Chú Giải Kinh Kim Cang

 Thích Huyền Vi 

Đức Phật dùng trí tuệ vô thượng nhiệm mầu để quán sát tất cả chúng sanh, biết căn tánh của họ rộng hẹp không đồng, thế nên dùng trí tuệ phương tiện nói pháp, đem 84,000 pháp môn để đối trị 84,000 phiền não trần lao. Chúng ta biết chắc, đức Thích Ca Như Lai thuyết pháp, là theo trình độ mà giảng giải, cũng như Bác sĩ tùy bịnh mà cho thuốc, đều không có chi nhất định. Ôi! ĐẠO vốn không đủ lời diễn tả, song không nhờ lời nói thì làm sao ý thức được đạo, nói có thì khó đạt đạo, diễn đạt chơn không để sáng tỏ phần nào!

Đức Phật giảng KINH KIM CANG nầy, chỉ rõ tâm pháp của Như Lai, dùng đọan nghi sanh tín làm chủ đích, lấy sự lìa tướng làm tôn chỉ, đem tâm vô trụ làm bản thể nhiệm mầu của chơn không, không ở trong ngôn ngử hình tích mà là nằm trong sự phá ngã phá chấp, phá cả danh ngôn. Sở dĩ tôn chỉ của Kinh quá cao siêu, người đời khó liễu ngộ, là vì người đọc tụng kinh không chịu hiểu nghĩa lý của kinh, kẻ xem kinh không biết đường hướng Phật dạy. Chính văn Kinh chưa thông suốt, mạch lạc của Kinh còn mịt mờ, thì làm sao dám nói đến lấy tâm truyền tâm, đem đạo lý để kiến tánh thành Phật ư?

Xưa nay, các nhà giảng giải KINH KIM CANG rất nhiều, hầu hết, các Ngài đều giải nghĩa lý quá cao siêu, phần giải thích còn khó hiểu hơn là chánh văn thì làm sao kẻ đọc người học dễ dàng thấu suốt được!

Toàn bộ KINH KIM CANG, từ đầu đến cuối đức Phật dạy ngài Tu Bồ Đề phải phá ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng; phá ngã rồi phá pháp, phá tu rồi pháp chứng để còn lại Kim Cương tính viên dung vô ngạimà thôi.

Theo ý chính của đấng Thế Tôn, chúng tôi tìm cách giảng giải thật rõ ràng và giản dị, đọc giả có thể từ cạn mà biết sâu, do gần  mà ngộ xa. Nhơ văn tự mà biết được chú giải, nhờ chú giải mới ngộ được ý Kinh, thấu triệt lời Phật dạy. Nếu muốn vậy, học giả lòng tin phải chân thành, phát nguyện phải chí thiết, học hành phải thường xuyên. Người trực ngộ được Kim Cương tính mới dẹp hết mê mờ, hoát nhiên lý tánh, đổng triệt chân thường, chánh tâm tu thân, tự như tròn sáng qua khỏi biển khổ, chóng lên bờ giác, bỏ hoa huyển để nhận lấy bông Ưu Đàm, đồng thấu triệt hào quang nhiệm mầu vô thượng, đồng thọ lãnh chân tính an lạc Kim Cương, đồng thành Chánh Giác. 

Kim ngôn Phật dạy tính ta,

Cang tâm tu luyện vượt qua bốn gành;

Bát ngát năm phận trong lành,

Nhã đa tròn sáng bến thành chơn không. 

Bộ KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA bản chử Phạn còn nguyên, tên là VAJRA-PRAJNA-PARAMITASUTRA do Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) dịch từ Phạn ra Hoa, chúng tôi cố gắng dịch và chú thích từ Hoa ra Việt, để Phật tử xa gần cùng đọc tụng, cùng thọ trì, để cùng thể nhập Kim Cang tính. 

VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC LINH SƠN

Ngày 15 tháng Giêng năm Bính Dần (1985)

THÍCH HUYỀN VI

 

Kim Cương chất ấy trong ta,

Muôn đời cấu nhiễm vẫn là Kim Cương!

I – GIẢNG NÓI TÊN KINH:

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Một câu này để nói tên Kinh, muốn thuyết minh dễ dàng, nên chia làm:

1) Kim Cang

2) Bát Nhã,

3) Ba La Mật,

4) Kinh.

Bốn đoạn phải giảng:

1) KIM CANG:  Hai chữ Kim Cang, trong kinh sách giảng nói rất nhiều, hầu hết đều nói Kim Cương là chất cứng chắc trong vàng, nó bén cắt đứt các vật khác. Hiện nay ở Ấn Độ cũng như các nước đều có nhiều loại kim cương; đá kim cương là một loại quý báu ít có trên thế gian. Nó là một loại khoáng vật, hình trạng rất là trong sáng, tám mặt đều chiếu. Khi ánh mặt trời chiếu hay yến sáng đèn rọi vào thì lung linh ngũ sắc chiếu tỏa ra ngoài. Tính chất của nó rất là chắc bén, hay cắt các loại pha lê, hay điêu khắc trên đá cứng, hay dùi mài tất cả đá quý khác. Kim cương là vật cứng bén nhứt trong tất cả các vật. Thế nên mượn nó đặt tên Kinh này. Kim thì không bao giời thay đổi; Cương là chất chứng bén. Nói đến hình trạng của nó vừa sáng, vừa trong, vừa chiếu, vừa soi, không bị bụi trần nhiễm vào, dù là mảy may. Do đó, nên Kinh này lấy hai chữ Kim Cang đặt tên, dùng nghĩa nói lên sự cứng bén nhất. Cứng để nói lên dù trải qua trăm kiếp nghìn đời, lưu chuyển trong 6 đường (Trời, Người, A Tu La, Súc Sinh, Ngạ Quỉ, Địa Ngục) nhưng tính giác chúng sinh không hoại; Bén là để nói lên chiếu phá các sự vật trong thế gian, cắt đứt lưới vô hình, tham ái, không cò một mảy may nào mà không cắt đứt. Tóm lại, chất cứng Kim Cương dụ cho bản thể Bát Nhã. Chất bén của Kim Cương là dụ cho diệu dụng Bát Nhã.

2) BÁT NHÃ: Hai chữ Bát Nhã là tiếng Phạn trong kinh sách Phật giáo có rất nhiều nơi giải nói và dịch ra Hoa văn là trí tuệ, nhưng dùng hai chữ trí tuệ thì quá dơn giản, sợ người đời hiểu lầm như trí tuệ thông thường của thế gian thì quá cạn cợt, theo ý tôi nên thêm chữ Diệu để  tránh sự lầm lẫn. Cũng như chữ mà chúng ta thường nói, tế nhị mà phân tách, thực tế có sai khác, có lý thô, lý tế, lý vi, lý huyền, lý diệu. Lý thô rất dễ nói, lý tế thật khó bày, lý kín rất khó mở, lý mầu không dễ gì diễn tả. Nói đến chữ Diệu lý thì tuyệt đối không giải bày được. Thế nên thêm chữ Diệu dùng ba chữDiệu Trí Tuệ so sánh mới có thể tương đương với chữ Prajna: Trí Tuệ, trong Kinh này.

3) BA LA MẬT:  Ba chữ Ba La Mật là dịch âm tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là đáo bỉ ngạn. Chúng sinh quá mê lầm vì cái ngã hằng ngày lặn hụp trong biển khổ phiền não, từ trong biển lới sinh tử phiền não qua đến bờ thanh tịnh an lạc. Không sanh không diệt, tức là đáo bỉ ngạn vậy. Tỷ dụ này để nói lên thoát ly biển khổ. Nhưng vấn đề đến bờ bên kia có chia ra làm hai phần: ĐốnTiệm.

Đốn nghĩa là một khi nghe đại pháp, biết được năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều không; Sáu trần (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) chẳng có, lập tức liễu ngộ thân tâm, thể nhập chơn lý.

Tiệm nghĩa là do tin rồi hiểu, hiểu rồi thật hành, thật hành chắc chắn chứng quả, thứ lớp tiệm tu, cũng có thể ngộ nhập. Đốn, tiệm mặc dù có khác, nhưng đáo bỉ ngạn chỉ có một mà thôi.

4) KINH: Chữ Kinh nói cho đủ là khế kinh (Sutra) hợp chơn lý, xứng căn cơ. Mục đích tu hành là để độ mình, độ người. Chơn tính của mỗi người vốn là hư linh bất muội, nhiều kiếp vẫn thường còn, vì bị vật dục, vọng tưởng che mờ, nên bị chìm đắm nơi biển khổ sanh tử, chưa được thoát ly. Đức Thế Tôn đã dũ lòng từ bi, đặc biệt nói Kinh này để cho chúng sanh đoạn phiền não, thoát ly biển khổ, đến bờ an lạc, siêu thoát nơi cứu kính.

Nhưng mỗi người muốn đạt đến mục đích ấy, cần phải được diệu trí tuệ, mà muốn được Diệu Trí Tuệ là phải có Kim Cương tính cứng, bén, sáng, trong, mới được. Một mảy bụi không cho dính vào, dứt trừ tất cả vọng niệm, chém giết tà ma trong mình, tru lục yêu quái muôn năm. Dõng mãnh tinh tiến, tự tính sáng suốt, để đến bờ bên kia, cùng các đức Phật, Bồ Tát đồng hưởng an lạc vậy.

Mặt trời Phật sáng thêm,

Xe chánh pháp chạy hoài,

Trên đền đáp bốn ơn,

Dưới cứu giúp ba cõi,

Thế giới được thanh bình,

Nhân sinh thường an lạc,

Đệ tử và chúng sinh,

Đều đi trên đường sáng!

 

I I – LICH SỬ KINH KIM CANG

Kinh Kim Cang, vốn bao quát trong Kinh Đại Bát Nhã, nằm về quyển thứ 577. Cổ nhân thường bình luận quyển kinh này giống như tập luận của Nho giáo. lời lẽ có hạn, nhưng lý luận không cùng. Đức Thích Ca Như Lai giảng kinh Bát Nhã gồm có 600 quyển; địa phương giảng Kinh cũng như thứ lớp pháp hội, cộng tính có 4 chỗ, 16 hội. Giảng bộ Kinh Kim Cang này tại hội thứ 9 trong 16 hội. Địa điểm giảng Kinh ở tại khu vườn ông Cấp Cô Độc (Anathapindika), phía nam kinh thành Xá-Vệ (Sravasti), Trung Ấn Độ. Lúc ấy ở Trung Quốc, nhằm triều đại nhà Châu, Vua Mục Vương năm thứ 9.

4

Chỗ

16

Hội

Tại Linh Sơn, thành Vương-Xá

6 hội

Vườn Cấp Cô Độc, rừng cây của Jéta, thành Thất La Phiệt.

3 hội

Điện Ma Ni Bửu Tàng tại cung Trời Tha Hóa Tự Tại

1 hội

Lại, vường Cấp Cô Độc, rừng cây của Jéta, thành Thất La Phiệt

4 hội

Lại, Linh Sơn, thành Vương Xá

1 hội

Bên ao Bạch Lộ trong vường trúc thuộc thành Vương Xá.

1 hội

 

III – LƯỢC SỬ VỊ DỊCH KINH NÀY LÀ NGÀI TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU MA LA THẬP, ĐỜI GIAO TẦN.

Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) là người Ấn Độ, tên của Ngài dịch âm từ tiếng Ấn. Trung Hoa dịch là Đồng Thọ. Thân phụ của Ngài tên là Cưu Ma La Đạm. Thân mẫu của Ngài tên là Thập Bà, em gái vua nước Quy Từ (Kucha). Quy Từ ngày nay là tỉnh Tân Cương. Pháp Sư Cưu Ma La Thập sinh tại nước Quy Từ, họp cả tên cha và mẹ để đặt tên Ngài là Cưu Ma La Thập. Lúc 7 tuổi thường theo thân mẫu là Thập Bà đi du lịch bốn phương, cùng các Chùa. Vị trí nước Kế Tân ở miền Bắc Ân Độ. Ngài theo Đại Đức Bàn Đầu Đạt Đa (Pandudatta), học về Tiểu Thừa Giáo (Hinayana); rồi đến nước Sơ Lặc (Su-Lo), Ngài theo Đại Sư Tu Lợi Gia Sách Ma (Surya-yaksa) học Đại Thừa Giáo (Mahayana), sau đó Ngài về lại nước Quy Từ, lại theo Ngài Tỳ Ma La Nghĩa (Vimalaksa) học Luật Tạng. Từ đó tại nước Quy Từ, Ngài long trọng tuyên bố truyền bá về Đại Thừa Giáo.

Niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ 19, Chúa Tiền Tần là Ông Phù Kiên, sai các tướng quân, do Lữ Quang cầm đầu, chinh phạt nước Quy Từ, mời Ngài Cưu Ma La Thập về nước. Khi Ngài về đến Lương Châu, thì nghe tin ông Phù Kiên bị ông Giao Tràng sát hại. tướng quân Lữ Quang phải an trụ độc lập tại Lương Châu với đoàn quân hùng mạnh của ông. Về sau, ông Giao Tràng cũng mến danh đức Ngài La Thập, muốn rước về cung, nhưng Lữ Quang không cho. Sau khi Giao Tràng mất rồi, con là Giao Hưng lên ngôi, liền qua xin rước Pháp Sư, Lữ Quang cũng không chịu. Kế Lữ Quang qua đời, con là Lữ Long lên kế vị; Giao Hưng cử đại binh qua, Lữ Long mới chịu đầu hàng. Lúc bấy giờ nhà Tần rước Ngài Cưu Ma La Thập về Trường An, Giao Hưng suy tôn Ngài làm Quốc Sư, thỉnh ở Tây Minh Các và Tiêu Diêu Viên để phiên dịch các Kinh. Phiên dịch hoàn thành Kinh, Luật, Luận, gồm có 47 bộ, tất cả hơn 380 quyển. Đời Hậu Tần niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ 15, tháng 8, Ngài viên tịch tại ngôi chùa lớn ở Trường An, thọ 74 tuổi.

Hai chữ Tam Tạng là chỉ cho tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận. Nhân vì Ngài tinh thông cả ba Tạng, do đó người đời tôn xưng Ngài là  Tam Tạng Pháp Sư. Thế nào gọi là Tam Tạng? Ấy là bao nhiêu giáo pháp đức Thích Tôn đã nói, còn ghi lại, gọi là Tạng Kinh (Sutrapitaka). Những giới luật đức Phật đã chế ra, kiết tập thành sách, gọi là tạng Luật (Vinayapitaka), và các pháp tướng vấn đáp, hoặc ý chính do Phật nói ra, hay các Thượng Túc đệ tử của Phật bàn luận thêm, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Nghĩa Kinh của các vị Bồ Tát đã giải thích thêm cùng với Kinh sách biện luận pháp tướng, ấy gọi là tạng Luận (Abhidharmapitaka).

 

IV – PHÂN GIỚI HẠNG KINH KIM CANG

Toàn bộ Kinh Kim Cang đã chia ra 32 phần, do Thái Tử Chiêu Minh đời nhà Lương phân thành giới hạng. Thật sự thì Chơn Kinh ngày xưa không có phân chia giới hạng. Nay đem 32 phần này chia làm:

1 – Phần tựa

2 – Phần chánh tôn và

3 – Phần lưu thông.

Dùng ba phẩn để phân giới hạng:

Phần Tựa: Chỉ sự bao quát trong phần thứ nhất. Phần này nói lên nguyên do có pháp hội thuyết pháp. Trong phần tựa này lại còn chia ra thông tự và biệt tự (tựa chung và tựa riêng). Từ câu “Như thị ngã văn” cho đến câu “thiên nhị bách ngũ thập nhân câu” là thông tự, tức là các Kinh khác đều nói giống như vậy. Từ câu “nhĩ thời Thế Tôn” cho đến câu “tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa” là biệt tự. Đây là những điểm không đồng với các Kinh khác.

Phần Chánh Tôn: Từ phần thứ hai đền phần thứ ba mươi mốt là phần chánh tôn, hoàn toàn nói rõ tôn chỉ, mục đích của bộ Kinh này.

Phần lưu thông:  Là phần nói đến sự lưu truyền Kinh này cho đời sau, tức là phần ba mươi hai mà cũng là đoạn cuối cùng của bộ Kinh.

Kim Cương truyền bá khắp nơi,

Ưng vô sở trụ, tâm thời bao la,

Kim Cương ở tại lòng ta,

Tỉnh thành ngọc quý, mê là bùn nhơ!

 

V – NGUYÊN DO PHÁP HỘI THUYẾT GIẢNG

Nguyên do pháp hội chính là nói Tôn Giả A Nan đầu tiên ghi nhớ lời Kinh. A Nan là một trong mười vị đại đệ tử của đức Phật Như Lai. A Nan là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa dịch là Vô Nhiễm, lại dịch là Hoan Hỷ, mà cũng dịch là Khánh Hỷ. A Nan theo hầu Đức Phật Như Lai, khi ở tại thành Câu Thi Na (Kushinagar) và các địa phương phụ cận, bên sông Hê Lan Nhã (Hidda-Lanka). Trong thời gian ấy, đức Phật Như Lai gần viên tịch; A-Nan nhận biết đức Từ Phụ gần nhập Niết Bàn, rất là buồn bã, hầu cận bên cạch khóc lóc, thở than! Lúc ấy vị đệ tử chót của Phật là ông Tu Bạt Đà La (Subhadra) thấy A Nan khóc, mới khuyên rằng:

  • Từ Phụ còn tại thế, chúng ta tùy thời mà hỏi đạo, sau khi Từ Phụ viên tịch, chúng ta muốn thưa hỏi đạo lý gì, không ai chỉ giáo một cách rốt ráo, khóc than đâu có ích gì, chi bằng đến thẳng Từ Phụ xin hỏi 4 việc đại quan trọng, cầu mong Từ Phụ chỉ dạy rõ ràng cho chúng ta. Đó là điều hay nhất. Bốn sự kiện ấy là gì?

1)     Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, chúng con lấy ai làm Thầy?

2)     Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, chúng con dùng pháp gì để tu tập?

3)     Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, chúng con phải theo cách gì an trụ?

4)     Khởi đầu Kinh Kim Cang, cũng như các Kinh khác, chúng con phải dùng câu gì cho đúng?

  • Trả lời câu hỏi thứ nhất, đức Thế Tôn dạy: “Sau khi Đức Như Lai nhập Niết Bàn, các hàng thất chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức Xoa Ma Na Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Ưu Bà Tắc, và Ưu Bà Di) đệ tử Phật phải lấy giới luật làm Thầy. Vì sao thế? – Vì giới Luật (Sila-Vinaya) làm mạng mạch của Phật Pháp. Giới Luật còn, giáo pháp của Phật mới còn (Tỳ ni tạng trụ, Phật Pháp cửu trụ)”.
  • Trả lời câu hỏi thứ hai: đức Thế Tôn day: “Nên dùng 4 Niệm Xứ tu tập”, những gì là bốn niệm xứ?
  1. Quán thân bất tịnh: Mỗi thân người đều có 5 điều bất tịnh:

.1.1.   Chủng tử bất tịnh

.1.2.   Trụ xứ bất tịnh,

.1.3.   Sanh tiền bất tịnh,

.1.4.   Tử hậu bất tịnh và

.1.5.   Chung cánh bất tịnh

  1. Quán thọ là khổ: Người sống trên cảnh đời này, tất cả việc đều lạnh thọ, vì lãnh thọ nên mới có các điều thống khổ.
  2. Quán tâm vô thường: Tâm ngưòi vô thường, tức là không phải chân tâm, đó là vọng tưởng. Vì bị vọng tưởng bao phủ nên chân tâm không thể nào hiển hiện được.
  3. Quán pháp vô ngã: Tất cả khổ não của người đời đều do cái NGÃ nó lầm chấp, làm cho mê muội. Sự thật những vật trong thế giới đã có, không phải là của ta.
  • Trả lời câu hỏi thứ ba, đức Thế Tôn dạy: “Mặc tẩn”. Nguyên nhơn Ngài A-Nan hỏi phải theo cách gì an trụ? Bởi vì hàng đệ tử trong pháp hội, tín tâm không đồng. Như khi gặp vị nào tánh tình thay đổi, phải làm sao điều hộ họ, do đó mà Như Lai đáp dùng hai chữ mặc tẫn, có nghĩa là yên lặng tẫn xuất, trong một thời gian cho ở riêng, lúc nào thấy tánh tình thay đổi thuần thục, lúc đó mới cho vào đoàn thể tu học như trước.
  • Trả lời câu hỏi thứ tư, đức Thế Tôn dạy: “Để câu Như thị ngã văn (Evam me suttam)” . Nguyên là một khẩu hiệu chánh tín để chứng minh bản Kinh này do đức Phật nói, chắc chắn không sai lầm, mà cũng là để lưu lại hậu thế cho chúng sinh tín thọ. Chẳng những Kinh Kim Cang, mà bất cứ Kinh nào Đức Thế Tôn đã nói, đều phải đề 4 chữ “Như Thị Ngã Văn” dùng làm chính tín.

Thâm trầm lời hỏi A Nan,

Thiên nhân nhờ đó, Kim Cang hiện bày,

Chúng ta khởi sự từ nay,

Tội căn mòn dứt, chuyển thay Pháp mầu! 

