KẾT THÍCH CHÚ Ý
(Kết giải ý nghĩa chú vãng sanh)

      Bài thần chú Đà La Ni Nhổ Tất Cả Cội Gốc Nghiệp Chướng, Đặng Sanh Về Cõi Tịnh Độ”.

      Sớ: Giải thích đại ý của bài thần chú này: Do chú để giúp với kinh, kinh có thần chú thời kinh càng rõ. Do kinh trước chú, chú có kinh văn thời chú càng linh, xen nhau mà dùng nên cần phải kết giải. Chú này rõ thấy trong truyện Bất Tư Nghì Thần Lực.

Người trì chú này, hết tội được vãng sanh. Nên dùng danh nghĩa là “nhổ hết nghiệp chướng được sanh về Tịnh Độ”.

Chữ Đà La Ni dịch là Tổng Trì vậy.

Sao: Nghiệp chướng là: kể chướng có ba nghĩa: 1. Phiền não chướng. 2. Nghiệp chướng. 3. Báo chướng. Nay nói nghiệp chướng là nói cái giữa thì đã gồm luôn cái trước và cái sau. Bởi sao? Vì phiền não là cái Nhơn của nghiệp; vì báo chướng là Quả của nghiệp. Nghiệp ắt có Nhơn; nghiệp ắt chịu Quả; nên nói nghiệp chướng thì đã gồm hai chướng kia. Nay chúng ta muốn trừ chướng, quí nhứt là trừ cội gốc của nó. Như gốc tuyệt thời không đâm chồi; chồi không nẩy thời cành lá hoa trái đều không sống vậy.

Nay trì chú này thời phiền não không khởi là nghĩa “nhổ trốc gốc nghiệp chướng” vậy.

Như trong truyện nói: Ngày đêm đều trì ba hoặc bảy hay là 21 biến diệt được tội ngũ nghịch, tội báng pháp v.v… các tội; phải vậy.

“Đặng sanh về Tịnh Độ” là: Chúng sanh luân hồi trong cõi Ta Bà đều là do nghiệp chướng, nghiệp chướng đã không thời hột giống cõi uế độ liền diệt, tùy nguyện vãng sanh, nên được sanh về cõi nước Cực Lạc Phật A Di Đà.

“Tổng trì” là tổng thống, nhiếp trì lại không sót và mất; tức là tên riêng của chú nầy.

Truyện tên “Bất Tư Nghì Thần Lực Chú”, tức kinh này tên là “Bất Tư Nghì Công Đức Kinh”.

Trì thần chú hay trì danh hiệu Phật cũng đều được vãng sanh một cách nên đồng tên là “Bất Tư Nghì”.

Đời nhà Tống, niên hiệu Nguyên Gia (30), nước Thiên trúc, ngài Tam Tạng tên Cầu Na Bạt Đà La dịch ra thần chú này.

Sớ: Chữ Tống là tên nước thuộc về đời Nam Bắc triều (31), Nguyên Gia là niên hiệu. Chữ Thiên Trúc là nước Tây Vức, Cầu Na Bạt Đà La dịch Công Đức Hiền.

Sao: Đời Tống mà nói là đời Nam Bắc đây, là đương thời đời đó Nam Bắc phân chia làm vua. Vua nhà Tống ở miền Giang Nam thì gọi là Lưu Tống (32).

Chữ Nguyên Gia là vua Văn Đế niên hiệu Nguyên Gia năm rốt vậy (453). Nước Thiên Trúc có chỗ khác nói: Nước Thân Độc, Thiên Trúc có năm nước đều chung gọi là cõi Tây Vức.

Ngài Bạt Đà là người rộng thông ba tạng, rất chuyên pháp Đại Thừa nên hiệu ngài là Ma Ha Diễn. Nhưng cái thần dị đặc sắc của ngài chẳng phải một, chép đủ trong bộ truyện ký; đây sợ nhiều không dẫn. Có một bổn dịch hai chữ Đà La, mà dưới chữ Đà không có chữ La. Hoặc có người nghi là ngài Cầu Na Bạt Ma. Do vì hai Ngài đồng thời đó, chưa rõ thần chú nầy là của ngài nào dịch (mà dầu của Ngài nào dịch cũng đều đúng cả).

Tụng chú như đây:

Nam mô A Di Đa Bà Dạ, đa tha dà đa dạ đa điệt dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị da tỳ ca lan đa, già di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào hay tụng chú này thời Phật A Di Đà thường đứng trên đỉnh đầu người đó, ngày đêm ủng hộ không cho kẻ oán thù làm hại, đương đời thường đặng an ổn, đến khi mạng chung, được tự tại vãng sanh.

Sớ: Các bổn kia nghe phân câu cách có hơi khác; nay y theo bản xưa, với thần chú không phiên dịch bất tất gì cưỡng giải.

