào Học Giới Đường học tập, tu hành, tạo vốn riêng, chẳng nhận gởi tên (thọ giới mà không đến), chẳng dung giản lược, là để giới luật được đầy đủ vậy.

Tôi đến núi đã mười năm, nương uy linh chư Phật, Tổ, đàn việt hộ pháp. Mười điều hoạch định này tuần tự hoàn thành. Thực hiện tiếp nối nguyện vọng dang dỏ của sư Hám Sơn ngày xưa. Đến nay, chùa đã có thể chứa được năm trăm Tăng, thóc gạo cũng đủ cho nửa năm lương thực. Tứ sự cúng dường, hiển bày cụ thể. Phật tứ’, Trụ trì an tâm không lo, kính mong hàng chấp sự lưu tâm gìn giữ bảo vệ đạo tràng này.

Trong mười năm Vân tôi ở nơi đây, từng tả xông hữu đột, gian khổ trở xoay, uốn cong thành thẳng, dẹp loạn chỉnh an, chống lại những quấy nhiễu bên ngoài, muôn vàn khổ nạn khó mà kể hết.

Giờ, Vân tôi đi, công việc giao lại cho trụ trì là đồ đệ Phục Nhân. Tôi viết kể lại những sự thật này nhằm để khích lệ người sau. Nếu có bậc cao nhân siêu thế, bậc Đại sĩ không Tông, cho đây là Phật Sự không hoa, là Đạo tràng thủy nguyệt thì Vân tôi chẳng nề gì.

Hư Vân này từng cung kính đọc Đàn Kinh, đến chỗ Ngũ Tổ lấy Ca sa vây quanh che kín để thuyết Kinh Kim Cang cho Lục Tổ, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” Lục Tổ liền đại ngộ thưa với Ngũ Tổ:

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt!
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động!
Đâu ngờ tự tánh hay sinh muôn pháp!

Ngài nói thẳng một hơi như hoa trời rơi. Bốn câu “Đâu ngờ” đầu là nhiếp dụng về thể, còn câu “Đâu ngờ” sau rốt là đại dụng toàn thể. Bốn câu  đầu là tự độ, câu rốt sau là độ sinh. Vì “Hay sinh muôn pháp” là tất cả chủng trí vậy. Đức Phật chúng ta vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời này để “khai, thị, ngộ, nhập… Tri Kiến Phật”, mở rộng Phật pháp đến vô biên, độ chúng sinh đến vô tận. Vì vậy mà Đức Thích Ca chẳng ở trọn đời nơi Tuyết sơn, Lục Tổ chẳng ẩn mãi trong Làng thợ săn, là nguyên nhân phải ra truyền Phật chủng trí vậy.

Hư Vân này tuy thực hành và khả năng không đồng, nhưng chẳng dám làm kẻ cuối cùng đoạn mất – chủng tính Phật. Vì vậy, suốt mấy mươi năm nay, luôn dốc sức trùng hưng đạo tràng, chẳng tiếc làm trẻ con gom đất vẽ cát, sự độ sinh có nhiều cách, tùy căn cơ hướng dẫn để truyền chủng trí Phật mà thôi, đâu dám luận về hữu tướng, vô tướng.

Hữu tình lai hạ chủng
Nhân địa quả hoàn sinh.

(Hữu tình gieo giống xuống,
Nương đất quả này mầm
)

Nguyện cho tất cả hữu tình đồng viên chủng trí.

Ung dung xả ly

Đại Sư từ lúc xuất gia đến nay đã hơn 90 năm, khi xây xong một ngôi tự viện nào, Ngài chẳng hề ở lại Trụ trì. Không thọ người giàu cúng dường. Hóa độ vô số người. Tự tay Sư trùng hưng các chùa lớn nhỏ có đến vài chục. Nhiều ngôi kiến trúc hoành tráng mỹ lệ, trang nghiêm như: Vân Thê (Vân Nam), Nam Hoa (Bắc Quảng Đông)… phí tổn đến hằng trăm vạn kim, khó mà tính cho xuể.

Rồi cuối cùng thì Sư chỉ có một manh áo tùy thân, một nón, một dao cạo, một phất tử, một tay nải… đi hành cước khắp trong và ngoài nước. Sư xây chùa Vân Thê, đến như thế mà đi cũng như thế. Sư trùng hưng chùa Nam Hoa, lên núi cũng như thế mà xuống núi cũng như thế.

Tháng 8 năm Dân Quốc 23 (1934), Sư tới chùa Nam Hoa Quảng Đông.

Đến tháng 12 năm Dân Quốc 32 (1943), thì Sư giao chùa cho đồ đệ Phục Nhân chủ trì lo liệu. Còn mình với vật dụng tùy thân đơn giản muôn thuở, Sư rũ tay thong dong, nhẹ nhàng đi đến Nhũ Nguyên trùng hưng chùa Vân Môn. Điều này ai cũng thấy.

Tiểu Sử (Đồ đệ ngài Hư Vân)

HÒA THƯỢNG PHỤC NHÂN

Sầm Học Lữ ghi:

Sư quê Đại Phổ, xuất gia nơi chùa Cam Lộ (Xiêm La). Thọ giới cụ túc tại Thiên Đồng, từng tham học với chư Sư: Tịnh Tâm, Quả Tông, Dung Thông, Từ Châu… đã từng đi viếng lễ: Phổ Đà, Ngũ Đài, Cổ Sơn… Trụ Kim Sơn (Cao Mân) 8 năm và có chút sở ngộ.

Sư theo Hòa thượng Hư Vân đến trùng hưng chùa Nam Hoa. Vâng lệnh Hòa thượng đi mộ hóa Nam Dương, hóa duyên rất đắc lực, giúp xây Nam Hoa thành công.

Đến năm Dân Quốc 31(1942), Sư trở về Quảng Đông. Vì chính phủ mời Hòa thượng Hư Vân đi Trùng Khánh. Hòa thượng dạy Sư thay Ngài trụ trì, kế tục pháp mạch, truyền tiếp Đại giới.

Đến năm Dân Quốc 37 (1948), Sư từ chức, độc cư tại Mao Bồng, núi Đại Tự, một lòng hành đạo tinh tấn chí thành.

(Sư giao việc Trụ trì cho Linh Nguyên. Linh Nguyên truyền lại cho Bổn Hoán).