  

VI – THUYẾT VÀO BẢN KINH 

PHẦN NGUYÊN NHÂN PHÁP HỘI THỨ 1

PHÂN GIẢI:

Đức Như Lai vì một đại sự nhân duyên, thuyết pháp độ chúng sanh. Ngài phải tùy địa phương, lòng người và thời gian, không bao giờ khinh thường trong sự thuyết pháp, thế nên khi cơ duyên chưa đến thì không bao giờ thuyết pháp. Địa phương là cần phải có đạo tràng trang nghiêm, thanh thoát; lòng người là ý nói phải có những hạng người đầy đủ trí tuệ và nhất tâm nghe pháp; thời gian là phải chờ lúc cơ duyên thuần thục. Có đầu đủ ba nguyên nhân này mới có thể khai đàn thuyết pháp. Tóm lại, thành lập pháp hội để mà thuyết pháp, không phải dễ dàng.

Như vầy, chân lý như thế. Tôi, khi kiết tập kinh điển, Ngài A-Nan tự nói: nghe, một thuở nọ, khi thuyết Kinh này.Đức Phật ngự tại thành Xá Vệ (Sravasti) thành Xá Vệ là kinh đô của Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit). Rừng cây của ông Kỳ Đà Thái Tử. Thái Tử Kỳ Đà (Jetakumara) dân rừng cây trong vười, cúng lên Đức Phật để làm trợ duyên, vườn cây của ông Cấp Cô Độc; Vị đại thần của Vua Ba Tư Nặc, tên là Tu Đạt Đa (Sudatta) ông ưa làm các việc bố thí, nhất là thường giúp cho những người nghèo cùng, quan quả cô độc. Do đó, mà người đời thường gọi Ngài là Cấp Cô Độc. Cùng với các chúng đại tỳ kheo, đại tỳ kheo là những bực có đức hạnh lớn. Trung Hoa dịch là khất sĩ; trên xin giáo pháp của Phật để trưởng dưỡng huệ mạng, dưới xin vật thực của người đàn việt để cho thân mạng sống còn, một nghìn hai trăm năm mươi vị (1250). Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn. Thế Tôn (Lokaiyestha) lời xưng khen đức Phật. Mỗi đức Phật có 10 hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sự, Phật Thế Tôn. Gần đến giờ ngọ trai, chư Phật có giờ ăn nhất định, giờ ngọ, phi thời không bao giờ ăn. Trong luật đã nói: “giờ dần, mẹo, thìn, là giờ của chư Thiên ăn; giờ tỵ, ngọ, mùi là giờ của chánh nhơn ăn, giờ thân, dậu, tuất là giờ của quỷ thần ăn; giờ hợi, tý, sửu là giờ của súc sanh ăn, nay nói gần đến giờ ngọ trai là nói giờ của chánh nhơn ăn. Đắp Pháp y; Y tức là áo Ca Sa (Kasaya), mang bình bát, bát (Patra) là đồ ứng lượng, có 3 sự tương ưng; tức là sắc tương ưng, thể tương ưng và lớn nhỏ tương ưng. Thế nào là sắc tương ưng? Nghĩa là sắc màu đen, khiến cho người không khởi ý tham lam ưa thích. Thể tương ưng là thế nào? Thể của bát phải là chất thô, khiến cho người không khởi ý tham tâm. Còn lớn nhỏ tương ưng như thế nào? Không quá lượng vậy, tức là đi khất thực không quá bảy nhà, khiến người không tham về miệng và bụng. Vào trong đại thành Xá Vệ khất thực, ở trong thành phố đó thứ lớp đi khất thực xong, trở về bản xứ, ăn cơm rồi thu xếp y bát, rửa chân, tay và mặt xong, trải tọa cụ ngồi.

KHÁI  LUẬN:

Đây là phần tựa của toàn bộ Kinh nói tại pháp hội Kỳ Viên (Jetvana), nơi phát khỏi có pháp hội để thuyết Kinh này. Từ câu: “Như vầy tôi nghe” cho đến câu “một nghìn hai trăm năm mươi vị” là thông tự ở trong phần tựa, chính được nói bởi Đức Phật Như Lai, theo nghi thức trụ thế thuyết pháp. Từ câu: “Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn” cho đến câu “trải tọa cụ ngồi”, là biệt tự ở phần tựa, chính là nói Đức Phật Như Lai tự Ngài phát khởi sự tướng trong pháp hội ấy. Đức Phật Như Lai muốn cho chúng sanh hiểu rõ những việc ăn, mặc, ở hàng ngày, đều chỉ được bản thể chân tâm. Thế nên mược sự đi khất thực, phát khởi bộ Kinh này, để cho chúng sanh hướng về các việc tầm thường trong ngày như: đi, đứng, ngồi, nằm, ăn cơm, mặc áo, nếu khôn khéo tánh Kim Cang (Phật Tánh) sẽ hiển lộ rõ ràng, để nói lên chính mình cùng chư Phật, đạo lý không sai khác. Chúng ta suy nghĩ kỹ thì biết rõ sự đắp y mang bình bát của Đức Phật Như Lai, đều tiêu biểu cho điều ấy. Sự khất thực của Phật Như Lai chính là muốn dạy cho chúng sanh bố thí. Thứ lớp đi khất thực là tiêu biểu sự nhẫn nại, kiên tâm, không phân biệt nghèo giàu, với lòng đại từ bình đẳng. Thu xếp y, bát là để tiêu biểu cho sự dứt hẳn các vín níu ở đời, tâm không còn lo nghĩ trần gian. Rửa chân là để tiêu biểu tẩy sạch trần cấu cho thân nghiệp được thanh tịnh. Trải tọa cụ là để nói lên phải ngồi thiền định, giữ chánh niệm, không lay động, rồi mới khởi sự thuyết pháp.

Chúng ta nên biết rằng: Tất cả các pháp xuất thế gian không thể tách rời pháp thế gian. Do đó, phàm là đệ tử Phật, cần phải tích cực học đạo và thật hành theo chế độ quy củ của Phật, luôn luôn gìn giữ giới luật, tối kỵ là không nên ăn, mặc, quá dư, buông lung vóc huyển, khó mà đạt được bản tính Kim Cang.

GIẢNG NGHĨA:

Ngài A-Nan nói: Bộ Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật này chính đích thân Ngài nghe Đức Phật Như Lai nói vậy. Thời gian giảng nói Kinh này, Đức Phật ngự tại thành Xá Vệ, trong rừng cây của ông Kỳ Đà Thái Tử, vườn ông Cấp Cô Độc cùng các vị Bồ Tát, La Hớn có đức hạnh và trong hàng đệ tử một nghìn hai trăm năm mươi vị (1250) câu hội một chỗ. Trong giờ phút ấy, mang bình bát, từ vườn hoa ông Cấp Cô Độc, tiến vào đại thành Xá Vệ, đi khất thực. Thứ lớp đi khất thực xong, trở về chỗ cũ thọ thực. Khi ăn cơm xong, Ngài thu xết y, bát, gọn gàng, rửa hai chân sạch sẽ, thăng tòa thuyết pháp.

Thơ 1

Nguyên nhân Phật nói Kim Cương,

Tại thành Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô,

Tỳ kheo trợ hóa thành đô,

Chuẩn bị y, bát, để vô đại thành.

 

Thích Tôn thứ lớp độ sanh,

Thụ trai đúng ngọ, thi hành đạo thiêng,

Xếp y, rửa bát, thường xuyên,

Trải xong tọa cụ, liền tuyên đạo mầu.

 

PHẦN THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH THỨ 2.

PHÂN GIẢI:

Thiện Hiện chính là tên của Ngài Tu Bồ Đề (Subhuti). Ngài này biết Đức Phật Thế Tôn muốn nói đại pháp Kim Cang Bát Nhã, do đó, nên ứng cơ mà khải thỉnh. Như Lai mỗi lần thuyết pháp, muốn hòa đồng với hàng đệ tử các giới, v…v…mượn những lời vấn đáp để chỉ rõ chân lý. KIM KIM CANG vốn là không tôn, vì Ngài Tu Bồ Đề khéo giải không số một, nên đúng với căn cơ mà khai thỉnh. Thiện Hiện là Ngài Tu Bồ Đề, Trung Hoa còn dịch là Thiện Kiết, cũng gọi là Không Sanh. Ngài sinh trong gia đình có tiền của, nhưng khi sanh Ngài ra, thì vật phẫm trong kho tàng đều trống không. Do đó, nên gọi Ngài là Không Sanh. Cha me Ngài thỉnh thoảng mời các vị tiên tri, đoán biết các chủ kiết, do đó nên gọi là Thiện Kiết. Thời gian lâu xa, vật phẩm trong kho tàng hết, rồi bỗng nhiên lại xuất hiện đầy đủ, nên cũng gọi là Thiện Hiện.

Lúc bấy giờ, Ngài Trưởng Lão đức  lớn gọi là Trưởng, tuổi giả gọi là lão. Tu Bồ Đề, ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mích trần vai bên hữu, gối bên hữu quỳ sát đất, chấp tay cung kính, rồi bạch Phật rằng: “Rất là ít có”, ít có chính là lời chân thật, khen ngợi Đức Phật. Điểm này có đủ 4 ý nghĩa:

Một là thời gian ít có, khó tìm ra để cho Đức phật thuyểt pháp.

Hai là nơi chồn ít có, khó được đạo tràng trang nghiêm như thế này.

Ba là đức độ ít có, chẳng những Đức Phật có oai đức rất lớn mà còn trong hàng thính chúng toàn là những vị đạo đức trọng.

Bốn là sự việc ít có, sự việc đây là chỉ cho đại sự nhân duyên, công việc thuyết pháp độ sanh vậy.

Bạch Đức Thế Tôn, Như Lai khéo léo hộ niệm các vị Bồ Tát, chuyên tu trí tuệ gọi là Bồ, ròng thật hành phước nghiệp gọi là Tát. Phước huệ song tu gọi là Bồ Tát, lại còn có nghĩa tự lợi, lợi tha, giác ngộ cho chúng hữu tình cũng gọi là Bồ Tát. Khéo léo dặn dò các vị Bồ Tát. Bạch Thế Tôn! Các thiện nam cùng thiện nữ, phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, nguyên chữ phạn là Anuttara-sam-yak-sambodhi; a là vô, muttara là thượng, samyak là Chánh Đẳng, sambodhi là chánh giác. Nói một cách dễ hiểu là chơn tánh của ta vậy. Chơn tánh ấy bao trùm cả thái hư, không có vật gì cao hơn, nên gọi là vô thượng. Nhưng trên, từ các vật gì cao hơn, nên gọi là vô thượng. Nhưng trên, từ các Đức Phật, dưới đến các loài hàm linh, tánh này là thật tánh bình đẳng, nên nói là Chánh đẳng; lại nữa tính giác của nó, tròn sáng chiếu soi, không thiên không kém nên gọi là Chánh Giác.

Thế nào nên an trụ, thế nào để hàng phục tâm ấy? Đức Phật nói: Lành thay! Quý hóa thay! Này Tu Bồ Đề! Như lời ông đã nói, Như Lai khéo hộ niệm các Bồ Tát, ông nay phải lắng nghe, lắng nghe nghĩa là đem hết tâm trí để mà nghe, đem tự tánh thanh tịnh mà nghe. Tôi sẽ vì ông mà nói. Các thiện nam cùng thiện nữ phát tâm vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải trụ như vầy, hàng phục tâm kia như thế này.

Dạ, vâng! Dạ là tiếng lãnh giáo, vâng là thọ lời tuân lịnh, đã dạ mà lại vâng, đó là biểu thị ý tuân hành lên Đức Thế Tôn, Bạch Thế Tôn! Xin ưa muốn nghe.

KHÁI LUẬN:

Từ đây vào trong phần chánh tôn, nói Trưởng Lão Tu Bồ Đề thỉnh vấn Đức Như Lai hai sự kiện:

Một là làm thế nào khiến tâm bồ đề thường trụ không thối chuyển?

Hai là phải làm thế nào để hàng phục vọng niệm, vọng tâm? (Tâm Bồ Đề chính là bản giác tròn sáng). Xét Ngài Tu Bồ Đề sở dĩ hỏi hai câu hỏi trên là vì Đức Phật Như Lai tỏ bày quang cảnh rất tẩm thường là mặc y, ăn cơm, rửa chân, trải tọa cụ ngồi, cũng ngộ đặng diệu dụng vô trụ của chân tâm, không có chỗ nào mà chẳng đủ bản thể thật tướng Bát Nhã. Do đó, mà Ngài cảm kính từ trong thâm tâm, khen ngợi thốt ra một lời “Ít có Thế Tôn” cũng chính phải đợi co duyên thuần thục, mới xin hỏi hai sự kiện trên.

Lâu nay Đức Phật cùng các đệ tử gặp nhau gần 30 năm, các đệ tử một bề không hề biết tâm Phật, chỉ nói với mọi người rằng: Phàm những gì Đức Phật đã nói phần nhiều nghi ngờ mà không tin.

Hôm nay mới được Ngài Tu Bồ Đề khám phá, do đó Ngài Tu Bồ Đề không phải vì cảm động trong tâm mà phát ra câu “ít có, bạch Đức Thế Tôn”, cũng không phải Ngài khen ngợi ngoài mặt, mà chính là khen ngợi của sự liễu ngộ trong thâm tâm của Ngài. Toàn cả bộ Kinh, cũng để nói lên ý nghĩa câu ấy.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật Như Lai lúc an toạn xong, trong hàng đệ tử, Ngài Tu Bồ Đề đạo đức và niên lạp rất cao, ở trong đại chúng, từ trên chỗ ngồi của chính Ngài, cung kính đứng dậy, bày vai bên hữu (để tiêu biểu không dám bội sư) đầu gối bên mặt quỳ sát đất (để tiêu biểu không dám tà đạo), hai tay đồng chấp lại (để tiêu biểu sự bề nương), đối diện Đức Phật Như Lai, thành kính hành lễ (để tiêu biểu sự nghiêm túc) hướng về Như Lai, thốt ra một lời khen ngợi: “Rất ít có, Đức Thế Tôn”. Đấng Từ Phụ của chúng ta đối với hàng đệ tử chưa thành đạo, Ngài đem hết thiện tâm để hộ cho họ; đối với hàng đệ tử đã thành đạo, Ngài tế nhị dặn dò họ những gì cao thượng. Bạch Thế Tôn! lại có các thiện nam, tín nữ, khi phát tâm bồ đề, phải làm thế nào để cho tâm bồ đề ấy, thường trụ không thối chuyển. Thời gian họ phát khởi vọng niệm, phải làm thế nào để hàng phục vọng niệm cho họ?

Đức Phật đáp rằng hai câu hỏi của ông rất là phù hợp với ý tôi. Nguyên nhân đức Phật ra đời, bản ý muống chỉ thẳng tâm này, nhưng vì chưa có cơ hội, từ lúc thành đạo cho đến ngày nay thường giữ bổn hoài ấy. Nay trên pháp hội Kỳ Viên, được Ngài Tu Bồ Đề đặt ra các câu hỏi này, thật là đúng lúc. Thế nên Đức Phật khen ngợi người đặt câu hỏi.

Chính Đức Phật đã nói với Ngài Tu Bồ Đề rằng theo lời ông đã nói hiện nay Như Lai khéo suy nghĩ đến hàng đệ tử chưa thành đạo, pháp ra lời chưa hề nói, thế là ông đã rõ đạo lý ấy, mới có thể cùng ông giảng nói. Do đó nên tôi ân cần nhắc ông, nên hết lòng nghe kỹ, tôi sẽ giải bày.

Ngoài ra còn có thiện nam, tín nữ nào đã phát tâm Bồ Đề, chính là tự nhiên đã hiển lộ bản tính chân thật Như Lai, phải giữ bản tính thường trú ấy và lúc nào cũng phải hàng phục tất cả vọng niệm (có chỗ nói hễ đạo tâm tiến, thì nhân tâm thối; mặt trời chiếu sáng thì bóng tối tự nó tiêu tan). Đức Như Lai vừa nói xong, thì Ngài Tu Bồ Đề liền tỏ ngộ ý tứ ấy, cho nên thưa: Dạ, vâng! . Chính là đáp ứng với ý tứ chính của Phật và thay lời cả đại chúng nói: Xin ưa muốn nghe.

Thơ 2

 Thiện Hiện khải thỉnh lý sâu,

Giử đúng nghi lễ, quỳ hầu một bên,

Bạch rằng: ít có, bế trên!

Hộ niệm, phú chúc vững bền dạy khuyên.

 

Bồ Tát lưỡng phái cần chuyên,

Thế nào an trụ để yên tu hành?

Làm sao hàng phục tam bành?

Làm sao giữ vững lòng thành Kim Cương?

 

Hồi đáp: Phật rải tình thương!

Lý mầu dạy bảo, mỗi phương ghi lòng,

Thiện Hiện đảnh lễ phục tòng,

Chúng con tuân giữ, đề phòng đường tu.

 

PHẦN CHÁNH TÔN ĐẠI THỪA THỨ 3

PHÂN GIẢI:

Thinh Văn Bồ Tát là tiểu thừa; Duyên Giác Bồ Tát là trung thừa; nay nói Đại Thừa là nói pháp Đại Thừa Bồ Tát .

Thinh Văn ngộ được pháp Tứ Đế (khổ, tập, diệt, đạo).

Duyên Giác ngộ pháp Thập Nhị Nhân Duyên (vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử).

Đại thừa Bồ Tát ngộ pháp lục độ vạn hành (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ).

Tôn môn pháo biệt rất nhiều, đây nói chánh tôn, tức là nói pháp Bát Nhã rất cao siêu. Bát Nhã là mẹ của chư Phật, đó là Pháp Tối Thượng Thừa. Do đó, nên nói là Chánh Tôn.

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề, các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, chữ Ma Ha Tát có nghĩa là rộng lớn, trong hành Bồ Tát, các vị này đầy đủ đại giác tánh, phải đúng cách để hàng phục vọng tâm kia, đã có các loại chúng sanh, hoặc noãn sanh, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc hữu sanh, hoặc vô sắc, hoặc hữu tưởng, hoặc vô tưởng, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, ta đều khiến các loại trên đều vào Vô Dư Niết Bàn, vô dư nghĩa là không còn mảy may sinh diệt vọng tưởng. Niết Bàn tức là Giác tánh xưa nay không sinh, không diệt. Vô dư Niết Bàn là niết bàn không còn sinh tử luân hồi, rồi diệt độ tất cả, diệt là dứt hết các vọng tưởng, độ là trở lại tánh giác của mỗi loài. Dùng trí tuệ sáng suốt để diệt hết si ám đó là ý nghĩa hai chữ diệ độ. (Ví như người bị mù đôi mắt, thầy thuốc trị lành, sáng suốt trở lại; thầy thuốc chỉ trị bệnh cho người kia, chớ đâu phải cho ánh sáng đến người đau mắt. Thế nên chúng ta biết rằng, ánh sáng của mắt sẵn có, sự ngăn che của con mắt vốn không, nhơn vì vốn không, nên có thể diệt; nhơn vì sẵn có, nên mới trị (độ). Diệt độ như thế, chúng sanh có vô lượng, vô số, vô biên, thật không có chúng sanh nào diệt độ cả. Vì cớ sao? Nếu Bồ Tát còn có Ngã tướng, tướng là hình tích vậy, chấp chặt hình tích, tâm không trống rỗng, bị trệ ngại không thể hóa giải, gọi đó là tướng. Ngã tướng là sự yêu mến thân mạng mình, trọn ngày cứ lo cho thân, tranh danh đọat lợi cho thân. Tính toán cho thân mình, rồi lo cho thân con cháu đều thuộc về ngã tướng cả.

Nhơn tướng, các việc phân biệt người khác thấy người có thế lợi, chạy theo bén gót. Thấy người yếu đối, giận chán không ưa, ganh ghét người hơn mình, bỏn sẻn đối với mọi người, đều là nhơn tướng.

Chúng sanh tướng, phàm sắc, thọ, tưởng, hành, chấp cho là chúng hòa hiệp, tham lam giận tức, si mê, ái nhiễm, làm cho chìm đắm nguồn linh, những việc nó trên đều là chúng sanh tướng.

Thọ giả tướng, những việc đốt hương cầu nguyện, cầu cho có phước điền hiện tại, uống thuốc luyện đơn, hy vọng trường sinh không già. Các việc ấy đều là thọ giả tướng, tức không phải là Bồ Tát

KHÁI LUẬN:

Phần căn bổn giảng nói phương pháp hàng phục vọng tâm. Đức Phật Như Lai cốt yếu nói lại phần trước, qua lời hỏi của Ngài Tu Bồ Đề: Làm thế nào để trụ tâm? Làm sao để hàng phục vọng tâm? Thuyết minh hai câu hỏi ấy một cách rõ ràng; lẽ ra chỉ cần nó hàng mà không cần nói trụ, vì hàng cũng giống như trụ; ấy là hàng phục tâm vọng niệm kia, trụ tức là đã định tâm kia vậy! Thế nên Đức Phật Như Lai nói những người tu hành mà vọng tưởng còn nhiều thì tâm Bồ Đề không thể nào thường trú. Ai muốn tâm Bồ Đề thường trù, phải xa lìa vọng tưởng. Muốn diệt nó, ta phải ở trong hoàn cảnh phân biệt tất cả tướng. Trong phần căn bản mặc dù nói Pháp-tử hàn gphục vọng tâm, song lại chú trọng phần thể nhập Nhất Thiết Trí và dĩ nhiên phải xa lìa bốn tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Hơn nữa, trong phần chánh, không nói đến các thiện nam và thiện nữ, mà chỉ đề cập đến các vị Đại Bồ Tát, bởi vì các Bồ Tát là những đệ tử đã thành đạo, tâm thể rộng lớn, thuyết minh phương pháp, rồi dặn dò các Bồ Tát phải trừ vi tế vô minh, còn các thiện nam, tín nữ cũng phải theo cách Phật chỉ dạy mà hàng phục vọng tâm, khi hàng phục được vọng tâm thì chắc chắn tâm Bồ Đề thường trú.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bải Ngài Tu Bồ Đề: các vị Đại Bồ Tát, nên theo phương pháp mà tôi đã nói vừa rồi để hàng phục vọng tâm, mới có thể thường trú được tâm Bồ Đề.