Sao: “Các bổn chẳng đồng” là: Như câu: Nam mô A Di Đa bà dạ, một bổn khác viết: “Nam mô a di đa bà da đa”, lấy chữ Đa ở đầu câu kế đem liên thuộc với câu trên, cho nên nói là “có hơi khác”. Nay bất tất gì nhọc nhằn tìm xét phải quấy, miễn y theo một bổn, chí tâm tụng trì tự thành lợi ích.

Lại có chỗ nói: câu “Nam mô a di đa bà dạ, dịch: “Kính lạy đức Vô Lượng Thọ Phật”; câu” “đa tha dà đa dạ” tức là câu “đa đà a dà độ” dịch Như Lai. Câu “Đa điệt dạ tha”, bản tân dịch: “Tha đích giả thát”, bản cựu dịch: “Đát điệt tha”.

Chữ “điệt” bộ Mịch, âm chữ Điệt bộ Xước, tức hai chữ “địa dạ” nói nhập lại làm một tiếng, dịch: ‘tức thuyết chú viết”. Từ đây sắp sau mới thiệt là lời mật ngữ:

Song câu thần chú từ xưa dịch để nguyên âm chứ không dịch nghĩa, lược nói có năm ý:

1. Như lời mật chỉ của vị quốc chủ, chớ quấy rao truyền, vì chỉ phải kính vưng.

2. Hoặc một danh từ hàm có nhiều nghĩa, ví như chữ Tiên Đà Bà (33).

3. Hoặc phương này không có ví như cây Diêm Phù Đề (34).

4. Hoặc thuận theo văn xưa ví như chữ A Nậu Bồ Đề.

5. Hoặc tôn trọng, chẳng phải tiếng nói của người Tàu đối chiếu đặng, ví như chữ “Bát Nhã” (dịch “Trí Huệ” cũng chưa hết nghĩa).

Có một chỗ nói: “Cũng có thể cưỡng giải”, nhưng đã nói rằng “cưỡng” chi bằng nín là hơn.

Sớ: Kinh và chú tương liên với nhau, chính là nghĩa Hiển và Mật viên thông.

Sao: Rõ bày nước kia, y chánh trang nghiêm và môn Tín, Hạnh, Nguyện như trong kinh đã giải rõ đó gọi là Hiển.

Tuân theo lời kín nhiệm của Phật, chỉ tụng chú này thời liền đặng vãng sanh, đó gọi là Mật.

Hiển là bày rõ chỗ Mật ấy ra. Mật là giấu kín chỗ Hiển vậy. Gồm tụng cả hai thời đều tốt cả. Riêng tụng trì chừng một cũng tóm thâu không sót, nên nói rằng Viên Thông.

Sớ: Tuy nói rằng tóm thâu không sót, nhưng mà pháp chuyên trì danh hiệu còn hơn trì chú, cũng hơn thần chú khác và cũng hơn tất cả công đức khác.

Sao: Riêng khen pháp trì danh niệm Phật là:

1. Hơn thần chú Vãng Sanh này. Vì lời giải của thần chú nói: “Tụng 30 vạn biến thời mới được thấy Phật A Di Đà”, mà pháp trì danh niệm Phật này thời chỉ một ngày được nhứt tâm liền có Phật hiện trước mặt.

Lại chú nói: “Ngày đêm 6 thời đều 3 hoặc 7 biến, hay là 21 biến diệt được tội ngũ nghịch cùng các tội khác”, mà pháp trì danh thời chỉ chí tâm niệm Phật một tiếng liền diệt được 80 ức kiếp đường sanh tử tội nặng.

2. Hơn các thần chú khác là: Chuyên niệm danh hiệu Phật tức là chú Đại Thần, chú Đại Minh, chú Vô Thượng và chú Vô Đẳng Đẳng.

Vì do 10 tiếng niệm Phật liền đặng vãng sanh, một phen sanh liền đặng bất thối, oai linh chẳng lường, thế gọi là Đại Thần; còn mấy nghĩa khác so đó để biết vậy.

Hỏi: Công đức của Chuẩn Đề rất rộng, rất lớn mà thế nào chỉ niệm danh hiệu Phật lại đặng hơn kia?

Đáp: Vì phẩm và lượng của Chuẩn Đề là còn ở nơi Nhơn Địa Bồ Tát, còn Di Đà là quả vị Như Lai. Vậy nhơn đó để so mà biết được rằng:

Trì chú Chuẩn Đề đã có thần lực rất rộng rất lớn như thế thì niệm Phật A Di Đà há chẳng linh ứng nhiều hơn chú Chuẩn Đề à?

Cho nên trong kinh nói: “Niệm 62 ức số hằng hà sa danh hiệu các vị Bồ Tát, chẳng bằng niệm một tiếng Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, phước kia bằng nhau”.

Lại nói: “Niệm vô lượng vô số danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng bằng niệm một tiếng Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát, phước kia bằng nhau”. Đó, niệm Bồ Tát còn được như thế, huống chi là niệm Phật?

3. Cũng hơn các công đức khác là: Lục Độ vạn hạnh, pháp môn vô lượng, nhưng chuyên niệm một danh hiệu A Di Đà thì gồm thâu được tất cả công đức của mỗi mỗi pháp môn khác do vì không ngoài một lý Nhứt Tâm như trong văn trước đã nói rộng.

