HƯ VÂN NIÊN PHỔ
THƠM NGÁT HƯƠNG LAN
Kiến Châu – Như Thủy – Hạnh Đoan dịch

 

Chương 1: CHÀO ĐỜI

Tôi họ Tiêu gốc người Lan Lăng, cha tên Ngọc Đường, mẹ họ Nhan, thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế.

Đời Thanh Đạo Quang năm đầu (1821), cha tôi thi đậu được bổ làm quan Tri phủ tỉnh Mân (Phước Kiến).

Cha mẹ tôi hơn 40 tuổi mà vẫn hiếm muộn nên mẹ tôi lên chùa Quan Âm cầu con, thấy mặt tiền chùa và cây cầu phía Đông bị hư, bà phát tâm tu bổ lại. 

Ngày nọ, mẹ tôi nằm mơ thấy một người áo xanh tóc dài, đội mũ Quan Âm cưỡi hổ đến và nhảy lên giường nằm, mẹ tôi giật mình thức giấc, cảm giác có hương thơm lạ, phả đầy nhà,1  bà kể chuyện mộng cho cha tôi nghe, không ngờ cha tôi cùng mơ thấy y như vậy. Sau đó, mẹ tôi biết mình có mang, còn cha tôi được chuyển tới phủ Thường Châu. Niên hiệu Đạo Quang 20, năm Canh Tý ngày 29 tháng 7 (Giáp Thân) giờ Dần (26/8/1840 D.L), tôi chào đời tại phủ Tuyền Châu.

Lúc thân mẫu sinh ra tôi, thấy chỉ là cái bọc thịt nên rất sợ và tuyệt vọng, bà xúc động quá tắt hơi rồi lìa trần.

Ngày hôm sau có ông thầy lang đi tới xé chiếc bọc ra mới thấy bên trong có một bé trai. Thứ mẫu lãnh việc nuôi dưỡng tôi.

Từ 1 đến 4 tuổi tồi ở Tuyền Châu, ngay từ nhỏ tôi không ưa ăn mặn, hễ người nhà cho ăn thịt cá là tôi nôn ra hết.2 Hễ thấy tượng Phật, pháp vật Tam bảo thì rất mừng, ai cũng lấy làm lạ. Từ 5 tuổi đến 10 tuổi tôi đổi sang cư trú ở Chương Châu, Phước Ninh.

Năm tôi 11 tuổi, cha tôi về lại Tuyền Châu. Bà nội tôi họ Chu, đã già yếu, tôi là con trai một nên gia đình quyết định làm lễ đính hôn cho tôi với hai tiểu thư họ Điền và Đàm. Cuối năm thì nội tôi mất. Cha tôi về quê thọ tang. Cũng trong năm này Hồng Tú Toàn khởi nghĩa ở Kim Điền.

Năm Tân Hợi, 1851 (Hàm Phong năm đầu) tôi được 12 tuổi. Tháng hai, cha tôi có việc đi Đài Loan, ông dẫn tôi theo. Chiếc thuyền nhỏ khởi hành từ Hạ Môn, đang lênh đênh trên biển thì bỗng thấy hiện sừng sững một con quái khổng lồ, lưng to như quả núi nhô cao hơn mặt biển tới mấy mươi thước. Mọi người trên thuyền đều hoảng kinh, đồng chắp tay niệm Quán Âm. Thuyền đi độ nửa giờ mới tới được cái đuôi con vật, thấy là hình cá. Con cá này thiệt dài không biết bao nhiêu dặm vậy. Năm này Hồng Tú Toàn đánh Vĩnh An, xưng là Thái Bình Thiên Quốc Thiên Vương.

Năm Nhâm Tý 1852, tôi 13 tuổi, theo cha đưa linh cửu bà nội và mẹ về quê (đất Tương) an táng. Gia đình mời chư Tăng đến làm đám, tôi được thấy các pháp vật Tam bảo trong lòng rất vui. Sẵn nhà có kinh Phật tôi đọc truyện Hương Sơn kể việc thành đạo của Bồ-tát Quán Thế Âm, tâm tư cứ vương vấn mãi.

Tháng 8 tôi theo chú đến Bồ Đường, đi dâng hương Nam Nhạc, dạo các cảnh chùa. Lòng bồi hồi xúc động, cảm giác như có duyên xưa, ý chẳng muốn quay về nhưng sợ chú  không dám nói ra.

Năm Hàm Phong thứ ba, Quý Sửu, tôi được 14 tuổi. Cha tôi biết con mình có chí xuất trần, muốn giữ tôi ở lại nhà nối nghiệp, bèn thỉnh ông thầy họ Vương đến dạy tôi pháp (tu Tiên) luyện Khí Công. Tôi trong lòng không ưa, nhưng chẳng dám tỏ bày.

Mùa đông năm này cha tôi về quê xả tang nội, giao tôi cho chú chăm sóc. Sau đó, ông đổi sang Phúc Kiến nhậm chức Hạ Môn, làm quan đây được hai năm thì ông về Tuyền Chầu lại.

Năm này Hồng Tú Toàn định đô ở Nam Kinh. Tăng Quốc Phiên mộ quân đất Tương.

NĂM BÍNH THÌN (1856) HÀM PHONG 6

Tôi 17 tuổi, ở nhà đọc sách Tiên được ba năm, thầm biết đây không phải pháp giải thoát rốt ráo nên lòng khó chịu như ngồi trên gai, song bề ngoài vẫn tỏ ra ngoan ngoãn, ráng chăm coi việc nhà để chú vui lòng, hòng thoát sự giám sát nghiêm nhặt của ông.

Ngày nọ, chú đi vắng, tôi nghĩ là duyên thoát tục đã tới, bèn ôm gói trốn lên Nam Nhạc, ai dè mới đi được nửa đường thì bị bắt lại. Chú đem tôi và Phú Quốc về Tuyền Châu.

Không lâu, cha tôi cho rước hai tiểu thư họ Đàm và họ Điền về cùng tôi cử hành hôn lễ rồi nhốt chúng tôi ở chung phòng (nhưng tôi không có nhiễm), tôi còn thuyết pháp cho hai nàng nghe. Thấy Phú Quốc có chí xuất tục, nên tôi cũng giảng cho nó nghe luôn. Kết quả, từ phòng khuê ra đến bên ngoài, chúng tôi đều thành Pháp lữ.

Năm này, liên quân Anh Pháp tấn công, vây hãm Quảng Đông.