Phương pháp hàng phục vọng tâm là phải xa lìa bốn tướng; nếu muốn xa lìa bốn tướng, phải phân biệt tất cả các tướng. Hiện tại, tướng chúng sanh, ta thấy có 10 loại:

Noãn sanh: Loài sinh trong trứng, như các loại gà, vịt, chim, rùa, rắn.

Thai sanh: Loài sinh con, như người, súc, rồng, tiên. v.v…

Thấp sanh: Chỗ ẩm ướt hòa hợp, cảm sanh, như các loài côn trùng, hay như loài tôm, cá, ở dưới nước.

Hóa sanh: Hóa kiếp ứng hiện, cổi lốt đổi hình, như các loài quỷ, loài súc, loài bướm bởi sâu mà hóa sanh, loài dơi bởi chuột mà hóa sanh.

Loài hữu sắc: Chỉ cho những loài “hưu cửu tinh minh”, tức là các loài có hình sắc.

Loài vô sắc: Chỉ các loài “không tán tiêu trầm; loài không hình sắc như ma, yêu…

Loài hữu tưởng: Chỉ cho các loài thần kỳ, quỷ quái.

Loài vô tưởng: Chỉ cho những loài tinh thần hóa thành đấy, cây, vàng, đá.

Loài phi hữu tưởng: Chỉ cho các loài mùa đông là côn trùng, mùa hạ là cỏ cây.

Loài phi vô tưởng: Chỉ cho các loài minh linh sinh trong đất, trong tổ.

Trên đả nói mười loại chúng sanh tràn đầy vọng tâm đều không phải chơn tâm của Bồ Tát. Đức Phật Như Lai muốn cho tất cả chúng sinh diệt hết nghiệp chướng, độ họ thoát khỏi cảnh luân hồi trong 6 đường (trời, người, a tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục) không sanh không tử vào được ngôi làng vô vi thanh tịnh. Đức Phật, tuy đã diệt độ, nhưng mà tất cả chúng sanh không hạn lượng, không tính kể, không biên tế, thật sự không có một chúng sanh nào cùng Bồ Tát đầy đủ tâm Bồ Đề này, hiện tại bị vọng tâm điên đảo, khi diệt hết vọng tâm điên đảo thì trở lại thanh tịnh cứu kính, ấy là trở về bản tánh sẳn có của mỗi người. Tánh mình thì mình độ được, không thể nhờ đức Phật độ mình được. Ngài chỉ vạch con đường cho chúng sanh: Đức Phật lại bảo Ngài Tu Bồ Đề: nếu chúng sanh nghĩ rằng có được ta diệt độ cho, tức là đã chấp bốn tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả; lại bị vọng tưởng đầy dẫy trong tự tánh, như thế làm sao gọi là Vô Dư Niết Bàn, chắc chắn không phải là Bồ Tát.

Theo đạo lý ấy, chính là Bồ Tát chưa tỏ ngộ, trở lại làm chúng sinh. Bồ Tát đã giác ngộ mới là Bồ Tát. Thật tại thì mình phải do tự mình độ, Đức Như Lai chỉ giáo con đường cho chúng sanh, nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Như Lai diệt độ cho chúng sinh, nếu nghĩ như thế tức là chấp trước bốn tướng. Con đường giải thoát còn xa.

 

Thơ 3

 Kiên tâm trì chí công phu,

Chúng sinh mường loại bị tù khổ sai,

Bởi vì cố chấp ai ai,

Ngã, nhơn, thọ, giả, các loài chúng sinh.

 

Bồ Tát còn có trọng khinh,

Chưa phải Bồ Tát trong tình bao la,

Vô dư diệt độ hằng sa,

Dức trừ bốn tướng mới là viên dung.

 

 

 

PHẦN VÔ TRỤ DIỀU HÀNH THỨ 4

 

PHÂN GIẢI:

Diệu hành là gì? Nghĩa là hành động không còn thấy năng hành và sở hành. Ấy là hành mà không thấy ta và người, mặc dù thật hành mà không chấp trước sự hành của mình. Ai chuyển được thức thứ 7 (Manavijnana) trở thành bình đẳng tánh trí thì việc hành động không có trụ trước, tâm mới thanh tịnh, chu biến pháp giới. Do đó, nên dùng diệu lý để hành mà không hành, trụ mà không trụ, chưa tới bậc Cửu Địa (Thiện Huệ Địa) và bậc Thập Địa (Pháp Vân Địa) thì khó biết lý nhiệm mầu ấy.

Thế nên, Tứ Thiền (Ly Sanh hỷ Lạc Địa; Định Sanh Hỷ Lạc Địal Ly Hỷ Diệu Lạc Địa và Xả Niệm Thanh Tịnh Địa).

Tứ Định (Không vô biên xứ định; Thức vô biên xứ định; Vô sở hữu xứ định và Phi phi tưởng xứ định) đều không thể thoát ly những khổ hành ấm. Nay nói vô trụ diệu hành, chính là nói bố thì không trước tướng. Phàm vật gì có hình tướng đều là hư vọng. Trụ tướng tức là trụ hư vọng; nếu không trụ tướng thì không bao giờ bị vọng cảnh khuấy động. Ai không bị vọng cảnh lay động thì đâu có sanh diệt, thể thanh tịnh tự nhiên tròn sáng; trụ được  cái không trụ mới thật là chơn diệu hành.

Lại nữa, ông Tu Bồ Đề, Bồ Tát đối với sự vật, phải không trụ trước để làm việc bố thí. Bố thí là một trong lục độ của Phật Pháp. Có 3 thứ bố thí:

1/ Tài thí

2/ Pháp thí: Tinh tiến không mỏi mệt, thiền định không gián đoạn, trí tuệ không điên đảo, thuyết pháp độ sinh, gọi là Pháp thí.

3/ Vô úy thí: Phàm người nào ở trong hoàn cảnh sợ hãi, lo âu, ta có cách gì giúp cho họ hết sợ, nhất là sợ chết, dù gian lao ta cũng không nản, miễn sao họ đừng sợ hãi, gọi đó là thí vô úy.

Ấy là không trụ nơi sắc mà bố thí, không trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát phải bố thí như thế, không nên trụ nơi tướng. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát không trụ tướng bố thí, phước đức kia không thể nghĩ lường. Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Phương đông hư không, hư không, giữa thái hư không có mảy may cách ngại, trống rỗng bao la, tâm suy nghĩ không thể nào đo lường được, có thể nghĩ lường được không?

  1. Không thể nào nghĩ lường được, bạch Thế Tôn.
  2. Này Tu Bồ Đề! Phương nam, tây, bắc, bốn góc, thượng phương, hạ phương, hư không có thể nghĩ lường được không?
  3. Không thể được, bạch Thế Tôn.
  4. Tu Bồ Đề! Bồ Tát không trụ tướng bố thí, phước đức cũng lại như thế, không thể nghĩ bàn. Tu Bồ Đề! Bồ Tát phải y như giáo pháp mà trụ.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản nói về phương pháp trụ tâm. Vô sở trụ là thế nào? Trong không trụ ta, ngoài không trụ người, giữa không trụ những vật đã thí. Như một tấm gương đồng soi cảnh vật, tùy cảnh đến thì hiện, cảnh đi thì thôi, cần phải xa lìa trần tướng của chúng sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là sáu trần. Vì sao chỉ nói bố thí mà không nói các độ khác? Bởi vì trong Phật Pháp có lục độ:

  1. Bố thí
  2. Trì giới,
  3. Nhẫn nhục,
  4. Tinh tấn,
  5. Thiền định và
  6. Trí tuệ.

Bố thí độ xan tham; trì giới thì độ phá giới; nhẫn nhục thì độ giận tức, tinh tấn thì độ biếng nhác, thiền định thì độ tán loạn, trí tuệ thì độ ngu si.

Việc tốt nhất trên đời là việc từ thiện, nhưng việc từ thiện, đương nhiên phải dùng bố thí trước tiên. Bố Thí là một trong những phương pháp lục độ. Có tâm niệm bố thí cao thượng, đối với người có thể thật hành bố thí rồi xả bỏ, đối vời tự mình có thể ngăn ngừa việc tham lam, bỏn xẻn. Tâm niệm Bồ Tát thật hành bố thí, không nên trước tướng; nếu tâm còn trước tướng thì bị sa vào mắt đắm sắc, tai ưa tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc dục và pháp (những gì bị tâm suy nghĩ, tưởng tượng nói ra có chổ có cảnh so lường phân biệt, nó nằm trong tánh vọng của chúng sanh, bị các cảnh bên ngoài, vọng tâm tham lam đắm trước? bởi vì nhãn căn cùng sắc nghiệp rất là trọng yếu. Đức Phật Như Lai sợ người tu hành đời sau sanh lòng nghi, nói bố thí vốn là cầu phước, nếu không trụ tướng, chính là không, làm sao có phước? Vì thế, nên Đức Phật lại nói, nếu Bồ Tát không trụ tướng mà bố thí, thì phước đức kia mới là vĩ đại.

Tóm lại, Phật nói Bồ Tát bố thí, tuy chuyên vì cầu phước đức, nhưng nếu tâm còn trước tướng để cầu phước đức, mặc dù phước đức có, nhưng không vĩ đại. Nếu xa lìa chấp tướng thì phước đức kia không thể nghĩ lường. Nói đến phước đức không thể nghĩ lường, thường ưa mượn thể thức 10 phương hư không vì nó vĩ đại không thể nghĩ lường. Từ đông nhìn, người ta cho kia là tây; từ nam nhìn người ta cho kia là bắc, từ thượng nhìn, ta cho kia là hạ. từ hạn nhìn lên, ta cho là thượng v.v…đông, tây, nam, bắc, danh xưng do người ta quy định; sự thật thì không có phương hướng nào nhứt định…chỉ có khi sáu căn viên thông rồi thì bốn phương, tám hướng đều vô ngại

GIẢNG NGHỈA:

Đức Phật lại bảo; Tu Bồ Đề! Bồ Tát đối với Pháp vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải nên bố thí không chấp tướng. Được như thế chắc chắn sáu căn thanh tịnh, ly khai các trần tướng, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (người thí quên thí, kẻ thọ quên thọ, vật hay thí bị thí đều quên). Giống như chỗ khác nói tam luân thể không, thí không, thọ không, và vật không). Đức Phật lại nói: Tu Bồ Đế Bồ Tát không nên trụ tướng mà bố thí, vì sao? Bởi vì trước tướng bố thí, là bị hạn cuộc có tướng, thật tại tướng chúng sanh bình đẳng như vi trần, dù có phước bải cũng chẳng được bao lâu. Nếu không trước tướng bố thí, hay đủ tam luân không tịch. Đó thật là vô tướng, công đức không thể nào nghĩ bàn. Đức Phật lại bảo: Tu Bồ Đề! Ông nói phương đông, hư không có ngằn mé không? Dùng tâm có suy nghĩ được không?

Tu Bồ Đề bạch; 

–        Thưa Thế Tôn! Không thể nghĩ lường được.

Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Ông nói các phương nam, tây, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, kể cả thượng phương và hạ phương, thành hư không của chín phương, ông nghĩ các phương ấy nó có ngằn mé không? Tâm ông có thể đo lường được không?

Tu Bồ Đề bạch:

–        Thưa Thế Tôn! Không thể nào nghĩ lường được.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên theo lời chỉ giáo của tôi để khéo hộ niệm, khéo dặn dò; như thế hàng phục vọng tâm, như thế làm cho tâm thường trú. Được như vậy, khỏi tìm cầu tâm nào khác cả.

Thơ 4

Thật hành chiếu tỏa không trung,

Ba la bố thí hình dung pháp mầu,

Sáu trần giải tòa chớ cầu,

Tâm không tức Phật đứng đầu thiên kinh.

Mười phương, bốn hướng thinh thinh,

Tánh chẳng vướng bận, oai linh không cùng,

Bồ Đề đại giác đại hùng,

Y giáo hành sự, tôn sùng lời khuyên!

 

PHẦN THẬT THẤY NHƯ LÝ THỨ 5

 

PHÂN GIẢI:

Như là chơn như. Mười pháp giới (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh Văn, Trời, A Tu La, Người, Súc sanh, Ngạ quỉ, Địa ngục) không có một cõi nào là thật pháp cả; nếu có thật pháp đều là tướng hư vọng. Như lý thế nào? Chính là không thể nào dùng tướng hư vọng để thấy Như Lai, nên theo lý “vô tướng, đều tướng’ mới thấy được Như Lai.

Thế nào gọi là vô tướng?

–        Tất cả hình tướng thế gian đều là cảnh vọng, vốn không có thật, nên gọi là vô tướng.

Thế nào gọi là đều tướng?

–        Pháp thập như (tướng như, tánh như, thể như, lực như, tác như, nhơn như, duyên như, quả như, báo như, bổn mạc cứu cánh như) trong pháp giới, ứng dụng vô phương, tự tại vô ngại, cho nên gọi là đều tướng.

Thật thấy là sao?

–        Thấy tự tính Như Lai, đã ngộ được thể tánh không, thế nên, không thể dùng tướng thấy Như Lai.

Thật thấy như lý là sao?

–        Không thể chấp tướng mà cũng không thể ly tướng. Bởi vì chấp tướng đều là hư vọng, còn ly tướng thì bị rơi vào đoạn diệt, cần phải không chấp, không ly, mặc dù có tướng mà tâm không trụ tướng, liền thấy các tướng mà phi tướng, không khéo thấy được Như Lai.

–        Tu Bồ Đề! Ý Ông nghĩ sao? Có thể dùng thân tướng, thân tướng, đây là chỉ cho sắc thân. Thấy được Như Lai không? Không thể thấy, bạch Thế Tôn! Không thể dùng thân tướng, thấy được Như lai, vì cớ sao? Như Lai đã nói thân tướng, tức không phải thân tướng. Không phải thân tướng tức là Pháp thân vậy. Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề, phàm đã có tướng, đều là hư vọng, nếu thấy các tướng mà phi được tướng, tức là Như Lai. Như Lai là chơn Phật tánh của ta.

KHÁI LUẬN:

Phần chính yếu, phá vọng tưởng tức là phương pháp hàng phục vọng tâm, đã giải nói ở phần trước, ý nói Bồ Tát phải đúng cách phát tâm Bồ Đề, ngoài ra các thiện nam tín nữ cũng nên phát tâm như thế. Nhưng Đức Như Lai lại lo trong hàng đệ tử, thời gian giản nói, giống như đã giác ngộ, nhưng đối cảnh vẫn còn mê lầm nên mới hỏi gạn Ngài Tu Bồ Đề, dùng thân tướng có thể thấy được Phật Như Lai không? để xem Tu Bồ Đề có nhận lãnh được đạo lý hàng phục vọng tâm và lý tưởng không? Ngài Tu Bồ Đề nghe qua câu hỏi ấy lãnh hội được ý Phật, do đó, nên Ngài đáp rằng: Không thể dùng thân tướng (sắc thân) mà thấy được Như Lai. Bởi vì thân Phật đều không phải là sắc thân, ấy là Pháp thân, là chơn không vô tướng, làm sao dùng nhục nhãn mà nhìn thấy được hình thể của Như Lai? Chẳng những phàm phu không thể thấy, mà chính là hàng Nhị Thừa (Thinh Văn, Duyên Giác) và Bồ Tát cũng khó mà thấy được. Trong Thiền Tôn  thường nói: “Trúc xanh, sen trắng đều là pháp thân; cúng vàng, phượng đỏ đều là Bát Nhã”. Ấy chính là nói pháp thân giáp khắp cõi hư không, cỏ cây, hoa là đều là ở trong biển tánh Như Lai. Mượng trúc xanh để hiển lộ thể pháp thân, mà trúc xanh cũng chính là pháp thân. Đem cúc vàng để biểu hiện diệu dụng Bát Nhã, nhưng cúc vàng cũng đâu có gì khác với Bát Nhã! Đức Như Lai qua câu trả lời, Ngài biết Tu Bồ Đề đã ngộ được đạo lý hàng phục vọng tâm và lý tướng; vì thế, nên Đức Phật lại bảo Ngài Tu Bồ Đề rằng chẳng những tướng Phật như thế, mà là tất cả tướng đã có trong thế gian, đều là giả hợp chuyển biến. Nếu thấy có các tướng, như hay biết để phá bản tướng “Phi ngã chơn thật” quyết không có lỗi “chấp tướng mê chơn”. Tự mình hay hồi quang phản chiếu, liền thấy trong sắc thân, có Như Lai tự tánh pháp thân, tùy mỗi chỗ mà hiển hiện. Trong tập san Định Ký chép: “chấp tướng mê chơn, đối diện, nhưng xa nghìn dặm;  tâm như hư không đối với vật thể, trời đất một nhà”. Nên biết rằng Như Lai không phải tìm cầu biên ngoài mà được. Lại nữa, phân tách, dùng hai chữ “chư tướng”, vì là hình tướng một có, một không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v…có thể tính đến số trăm, tức là chỉ tướng đa số mà nói…

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo Ông Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Người tu hành có thể thấy được hình thể Như Lai không?

Tu Bồ Đề bạch rằng:

–        Thưa Thế Tôn! Không thể thấy được hình thể của Như Lai. Ấy là tại duyên cớ gì?

Bởi vì Từ Phụ đã nói, thân tướng tức không phải là thân tướng, mà là pháp tướng, vì thế mà không thể thấy.

Đức Phật lại bảo Tu Bồ Đề:

–        Chẳng những thế, phàm những vật gì có hình tướng trong thế gian này đều là hư vọng không thật; nếu hiểu biết phá được các chấp, hiểu đạo lý các tướng đểu là hư vọng, thì chắc chắn thấy được pháp tướng Như Lai.

 

Thơ 5:

Phật hỏi Thiện Hiện căn nguyên,

Ý Ông suy nghĩ, tinh chuyên thế nào?

Dùng thân tưởng để ra vào,

Như Lai hiện tướng có chào được không?

 

Bạch Thế Tôn, thật khó mong!

Vì Phật đã nói, tức không thân hình,

Phàm đã có tướng hành trình,

Ấy là không phải thân hình Như Lai!

 

 

PHẦN CHÁNH TÍN HY HỮU THỨ 6

PHÂN GIẢI:

Phần trước đã nói không thể dùng thân tường để thấy Như Lai, lý nầy rất sâu! Đức Phật sợ chúng sinh nghi ngờ Phật là hư vô, do đó đem Bát Nhã thậm thâm “không trụ tướng” để giải bày cho rõ, khiến chúng sanh đoạn lòng nghi, sanh chánh tinh vậy. Đây sợ nghi từ đoạn văn trước có hai đoạn nói “không trụ tướng bố thí” và “không thể dùng thân tướng mà thấy Như Lai”. Bởi vì phàm phu bố thí, đều là trụ tướng bố thí. Phàm phu quán Phật đều là trụ tướng quán Phật; phàm phu khó mà hiểu biết bố thí không trụ tướng, công đức của nó rất là vĩ đại. Quán Phật không trụ tướng, trí tuệ rất là sâu sắc. Do đó, Phật dạy người dùng nhơn vô tướng, để khế hợp với quả vô tướng, nhơn sâu quả sâu. Nghĩa này khó tin khó hiểu, nên gọi là chánh tín hy hữu.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: thưa Thế Tôn! Vả lại có chúng sinh, được nghe lời nói, câu văn như thế, có sinh lòng tin thật không? Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: Chớ nói như vậy, sau 500 năm, Như Lai diệt độ, có người nào trì giới tu phước, trí giới, giữ gìn giới luật. Trì giới có ba cách:

1)     Nhiếp luật nghi giới, phàm đi, ở, ngồi, nằm, ra vào, qua lại, nghiêm trì thân tâm, gọi là luật nghi giới.

2)     Nhiếp thiện giới, phàm việc thiện, chính phải làm, gọi đó là nhiếp thiện pháp giới.

3)     Nhiêu ích hữu tình giới, phát tâm tu hành muốn dứt khổ của chúng sinh, ban vui đến chúng sinh, phải ra làm các việc lợi ích cho tất cả chúng sinh, gọi là nhiêu hữu ích tình giới.