Vậy xin các bạn giữa “Tịnh nghiệp đệ tử” nên chuyên một đức tin, chuyên một tâm niệm Phật mà thôi, chớ đừng lưỡng lự gì nữa. Như trong kinh nói: “Dầu có một pháp nào cao hơn cõi Niết Bàn đi nữa, cũng là chẳng đoái đến”.

Trong Thiền tông các vị tri thức có dạy người chỉ giữ một câu thoại đầu (một câu niệm Phật) không cần tu các pháp nào khác.

Nên biết rằng: Nguyên những người đã tu học các pháp môn khác, còn phải bỏ đi để tu theo pháp niệm thay, huống chi những người vốn đã tu pháp môn niệm Phật lại đổi chỗ sở thú của mình mà chuộng về môn khác ư?

Thế là tâm muốn hàng hai, chí chẳng qui nhứt, làm sao để đặng thành tựu pháp Tam Muội?

Rủi tới cơn vô thường, luống không đặng chi, chẳng xét nhớ lỗi mình, trở đem phao lời hủy báng. Than ôi! Lầm lắm!!

Sớ: Xứng lý thời tự tánh nó không thì vẫn là không là nghĩa “nhổ trốc hết nghiệp chướng”.

Tự tánh nó có thì cũng vẫn có nó là nghĩa Đà La Ni. Tự tánh nó chẳng có chẳng không là nghĩa “sanh về Tịnh Độ”.

Sao: Tìm tâm rốt không thể đặng thời là nghĩa tất cả nghiệp chướng ai làm cội gốc? Tức là tâm nó không chỗ nào mà chẳng đủ tất cả công đức, không đức nào nó chẳng tổng trì!

Đương khi nó tổng trì mà chẳng dính một mảy trần thì cái có đó là có bằng “tức không”.

Thể nó không có cội gốc mà sanh ra cả muôn pháp thì cái không đó là không bằng cái “tức có”.

Tức có thời chẳng phải thật không, tức không thời chẳng phải thật có. Chẳng không chẳng có, chỉ có nhứt Tâm, chẳng vượt ngoài nhứt tâm, ấy gọi là Tịnh Độ.

Chú Thích Kinh Di Đà Sớ Sao – Quyển Thứ Tư

1. “Tứ chúng”: 1. Tỳ Kheo (Bhiksu). 2. Tỳ Kheo Ni (Bhiksuni) 3. Ưu Bà Tắc (Upasaka). 4. Ưu Bà Di (Upasika).

2. “Thời nhơn tự chẳng biết”: Xưa nói: “Di Lặc thật Di Lặc, hóa thân nghìn trăm ức, mỗi giờ hiện trước người, mà tự người không biết”.

3. “Hơi ấm”: Cái thân của người ta lúc chết,chỉ có nơi trái tim là còn hơi ấm rốt sau, vì cái thức A Lại Da nó còn ở tại đó. Đến chừng mà nơi đó lạnh là thức ấy lìa khỏi xác, gọi bằng “khứ hậu, lai tiên” lúc chết thì nó đi rốt sau; lúc đầu thai thời nó đến trước (trong luận Duy Thức có nói rõ).

4. “Ghét thương cha mẹ”: Sau khi thở hơi cuối cùng, thần thức nó bỏ cái thân tiền ấm (tử thi), lìa ra, nó hóa sanh làm cái thân trung ấm ở giữa không gian. Bấy giờ, đối với nó, cả vũ trụ toàn là đen tối, chỉ chỗ nào có nhơn duyên với nó là nó thấy ánh sáng: Lửa dâm dục của cha mẹ đương hành dâm thì nó đến liền nhanh hơn chớp; hoặc thương cha ghét mẹ nếu nó sắp đầu thai để sanh làm con gái; hoặc thương mẹ ghét cha nếu nó sẽ là con trai; vì tình thân ái khiến nó phải như thế; gọi là “nhơn ái tình làm giống”. Kế đó, nó sanh tâm niệm vọng tưởng: Chính nó hành dâm với giống đực nếu nó là giống cái. Với vọng tưởng ấy, gọi là “tối sơ nhứt niệm điên đảo”, vì nó tưởng chính nó hành dâm, chớ không còn thấy có cha mẹ nữa, nên nói là điên đảo. Bấy giờ nó đã đầu thai rồi gọi là” nạp tưởng thành thai” (xem bài tựa thứ nhứt của bộ Duy Thức Tam Tự Kinh thấy rõ).