Đối với những câu văn này, hay sinh lòng chánh tín, cho là sự thật, phải biết người ấy, không phải cùng một Đức Phật, hai Đức Phật, ba, bốn, năm Đức Phật trồng căn lành, mà là đã cùng với vô lượng nghìn muôn Đức Phật trong các căn lành, nghe đến câu văn ấy, cho đến một niệm, sinh lòng tinh tín. Tu Bồ Đề! Như Lai đều biết đều thấy, các chúng sinh ấy, đặng phước đức vô lượng như thế. Phước đức, người tin kinh này, gọi là được phước đức. Người hưởng phước báo trong thế gian, gọi là phước báo. Vì sao? Vì các chúng sinh ấy, không có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng. Phi pháp tức là không pháp, giống như ngoan không. Vì sao? Vì các chúng sinh ấy, không có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng cũng vô phi (đều) pháp tướng. Phi pháp tức là không pháp, giống như ngoan không. Vì sao? Vì các chúng sanh ấy, nếu tâm chấp tướng, tức là đắm trước ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả. Ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả, trong trời đất các tình trạng đã có của chúng sinh, đều không ngoài bốn tướng này. Trừ ngoài bốn tướng này, lại còn có pháp tướng, phi pháp tướng và đoạn diệt tướng, các tướng số này đều là tướng của tâm. Lại nữa, cũng như thân tướng, 32 tướng, nhất hiệp tướng, ấy là hình tướng vậy. Nhưng hình tướng cũng tùy tâm lưu xuất, tâm vô tướng làm sao có hình. Chỉ sanh tướng chân thật, chính là cảnh giác ngộ. Nếu chấp pháp tướng, tức là chấp ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả. Vì sao? Vì nếu chấp tướng phi pháp, tức là còn chấp ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả, vì thế không nên chấp pháp mà cũng chẳng nên chấp phi pháp. Do nghĩa này nên đức Như Lai thường nói: Tỳ kheo các ông , phải biết tôi nói pháp, thí dụ như chiếc bè quí báu, chánh pháp còn phải xả bỏ, huống là phi pháp.

KHÁI LUẬN:

Phân giải về căn bản, nhân vì Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật Như Lai nói: “Nều thấy các tướng là phi tướng, tức là thấy được Như Lai”. Câu nói này là để dành cho Bồ Tát (tức là những chúng sinh đầy đủ tánh giác) những hạng đã tín thọ phụng hành. Nhưng rất lo sợ cho các chúng phàm phu ở đời mạt pháp, nghe lý nhiệm mầu trên khó sinh lòng chánh tín. Tại sao? Bởi vì Phật Như Lai ở trong phần thứ 4 đã nói Bồ Tát không trụ tướng bố thí, ở trong phần thứ 5, Phật nói không có sắc tướng. Do đó, nên không thể nào tránh khỏi cho người đời sau nghi ngờ Phật cùng Pháp, cả hai đều là vô tướng. Nếu không có Phật, không có Pháp, thì nhơn cùng pháp đều dứt, như thế là không có nhơ quả, có tin được không? Thế nên Ngài Tu Bồ Đề sợ e chúng sinh trong đòi mạt pháp, nghe nói đến giáo lý vô tướng chân không này, khó sanh lòng tín niệm, mà Ngài phải đương cơ, phát lên câu hỏi ấy. Tiếp theo đó Phật Như Lai bảo Ngài Tu Bồ Đề rằng, lý nhiệm mầu là như thế, những người sinh tín niệm, không phải là hạng tầm thường. Phải dứt trừ các điều ác (trì giới) vâng làm những việc lành, mới hay sinh tín niệm. Vì sao vậy? Vì tâm niệm của mỗi người, trong mỗi tích tắc có 4 tướng sanh, trụ, dị, và diệt. Mỗi niệm, mỗi niệm không dừng trụ. Trong một khảy móng tay có 90 sát na, trong mỗi sát na có 900 sinh diệt, rất tế nhị mới nhận ra điểm này. Chúng sinh bỏ giác tánh chạy theo trần cảnh, hễ suy nghĩ là hiện ra tướng trần lao, đã bị mê căn, trần, thức 18 ranh giới, đắm trước vui theo ngũ dục (tài,sắc, danh, thực, thùy); lại bị năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ngăn chi, ai muốn một niệm được sinh lòng tịnh tín, thật là khó khăn! Nay nghe chương cú của Kinh này, người nào sanh được lòng tin thanh tịnh, người đó chính là hạng người lành có đại căn cơ, hay tín nhiệm đạo lý kia. Bời vì hạt giống lành ấy đã gieo trồng trong 8 thức tâm điền từ lâu, không luận thời gian nào, hạt giống ấy dễ dàng phát hiện.

Trái lại, những ai tạo tội ác tầy trời, không bao giờ nghĩ đến hai chữ sám hối, thì làm sao có được chữ Tín trong pháp mầu vô lượng. Tín là bà mẹ sinh ra các công đức lành, các đức Phật Bồ Tát từ khi mới phát tâm đến lục thành đạo đều nhờ chánh tín mà được kết quả. Chúng sinh đều có tín căn ấy, ai mà phát hiện được nó thì tương lai sẽ có kết quả lành. Thế nên một niệm tín tâm phát khởi, công đức kia không thể nghĩ lường. Do đó, Phật Như Lai chỉ thẳng chổ thấy, biết của chúng sinh. Mặc dù nói chúng sinh có vô lượng, nhưng đều ở trong biển tánh Như Lai, chúng sanh nhứt cử, nhứt động, Như Lai đều thấy đều biết.

Lại nữa, bảo chúng sanh một niệm sanh tâm tịnh tịn, thị bị chấp bốn tướng (ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng), pháp tướng (chấp nơi ngôn thuyết, chương cú Kinh này) và phi pháp tướng (bị sa vào trầm không vô kiến), tức là không thể trở về chơn tâm được. Nhơn vì chấp tướng sở hữu, thì bị trống không trong bản giác, chúng sanh nếu có tâm “chấp tướng” tức là bị vướng trong 4 tướng: nếu để tâm “chấp pháp tướng”, cũng là bị chìm trong 4 tướng. Nếu chấp “phi pháp tướng” cũng là bị chìm trong 4 tướng. Nếu chấp “Phi pháp tướng” lại bị thiên về ngoan không, sa vào đọan kiến. Thế nên, đức Phật dạy: “Muốn ngộ đạo lý chơn không vô tướng thì không nên chấp pháp mà cũng không nên chấp phi pháp; cả hai đều không nên chấp trước, còn chấp là bị trệ ngại nơi pháp. Trong bản tánh vốn không có pháp, còn chấp phi pháp thì hoàn toàn trệ ngại nơi ngoan không. Trên thật tế, chúng ta không thể chẳng nhờ pháp mà ngộ được bản tánh diệu minh. Do đó mà dùng thuyền bè để thí dụ. Muốn qua khỏi không mê, phải bỏ thuyền bè mới lên được bờ giác. Ý chính nói đã chứng ngộ được bản tánh thì không có chi gọi là pháp; nếu chưa ngộ bản tánh, trở lại chấp là phi pháp (chơn không vô tướng) thế là không thể qua được con đường sinh tử luân hồi. Trong Thiền Tôn thường ghi: “Ông chưa có thiền trượng, tôi sẽ cho ông thiền trượng; nếu ông đã được thiền trượng, thì tôi phải thu thiện trượng của ông”. Lời dạy người đời xả pháp mà cũng dẹp luôn pháp chấp vậy.

Ngài Phó Đại Sĩ đã nói:

“Qua sông thì phái nhờ bè,

Đến bờ mà lại dùng ghe làm gì?”

Đây, chính là ý muốn nói nương nhờ pháp bên ngoài để ngộ được chân tánh bên trong.

GIẢNG NGHĨA:

Ngài Tu Bồ Đề hướng đến Phật Như Lai: Bạch Thế Tôn! Từ Phụ của con đã nói không trụ tướng bố thí: lại nói thêm rằng nếu thấy các tướng mà phi tướng tức là thấy được Như Lai. Ấy là diệu lý chơn không bô tướng. Những người nào có căn cơ đại thừa, tự họ tín thọ phụng hành, nhưng đại đa số chúng sinh, nghe thấy lời pháp ấy, không họ có sinh lòng thật tín không?

Phật Như Lai bảo Ngài Tu Bồ Đề:

–     Ông không nên nói như thế, pháp mà ta đã nói, tuy là thâm diệu thật, há không có người toan tín sao? Không những hiện tiền có người tin, cho đến tương lai vẫn có người tinh. Chính sau khi ta diện độ 500 năm, có những người giữ gìn giới luật, rộng tu phúc điền, hay tin một chương, một câu trong Kinh này, tự họ tin cho là sự thật. Như thế biết chắc rằng những vị ấy căn lành sâu dầy, không những họ trồng căn lành trong 1, 2, 3, 4, 5,  đức Phật, mà là họ đã gieo căn lành trong vô lượng đức Phật. Người mà có căn lành ấy, chỉ nghe một câu Kinh, một bài kệ trong Kinh này, cũng được tâm thần thanh tịnh không loạn động, lòng tin chắc chắn không nghi ngờ gì cả. Tu Bồ Đề! Như Lai dùng Phật tuệ cùng Phật nhãn thấu suốt các chúng sanh. Có lòng tịnh tín, khai thông Phật tánh, rõ biết phước đức của chúng sinh trong mười phưong hư không. Làm sao mà biết được? Chính vì các chúng sanh ấy căn lành đã thuần thục, đã ngộ được đạo lý chơn không vô tướng, đã xa lìa được bốn tướng: ngã, nhơ, chúng sanh và thọ giả; cũng không chấp pháp tướng (chấp trước chương cú Kinh này, thật tin ngôn thuyết kia, rơi vào thấy có thật pháp tướng); mà cũng chẵng chấp phi pháp tướng (chấp trươc nơi trậm không trệ tịch, sa vào vô kiến, ấy là phi pháp tướng). Vì các duyên cớ ấy, nên chúng sanh, nếu tâm còn chấp trước, tức là còn 4 tướng ngã, nhơn, chúng sinh và thọ giả, nếu ai chấp trước chương cú Kinh này, cũng bị rơi vào 4 tướng.

–     Nêú tâm chấp thiên-không, thì bị cố chấp người chết thân tâm đều đoạn diệt, về nơi đoạn kiến lầm lẫn một cái không không, thì đâu có hơn gì kẻ chấp 4 tướng. Vì thế cho nên phải buông bỏ cả hai; Không nên chấp có mà cũng chẳng nên chấp không, mới có thể ngộ nhập tánh chơn không, tự nhiên xa lìa các pháp. Nhơn lý nhiệm mầu này, mà Phật Như Lai giảng nói Kinh Kim Cang cũng là việc “bất đắc dĩ”. Nhờ pháp yếu Kim Cang này, nên các ông mới lìa tướng thấy tánh, vượt lên bờ giải thoát, đưa các ông qua khỏi biển khổ sanh tử. Giả như các ông thấy được bản tánh của chính mình, chứng biết thời gian an vui của Niết Bàn, pháp đó cũng nên xả bỏ, xem đó như là vô dụng. Cũng như thì dụ sau đây, kẻ bện trúc là bè để đưa người qua sông, khi đến bờ rồi, bè kia vô dụng. Giống như chánh pháp của Phật còn phải phóng hạ, huống chi là văn tự thế gian không phải là Phật pháp, sao lại cố chấp không xả ư?

Thơ 6:

Tu Bồ Đề! Hỏi đúng sai,

Câu văn, lời nói có ai tín thành?

Phật dạy chi tiết đành rành,

Năm trăm năm nữa, thật hành vẫn linh.

 

Những ai trì giới tụng Kinh,

Căn lành kiếp trước, hiện hình giúp cho,

Trải bao đức Phật đã lo,

Đời nay tinh tiến, nguyên do xả trừ.

 

Nếu cò bốn tướng khư khư,

Làm sao giải thoát chơn như xuất triền,

Giống như qua biển dùng thuyền,

Đến giờ cập bến, ta liền bước lên1

 

PHẦN VÔ ĐẮC, VÔ THUYẾT THỨ 7

PHÂN GIẢI:

Phần trước đã nói Phật không thể thấy, Pháp không thể chứng, Phật đã không thể thấy, thì các Kinh điển do ai nói ra? Pháp đã không thể chứng, thì ai được đắc pháp ư? Các điểm trên chắc chắn kẻ phàm phu sẽ nghi vấn, cho là vật có thể được thì gọi là đắc, pháp có thể chứng thì gọi là ngộ. Thù bất tri, pháp làm sao mà đối diện, làm sao mà có thể thấy được (pháp đây là chỉ cho chân lý), không thể nào so sánh với vật chất hữu tình được. Phật pháp đã không thể đối diện, không thể thấy thì làm sao mà có thể “được” ư? Lại có hạng người thông minh gọi đó phải dùng tâm mới nhận được. Nhưng tâm ấy cũng là một cái ngã chấp vô hình. Gọi đó là năng tri chướng, lại cũng gọi đó là lý chướng. Sự chướng thì chướng ngại cho phàm phu; lý chướng thì chướng ngại cho Bồ Tát. Nay nói “Vô đắc”, chính là sự lý hai chướng đều phá vậy. Khi chưa giác ngộ phải nhờ ngôn thuyết, khi đã giác ngộ thì ngôn thuyết đều “phi”. Những pháp Như Lai đã nói, có lúc nói có, có thời nói không đều là nhơn bịnh cho thuốc, đều không có pháp nhất định. Nếu là tùy lời nói sanh kiến giải, chấp trước có không, đều là chứng bịnh pháp chấp, chỉ có ngôn thuyết, đều không thật nghĩa. Nay nói “vô thuyết”, chính là để phá chướng ngôn ngữ văn tự. Thế nên trong Kinh có bài tụng:

 

“Có tâm đều là vọng,

Không chấp mới là chân,

Nếu ngộ phi phi pháp,

Tiêu diêu ra sáu trần”.

 

Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có chứng đặng bật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không? Như Lai đã chó thuyết pháp không? – Tu Bồ Đề thưa: “Như con hiểu nghĩa của Phật đã nói không có pháp nhứt định, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; cũng không có pháp quyết định mà Như Lai đã nói, vì sao? Pháp Như Lai đã nói đêù không thể chấp, không thể nói, phi pháp và không phi pháp. Lý do vì sao? Tất cả hiền thánh, hiền thánh. Hiền là ai? Như các vị chứng Tu Đà Hoàn cho đến A La Hớn. Còn Thánh tức là Phật. Tất cả Hiền Thánh là nói đến Hiền Thánh trong tam thừa”

1)     Thinh Văn Thừa: Y theo pháp môn tứ đế: Khổ, tập, diệt, đạo; quán sát nghe tiếng của Phật nói pháp, tu hành được giải thoát.

2)     Duyên Giác Thừa: Nương theo pháp môn 12 nhân duyên, không thầy chỉ dạy, tự ngộ đạo lý  nhiệm mầu.

3)     Bồ Tát Thừa: Y theo pháp môn lục độ mà được giải thoát yên vui, đều dùng pháp vô vi, pháp vô vi là giác tính tự nhiên, không thể nương nhờ mà được. Thế nên, pháp vô vi chính là đạo Vô Thượng Bồ Đề, là Niết Bàn, là Như Lai, là Vô Tướng, là Vô Trụ cho đến Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật v.v…mặc dù có các danh xưng, đều là ý tứ của pháp vô vi. Trái lại là pháp hữu vi, tức pháp thế gian, còn pháp vô vì là pháp xuất thế gian. Xưa nay có một ít ngưòi tu hành, chấp láy hai chữ vô vi, nhận làm không tịch, rồi mới huyền nói diệu, tự cho là học Phật. Sự thật đó chỉ là những hạng người bắt gió theo bóng, hoang mê không thể nào luận nói hết được mà có sai khác. Sai khác, là nói ý tứ cao thấp không đồng, cũng như voi, ngựa, thỏ lội qua sông. Voi thì ung dung tự tại lội qua, ngựa thì lội qua bị nước ngập ngang đầu; thỏ thì phải bơi trên mặt nước là lội qua. Lai cũng như ba loại chim bay lươn trên không, có con bay trước, có loài bay sau. Nói đến nước sông thì không có cạn, sâu; luận đến không gian đều không có trước, sau, nhưng vì chân của loài thú thì có ngắn có dài, cánh của các loài chim có mạnh có yếu. Thí dụ trên để cho chúng ta biết pháp vô vi cũng như hư không, cũng như nước dưới dòng sông. Chỉ vì người tu hành, căn tánh lợi, độn khác nhau, thế nên có ra sự phân biệt của tam thừa hiền thánh.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản chính để nối phần trước, nói lên vấn đề ly tướng, muốn cho hàng đệ tử lãnh ngộ Kinh văn, đối với các pháp không nên trụ trước để thực hành đạo lý bố thí. Xưa nay trong giác tánh, vốn không có bốn tướng, không pháp tướng và phi pháp tướng, do đó Phật Như Lai trong phần thứ 6 đem chiếc bè ra để làm thí dụ, thuyết minh pháp cùng phi pháp đều không nên chấp. Nhưng Đức Phật Như Lai lại lo sợ hành đệ tử nghi ngờ, cho rằng pháp cùng phi pháp đã không thể chấp thủ, tại sao Đức Như Lai tự Ngài phải dày công tu tập mới chứng được quả Chánh Giác Bồ Đề? Hiện tại trong nhân gian cùng trên trời đã có 16 pháp hội, giảng rộng nghĩa lý Bát Nhã. Theo đây mà nhận xét thì Phật Pháp có thủ có thuyết, vì sao mà dạy chúng sanh không chấp thủ, không có nói pháp, do đó nên dễ sinh nghi lầm. Vì vậy Đức Phật Như Lai dùng câu hỏiNhư Lai có chứng đặng bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hay không? (Như Lai đã có thuyết pháp không? . Hai câu trên để thí nghiệm Ngài Tu Bồ Đề thật đã có lãnh hội được ý của Như Lai chưa? Vì đã lãnh hội, nên Ngài bạch rằng, đức Từ Phụ nói thí dụ chiếc bè, con đẵ hiểu rõ, chưa qua sông thì chấp có bè, nhưng khi đã  qua rồi thì xả tất cả. Do đây mà suy luận, thủ cùng xả đâu có pháp nhứt định, vì biết không có pháp nhứt định, nên gọi là Bồ Đề. Cũng không có pháp gì nhứt định đáng nói; pháp vô thượng bồ đề đều do giác tánh tự nhiên của ta, không thể do ai khác làm ra. Chẳng những Đức Như Lai như thế, mà cả tam thừa Thánh Hiền cũng do có sự sai khác về căn tánh lợi hay độn, ngộ có cạn và sâu, thành công từ ấy mà chia ra có chậm và mau. Vì thế nên Ngài Văn Thù khen ngợi cư sĩ Duy Ma Cật: “Cho đến không có ngôn ngữ văn tự. ấy mới thật là pháp môn bất nhi”. Nên biết rằng Như lai không trụ pháp mầu, vốn ly khai ngôn ngữ văn tự, dù là một cũng không sở đắc. Chỉ vì lợi ích chúng sinh, nên không ngại hiện khởi các thứ hình tướng ngôn ngữ, khiến mọi người quán sát hình tướng, khởi tâm cung kính, nghe pháp liễu ngộ lý mầu. Nếu người có trí tuệ, tức ngôn ngữ, tức danh tướng, ly danh tướng, biết đặng tức không đặng, biết nói tức không nói, như vậy mới ngộ đước “Trung đạo đệ nhất nghĩa đế”

GIẢNG NGHĨA:

  Đức Phật gọi Ngài Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Như Lai thiệt có được Bồ Đề (chánh giác) không? Như Lai quả thật có nói pháp gì nhất định không? Tu Bồ Đề bạch rằng: Như con hiểu ý Phật đã nói, không có pháp nhất định gọi là Bồ Đề; cũng không có pháp nhất định để nói. Như vậy là thế nào? Chính vì Từ Phụ Như Lai, những pháp Ngài đã nói là pháp Vô Thượng Bồ Đề, phải dùng tâm mà liễu ngộ, không thể dùng sắc tướng mà thủ chứng, để chó thể hội ý, cũng không thể dùng lời mà nói được. Những lời phi pháp mà đức Từ Phụ ta nói (tuy có mà không), hay là phi phi pháp (tuy không mà có). Các duyên cớ ấy, chẳng những Từ Phụ Như Lai ta, mà tất cả các bậc Hiền Thánh đều dùng pháp vô vi ấy tự tu, chẳng qua đắc đạo cạn thì gọi là Hiền, hoặc nhờ ngôn thuyết chương cú, rồi sau đó tự ngộ. Những bậc đắc đạo sâu gọi là Thánh, đốn tu đốn ngộ. Thực tế, sự thành công tuy một, nhưng vì căn tánh có lợi và độn, chỗ ngộ phải có cạn, có sâu sai khác; thế nên sự thành công có chậm và mau không đồng vậy.

Thơ 7

Tu Bồ Đề! Ông chớ quên,

Như Lai có chứng bậc trên thượng thừa?

Như Lai đã nói pháp chưa?

Chân thật hồi đáp cho vừa đại căn!

 

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

Quả không có chứng, có năng bao giờ?

Như Lai thuyết pháp tùy cơ,

Không vướng, không bận, thân sơ giải trừ!

 

Vì sao ta phải suy tư,

Từ Hiền đến Thánh vô sư đều dùng,

Con đường giải thoát vô cùng,

Sai khác là tại đóng khung mỗi loài.