5. “Tiểu thánh sơ tâm”: 1. Đối với Đại Thừa thì 4 quả Thánh Thinh Văn gọi là Tiểu Thánh; 2. Đối với Phật thừa thì các Bồ Tát trong Đại Thừa, gọi là Tiểu thánh vì chỗ chứng ngộ còn cạn thấp Sơ tâm: Hoặc mới phát tâm cầu học đạo Bồ Đề, hoặc mới phát tâm học đạo Đại Thừa Bồ Tát. Tiểu thánh sơ tâm đây cũng chưa biết được chỗ “sanh lai tử khứ” của mình vì lòng vọng hoặc còn nhiều, đương dứt hoặc, chứng chơn chưa được mấy, nên có chỗ bảo: “Sanh bất tri tùng hà xứ lai, tử bất tri tùng hà xứ khứ”, gọi là “Bồ Tát cách ấm hôn mê”: Cái thân ngũ ấm hiện nay cách biệt với thân ngũ ấm đời trước nên nói là hôn mê, không nhớ được quá khứ bởi còn vô minh (trừ bực Đẳng Giác Bồ Tát).

6. “Chưa biết chỗ xuất nhập”: Các Hiền Thánh trong pháp xuất thế gian cũng nhiều vị chưa tự biết sự luân hồi của mình nếu chưa chứng ngộ pháp “thập nhị nhơn duyên” và chưa chứng pháp túc mạng thông. Huống chi là các Hiền Thánh trong thế gian thì làm gì biết được? Như các ngài: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Châu Công, Khổng Tử… đều được thiên hạ từ xưa nay tôn sùng là bực Thánh; thế mà các Ngài cũng đều chưa tự biết kiếp trước là gì. Các ngài Trần Nhơn Tôn, Trần Hưng Đạo trở về già đều có đi tu cả mà cũng chưa chứng “túc mạng thông”. Chí như đức Thánh Tổ Hoàng Đế là vua Khang Hy đã từng than rằng: “Ngã bổn Tây thiên nhứt nạp tử, vân hà đọa lạc đế vương gia”? (Ta vốn là một nhà sư của đạo Phật, thế sao sa vào nhà đế vương?) Cũng có hơi biết nhưng mập mờ! Vì chưa được tự sáng suốt. Trừ các ngài và những bực đã có chứng túc mạng thông và cả lục thông, từ bực La Hớn sắp lên.

7. “Nên gọi là điên đảo”: Khi trung ấm đến để đầu thai, với giữa cha mẹ nó, nó tư tưởng là nó làm sự ái ân, chớ nó không còn nhận thấy sẽ là cha mẹ của nó. Đó là với cái thân ngày nay đây, gọi cái tương tự làm ái ân hồi đầu thai đó, là tối sơ nhứt niệm đảo điên (xem ở số 4 trên).

8. “Bảy thú”: Bảy chỗ để đến (thú) đầu thai: 1. Địa ngục thú (narakagati); 2. Ngạ quỉ thú (preta); 3. Súc sanh thú (tiryayoni); 4. Nhơn thú (manusya); 5. Thần tiên thú (bsi); 6. Thiên thú (deva); 7. A Tu La thú (Asura). Kinh Lăng nghiêm cuốn 9 nói: “Các thú: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, nhơn loại, thần tiên, thiên loại và tu la, xét ra các thú ấy đều bị khổ tối tăm trầm nịch! Về với các cái thân tướng hữu vi, chúng vọng tưởng để thụ sanh, chúng vọng tưởng để theo nghiệp”. Bảy thú ấy đều ở trong ba giới, đều chịu cái công lệ luân hồi sanh tử mà không tự biết được cái kiếp đời sống thác của mình, gọi là “túy sanh mộng tử” (sống say chết mộng).

9. “Ngài Tứ Minh”: Đời Tống, ngài Trí Lễ pháp sư ở núi Tứ Minh (núi nầy ở phía Nam phủ Khánh Nguơn, Ninh Ba tỉnh Chiết Giang) để chấn hưng chánh nghĩa của tông Thiên Thai, nên gọi Tứ Minh tôn giả. Ngài Pháp Trí tôn giả, húy Trí Lễ, tự ước ngôn; người đời sau nhơn chỗ ngài ở nên xưng là Tứ Minh đại sư. Ngài xuất gia từ hồi 7 tuổi; 15 tuổi thụ Cụ Túc giới, chuyên tinh học bộ luật Thiên Thai Tông, hậu học đa sùng tôn trọng.

10. “Trí đức, đoạn đức”: Soi rõ được chơn lý là Trí đức, dứt hết phiền não là Đoạn đức, tức là Bồ Đề và Niết bàn. Luận Vãng Sanh lời Chú Giải rằng: “Luận về Trí thì không nghĩa nào không thông; nói về đoạn thì bao tập khí cũng không còn. Với Trí Đoạn đều đủ mới có thể làm ích lợi cho đời”.

11. “Việt, Ngôn, Yên, Tần”: Việt: Nước Việt, tức là giống U Việt, nay là tỉnh Chiết Giang. Nước Ngô nay là địa phận đất huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Nước Yên, nay là đất các tỉnh Phụng Thiên, Trực Lệ và Bắc bộ của nước Triều Tiên. Nước Tần nay là các tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây.