 

 

PHẦN Y PHÁP XUẤT SANH, THỨ 8

PHÂN GIẢI:

Tất cả pháp hữu vi trong thế gian, đều từ vọng tâm sinh khởi, nên nói tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm là tâm thể, pháp là tâm tướng, tâm tưóng có sinh diệt, nhưng bản thể của tâm thì  không sinh diệt. Bản thể của tâm nó trạm nhiên thường trú không dời đổi. Nếu dùng chân tâm thường trú, bỗng có vọng kiến thì trái mất bản thể, rồi chuyển thành nghiệp thức. Từ vọng khởi vọng, tinh minh ngoại cảnh, chạy theo sắc theo tiếng, tạo nghiệp chịu các điều khổ lụy. Mê lầm của chúng sanh, trước chấp pháp ngã, sau chấp nhơn ngã, bị hai chấp này, bỗng nhiên cáo tri dùng nhơn vô tướng, để mà hợp với quả vô tướng. Lý Bát Nhã thậm thâm này. Bồ Tát chưa phá pháp “ngã chấp” khó mà rõ được lý này, huống chi là phàm phu chưa phá “nhơn ngã cháp ư?” Chúng sinh từ vô thỉ kiếp trở lại, tấp khí quá sâu dày, mỗi chỗ mỗi nơi đều bị nghiệp lực làm chủ. Nghiệp trước chưa trừ, lại tạo nghiệp sau, càng tạo càng sâu, dù có căn bản trí, nếu không nhờ sức Bát Nhã, không thể nào ra khỏi chướng tế phiền não ấy? Phật Như Lai khổ khẩu bà tâm, thuyết một bộ Kim Cương Bát Nhã này, thật có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Các thứ phá chướng, nếu nói cạn thì để giáo hóa chúng sinh, còn nói sâu là để khai ngộ cho hàng Bồ Tát. Chúng Sinh ở đời vị lai, như ai hay y theo lời dạy tu hành, thọ trì Kinh này, liện hay vượt ra con đường sinh tử luân hồi. Vì Bát Nhã là pháp môn vô thượng, nên các đức Phật thành bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều nhờ sức Bát Nhã, cho nên nói rằng “y pháp xuất sanh”.

–        Tu Bồ Đề! Ý Ông nghĩ như thế nào? Nếu có người đem bảy thứ quí báu, đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới. Đại thiên là thế nào? Dưới khắp cả bầu trời, gọi là tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới, gọi đó là tiểu thiên. Một ngàn trung thiên thế giới, gọi đó là đại thiên. Thế giới là phương vị giới hạn của thế gian. Bảy món báu là vàng, bạc, ngọc lưu ly, ngọc pha lê, ngọc mã não, ngọc sanh hô, ngọc chân châu vậy, đem ra bố thí, người ấy có đặng nhiều phước đức không? Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng”

–        Bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều. Vì sao? Vì phước đức ấy, tức không phải là tánh phước đức. Thế nên Như Lai nói nhiều phước đức.

Đức Phật nói:

–        Tu Bồ Đề! nếu lại có người ở trong Kinh này thọ trì sức chánh tín gọi là thọ, thọ rồi không bao giớ quên. Sức chánh niệm gọi là trì, trì lâu mà không nhàm chán. Thọ trì là vâng giữ giáo pháp không bao giờ trái, ý tứ kết niệm không biếng nhác. Cho đến một bài kệ bốn câu v.v…bài kệ bốn câu trong phần thứ 26: “Nếu dùng sắc thấy ta, đem tiếng giọng cầu ta, người ấy hành tà đạo, không thể thấy Như Lai”. Và 4 câu nữa ở trong phần thứ 32; “Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn, bào, ảnh, như sương cũng như chớp, nên quán như thế đó”. Vì người khác giảng nói, phước đức này hơn phước đức bố thí trước, vì sao? Tu Bồ Đề! Bởi vì tất cả chư Phật và các Ngài chứng được bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều nhờ Kinh này mà được. Tu Bồ Đề! Nếu nói là Phật Pháp, tức chưa phải là Phật pháp. Trước đã nói pháp vô vi, sau dùng ý nói không có pháp gì có thể thuyết, ấy là một mối phù hợp, chẳng phải Phật, chẳng phải pháp, ấy là bố thí không trụ tướng vậy.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản, chỉ rõ chánh tôn trong Kinh Văn, đó là pháp Bồ Đề của chư Phật, đều từ trong ấy mà lưu xuất. Lại nữa, pháp chấp Phật pháp, không phải Phật pháp, ấy mới gọi là Phật pháp, để chỉ rõ tâm người, tự có chơn Phật. Nhưng phương pháp chỉ ra, lại từ trong sự so lường hình tướng về phước đức hữu vi, nói ra một cách cẩn thận. Vì sợ người đời nghi trước nói pháp vô thượng bồ đề (pháp vô vi) đã không thể dùng sắc tướng để mà chứng, lại không thể đem khẩu thiệt mà nói, giống như pháp ấy không thể nói. Phật không thể thành, chúng ta, người tu hành, bó tay đành ngồi trong hầm vô vi, thế có gì đem lợi lạc không?

Do đó, nên đức Như Lai từ trong tình người, nói ra tiểu quả, trước đem bố thí hữu tướng (nếu ai dùng 7 thứ ngọc báu, bố thí khắp cả ba nghìn đại thiên thế giới), để so sánh phước đức. Sau Như Lai lại nói phước đức hữu tướng kia, không bằng người dùng phước đức vô tướng, bằng cách thọ trì một bài kệ bốn câu; bởi vì bố thí hữu tướng, đều là việc thiện hữu vi, tức là hưởng hết phước báo, phải bị đọa lạc trong biển trầm luân. Nếu ai thật hành pháp Bát Nhã, hoặc hiểu rõ bài kệ bốn câu nói ra, hoặc vì người khác giải nói nghĩa sâu Bát Nhã, phước báu ấy, không có khi nào cùng tận. Thế nên, chư Tổ thường dạy dùng của bố thí, không bằng đem pháp bố thí. Tài thí có hết, pháp thí không cùng tận. Vì cớ ấy, nên tất cả chư Phật đều từ trong Bát Nhã (Diệu Trí Tuệ) sanh ra. Cũng do lý ấy mà có một câu “Phật pháp tức không phải Phật pháp”. để đã phá “Bát Nhã là mẹ sinh ra chư Phật, Cổ Đức thường nói: “Mẫu nhơn tử quý”, là ý này vậy. Bát Nhã hay sinh ra Phật pháp, nhưng Bát Nhã không phải là Phật Pháp. Vì vậy nói Phật pháp tức không phải là Phật pháp. Đức Lão Tử nói: “Đại đạo không tên, gắng gượng gọi là đào”. Chúng ta nên hiểu rằng, vốn không có Phật pháp, chẳng qua gắng gượng, tạm gọi đó là Phật pháp mà thôi! Lai đem so sánh phước đức hữu tướng cùng phước đức vô tướng, trước sau có 9 lần vấn đáp. Trong phần này, mới là vấn đáp lần thứ nhứt

  GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói: “Tu Bồ Đế ý ông thế nào? Nếu có ai dùng vàng bạc v.v…bảy thứ quý báu, đầy cả đại thiên thế giới đem ra bố thí, những người ấy có đặng nhiều phước đức không?

Tu Bồ Đề đáp: “Bạch Thế Tôn! Tự nhiên có rất nhiều, Vì duyên có gì? Chính vì phước đức ấy, nhờ bố thí hữu tướng, ở trong bản tánh chúng ta phước đức cùng trí tuệ, hoàn toàn không quan hệ, rốt ráo là không có tánh phước đức. Từ phụ ta thường nói kết quả của sự bố thí hữu tướng cùng vô tướng. Phật Như Lai còn nói: “Nếu có người nào, đối với Kinh Kim Cang Bát Nhã này, tùy tiện thọ trì, hoặc một quyển hay nửa quyển, hoặc một chương hay nửa chương, cho đến tối thiểu dùng bài kệ bốn câu (trong phần thứ 26 và 32 đều có kệ mỗi kệ 4 câu); hoặc vì người diễn nói ý tứ của Kinh, thì đươc phước đức nhiều vô lượng; so sánh với sự bố thí của báu đầy cả đại thiên thế giới, bố thí của báu phước đức ít hơn! Đức Phật lại dạy”

–        Tu Bồ Đề! Vì duyên cớ ấy, nên tất cả chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật đã thành tựu, đều từ Kinh này lưu xuất. Nên nói Bát Nhã là mẹ của chưu Phật.

Đức Như Lai còn dạy:

–        Tu Bồ Đề! thế nhưng Bát Nhã ấy đều không phải là Phật pháp.

Ý nói xưa nay không có danh tự Phật pháp, chẳng qua là tạm mượn danh tự Phật pháp để khai ngộ cho chúng sinh, dùng một danh tự để kêu gọi mà thôi! Cho nên nói rằng ai nói có Phật Pháp tức không phải Phật pháp.

Thơ 8

Ý ông đã có đoái hoài?

Người cho của báu trong ngoài đại thiên,

Bố thí giáp khắp gieo duyên,

Phước đức nhiều ít, xin khuyên trả lời,

 

Bạch Thế Tôn! Chắc nhiều rồi,

Bởi vì phước đức, không thời gian đâu,

Những ai trì tụng bống câu,

Vì người giảng nói, trước sau thế nào?

 

Thí Pháp mới thật là cao

Chư Phật chứng đắc, nhờ vào Kinh Văn,

Chỉ cần dứt bỏ tính “năng” (đối với sỡ”

Pháp Phật còn xả, huống rằng pháp ma.

 

PHẦN NHỨT TƯỚNG VÔ TƯỚNG THỨ 9

PHÂN GIẢI:

Trước nói không nên chấp trước Phật pháp: Đây nói cũng không nên trước tướng về quả Phật. Tu Bồ Đề, nhân ngày xưa Phật vì hàng Thinh Văn nói pháp Tứ Đế, vì Đức Phật đã nói pháp, nên người ta nghĩ quyết có pháp để được, y theo pháp mà tu, chắc chắn được chứng quả. Đây đều là ý nói phân biệt, theo lời nói sanh kiến giải, đều bị rơi vào “năng tri” và “sở tri”. Thù bất tri thật tướng bát nhã, chẳng phải tướng “một”, chẳng phải tướng “khác”, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, không phải phi vô tướng, không phải phi hữu tướng, chẳng phải không tướng “một”, chẳng phải không tướng “khác”; chẳng phải “có không” đều là tướng, cũng chẳng phải “một khác” đều là tướng, lìa tất cả tướng, cũng chẳng phải “một khác” đều là tướng, lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp, phàm vật gì đã có hình tướng đều là hư vọng. Phá tướng phải phá tận cùng, tức là diệt trừ hết các vọng. Khi các vọng dứt trừ, thì phần chơn chắc chắn tự hiện.

-Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào, vị Tu Đà Hoàn, có nghĩ như thế này; Tu Đà Hoàn là dịch âm tiếng Phạn (Srotaapanna). Trung Hoa dịch  là Nhập Lưu, vì căn của họ không vào trần cảnh, mà đã vào giòng Thánh. Lại nữa, vì mới dự vào giòng Thánh nhân, nên cũng được dịch là Dự Lưu; mặc dù thân còn đang ở cõi trần, nhưng tâm đã vào giòng Thánh. Sỡ dĩ không nhiễm tướng trạng là vì họ đã đẩy lùi sáu trần xong. Ấy là thể tánh của sơ quả. Ta đã đặng quả Tu Đà Hoàn không?

Tu Bồ Đề thưa:

– Không phải vậy, bạch Thế Tôn! Vì cớ sao? Bởi vì Tu Đà Hoàn gọi là Nhập Lưu, nhưng không có chỗ nhập, không nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ấy gọi là Tu Đà Hoàn.

– Tu Bồ Đề!  Ý Ông nghĩ sao? Vị Tư Đà Hàm có nghĩ như thế này. Tư Đà Hàm là dịch âm tiếng Phạn (Sakradagami). Trung Hoa dịch là Nhất Vãng Lai. Xét trong giáo pháp Nguyên Thỉ, nói tư hoặc ở dục giới có chia ra 9 phẩm, phải chia ra 7 lần mới phá hết, đó là 7 lần sinh tử mới có thể giải thoát.

Mỗi lần sinh tử, sanh lên cỏi Trời, khi hưởng hết phước báo, liền chuyển sinh trong nhân gian, thọ xong phước báo nhân gian, lại sanh lên cỏi Trời. Như thế đó 6 lần sinh tử, toan tính phá trừ 6 phẩm tư hoặc. Còn lại 3 phẩm tàn-hoặc chưa hết, phải 1 lần sanh tử để phá trừ cho sạch hoặc nghiệp, rồi lại sinh lên cõi Trời, lần chót thọ sinh nhân gian, đoạn sạch vi tế hoặc. Đây là thể tánh quả thứ hai. Ta đặng quả Tu Đà Hàm chăng?

Tu Bồ Đề thưa rằng:

– Chẳng như vậy, bạch Thế Tôn! Vì cớ sao? Vì Tư Đà Hàm, gọi là Nhứt Vãng Lai, nhưng thật không vãng lai. Ấy gọi là Tư Đà Hàm.

– Tu Bồ Đề! Ý Ông nghĩ sao? A Na Hàm có thường nghĩ như vầy, A Na Hàm là tiếng Phạn (Anagami). Trung Hoa dịch là Bất Lai. Quả vị này đã đoạn 9 phẩm tư hoặc, tâm thường an trụ trong tứ thiền, sanh lên cõi Trời Tịnh Cư, không bao giờ trở lại cõi dục thọ sanh. Ấy là thể tánh của quả thứ ba. Ta đặng quả A Na Hàm chăng?

Tu Bồ Đề thưa:

– Chẳng như vậy, bạch Thế Tôn! Vì cớ sao? A Na Hàm gọi là Bất Lai, nhưng kỳ thật đều đến, nên gọi là A Na Hàm.

– Tu Bồ Đề, Ý Ông nghĩ như thế nào? A La Hớn, hay nghĩ như thế này, A La Hớn là tiếng Phạn (Araham). Trung Hoa dịch là Vô Sanh; chính là không sanh không diệt, đã vượt ra 6 nẻo luân hồi, không còn thọ sanh, được nhân thên cúng dường. Đây là thể tánh của quả thứ tư.          Địa vì này không nói là quả , mà nói là đạo, bởi vì đã gần với con đường giác ngộ vậy. Ta có đặng đạo A La Hớn không?

Tu Bồ Đề thưa:

– Chẳng như vậy, bạch Thế Tôn! Vì cớ sao? Vì không có pháp nào gọi là A La Hớn. Bạch Thế Tôn! Nếu A La Hớn có nghĩ, ta được đạo A La Hớn, tức là còn chấp ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả. Bạch Thế Tôn! Phật nói: Ta đặng vô tránh tam muội, vô tránh tức là không có tâm cạnh tranh. Tam muội là ý nói đã đến chỗ tinh diệu, trong loài người thật là số một. Ấy là bậc A La Hớn ly dục thứ nhất. Ly dục là lìa ái dục ở cõi dục. Bạch Thế Tôn! Con không suy nghĩ, con đã là A La Hớn ly dục. Bạch Thế Tôn! Nếu có nghĩ con đã được đạo A La Hớn, thì Thế Tôn không nói Tu Bồ Đề là người ưa hạnh A Lan Nhã, ưa là ái, là ý tứ ưa muốn. A Lan Nhã là dịch âm tiếng Phạn Aranya, Trung Hoa dịch là vô tịnh, cũng dịch là tịch tĩnh, là không cố chấp nhơn và ngã. Như Bách Nạp thiền sư đã nói: “Vô Tịnh là sao? Kinh Niết Bàn nói: Tu Bồ Đề trụ nơi hư không, nếu có chúng sinh chê tôi đứng yên, thì tôi sẽ suốt ngày ngồi đoan trang không đứng; nếu có ai chê tôi ngồi, thì tôi sẽ suốt ngày đứng yên không dời chỗ, tức là nghĩa này. Hạnh là sao? Suy nghĩ trong tâm gọi là niệm, thấy nơi hành động gọi là hạnh. Vì Tu Bồ Dề thật không sở hành, nên gọi là Tu Bồ Đề, ấy là ưa hạnh A Lan Nhã.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản, nhân vì phần trước nói ra Phật pháp tức không phải là Phật Pháp. Đức Phật còn sợ chúng đệ tử chưa thấu rõ đạo lý ấy. Ngài muốn chúng đệ tử, xứng cơ ngộ lý “trụ tâm vô trụ”. Đều nhơn pháp nguyên thỉ, cậu nệ nơi danh ngôn, tập khí, chấp có thật pháp. Do đó, một mặt Ngài muốn từ pháp thấp, hướng dẫn chúng đệ tử lãnh ngộ; mặt khác, Phật biết Tu Bồ Đề đã hoàn thành tựu đạo của Nguyên Thỉ, Ngài muốn chính từ lòi nói của Tu Bồ Đề nói ra kết quả của minh đã chứng ngộ. Nguyên lai pháp Đại Thừa, là phương pháp tu hành tích cực, tự lợi, lợi tha, thật hành đạo Bồ Tát, đầy đủ “đồng thể đại bi”, đem tâm “vô duyên đại từ”. Pháp tiểu quả là pháp tu hành tiêu cực, ở nơi phần tự liễu sanh tử. Thời cổ Ấn Độ, nước giàu dân yên, trăm họ hưởng cảnh an nhàn. Đức Phật ra đời nhằm quốc độ ấy, không thể không thuận lòng người, nên phải ứng dụng pháp tiểu quả. Vì thế phần căn bản phải nói, nhân vì phần trước đã nói đến Phật cùng pháp đều phi, sợ chúng đệ tử nghi ngờ cho rằng Phật không thể cầu, pháp không thể chứng. Vậy thì tiến thủ cũng là vô ích. Do đó, mới nhờ chỗ liễu ngộ tiểu quả của Tu Bồ Đề, vì đại chúng khai thông, khiến cho toàn chúng đệ tử lãnh ngộ. Lại nữa trong 4 quả đều có chữ ‘KHÔNG” (Không chỗ vào, Không qua lại, Không chẳng đến và không có pháp), chính là Pháp vô vi. Chỗ khác nói tất cả hiền thánh, đều nhờ pháp vô vi mà có sai khác, ở đây có thể chứng 4 quả Phật; cũng như đức Khổng Tử thì có bốn giáo. Nhưng bốn quả Phật đã nói tự có thứ tự:

Thứ nhất, không vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là biết dục phải tránh. Đây là quả đầu tiên.

Thứ hai, còn một lản qua lại, là không trở lại cảnh dục, tức là quả đã thu.

Thứ ba, là bất lai, đã lìa bỏ cảnh dục, tức là quả đã thành thục.

Thứ tư, là ly dục, anh nhiên diệt trừ tính dục, tức là đã thu thập được.

LỜI PHỤ THUỘC:

Phật Pháp từ ngàn xưa đã chia ra hai, ấy là hiển giáo và mật giáo. Hiển giáo lại chia ra tiểu thặng và đại thặng. Tiểu thặng  lại chia ra hai tôn là Câu Xá và Thành Phật. Đại Thặng cũng chia ra: Tam Luận Tôn, Pháp Tướng Tôn, Thiên Thai Tôn, Hoa Nghiêm Tôn, Luật Tôn, Thiền Tôn, Tịnh Độ Tôn có cả thảy 7 thứ. Mật Giáo lại chia ra 2 thứ là Kim Cang Bộ cùng Thai Tạng Bộ.

Câu Xá Tôn của Tiểu Thặng, lập nhân vị, quả vị ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Về Thanh Văn thừa, cần phải học và thật hành pháp Tứ Đế. Ai đi nhanh thì được kết quả trong vòng ba đời, vị nào đi chậm thì đến 60 kiếp mới được đắc quả. Phương tiện tu hành kia lại có 7, đắc quả có 4, xin nêu rõ trong bản đồ như sau:

Thinh Văn Thừa: Có 7 phương tiện tu hành

1)     Ngũ đình tâm quán: Dùng 5 phép quán để đình chỉ 5 vọng tâm:

  1. Quán bất tịnh để đối trị vọng tâm tham dục.
  2. Quán từ bi để đối trị vọng tâm giận tức
  3. Quán nhân duyên để đối trị vọng tâm ngu si.
  4. Quán giới phân biệt để đối trị ngã kiến và
  5. Quán sổ tức để đối trị vọng tâm tán loạn.

2)     Biết tướng niệm xứ: Phân biệt thật hành tứ niệm xứ:

  1. Quán thân bất tịnh,
  2. Quán thọ là khổ,
  3. Quán tâ vô thường,
  4. Quán pháp vô ngã.

3)     Tổng tướng niệm xứ: Thật hành 4 niệm xứ chung hằng nghĩ thân này bất tịnh, là khổ, vô thường và vô ngã.

4)     Noãn: Đối với chân không, phải liễu ngộ tương tợ, chuyển mê lầm phiền não đặng phần vị trong Phật pháp. Cũng như vò cây lấy lữa, trước phải dược sức nóng. Nên gọi là noãn vị.

5)     Đảnh: Lúc nào cũng hiểu biết tăng tiến tương tợ, định quán phân minh, ở trên noãn vị, như lên trên đỉnh núi, nhìn thấy 4 phương, một cánh rõ ràng. Nên gọi là đảnh vị.

6)     Nhẫn: Lại tăng tiến rõ ràng pháp Tứ Đế, liền được quyết định, kham nhẫn các dục lạc, nên gọi là nhẫn vị.

7)     Thế Đệ Nhất: Tăng tiến thật hành pháp Tứ Đế, dần dần thấy pháp tánh, mặc dù chưa đắc thánh đạo, nhưng ở thế gian xưng là đệ nhất. Nên gọi là Thế Đệ Nhất.

Đắc quả có 4:

1)     Quả Tu Đà Hoàn; Sau khi được Thế Đệ Nhất, trí vô lậu pháp sinh, đoạn hết kiến hoặc 3 cõi, gõi là quả Tu Đà Hoàn; lại cũng gọi là Dự Lưu, tức là Sơ Quả.

2)     Quả Tư Đà Hàm: Từ đây đoạn ít phần tư hoặc, còn qua lại nơi cõi dục. Nên gọi là quả Tư Đà Hàm. Lại cũng gọi là quả Nhứt Lai. Đây cũng là Nhị Quả.

3)     Quả A Na Hàm: Đoạn hết tư hoạc ở dục giới, nên không tái sinh ở cõi Dục. Gọi là quả A Na Hàm. Cũng gọi là quả Bất Lai, là Tam Quả.

4)     Quả A La Hớn: Nếu toàn đoạn tư hoặc trong 3 cõi, vượt ra tam giới. Gọi là quả A La Hớn.

Ấy là tứ quả.

Ba cõi: Cõi Dục, cõi Sắc, và cõi Vô Sắc.

Năm cách quán đình chỉ vọng tâm: biết tướng niệm xứ, tổng tướng niệm xứ, gọi là Tam Hiền. Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế Đệ Nhất Pháp, gọi là Tứ Thiện Căn. Công Tam Hiền cùng Tứ Thiện Căn, gọi là 7 phương tiện. Chính là nhơn vị Thinh Văn Thừa, Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hớn là quả vị Thinh Văn Thừa. Kiến hoặc, tư hoặc, đồng thuộc phiền não. Nếu phân biệt, phần ở ý thức, khởi các phân biệt, mê nơi chân lý, rồi khởi ra ngã kiến, tà kiến v.v…Gọi là kiến hoặc. Năm thức đối với năm trần cảnh (Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, đối với 5 cảnh có tác dụng thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc), mê nơi sự tướng, mà khởi ra tham ái v.v…Gọi là Tư Hoặc. Kiến Hoặc làm chướng ngại sự giác ngộ, tư hoặc làm chướng ngại sự giải thoát. Thế nên ai muốn ngộ chơn lý Tứ Đế, cần phải đoạn Kiến Hoặc; ai muốn ra khỏi 3 cõi để vào Niết Bàn phải đoạn Tư Hoặc, không thể không rõ biết việc ấy. Bậc vô lậu trí phải ngộ chân lý ( Hữu lậu, vô lậu) một trong hai trí, lìa tất cả phiễn não lỗi lầm, trí tuệ thanh tịnh không cấu nhiễm.  

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo” Tu Bồ Đề! Ý tứ ông nghĩ như thế nào? Tu Đà Hoàn khi tu hành, trước có tự nghĩ mình sẽ đặng sở quả Thinh Văn không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Không thể nào có được niệm sơ quả; vì sao? Vì Tu Đà Hoàn tuy không thể đốn ngộ chơn không, hãy còn chế ngự dục vọng. Đẩy lùi cảnh giới sáu trần, đi vào cửa vô tướng, được vào dòng thánh nhơn, nên gọi là Nhập Lưu.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Tư Đà Hàm, đương khi tu hành, trước có tự nghĩ mình sẽ đặng quả thứ 2 của Thinh Văn không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Không thể nào có ý nghĩ đặng quả thứ 2. Vì sao? Bởi vì tâm cảnh của Tư Đà Hàm, đả di đến chỗ tịch tĩnh, nhưng mắt còn thấy cảnh. Tâm còn một sanh một diệt. Nên gọi là Nhất Vãng Lai. Thật thì không có sinh diệt thứ hai, niệm trước vừa khởi, niệm sau tức lìa, tâm khong trước tướng sinh diệt. Do đó nên không có thật vãng lai.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? A Na Hàm đương khi tu hành, trước tự nghĩ mình sẽ đặng quả thứ 3 của Thinh Văn không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Không thể nào có ý nghĩ đặng quả thứ 3. Vì sao? Vì A Na Hàm tâm không vô ngã, đã đoạn tư hoặc của trần thức, trong không có dục tâm, ngoài không dục cảnh, tập định đã sâu, sáu trần và bốn tướng mỗi mỗi đều ngộ lý không, nên chơn tướng được thể hiện. Do đó, nên gọi là Bất Lai, thật lại hằng không đến cõi Dục thọ sanh nữa.

Đức Phật lại hỏi:

–        Tu Bồ Đề! A La Hớn đang khi tu hành, có nghĩ mình sẽ đặng quả thứ 4 của Thinh Văn không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Không thể nào có được niệm về quả thứ tư. Vì sao? Vì thật sự A La Hớn, tâm đã không, tướng diệt, không có niệm đắc đạo thì làm gì có nghĩ đắc quả. Thật không có pháp gì mà gọi là A La Hớn cả. Nếu A La Hớn mà còn nghĩ đắc đạo, tức là còn trước 4 tướng, thì không thể nào gọi là chánh hiệu A La Hớn.

Tu Bồ Đề bách đức Thế Tôn! Từ Phụ đã từng nói qua cho con rõ, nên riêng con suốt ngày ở trong tất cả pháp, không khởi một tí gì phiền não, cũng không não hại một chúng sinh, không có tâm cạnh tranh (vô tánh), đã đến chỗ tinh diệu (tam muội). Trong hành thượng túc đệ tử Phật, Tu Bồ Đề giải không đệ nhứt, là một vị đã dứt nhân ngã, đoạn tuyệt niệm này. Bật A La Hớn ly dục số một.

Tu Bồ Đề lại bạch rằng:

–        Thưa Thế Tôn! Con tuy được Từ Phụ xưng khen như thế, con không bao giờ nghĩ đến danh từ A La Hớn.

Tu Bồ Đề lại thưa tiếp:

–        Nếu con có nghĩ chứng đặng A La Hớn, tức là còn bị sanh 1 vọng niệm, thì làm gì con được lục dục đốn không. Từ Phụ Thế Tôn thường nói Tu Bồ Đề là vị ưa thật hành hạnh tịch tĩnh ( A Lan Nhã). Là vì Tu Bồ Đề con, nguồn tâm “vô sở đắc”, cũng “Vô sở hành”, một mảy trần cũng không chấp trước. Do đó mà được gọi là Tu Bồ Đề. Vì thế cho nên Từ Phụ Thế Tôn của con, cho chon là người ưa hạnh tịch tĩnh.

  Thơ 9:

Tu Bồ Đề có nghĩ ra?

Bốn quả cao thấp, thật là có không?

Trả lời phủ nhận ngoài trong,

Nếu chấp, đâu phải thong dong xuất trần.

 

Sơ quả, nhị quả có phần,

Tam quả, tứ quả ân cần đi lên,

Đi lên, chức tước phải quên,

Còn biết chứng quả, bấp bênh siêu huyền!

 

Thế nên Thiện Hiện tâm thiền,

Ở nơi tịch tĩnh cần chuyên từ hòa,

Sở hành, sở chứng đều xa,

Một mầu xanh đậm, Ta Bà chứa chan!

 

 

PHẦN TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ THỨ 10

PHÂN GIẢI:

Trên nói 4 quả không thể được; đây nói thánh quả cũng không thể được, nếu có chỗ được đều là trụ tướng. Chỗ nghi vấn của phàm phu, đã là 4 quả không thể đươc, tại sao lại có danh xưng 4 quả? Thánh quả nếu không chỗ được, thì tại sao lại nói đặng vô sinh pháp nhẫn? Đó là bịnh trụ tướng của phàm phu. Phải biết danh xưng của Thánh Hiền đều là giả danh. Toàn là mượn pháp hữu vi, để chỉ rõ pháp vô vi; do đó trong Bát Nhã mỗi điễm đều pháp chấp, vì sợ phàm phu tham trước pháp hữu vi. Chỗ khác nói trang nghiêm tịnh độ là thế nào? Không phải sắc tướng trang nghiêm đã thấy trong tầm mắt của phàm phu (như xây chùa toàn bằng vàng, ngọc, cẩm thạch để trang hoàng, mà gọi là trang nghiêm) chính là nói pháp thân phi tướng, không có hình chơn độ, không hình chất có thể thấy được, không sắc tướng có thể xem được, ấy là pháp tánh trang nghiêm huy hoàng.

Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai xưa ở chỗ Phật Nhiên Đăng, Phật Nhiên Đăng (Dipamkara Buddha) vì khi mới sinh, bên thân có yến sáng như đèn, nên cũng gọi là Định Quang, là thầy thọ ký Phật Như Lai. Đối với pháp có chỗ nào được không?

–        Bạch Thế Tôn! Chẳng như vậy, Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, đối với pháp thật không chỗ được.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật không?

–        Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì sao? Bởi vì trang nghiêm cõi Phật, tức không phải trang nghiêm. Ấy mới gọi là trang nghiêm! Thế nên, Tu Bồ Đề các vị Đại Bồ Tát, phải như thế nầy để sanh tâm thanh tịnh là không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, phải “không sở trụ”, mới sanh tâm kia. Không sở trụ là không trụ trước ở một chỗ, trệ ngại không khai hóa được. Bởi vì tâm này, thần thánh cũng khó lường, biến hóa vô cùng. Ấy là chân tịnh độ vậy. Tâm không thanh tịnh thì theo cảnh dời đổi, buông lung khó mà kiểm soát, liền đắm trước 6 trần, rồi phần nhiều do trụ trước. Ông Tu Bồ Đề! Ví như có người thân như núi Tu Di lớn, núi Tu Di (Sumeru) bề cao, chiều rộng 336 muôn dặm, là núi lớn hơn các núi, đem núi ấy để thí dụ sự cao lớn của thân hình người. Đây là lời giả thuyết; giống cũng như đã nói đem 7 thứ quý báu đầy cả 3.000 đại thiên thế giới, làm việc bố thí. Ý Ông nghĩ sao? Thân ấy có lớn không?

Tu Bồ Đề bạch rằng:

–        Rất lớn. thưa Thế Tôn! Vì sao? Vì Phật nói phi thân. Phi thân tức là pháp thân, chính là chơn tâm như như bất động. Trong Cổ Truyện đã nói: “Có hình trọn không lớn, không tướng mới là chân”. Cũng là ý nấy. Ấy mới gọi là Đại Thân.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản, Phật Như Lai nhơn vì lo ngại tâm sở đắc của các Bồ Tát, chưa dứt trừ hết, động thì trụ nơi pháp có, không sanh được tâm thanh tịnh. Do đó Như Lai hỏi con, xưa ở chỗ Phật Nhiên Đăng, tuy đặng quả Vô Thượng Bồ Đề, nhưng đối với pháp của Phật Nhiên Đăng bổn sư, có sở đắc không? Ý dẫn từ việc trước, để chứng minh Như Lai tự mình, đối với pháp thật không sở đắc. Nhơn vì Phật Như Lai, tuy ở chỗ Phật Nhiên Đăng bổn sư nghe pháp, chẳng qua chỉ là sự khai đạo của bổn sư mà thôi! Thật thì phải tự ngộ tự tu, đối với pháp thật không sở đắc. Đức Phật mặc dù đặt câu hỏi này, cốt yếu chỉ rõ pháp không sở đắc, là pháp tướng chân không. Kế đó lại hỏi Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật không? Ý chính muốn nói rõ trang nghiêm hay không trang nghiêm, là Phật tướng chân không. Giống như Phật cùng Pháp đều không, mới được sanh tâm thanh tịnh. Sanh tâm thanh tịnh, chính là sanh tâm Bồ Đề. Chánh pháp bồ đề, không thể đặng, không thể nói, vì thế người pháp tâm bồ đề, phát thẳng tâm thanh tịnh mà thôi! Nhưng tâm vốn là thanh tịnh, không có chỗ nào phát, chỉ sinh khởi thế thôi! Tâm thanh tịnh gọi rằng sanh, tâm lục trần gọi là sanh, có thể biết chơn tâm vọng tâm, vẫn do tâm ta tự sinh. Nhưng không chánh pháp Bồ Đề, làm sao còn được giác ngộ; nếu không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì làm sao chúng sinh bị chìm đắm.

Đức Phật nói đến điểm này, đã phân minh nói ra quả Phật, phải tìm trong tâm chúng sanh. Lại lo sợ chúng sinh xem thấy Phật Pháp quá rộng lớn, do đó, Đức Phật lại đem một thân cao lớn ra để thí dụ, và cho biết Núi Tu Di mặc dù lớn, nhưng sự cao lớn có hình tướng. Nhứ thế giớ 10 phương, cũng thành hư không, thế nên biết cái to lớn của núi Tu Di, thật ra không có gì là lớn cả. Dùng thí dụ trên là muốn khiến cho chúng sanh không thấy Phật Pháp mà chỉ thấy nhứt tâm; chơn chánh đến chỗ thanh tịnh, mới vào được chánh định bồ đề (vào chỗ chánh giác tinh diệu). Hoặc nói: Phật Như Lai ở trong phần thứ 7 (phần vô đắc vô thuyết), nhân vì muốn nêu rõ quả pháp ly tướng, từng hỏi qua “Như Lai có chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không? Như Lai có thuyết pháp không? Hơn nữa, trong phần căn bản lại còn hỏi, đối với pháp có sở đắc không? Nên biết lời hỏi trước là thuyết minh “pháp còn phải xả, huống là phi pháp”, nói rõ ý tứ độ sanh ly tướng”.

Tóm lại, trước câu hỏi trên quả Phật tự chứng Bồ Đề, nay hỏi trong nhơn Phật cầu đặng bồ đề. Ý tứ có sai khác, không có trùng lời hỏi vậy.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói: Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai trước kia ở chỗ Phật Nhiên Đăng, đối với pháp có sở đắc không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Từ Phụ khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, tự ngộ, tự tu, đối với pháp thật không sở đắc.

Đức Phật lại hỏi:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Bồ Tát ở trong cõi Phật làm các thiện duyên phước nghiệp có được trang nghiêm?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Không trang nghiêm. Bởi vì Từ Phụ đã nói không có hình tướng trang nghiêm, như vàng ròng làm đất, bảy món báu làm đài v.v…đó chỉ là danh từ gọi là trang nghiêm mà thôi!

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Sở dĩ các vị Đại Bồ Tát phải giữ như thế, một lòng không tán loạn, sanh tâm thanh tịnh, trên sự sanh tâm, không thể trụ sở sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu không như vậy thì bị ràng buộc nơi 6 trần, vọng niệm phát khởi, làm sao thanh tịnh được ư? Xưa nay tâm thanh tịnh (tánh giác), diệu trạn tròn sáng, tánh không chỗ trụ, như gương sáng lạng, vật đến thì chiếu, vật đi thì không. Vì thế mà không chỗ trụ, khả dĩ 10 phần thanh tịnh.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân như núi Tu Di lớn, ý ông nghĩ thế nào? Thân ấy có lớn không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Rất lớn, bạch Thế Tôn! Vì sao? Bởi vì thân ấy mặc dù lớn, nhưng có sanh có diệt, còn bị luân hồi, gắng gượng mà gọi là thân ấy lớn. Từ Phụ đã nói pháp thân phi tướng, mới là bản thân thanh tịnh, là chơn pháp thân. Tâm này bao phủ hư không, giáp khắp pháp giới, không tướng không trụ, chóng vào viên minh. Như thế, làm sao đem núi Tu Di mà có thể so sánh được? Đó mới gọi là thân lớn

Thơ 10:

Đức Phật tiếp tục hỏi han,

Nhiên Đăng Cổ Phật có ban pháp mầu?

Bồ Đề đáp:Ý rất sâu,

Pháp còn ban được còn đâu thượng thừa?

 

Phật hỏi Bồ Tát xa xưa,

Trang nghiêm cõi Phật, có vừa ý không?

Thiện Hiện lời đáp rất thông,

Trang nghiêm còn nói, hết hòng nghiêm trang.

 

Sâu xa chỉ tướng Kim Cang,

Không trụ trần cảnh, tâm an trí thiền,

“Ưng vô sở trụ” dứt liền,

Kim Cang sanh khởi về miền vô vi.

 

Thân có như núi Tu Di?

Bồ Đề giải đáp: Những gì Phật nêu,

Phi thân mới thật cao siêu,

Còn thân, còn chấp, còn nhiều trầm luân!

 

PHẦN VÔ VI THẮNG PHƯỚC THỨ 11

PHÂN GIẢI:

Phàm dùng pháp hữu vi bố thí, dù được phước báo, phước ấy cũng hết. Trái lại dùng pháp vô vi bố thí, sẽ được phước báo vô lượng vô biên. Hữu vi vô vi là pháp đối đãi. Vô vi không thể xa lìa hữu vi, ly khai hữu vi thì vô vi không hiển lộ. Hữu vi thật tại là vô vi, chân vô vi chính là hữu vi không trụ trước. Do đó, nên Đại Bồ Tát không trụ vô vi, không chấp hữu vi, mới rõ được thắng phước vô vi. Làm thế nào để không trụ pháp vô vi? Phàm ai thật hành tâm Bồ Tát nên quán tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, như huyễn hóa, như bọt nước, như bóng dáng, như sương mai, như điện chớp; thật hành pháp vô vi, sau khi nghe pháp phải hồi hướng bi, không chịu an trụ vô vi, phát tâm đại bi mà độ đời, bi trí vận dụng song phương, đem pháp “lục độ” nhiếp hóa chúng sinh, mặc dù nói là độ chúng sanh vô lượng vô biên, nhưng tâm lúc nào cũng không chấp năng độ và sở độ. Đó chính là không trụ vô vi mà thật hành hạnh Bồ Tát vậy. Thế nào gọi là pháp hữu vi không cùng tận? Phàm ai hành Bồ Tát hạnh phá sạch trần sa hoặc, tuy nói là quán chúng sanh vô lượng vô biên, nhưng khong giữ tâm nan độ, không cò tâm mỏi mệt buồn phiền. Hòa quang đồng thế tục, hóa thân nghìn trăm muôn ức, thường hành các việc độ chúng sinh. Chúng sinh vô tận, nguyện lực cũng vô cùng. Đó chính là pháp hữu vi không cùng tận, để thật hành đạo Bồ Tát. Tóm lại, là hữu vi mà không trụ hữu vi, ý tứ vô vi mà thật là vi. Bồ Tát hạnh hay làm công hạnh vô vi. Thế nên, nói lý vô vi phước đức vô lượng vô biên vậy.

–        Tu Bồ Đề! Như ở sông Hằng đã có số cát, số cát trong sông Hằng, sông Hằng là dịch tên, tiếng Ấn gọi là Ganga, từ phía tây của ao A Nậu Đạt (Anavatatapta) lưu xuất, chảy quanh 4.000 dặm, cát mịn như bột. Khi nói đến số nhiều, Đức Phật thường đem số cát sông này làm thí dụ; cũng thế lúc nào nói tới việc cao lớn, Phật thường mang núi Tu Di ra làm thí dụ, ý ông nghĩ sao? Số cát sông Hằng đó, có nhiều hay không?

Tu Bồ Đề thưa:

–        Rất là nhiều, bạch Thế Tôn! Chỉ các sông Hằng còn nhiều vô số, huống chi cát của nó.

–        Tu Bồ Đề! Ta nay hỏi thật ông, nếu có thiện nam, thiện nữ nào lấy 7 thứ của báu đầy như số cát sông Hằng, khắp 3.000 đại thiên thế giới, đem ra bố thí, được phước  có nhiều hay không?