12. “Dao giết trâu”: Sách Luận Ngữ nói: “Đức Khổng Tử qua ấp Vũ Thành nghe tiếng cầm, sắt và ca xướng, ngài chúm chím mỉm cười rằng: “Với việc cắt cổ gà đâu lại dùng đến cái dao thọc cổ trâu”! Lời chú Vũ Thành là cái ấp nhỏ, hà tất dùng đến cái dao lớn? “Cát kê”: Cắt cổ gà, tỷ dụ: Với cái tài năng lớn lại đem sử dụng vào việc nhỏ, nên nói: “Cát kê yên dụng ngưu dao”.

13. “Nước Ngô thành ao”: Người xưa là ông Ngũ Tử Tư, tổ quán nước Sở, đời Xuân Thu. Ông nói: “Nước Việt nó sanh nở, sống chung chừng 10 năm, giáo dục huấn luyện lối 10 năm, sau 20 năm đó, nó sẽ đánh nước Ngô thành ao vũng mà chớ”. Lời chú: Cả cung thất thành lũy của nước Ngô đều thành ao nước nhơ đục!

14. “Sáu thù”: 24 thù là 1 lượng, 16 lượng là 1 cân. Phía Nam nước Ấn Độ, có hòn núi tên là Ngưu Đầu vì hình núi giống cái đầu trâu. Núi ấy nó sản xuất thứ cây Chiên Đàn đỏ có kết tinh hương quí giá ấy.

15. “Tố pháp thân”: Pháp thân suông. Chữ Tố nghĩa là không trơn. Như không thật sự làm việc mà có ăn lương bổng gọi là “tố xan”. Không chức tước phẩm vị gì cả mà giàu có gọi là “tố phong”. Đời Tấn, ông Đỗ Dự xưng tụng đức Khổng Tử là “Tố Vương” do vì kẻ thất phu mà làm thầy cả muôn đời, bởi không nương cậy nơi uy quyền mà thế lực cũng đồng bực với Đế Vương. Tố pháp thân chỉ có cái hiện thể của pháp thân mà chẳng đủ những công đức của pháp thân. Ngài Thiên Thai bảo là “Lý tức Phật” chính là cả chúng sanh giữa 3 ác đạo. Sách Tứ Giáo Nghi nói: “Nay dù rằng Tức Phật; đây là “Phật bằng lý” cũng là ‘Tố pháp thân’ thì Phật ấy có quan hệ gì với công tu chứng đâu, vì chưa có phước đức công hạnh để trang nghiêm thân thể”. Lời chú giải rằng: Không việc rõ công đức trang nghiêm, thể pháp thân trống không, là chỗ bị Thiên Long Bát bộ khinh hèn.

16. “Cây thụ vương”: Lớn nhứt giữa các loại cây trên thế giới nên gọi Thụ vương (cây chúa). Tự phẩm kinh Pháp Hoa nói: “Cõi nước tự nhiên xinh đẹp lạ lùng, như bông nở rộ của cây chúa trên trời”. Cây lớn nhất thế giới đây tức là cây Ba Lợi Chất Đa ở trên cung trời Đao Lợi mà trong kinh Khởi Thế cuốn thứ 6 và kinh Trường A Hàm cuốn 20 đều có nói.

17. “Nhứt Thế Nghĩa Thành”: Gọi đủ là “Nhứt Thế Nghĩa Thành Tựu” tức tên hồi còn làm Thái Tử của Phật, mà dịch nghĩa bởi danh”Tát Bà Hạt Thích Ca Tất Đạt” (đời Đường dịch Nhứt Thế Nghĩa Thành Tựu), cựu dịch Tất Đạt là sai. Với nghĩa trên, thấy trong cuốn 7 bộ Tây Vực Ký. Kinh Hoa Nghiêm cuốn 12 nói: “Với giữa 4 châu thiên hạ, đức Như Lai hoặc là “Nhứt thế nghĩa thành tựu” hoặc tên là “Thích Ca Mưu Ni”. Vì “Nhứt thế nghĩa thành tựu” là: “Trọn nên tất cả nghĩa”.

18. “Dịch địa giai nhiên”: Đương thuở thái bình mà ông Vũ, ông Tắc đã 3 lần đi ngang qua cửa ngõ đều chẳng vào nhà mình, vì cần với bổn phận đương làm việc nên được đức Khổng Tử khen ngợi. Đương thời loạn lạc mà thầy Nhan Uyên ở nơi xóm hẻm nhỏ, trong lều tranh chỉ có một đảy cơm, một bầu nước mà thôi. Theo người ta thì chẳng xiết nỗi âu lo mà thầy Nhan vẫn không đổi chí vui nên cũng được đức Khổng Tử khen ngợi. Thầy Mạnh nói: “Hạ Vũ, Hậu Tắc và Nhan Uyên đồng một đạo thể”. Lại nói: “Các ngà: Vũ Tắc, Nhan Tử, đổi địa vị thì đều thế”. Vì vẫn vui với bổn phận dù cảnh ngộ, trường hợp có khác, chứ tâm địa vẫn đồng.

19. “Tự thệ tam muội”: Như tiền thân của Phật Thích Ca là ngài đại thần Bửu Hải phát nguyện tương lai ở cõi Kham Nhẫn uế độ thành Phật để tế độ chúng sanh; mà nay lời thệ nguyện đó Ngài đã chứng đặng rồi nên nói: “Riêng một mình Ngài chứng đặng tự thệ tam muội”, đủ thấy trong Như Lai Độc Chứng Tự Thệ Tam Muội kinh”.

20. “Phạm vương tên Nhẫn”: Kiếp sơ là ban đầu. “Kiếp thành” nghĩa là bắt đầu mới thành cái thế giới Kham Nhẫn này. Trước nhứt Trời Phạm vương đọa xuống làm người, do lấy tên người đặt tên cho cõi nên nói là Kham Nhẫn thế giới. Vì người tên Nhẫn, cõi phải tên Nhẫn, người, cõi Kham chịu với nhau nên gọi Kham Nhẫn. Sách Huyền Tán cuốn 2 nói: “Các khổ khốn ngặt mà chúng sanh vẫn kham chịu nhọc nhằn; các Bồ Tát ra làm lợi lạc cho, lại bị nhiều ganh ghét mà Bồ Tát cũng kham chịu được, nên chung lập thành tên cho cõi này là Kham Nhẫn”.

21. “Đời ác thế” là cái thời kỳ mà loài người làm việc ác rất thạnh hơn hết. Sách Tán Thiện Nghĩa gọi là ngũ trược ác thế. Trong kiếp “Trụ” từ cái thời kỳ mà loài người mỗi người còn sống được 2 vạn tuổi (kiếp giảm) là bắt đầu sanh 5 điều ác trược. Kiếp trược là phần chung, 4 trược kia là phần riêng vì giữa kiếp trược nó có 4 trược ấy. Bởi có 4 trược đó nên gọi là kiếp trược. Trong kiếp trược, từ mỗi người sống còn được 2 muôn tuổi thì cả thế giới đã bắt đầu xảy ra 5 trược nhưng còn nhẹ ít; dần dần theo thời đại biến giảm xuống thì cái trình độ 5 trược càng tăng kịch lên cao. Mà đức Thích Ca ra đời nhằm cái thời mỗi người chỉ sống còn có trăm tuổi thì trược nó lại quá ư kịch liệt! Huống nữa lại giảm xuống đến thời mà mỗi người chỉ còn 10 tuổi là kiếp giảm đã cực điểm thì trược nó lại càng không thể tưởng tượng được! Hiện nay mỗi người còn sống được trong ngoài 70 tuổi, trược nó đã quá với thời Phật ở đời (100 tuổi), vậy từ nay bắt một kể đi… thì còn 9.000 năm nữa mới đến cái thời mà con người chỉ còn có 10 tuổi là một đời (hết tiểu kiếp thứ 9). Thế thì giữa thời kỳ “chín ngàn năm” đó, ở thế giới này, chúng sanh làm gì có những đại đồng, tự do, hạnh phúc? Vì ngũ trược còn kịch liệt kia mà!

22. “Ngũ thanh”: Năm điều thanh tịnh: 1. Kiếp thanh là bên cõi nước Thanh Thái chẳng có cái kiếp giảm, xảy ra 4 trược như cõi uế độ nên gọi Kiếp thanh; 2. Kiến thanh: Nhận thấy không mê lầm như Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến của cõi này; 3. Ý thanh: Ý thức không tham, sân, si…. phiền não mê tín tu lầm luyện sái như cõi này; 4. Mạng thanh: Thọ mạng vô lượng, không tăng lên 8 vạn 4 nghìn tuổi, không giảm xuống còn chỉ 10 tuổi, mà phải chịu cái khổ thọ mạng rút ngắn bằng sanh, lão, bệnh, tử; 5. Chúng sanh thanh: toàn chư thiện nhơn cu hội nhứt xứ, đều là bực Thánh; chứ chẳng phải như nhơn gian này: cái thân quả báo sút kém, cái tâm tối dốt khiếp nhược; khổ nhiều phước ít như chúng sanh cõi này. Vì đều được kết quả bởi đa thiện căn phước đức nhơn duyên bằng cái tu nhơn trì danh niệm Phật đã thanh tịnh.

23. “5 thống, 5 thiêu, 5 ác”: Tạo tác 5 điều ác là: Sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ và ẩm tửu đó thì khi còn sống bị lấy pháp luật của nước nhà làm hại. Lúc chết sa vào ác đạo gọi là 5 điều thống khổ làm cho thân tâm bị đau khổ như lửa cháy nên dụ là “5 điều thiêu đốt”. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Ta nay làm Phật giữa thế giới này ở trong 5 thống 5 thiêu rất là kịch khổ để giáo hóa chúng sanh khiến chúng sanh bỏ 5 ác, trừ 5 thống, lìa 5 thiêu. Thế mà chúng sanh không bỏ, cứ say sưa trong biển hồ sanh tử, Phật rất đau lòng khác nào người con bất hiếu không nghe lời, cứ tạo nghiệp, cha mẹ lòng thương lo lắng!”