Tu Bồ Đề thưa:

–        Bạch Thế Tôn! Rất là nhiều.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Nếu có thiện nam, thiện nữ nào, ở trong kinh này, cho đến thọ trì, một bài kệ 4 câu, vì người khác giảng nói. Phước đức này thù thắng hơn phước đức bố thí trước…

KHÁI LUẬN

Phần căn bản, Phật Như Lai phải theo lòng người thuyết pháp, khai thị so sánh tướng phước huệ lần thứ 2. Từ so lường phước đức dần dần nói đến chỗ phá tướng . Ấy là biểu hiện Phật Như Lai khổ tâm khéo lời khuyến dụ. Trong phần thứ 8 của Kinh này, đã nói đến việc bố thí, lấy một hạt cát đem làm một thế giới, để thí dụ đem bảy thứ quý báu khắp 3.000 đại thiên thế giới, dùng số nhiều đầy dẫy như cát sông Hằng. Sự bố thí ấy đã được so sánh với sự bố thí trong phần thứ 7, không hiểu có nhiều hơn muôn muôn phần không? Nhưng ấy là thứ bố thí hữu tướng, mặc dù cũng được nhiều phước đức, song đó là một loại phước đức trước tướng, đều không phải là phước đức tự tính. Ai thọ trì kinh này ngộ được công đức tự tánh, do đó mà Đức Như Lai kêu gọi các thiện nam, thiện nữ phải ở trong Kinh này, lấy tâm trụ trì, trì lâu không quên, cho đến dùng 1 bài kệ 4 câu, vì người khác diễn nói. Như vậy, người biết trước dẫn dắt người đi sau, lợi mình, lợi người, được phước đức từ tự tánh. Lại nữa so sánh dùng 7 thứ báu đầy như số cát sông Hằng, bố thí cả 3.000 đại thiên thế giới, phước đức bố thí ấy thật là nhiều. Nên biết phước đức bố thí hữu tướng tuy nhiều, nhưng có hạn lượng. Phước đức pháp thí dù ít, nhưng không ngằn mé. Một bên liệt một bên thắng, không nói nhưng quá rõ. Song mà trì kinh phải ngộ chân lý, nếu không như thế, thì rất dễ trước tướng. Thưở xưa có một người vì sự trước tướng cầu danh, nên muốn làm việc phước đức, do đó, nên thường làm sự bố thí. Về sau ông ta đọc tụng Kinh Kim Cang, thấy rằng: Trong kinh đã nói nếu có thiện nam, thiện nữ nào, đối với Kinh ấy, cho đến thọ trì một bài kệ bốn câu, vì người khác giảng nói thì phước đức này thắng hơn phước đức bố thí  trước  v.v…ông ấy nghe qua cho việc trì kinh dễ dàng, chỉ trì một bài kệ bốn câu là đủ, cần gì phải bố thí! Từ đó về sau đối với việc bố thí, ông không chịu thật hành nữa. Đó là tâm còn chấp trước, không ngộ được chân lý, nên mới có việc thoái thác việc bố thí.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Trong sông Hằng có số cát rất nhiều, tỷ dụ một hạt cát là một sông Hằng, ý ông nghĩ như thế nào? Cát trong những sông Hằng ấy có nhiều hay không?

Tu Bổ Đề đáp:

–        Rất là nhiều, bạch Thế Tôn! Chi nhánh sông Hằng còn nhiều vô số, huống chi là số cát trong các sông ấy!

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Tôi nay thực tế nói với ông, nếu có thiện nam, thiện nữ nào dùng mỗi hạt cát làm một thế giới, dùng số cát trong sông Hằng rất nhiều ấy, để so sánh với sự đem 7 báu bố thí cả 3.000 đại thiên thế giới, có đặng phước đức nhiều hay không?

Tu Bồ Đề thưa:

–        Bạch Thế Tôn, rất là nhiều!

Đức Phật bảo Tu Bồ Đề rằng:

–        Nếu có thiện nam, tín nữ ở trong Kinh này, mỗi chương mỗi câu, cho đến thọ trì một bài kệ 4 câu, diễn nói cho mọi người nghe, phước đức pháp thí ấy, so sánh với phước đức bố thí của báu ở trước thì quả thật nhiều hơn bội phần.

Thơ 11:

Như Lai tùy tiện giảm, tăng,

Hỏi qua số cát sông Hằng nhiều không?

Tu Bồ Đề, theo ý ông,

Bạch lên Đức Phật, cát không thể lường!

 

Có ai bố thí phô trương,

Đem bảy món báu lòng thương cho người,

Thí vậy phước có vẹn mười?

Đáp rằng phước đức đều từ lòng cho.

 

Phật nêu hai việc sánh so,

Phước đức bố thí là do bên ngoài;

Thọ trì Kinh Pháp hoằng khai,

Công đức vô lượng, Như Lai tỏ tường!

 

PHẨN TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO THỨ 12

PHÂN GIẢI:

Giáo pháp là giáo pháp của Như Lai. Như Lai trụ thế 80 năm, thuyết pháp 49 năm, chia ra thời thuyết giáo:

Thời thứ nhất nói KINH HOA NGHIÊM tối thượng thừa;

Thời thứ hai nói KINH A HÀM, pháp TỨ DIỆU ĐẾ

Thời thứ ba nói KINH PHƯƠNG ĐẲNG, trong đó có LĂNG NGHIÊM;

Thời thứ tư nói KINH BÁT NHÃ

Thời thứ năm nói KINH PHÁP HOA cùng NIẾT BÀN.

Nay nói chánh giáo, tức là chánh giáo của thời Bát Nhã. Tôn trọng chánh giáo là thế nào? Tức là nói chư Phật, các Bồ Tát đều từ Kinh này lưu xuất. Chúng sinh đời mạt pháp nghe được đại pháp này rất khó, kẻ nói người nghe đều phải mười phần tôn trọng diệu pháp Bát Nhã. Thế nên Kinh thường nói: “Pháp nhiệm mầu rất sâu vô lượng, trăm nghìn muôn kiếp khó gặp gở…”.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Tùy chỗ nói Kinh này, tùy theo chỗ sở tại kia, cho đến một bài kệ 4 câu v.v…phải biết chỗ ấy, phải biết chỗ ấy, tức là tâm này vậy. Tất cả trong thế gian, trời, người, A Tu La, Trời là bậc ở 4 cõi Trời. Người là những động vật trong thế gian. A Tu La là khong phải Trời, không phải người, một loài quỉ thần ưu chiến đấu, đều phải cúng dường, như cúng dường chúa tháp của Phật. Huống chi có người hết lòng thọ trì, đọc tụng. Đọc tụng theo văn, gọi là đọc, trái với văn gọi là tụng. Đọc tụng chính là miệng thuộc văn tự kia, tâm hiểu nghĩa lý rõ ràng. Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy, thành tựu được pháp hy hữu đệ nhất tối thượng. Nếu Kinh điển này để ở chỗ nào, thì xem là có Phật ở chỗ ấy. Như vậy hàng đệ tử phải tôn trọng

KHÁI NIỆM:

Phần căn bản, vì phần trước đã nói phước đức tự tính, thắng hơn phước đức trước tướng. Hiện tại lại tiến thêm một bước, nêu rõ phước đức bố thí vật báu, không bằng phước đức trì Kinh, đều chú ý ở chỗ rất tôn trọng sự trì Kinh. Nói cách khác chính là phát minh Kinh văn đối với vô trụ thật hành bố thí, phước đức như thế nào, ý tứ tôn trọng Kinh điển phải như thế nào. Do đó, đoạn thứ nhất, nêu rõ tôn trọng tùy chỗ nói Kinh này, bởi vì tùy chỗ nói Kinh nàym trong ấy tức có toàn thân Như Lai, Trời, người, A Tu La đều đến kính ngưỡng cúng dường, đồng như chùa tháp nơi thờ đức Phật. Lai có trời rồng, hàng bát bộ (cũng gọi là Long Thần, Hộ Pháp, vì phàm lúc giảng Kinh, thường đến ủng hộ Phật Pháp, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ), cũng đến hộ Pháp. Đoạn thứ hai, nêu rõ sự tôn trọng thọ trì đọc tụng Kinh này, nhân vì Pháp Bồ Đề vô thượng, đều từ Kinh này lưu xuất. Ai mà tận tâm thọ trì đọc tụng Kinh này, thì sẽ sanh tâm thanh tịnh, trong tâm thanh tịnh nó vô tướng vô trụ. Thật là thành tựu được pháp hy hữu đệ nhất tối thượng. Nếu trong tâm người ấy, dùng làm chỗ sở tại của Kinh điển này, tức là có Phật sở tại, thì chỗ trì Kinh, chắc chắn có ngôi Tam Bảo ( Phật, Pháp, Tăng) hàng đệ tử của Phật đều phải tôn trọng!

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật lại bảo Tu Bồ Đề! Nếu có người tùy tiện ở địa phương mình, diễn đạt Kinh này, cho đến một bài kệ 4 câu v.v…khiến cho các người nghe Kinh, tiêu trừ vọng niện nên biết một quyển chơn Kinh này, cư trú ở đâu, được cảm hóa đến Bồ Tát, thần minh, chúng sinh ở cõi trời, cõi người, ác quỉ, A Tu La v.v…đều đến dâng hoa đảnh lễ, đồng như kính ngưỡng tượng Phật ở trong chùa tháp, một lòng kính ngưỡng cúng dường. Huống chi có người hết lòng thọ trì đọc tụng Kinh này, để cầu tính liễu ngộ. Đức Phật lại nói: Tu Bồ Đề! Những người đó được thành tựu pháp Vô Thượng Bồ Đề (Anuttara Samyak Sambuddha). Lại không có pháp nào cao hơn, quí hơn. Phải biết tâm mình tức là tâm Phật, đều không từ bên ngoài mà dặng. Do đó, nên chỗ nào để Kinh điển, chỗ đó có Phật tồn tại. Chúng ta nên biết, cũng như ngôi Tam Bảo ở chỗ nào thì đệ tử Phật phải đến phụng sự, đâu có lý nào không thành tựu, đâu có tâm nào không đáng tôn, không đáng ư?

Thơ 12

Kinh này linh diệu vô cùng,

Dù chỉ bài kệ, tôn sùng tối đa,

Kim Cang Kinh để chỗ ta,

Trời, người các loại, hương hoa cúng dường,

Cũng như chùa, tháp, Phật đường,

Chí tâm kỳ nguyện, chân thường tiến lên,

N hững ai trì tụng chớ quên,

Đệ nhất tối thượng, đứng trên muôn loài!

 

Kim Cang tính, Phật chỉ hoài,

Tại sao không ngộ, lên đài vinh quang,

Mỗi người sẵn có Kim Cang,

Chỉ cần khai ngộ, tâm an đời đời!

 

 

PHẦN THỌ TRÌ NHƯ PHÁP THỨ 13

PHÂN GIẢI:

Pháp là diệu pháp Bát Nhã, Kinh, Luật, Luận gồm ba thứ đồng gọi là giáo pháp. Thọ trì như pháp là y theo pháp mà thật hành. Trước do đa văn rồi tìm hiểu, từ tìm hiểu đi đến thật hành, nhờ thật hành mới chứng được đạo quả. Suy luận rộng ra có 84.000 pháp môn để đối trị với 84.000 phiền não của chúng sinh, theo bịnh mà cho thuốc, mỗi pháp môn để đối trị tâm bịnh người đời. Ví như chúng sanh bị bịnh dâm dục, giận tức, si mê, phải nhờ giới, định, huệ để đối trị, hàng phục Các pháp Tứ Niệm Xứ, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Thất Bồ Đề phần và Bát Thánh Đạo phần, 37 phẩm trợ đạo, không một phẩm nào mà chẳng phải diệu pháp cho người tu hành. Nay nói ý tứ thọ trì là chuyên chỉ thọ trì diệu pháp Bát Nhã. Nhơn vì thọ trì Bát Nhã, các pháp khác đều đầy đủ. Như trước đã nói, pháp thân phi tướng, đem diệu lý Bát Nhã, cao siêu chỉ bày, giải tỏa các nghi ngờ, đưa đến lý cùng cực. Vì thế, nên Ngài Không Sanh lãnh ngộ ý nghĩa, thỉnh Đức Phật gạn hỏi tên Kinh.

Lúc ấy, Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Sẽ gọi Kinh là gì? Chúng con làm sao phụng trì?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Kinh này gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (Vajraprajna Paramita), dùng danh hiệu ấy, các ông phải phụng trì, lý do vì sao? Tu Bồ Đề! Phật nói Bát Nhã Ba La Mật, tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, ấy mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật. Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Như Lai đã có thuyết pháp không?

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

–        Thưa Thế Tôn! Như Lai đã không nói pháp.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? 3.000 đại thiên thế giới, đã có bụi trần, thế có nhiều không?

Tu Bồ Đề thưa:

–        Rất nhiều, bạch Thế Tôn.

Phật hỏi:

–        Tu Bồ Đề! Các bụi trần, Như Lai nói không phải là bụi trần, ấy mới gọi là bụi trần, Như Lai nói thế giới, không phải thế giới, ấy mới gọi là thế giới. Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể dùng 32 tướng, thấy Như Lai không?32 Tướng, Như Lai đầy đủ tướng tốt dung mạo 12 thứ, tướng tốt thân thể 10 thứ, tướng tốt về tay chân có 10 thứ; dùng 32 thứ tịnh hạnh, tu thành 32 tướng tốt; 32 tướng này đều là tướng ứng thân, ứng thân có thể thấy, pháp thân thì không thể thấy. Ba mươi hai tướng danh xưng như sau:

1)     Tướng dưới chân an bằng

2)     Tướng chỉ dưới chân có ngàn xoáy tròn như hình cả ngàn cây căm bánh xe.

3)     Tướng tay dài, trước đầu ngón tay nhỏ và nhọn

4)     Tướng tay chân đều mềm mại

5)     Tướng trong kẽ tay, kẽ chân có da mỏng như giăng lưới

6)     Tướng gót chân đầy đặn

7)     Tướng trên bàn chân nổi cao đầy đặn

8)     Tướng bắp vế như lộc vương

9)     Tướng hai tay dài quá đầu gối

10) Nam căn ẩn kín

11)  Tướng thân hình cao lớn và cân phân

12) Tướng các lỗ chân lông thường chiếu ra sắc xanh

13) Tướng những lông trên mình uốn về bên mặt

14) Tướng thân thể sáng chói như vàng tía

15) Tướng quanh mình có hào quang chiếu ra một trượng

16) Tướng da mỏng và mịn

17) Tướng lòng bàn chân, bàn tay, hai vai và trên đỉnh, bảy nơi ấy đầy đặn

18) Tướng hai bên nách đầy đặn

19) Tướng thân thể oai hùng như sư tử

20) Tướng thân thể vuông tròn, ngay thẳng

21) Tướng hai vai tròn đầy cân phân

22) Tướng 40 cái răng

23) Tướng răng trắng, trong, đều và khít nha

24) Tướng 4 răng cửa to lớn

25) Tướng gò má nổi cao, như hai mép sư tử

26) Tướng nước miếng đủ chất thượng vị

27) Tướng lưỡi rộng, dài, mềm mại

28) Tướng giọng nói thanh cao, nghe xa, như tiếng nói của Phạm Thiên

29) Tướng con mắt xanh biếc

30) Tướng lông nheo dài đẹp

31) Tướng có chòm lông trắng thường chiếu sáng, mọc giữa chặng mày

32) Tướng trên đỉnh đầu, thịt nổi cao lên như một bới tóc.

Tu Bồ Đề thưa:

–        Không thể thấy, bạch Thế Tôn! Không thể dùng 32 tướng thấy Như Lai, vì sao? Như Lai nói 32 tướng, tức là không phải tướng. Ấy mới gọi là 32 tướng.

Phật bảo;

–        Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam cùng thiện nữ dùng thân mạng bố thí như cát sông Hằng. Nếu lại có người, ở trong Kinh này, cho đến thọ trì một bài kệ bốn câu, vì người khác giảng nói, phước này rất nhiều.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản, Tu Bồ Đề nhờ nghe được phần trước, trì nói Kinh này, thành tựu pháp ít có. Kinh ở chỗ nào, Phật ở chỗ nấy. Tôn trọng Kinh như thế. Do đó, nên đương cơ thỉnh thị tên Kinh cùng đạo lý phụng trì, Phật Như Lai bảo Kinh này gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Các ông sở dĩ phải phụng trì Kinh này, là vì trong Kinh này chắn ngộ được đạo lý vô tướng vô trụ, phát sinh Bát Nhã cứng chắc, sắc bén, sáng soi tất cả (Diệu Trí Huệ), đồng lên bờ giác của chư Phật. Ấy là pháp hy hữu đệ nhất tối thượng, thường ở trong hàng đệ tử y pháp phụng hành. Phật Như Lai nói đoạn này, dù là chú ý hiển pháp, nhưng lại lo sợ hàng đệ tử chấp trước tên Kinh này, bỏ quên tính Kim Cang là Bát Nhã của mỗi người. Vì muốn phá sự chấp tướng tên Kinh, nên nói Bát Nhã Ba La Mật, tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, chẳng qua là mượn danh từ gọi là Bát Nhã Ba La Mật mà thôi. Tên Kinh đã không trước tướng, làm gì lại có pháp để nói; trong tâm thanh tịnh, xưa nay không có tướng Kinh Ba La Mật, chẳng qua muốn cho người nhận rõ tự tính sang suốt, bổn lai cũng không có pháp vậy. Đã không pháp thì làm gì có Kinh, không Kinh thì làm sao có nói! Chúng ta nên biết phàm có nói ra đều là phương thuốc trị bịnh. Trong bộ Truyền Tam Pháp Yếu: “Phật nói tất cả pháp, vì trừ tất cả tâm; nếu không tất cả tâm, đâu dùng tất cả pháp”. Bởi vì khi chưa ngộ phải nhờ ngôn thuyết, khi liễu ngộ rồi thì ngôn thuyết đều phi. Người bị bịnh không uống thuốc, bịnh ấy thật khó trừ; khi bịnh đã hết, thuốc còn, thì thuốc ấy cũng là bịnh vậy. Đơn cử một việc, vật nhỏ như vi trần, lớn như thế giới, chính như 32 tướng mà Như Lai đã nói, đều là một cái giả danh trống rỗng mà thôi. Phật Như Lai, tuần tự dẫn nói như thế, đều muốn cho chúng sanh pháp chấp tướng để thấy Như Lai tự tánh. Thế nên, cuối cùng lại so lường phước đức (đây là lần thứ 3), chỉ rõ diệu dụng ly tướng, nêu bày ý tứ của Kinh. Cho biết rằng không luận bố thí của báu nhiều như số cát sông Hằng, bố thí thân mạng nhiều như số cát sông Hằng, thật nhiều, nhưng mà chỉ là tướng bên ngoài, không bằng kiến tánh để thọ trì lý thâm diệu của Kinh, phước đức rất là thù thắng!

LỜI PHỤ:

Đức Phật nói ba câu: Bát Nhã Ba La Mật, tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, ấy gọi là Bát Nhã Ba La Mật. Đây là cương lĩnh của bột Kinh này mà cũng là tinh yếu của Đại Tạng Kinh. Nói rộng ra, ấy là tâm cang của Phật tổ, là tủy não của thánh phàm; tam giáo, ngũ tông vô lượng nghĩa nhiệm mầu, đều ở trong Kim Cang này. Kinh Tam Muội nói: “Tâm không tướng tâm, không chấp hư không, không nương Phật địa, không trụ trí huệ. Ấy là diệu lý Bát Nhã Ba La Mật”. Ngài Phó Đại Sĩ nói: “Sợ người sinh “đoạn kiến”, quyền tạm lập hư danh”. Phát Bát Nhã là tâm pháp. Như người uống nước, nóng hay lạnh tự người đó rõ biết, không thể hình dung cho kẻ khác biết được! Nếu có nói ra tức là hủy báng Phật.

Phật đủ ba thân:

Một là pháp thân thanh khiết, là chơn thân của Phật, bản thể thân này không sắc không hình, Bát Nhã tức là tướng pháp thân chơn tánh vậy.

Hai là báo thân viên mãn, nhờ phước báo hạnh nguyện vô lượng, thân Phật muôn đức tròn đầy được hiển lộ. Có chia ra hai loại là tự thọ dụng báo thân và tha thọ dụng báo thân.

Ba la ứng thân tức là Pháp thân ứng hóa, lại gọi là hóa sinh (trăm, nghìn, muôn, ức hóa thân), ở cõi trời thân trời, sanh cõi người hiện thân người, trong loài chim hóa thân chim, trong loài nai hóa thân nai, thiên hình vạn trạng, theo mỗi loài hiện thân, 32 tướng, tức là tướng ứn thân vậy. Bố thí của báu nhiều như số cát sông Hằng, của báu xưa kia tuy nhiều, nhưng về ngoại tài, thí ra còn dễ. Bố thí thân mạng nhiều như số cát sông Hằng, xả đó tuy trọng, nó thuộc nội tài, thí đó thật khó! Dù rốt ráo bố thí tài sản và thân mạng đều là nhơn hữu lậu. Thấy được tánh, sáng được tâm, mới là chân thật phước đức vô vi!

GIẢNG NGHĨA:

Tu Bồ Đề nghe Phật Như Lai nói xong phần Kinh ở trước, lúc bấy giờ hướng về Phật Như Lai thưa:

–        Bạch Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên là gì? Chúng con phải thọ trì Kinh này như thế nào?

Phật Như Lai bảo ngài Tu Bồ Đề:

–        Hiệp với diệu trí huệ cứng chắc, đưa đến bờ an lạc kia. Kinh này gọi là KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT. Các ông phải y theo đó mà phụng hành. Vì sao mà đặt tên như vậy?

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Bát Nhã Ba La Mật ma Như Lai đã nói là bản tánh diệu giác, trạm nhiên như hư không. Bản thể đã là chơn không, thì làm gì lại có danh từ. Chẳng qua là sợ người đời sanh đoạn kiến, “bất đắc dĩ” gắng gượng đặt danh từ là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, để trong hàng thất chúng đệ tử phụng hành mà thôi.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai đối với Kinh này có thuyết pháp không?

Tu Bồ Đề đáp rằng:

–        Bạch Thế Tôn! Bát Nhã là tự tánh tự ngộ, tên đã không thể gọi thì Từ Phụ con làm sao mà nói năng được.

Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Cát hạt bụi đã có trong 3.000 đại thiên thế giới, nhiều hay ít?

Tu Bồ Đề đáp rằng:

–        Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Đức Phật nói:

–        Tu Bồ Đề! Hạt bụi tuy nhiều, song không có thật thể, đều là hư vọng, ấy chẳng qua tạm gọi là hạt bụi mà thôi.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Có thể dùng 32 tướng để thấy Như Lai không?