24. “Tưởng diệt Nam”: Trên hội Linh sơn, Phật thuyết kinh Pháp Hoa, bấy giờ bực thượng đức Thinh Văn nghe chẳng nổi pháp Nhứt Thừa thật tướng, đứng dậy lạy Phật rồi lui về, kể có 5.000 người, gọi bằng “Ngũ thiên thối tịch”. Và trên hội Hoa Nghiêm, những chúng chẳng thấy được cái thân tốt của Phật Xá Na cũng là đồng một hạng nghe pháp không hiểu nổi, đành chịu thua lui về, như quân sĩ bại trận nên bảo là “bại Bắc”. Ngài Đức Sơn, hiệu là Châu Kim Cang, chẳng tin cái thuyết đơn truyền trực chỉ của Nam Tông, ngài chép ra bộ “Thanh Long Sao” để làm tài liệu đem qua phương Nam, đặng đánh đổ Nam Tông. Đến gần biên cảnh, ghé vào quán nước để dùng điểm tâm. Mụ quán hỏi: “Ngài mang thứ chi đó?” “Kim Cang Thanh Long Sao”. “Kinh Kim Cang nói 3 tâm chẳng thể có, vậy ngài điểm tâm nào?” Đức Sơn Ngài không trả lời được! Sau đến nơi ngài Long Đàm gạn hỏi đôi phen, bỗng đặng giác ngộ, bèn than rằng: “Lẽ mầu đã biện tột rồi, bộ Thanh Long Sao như mảy lông để giữa không; cả lý do của thế gian dường như một nhễu nước thả xuống biển thẳm, có ăn nhập vào đâu?” Rồi ngài đốt luôn bộ Kim Cang Thanh Long Sao. Ba tâm: Quá Khứ tâm, Hiện Tại tâm và Vị Lai tâm.

25. “A Tu La có 4 loại”: Kinh Pháp Hoa, phẩm Tự kể 4 loại A Tu La: 1. Bà Trĩ A Tu La vương ; 2. Khư La Khiên Đà A Tu La vương; 3. Tỳ Ma Chất Đa La Vương; 4. La Hầu A Tu La vương đều có hàng trăm hàng ngàn quyến thuộc. Kinh Khỉ Thế chép rằng: “Giữa loài A Tu La có một nhóm rất liệt nhược ở trong chốn núi sâu cõi nhơn gian, tức giữa núi phương Tây có một cái hang đá rất sâu, ở đó có rất nhiều cung điện A Tu La”. Kinh Pháp Hoa Văn Cú cuốn năm nói: “Thứ A Tu La thuộc về quỉ đạo thì ở bên đại hải, thứ A Tu La thuộc về súc sanh đạo thì ở dưới đáy biển”.

26. “Qua đời tương lai” là nói về khoản: Cuối tiểu kiếp thứ 9 và đầu tiểu kiếp thứ 10. Kinh La Hán Hộ Pháp chép rằng: “Cuối tiểu kiếp thứ 9 này, lúc mà cả nhơn loại mỗi người chỉ sống còn có 10 tuổi là mãn đời đó, bấy giờ cả thế giới đều nổi lên cái tai đao binh. Chỉ trong 7 ngày, toàn cả loài người tàn sát lẫn nhau. Lúc đó (hết tiểu kiếp thứ chín) giáo pháp của đức Thích Ca phải tiêu diệt lần. Sau cái tai đao binh 10 ngày, bắt đầu qua cái tiểu kiếp thứ 10” v.v…

27. “Kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt trước”: Vì nghĩa lý quá ư sâu xa cao thượng mà tâm trí của nhơn loại bấy giờ lại cực kỳ đơn giản tối tăm nên không tu học nổi kinh pháp ấy! Đã chẳng học nổi thì còn ai đâu hoằng truyền pháp Thủ Lăng Nghiêm tam muội nữa, thành thử nó phải tiêu diệt trước là vậy.

28. “Thời chánh pháp đã diệt”: Kể từ ngày mà Phật nhập diệt về sau đủ một ngàn năm là cái thời kỳ chánh pháp. Trong đời chánh pháp đó, hễ người xuất gia thụ giới đức hoàn toàn, thuộc lòng cả 3 tạng, nhứt là tạng Luật nên giới hạnh dễ ấn tâm truyền khẩu với nhau về cái quan điểm “giải thoát kiên cố”, nên gọi là chánh pháp; nghĩa là chánh thức giữ đúng phép của Phật. Mà ở đây nói đời “chánh pháp đã diệt” là đã qua khỏi một ngàn năm nói trên rồi, tức là thuộc về đời Tượng pháp: nó tương tợ chớ không được chánh thức. Vì kẻ xuất gia phần nhiều không thuộc lòng tam tạng, chẳng giữ trọn hạnh giới, chỉ chuyên về văn tự ngữ ngôn hơn tu chứng.

29. “Sức Tổng Trì”: Đà La Ni (Dharani) dịch là Tổng Trì gồm giữ nghĩa là: Với việc lành giữ không cho mất, với việc ác giữ chẳng cho gây. Thể nó là Niệm, Định và Huệ, là chỗ của Bồ Tát tu đủ công đức. Tổng trì có bốn: 1. Pháp tổng trì cũng gọi là Văn tổng trì: Với giáo pháp của Phật, nghe nhớ giữ không quên. 2. Nghĩa tổng trì: Với nghĩa lý của Pháp gồm giữ không cho mất. 3. Chú tổng trì: Bồ Tát y nơi tâm định rồi khởi niệm để trì tụng thần chú, trì chú đã được thần lực linh nhgiệm, trừ được tai nạn bịnh hoạn cho nhân dân. 4. Nhẫn tổng trì: Trí chơn thật của Bồ Tát nhẫn chịu giữ được thật tướng của Pháp mà không cho mất. Trong Chơn Ngôn tông, Đà La Ni đây tức là Chú tổng trì đây vậy.

(A) “Riêng để kinh này một trăm năm”: Tức là kinh Vô Lượng Thọ cũng là kinh A Di Đà: Về tiểu kiếp thứ 10, trong thời kỳ tăng, bấy giờ từ 10 tuổi đó, tăng lên, đến chừng mà mỗi người sống được 8 vạn tuổi thì kinh pháp của đức Thích Ca đều diệt hết, chỉ còn lại A Di Đà cũng như pháp “trì danh niệm Phật” còn lại một trăm năm độ sanh, vì chỉ có 6 tiếng dễ học dễ tu với trình độ của chúng sanh. Trong thời gian đó tăng đến mỗi người sống đủ 8 vạn 4 nghìn tuổi là thời tăng đã mãn, trở lại giảm xuống đến lúc mà mỗi người sống còn 8 vạn tuổi. Bấy giờ đức Di Lặc ra đời v.v…

30. “Nguơn gia”: Niên hiệu của Văn Đế (dương lịch 424, trước Dân quốc 1488 năm) đời Lưu Tống miền Nam bên Tàu bấy giờ (theo dương lịch thì trong khoảng: 420 – 476).

31. “Nam Bắc Triều”: Từ đời Đông Tấn Nguơn Đế (317) về sau, gọi là Nam Bắc triều: Chiếm cứ về khu vực phương Nam gọi là Nam triều, có 4 triều là: Tống, Tề, Lương, Trần đều là Hán tộc; chiếm cứ về miền Bắc là Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Châu. Cả Nam Bắc triều khởi từ năm Canh Thân (420) đến năm Ất Dậu (589) là hết vì Tùy văn Đế thống nhứt nước Tàu, lên ngôi năm ấy kỷ hiệu là Khai Hoàng nguơn niên.

32. “Lưu Tống”: Gọi riêng về Tống Nam triều, bởi ông Lưu Dũ làm vua xưng Tống, nên gọi Lưu Tống, để cho riêng biệt với triều Tống là ông Triệu Khuông Dẫn làm vua sau này cũng xưng Tống.

33. “Tiên đà bà”: Với danh từ “Tiên đà bà” đủ có bốn nghĩa là: 1. Muối. 2. Nước. 3. Ngựa. 4. Đồ vật dụng. Chỉ có một bề tôi đủ trí thức mới có thể hiểu được. Nghĩa là: Như lúc mà nhà vua dùng bữa, Ngài gọi rằng: Tiên đà bà thì vị trí thần hiểu ngay là vua cần dùng muối. Lúc nhà vua tắm gội, gọi “Tiên đà bà!”, trí thần biết liền là hoàng thượng cần dùng nước. Khi nhà vua làm công chuyện, bảo: “Tiên đà bà!”, vị trí thần ấy rõ ngay là thánh thượng ngài cần dùng đồ đạc gì đó. Lúc nhà vua, ngài muốn ra dạo chơi, gọi rằng: “Tiên đà bà!” thì quan trí thần ấy tức hiểu là Thiên Tử Ngài cần dùng ngựa.

34. “Diêm Phù Đề”: Đọc đủ là Diêm Phù Đề Bệ Ba (Jampudvipa): châu Diêm Phù, nghĩa là giữa trung tim châu này có rừng cây Diêm Phù, dùng tên cây để đặt tên cho châu này; lại ở về phía Nam núi Tu Di nên gọi là Nam Diêm Phù Đề bệ ba, tức là cái châu mà loài người chúng ta ở đây. Luận Cu Xá cuốn 11 chép rằng: “Phía Bắc núi Đại Tuyết có núi Hương Túy, khoảng giữa 2 núi ấy, có cái ao nước lớn, tên là Vô Nhiệt. Bên ao ấy có rừng cây Thiệm Bộ tức Diêm Phù, hình cây rất cao lớn, trái rất ngon ngọt. Nhơn danh rừng cây ấy nên đặt tên cho châu này là Thiệm Bộ Châu, cũng như Diêm Phù Châu”.