Tu Bồ Đề đáp rằng:

–        Bạch Thế Tôn! Không thể thấy. Tại sao? Vì Từ Phụ con đã nói 32 tướng đó, ly tướng, tướng không phải là pháp thân, có tướng, tướng là ứng sanh, cũng chỉ là giả danh mà thôi!

Phật lại nói thêm:

–        Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam thiện nữ nào, xả thân mạng của họ, nhiều như số cát sông Hằng, thật hành bố thí để cầu phước; lại có một số người khác, ở trong Kinh này, thọ trì cho đến một bài kệ bốn câu, rồi diễn nói cho người khác nghe; phước trì Kinh kia, so với phước bố thí thân mạng trước, thắng hơn rất nhiều!

Thơ 13

Thiện Hiện bạch Phật những lời,

Kinh này danh hiệu, hợp thời đặt tên,

Chúng con trì tụng có nên?

Xin Phật chỉ dạy, dưới trên thi hành

 

Kim Cang Bát Nhã là danh,

Nhưng phi Bát Nhã mới thành trí siêu,

Gạn hỏi thuyết pháp mục tiêu,

Thiện Hiền hồi đáp những điều quá cao

 

Bồ Đề ông hiểu thế nào?

Vi trần, thế giới có vào danh ngôn?

Cả hai theo ý Thế Tôn,

Phi vi, phi thế bảo tồn Kim Cang.

 

Nói qua tướng tốt cao sang,

Cùng là bá thí, tam an phép mầu,

Truyền bá ai hiểu chiều sâu,

Phúc đức trí tuệ đứng đầu tâm linh.

 

 

PHẦN LY TƯỚNG TỊCH DIỆT THỨ 14.

PHÂN GIẢI:

Ly tướng là thế nào? Là tất cả tướng huyễn; tất cả tướng trang trong thế gian đều là tướng huyễn hóa. Phàm phu không biết huyễn tướng này hư vọng không chân thật, thế nên chấp trước thủ xả, chỗ chỗ đều bị mê lầm hư vọng không thiệt. Vọng cảnh mỗi lúc nó huân tập vào vọng tâm, chân tánh thường xuyên bị tướng ngoại trần ngăn che, suốt ngày bị hoàn cảnh xoay chuyển, do đó rồi khởi hoặc tạo nghiệp, vì tạo nghiệp mà chịu quả báo khổ não, nhiều kiếp luân hồi, không bao giờ thôi dứt. Nếu ai hay xa lìa vọng tưởng, không bị giả tướng cuống hoặc thì không co chấp trước, thủ xả! Động, tịnh không sanh đó là tịch diệt.

Nói thêm nghĩa tịch diệt là thế nào? Ban đầu hàng phục ngoại trần, sau diệt trừ nội căn, căn trần đều giải thoát, trước phá nhân ngã, rồi tiến lên một tầng lại pháp pháp ngã; tướng năng giác, sở giác cũng phải xa lìa, tiến lên một tầng, “câu sinh” phải diệt, tướng năng không sở không cũng dẹp. Sanh diệt dứt rồi thì tịch diệt hiện tiền!

Lúc bấy giờ, Ngài Tu Đề nghe nói Kinh này, hiểu sâu nghĩa thú, hiểu sâu là ý nói trong tâm đại ngộ. Nghĩa thú, chính là tôn chỉ lý thú, cảm động chảy nước mắt, rồi bạch Phật rằng:

–        Thưa Thế Tôn! Thật là ít có. Đức Phật nói Kinh điển thậm thâm như thế, từ xưa đến nay, khi con được tuệ nhãn, tuệ nhãn là tim của Thánh nhơn có 7 lỗ, nghe một ngộ nghìn. Đây là mắt trí tuệ vậy, chưa từng được nghe Kinh điển như thế. Bạch Thế Tôn! Nếu lại có người nghe được Kinh này, lòng tin thanh tịnh, sanh được thật tướng, phải biết người ấy thành tựu được công đức hy hữu thứ nhứt.

–        Bạch Thế Tôn! Nếu cho thật tướng thì là phi tướng. Thế nên Như Lai nói, ấy mới gọi là tướng chơn thật. Bạch Thế Tôn! Con nay đặng nghe Kinh điển như thế, tin hiểu thọ trì, tin hiểu là tâm không nghi ngờ, liễu nhiên lãnh ngộ, không có chi là khó. Nếu đời đương lai, sau 500 năm, có các chúng sanh, đặng nghe Kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy là hạng hy hữu thứ nhất. Vì sao? Bởi vì người ấy không có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và cũng không có thọ giả tướng. Lý do vì sao? Ngã tướng tức là phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức là phi tướng. Vì cớ sao? Vì lìa tất cả các tướng, thì gọi là chư Phật.

Phật bảo ngài Tu Bồ Đề:

–        Đúng như vậy, đúng như vậy. Đúng như vậy là sâu hợp với lý của Phật, tức là ý công nhận vậy. Nếu lại có người, nghe được Kinh này, không hãi, không sợ, không sệt, không hãi là kinh hãi trong lỗi về lời nói; sợ tức là lo sợ lý cao trên đượng đạo; sệt nghĩa là khủng khiếp sự khó khăn trên con đường tu hành, phải biết người ấy rất là hy hữu. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Như Lai nói đệ nhất ba la mật, tức không phải đệ nhật ba la mật, ấy mới gọi là đệ nhất ba la mật.

–        Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục ba la mật, nhẫn nhục: trong tâm bao dung gọi là nhẫn, ngoại cảnh ngang trái gọi là nhục.

Nhẫn nhục có ba thứ:

1)     Sanh nhẫn: Đây là tâm phân biệt nhẫn chịu? Tức là người đối với ta, tuy vô lễ muốn gia hại, ta phải nhẫn chịu

2)     Pháp nhẫn: Hạnh Bồ Tát làm việc độ tất cả chúng sinh, không bao giờ sinh tâm mỏi mệt nhàm chán.

3)     Vô sanh pháp nhẫn: Không thấy sinh nhẫn mà cũng không thấy pháp nhẫn, nhẫn biết chân pháp tánh không sanh không diệt.

Lại nữa, chữ Nhẫn có 6 nghĩa:

1)   Lực nhẫn: Không quên giận, nhưng không trả.

2)   Vong nhẫn: Nhã nhặn, độ lượng, dung hòa, bị  nhục, nhưng như không có gì hết.

3)   Phản nhẫn: Việc gì xảy ra tự trách mình, không trách kẻ khác.

4)   Quán nhẫn: Ngoại cảnh và nội thân đều xem như mộng.

5)   Hỷ nhẫn: Tùy hỷ người hay thành sức nhẫn của ta.

6)   Từ nhẫn: Thương người mang nhục đến cho mình là kẻ si mê, phát nguyện độ họ.

Như Lai nói không phải nhẫn nhục ba la mật, ấy mới gọi là nhẫn nhục ba la mật. Vì sao? Tu Bồ Đề! Như xưa kia tôi bị vua Ca Lợi cắt đứt thân thể. Xưa là chỉ cho đời trước mà nói. Vua Ca Lợi, chữ Ca Lợi là tiếng Phạn (Kaliraja). Ý nói chính là ông vua cực ác. Tôi ở trong lúc ấy, không có ngã tướng, không có nhơn tướng, không có chúng sanh tướng mà cũng không có thọ giả tướng. Vì sao? Vì lúc bấy giờ, khi tôi bị cắt đứt chân tay, nếu có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng, phải sanh giận tức. Tu Bồ Đề! Lai nữa trong quá khứ 500 đời, 500 đời tức là 500 kiếp, khi làm vị tiên nhẫn nhục, vị tiên nhẫn nhục chính là Phật Như Lai, ở trước 500 kiếp, thời gian thành tiên, mang danh hiệu của một vị tiên, ở trong lúc ấy, không có ngã tướng, không có nhơn tướng, không chúng sinh tướng và không tướng thọ giả.

Thế nên Tu Bồ Đề, Bồ Tát phải xa lìa tất cả tướng, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sanh tâm, phải sanh tâm “vô sở trụ”; nếu tâm có trụ thì bị phi trụ. Vì thế cho nên Đức Phật nói tâm Bồ Tát, không nên trụ sắc bố thí. Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích cho tất cả chúng sanh nên bố thí như vậy.

Như Lai nói tất cả các hình tướng, tức là phai tướng. Lại nữa nói tất cả chúng sanh, tức là phi chúng sanh. Tu Bồ Đề! Như Lai nói lời chân thật, nói lời đúng lý, nói lời như như, nói lời không cuống hoặc, nói lời không sai khác. Tu Bồ Đề!  Pháp sở đắc của Như Lai, pháp ấy không thật không hư.

Tu Bồ Đề! Nếu tâm Bồ Tát trụ nơi pháp mà làm việc bố thí, như người vào nhà tối, tức là không thấy được vật gì, nếu tâm Bồ Tát không trụ pháp mà thật hành bố thí, như người có mắt sáng, yến sáng mặt trời soi, thấy tất cả các sắc. Tu Bồ Đề! Đời đương lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào thường ở trong Kinh này, thọ trì, đọc tụng thì được Như Lai dùng trí huệ Phật, đều biết người ấy, đều thấy người ấy, đều được thành tựu công đức vô lượng vô biên!

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản, nhân Ngài Tu Bồ Đề đến lúc này, nghe Kinh hiểu sâu, đã lãnh ngộ đạo lý “nếu thấy các tướng phi tướng, tức thấy Như Lai” cảm động từ trong tâm khảm, thương mến, khóc lóc, phát lên một tiếng khen ngợi “Thế Tôn ít có”. Ở trong phần thứ 2 của Kinh này, cũng đã có khen ngợi một tiếng “ít có Thế Tôn”. Khen ngợi trong phần thứ hai lá tán thán Phật Thế Tôn chỉ dạy trong sự đi đứng nằm ngồi đều có Bát Nhã chân tâm lưu độ. Còn khen ngợi trong phần này là tán thán Phật Như Lai chỉ thị diệu dụng Bát Nhã, như thâm nhập 9 lớp. Đem so sánh một lớp phòng nhà; từ trước chỉ cho thấy mặt ngoài, xem qua kiểu quy mô tráng lệ; giờ đây tiến đến phòng nhà bên trong. Phật Như Lai cũng vì Tu Bồ Đề đã ngộ hữu tướng đều là hư vọng, phi tướng thì thấy được mật nghĩa của Như Lai, thế nên liền cố gắng công phu thực hành. Thật hành thì không ngoài sáu pháp ba la mật (tức là lục độ; Trí huệ, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, và thiền định). Bởi vì nhẫn nhục là một độ rất khó thật hành, chung quy vì vọng tưởng chưa diệt.

Nhẫn nhục chưa đến nơi, khiến tâm hồn bị sợ sệt, bị Kinh hãi. Thế nên tín tâm không kiên cố. Vì thế Ngài dùng bản thân hành nhẫn nhục, không bốn tướng để gắng tới ba la mật. Đã chĩ rõ trong văn Kinh, nếu Bố Tát còn có ngã tướng, nhơn tướng, v.v…tức không phải là hạnh Bồ Tát. Lại đem mỗi phần trước, thường nói phước đức, phần này lại nói công đức, bởi vì công thành quả mãn phước không đủ diễn tả vậy.

LÒI PHỤ THUỘC:

Bát Nhã dịch là diệu trí tuệ, trước đã nói qua rồi. Nhưng diệu trí tuệ ấy phân chia để nói, có chia ra mấy loại: có văn tự diệu trí tuệ, quán chiếu diệu trí tuệ và thật tướng diệu trí tuệ v.v…hai câu căn bản “phân biệt nghe nói Kinh này, hiểu sâu nghĩa thú”, tức bao trùm 3 loại diệu trí tuệ này. Nghe nói Kinh này tức là văn tự diệu trí tuệ. Hiểu sâu nghĩa thú tức là quán chiếu diệu trí tuệ. Còn thông suốt tức là thật tướng diệu trí tuệ.

Như Lai đời trước có một kiếp bị vua Ca Lợi phân cắt thân thể. Mẩu chuyện như sau:

Một hôm, Vua Ca Lợi hướng dẫn đoàn cung phi, mỹ nữ vào trong rừng núi thưởng ngoạn và săn bắn. Nhơn lúc Vua mệt an nghỉ, và ngủ say một giấc. Đến lúc tỉnh dậy, không nhìn thấy đoàn cung phi, mỹ nữ, chỉ thấy vài cận vệ. Vua bèn dùng các cận vệ đi tìm kiếm. Xa xa thấy có một tòa trong động lớn, các cung phi mỹ nữ đều ngồi trong động, vây quanh một vị sư để nghe thuyết pháp.

Vua Ca Lợi rất giận, chỉ vào mặt vị sư trách rằng:

–        Tại sao Ông quyến rũ các mỹ nữ đến đây?

Vị sư đáp:

–        Tôi thật không làm như thế.

Vua lại gạn hỏi:

–        Vì sao thấy nữ sắc mà nói không ham muốn?

Vị sư trả lời;

–        Vì tôi giữ giới.

Vua gạn hỏi:

–        Ông giữ giới tu hạnh gì?

Vị sư trả lời:

–        Tôi tu hạnh nhẫn nhục.

Vua nghe hai tiếng nhẫn nhục, liền nỗi giận đùng đùng, rút gươm xông tới, hỏi:

–        Ông biết đau không?

Vị sư đáp:

–        Thản nhiên.

Vua càng tối tăm mặt mày, liền chặt đứt thân thể nhà sư, rồi hỏi;

–        Ông có đau không? Và có thù hận ta không?

Sư đáp:

–        Đã không có ngã thì làm gì có hận thù.

Lúc bấy giờ, bốn vị Thiên Vương trong lòng chấn động và phẫn nộ trước sự độc ác của nhà Vua, nên cho một trận cuồng phong, đá chạy cát bay, thiên long bát bộ đồng đến hộ trì. Vị sư bị cắt đứt chi thể, được hoàn lại như cũ. Ông Vua lo sợ, quỳ gối trước vị sư, cầu xin chuộc tội và ăn năn sự độc ác. Vị sư liền xin chư Thiên Vương đại xá lỗi lầm cho nhà Vua, bầu trời trở lại quang đãng. Ông Vua cũng hồi tâm phát nguyện hướng thiện. Vị sư cũng phát nguyện rằng: Khi nào tôi thành Phật, sẽ độ cho ông trước.

Vua Ca Lợi, sau 500 đời là ngài Kiều Trần Như gọi đủ là A Nhã Kiều Trần Như (Ajnata-Kaundinya) sinh trong chủng tộc Bà La Môn, tại thành Ca Tỳ La Vệ, Ấn Độ. Ngài giỏi về bói thuật, thời gian Đức Thích Ca mới giáng sinh, ngài từng được mời xem bói thuật. Sau khi đức Thích Ca xuất gia, tu khổ hạnh trong núi, bên bờ sông Ni Liên Thiền; lúc ấy Kiều Trần Như là một trong năm vị thường theo hầu hạ đức Thế Tôn.

Trụ sắc bố thí là tâm chấp tướng. Trụ pháp bố thí là chấp pháp tướng. Không trụ pháp bố thí, thì không chấp pháp, cũng chẳng chấp phi pháp. Không chấp pháp thì không thật, không chấp phi pháp thì không hư. Bố thí như thế thì được chánh giác viên minh, không bị chướng ngại. Như người có mắt, yến sáng mặt trời chiếu soi, thấy các vật sắc, nên nói chánh giác thật là chí lý vậy. Nếu bố thí mà trụ tướng, tức là có ngã, nhơn v.v…bốn tướng chưa quên, thì sẽ cùng chúng sinh kết duyên thương ghét vậy! Như thế đó lẫn nhau làm cha mẹ, con cháu, thọ oan gia trái chủ, trăm kiếp nghìn đời, ân oán khó mà giải tỏa, luân hồi trong đường sanh tử, đâu có lúc nào ra khỏi. Vì thế nên Phật Như Lai chỉ dạy thật hành hạnh bố thí, không nên trụ tướng, chính vì lý do nêu ở trên.

GIẢNG NGHĨA:

Tu Bồ Đề nghe Phật Như Lai nói Kinh, lúc nghe trong tâm sâu ngộ lý thú. Có cảm tưởng buồn hận vì khi nghe được nghĩa lý Kinh này thì tuổi đã già, hai hàng nước mắt lăn tròn trên gò má, hướng về Phật Như Lai cất tiếng khen ngợi:

–        “Thế Tôn thật là ít có”. Bạch Đức Phật! Sư Phụ đã nói nghĩa lý Kinh điển sâu sắc như thế, con từ trước đã được tuệ nhãn, mặc dù được “nhất văn thiên ngộ:, nhưng chưa từng nghe Kinh điển thâm áo như thế. Tu Bồ Đề lại thưa:

–        Thế Tôn! Con vừa nghe lý thú của Kinh này, trong tự tính thanh tịnh, đã chứng ngộ rằng mình có thật tướng toàn chơn từ xưa đến nay. Nếu có người nào được nghe Kinh này, phát tâm nhứt niệm chánh tín, tâm rất thuần chánh, không bị dục trần mảy may, liền hiện diệu trí tuệ thanh tịnh, sanh tướng “chân thật bất hư”. Đó là người biết tu, thành tựu được công đứt ít có thứ nhất của chư Phật.

Tu Bồ Đề lại nói:

–        Bạch Thế Tôn! Lý rốt ráo của thật tướng Bát Nhã ấy, không như thái hư, không có hình tích, nếu ai chấp trước ngộ thật tướng, tức không phải là thật tướng. Do đó, nên Từ Phụ chỉ nói thật tướng mà thôi.

Lại một lần nữa Tu Bồ Đề thưa:

–        Bạch Thế Tôn! Con hiện tại được nghe Kinh này, vì từ lâu sau khi chứng được tuệ nhãn, con rất tin lời chân thật, hiểu lý nhiệm mầu kia, tín phụng tu trì, không có gì khó khăn cả. Nếu đời sau 500 năm, thời kỳ mạt pháp ác trược, xa cách Từ Phụ lâu đời, chúng sinh chìm đắm nơi biển khổ, khi nghe được Kinh này mà có lòng tín giải thọ trì, thì những người ấy thật là minh liễu tự tánh thứ nhất, rất là dễ tu dễ chứng. Vì sao? Bởi vì người ấy đốn ngộ chơn không, quyết không có ngã, nhơn v.v…bốn tướng.  Khi xa lìa bốn tướng thì những người ấy quyết đã ngộ được phi tướng nhơn và ngã đều quên. Nếu xa lìa tất cả các tướng, tâm kia không tịch, tức là được giác ngộ hoàn toàn, cùng với chư Phật đồng đẳng chính gọi là bậc Phật.

Phật Như Lai bảo ngài Tu Bồ Đề rằng;

–        Như ông đã nói, sâu hợp lý Phật, sau nếu có ai nghe được diệu pháp Bát Nhã, không ngờ vực (tâm không thoái chuyển), phải biết những người ấy thật là ít có. Vì duyên cớ gì thế? Bởi nhờ Ba La Mật thứ nhất mà tôi đã nói: nguyên do các Kinh cũng đều từ đó lưu xuất. Trí tuệ này đến bờ kia. Nếu còn chấp trước bờ kia, ấy chẳng qua là đặc danh Ba La Mật thứ nhất mà thôi.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Phàm cảnh mạ nhục đưa đến, tâm rỗng rang đối xử, không nên giận tức, loạn diệu trí tuệ của mình. Tâm ta phải đồng như hư không, tức là đến được chỗ giác. Ấy là nhẫn nhục Ba La Mật. Nhưng chân không bản lai vô tướng, ngoài không biết nhục, trong không thấy nhẫn, tự nhiên cả hai. Do đó, nên Như Lai thường nói: Chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, ấy mới gọi là nhẫn nhục Ba La Mật! nói đến sự nhẫn nhục, như tôi kiếp trước, thời gian bị Vua Ca Lợi cắt đứt thân thể, vì tâm như hư không, nên không khởi bốn tướng. Sở dĩ được như thế, là vì thời gian bị cắt đứt thân thể, sự nhẫn nhục đã đến chỗ cùng tột. Thời gian ấy, nếu khởi bốn tướng, quyết định có lòng oán hận, không thể quên thù, trở thành quả khổ. Làm sao mà nói là nhẫn nhục? Tôi hồi tưởng lại 500 kiếp thuộc đời quá khứ về trước, khi làm nhẫn nhục tiên nhơn, thường thật hành hạnh nhẫn nhục.Ở trong đời đó, chính không vướng quả bốn tướng, nhờ nhiều kiếp đốn ngộ chơn không. Thật sự mà nói, người đời tu hành không phải một mai, một chiều mà được thành đạt. Cũng nên biết rằng nhẫn nhục Ba La Mật, thật là cấp thiết trước tiên cho những ai tu hành trên đường đạo. Quan trọng bước đầu, ta phải phá tâm giận tức, mới xa lìa bốn tướng, bốn tướng đều không, mới hoàn thành hạnh nhẫn.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Vì duyên cớ nói trên, nên Bồ Tát muốn thành đạo, tâm phải trống rỗng. Xa lìa tất cả vọng niệm, mới hay phát được đạo tâm vô thượng Bồ Đề; không nên khởi vọng niệm chấp nơi sắc, cũng chẵng nên khởi vọng tâm trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, phải sanh tâm “vô sở trụ”. Tâm ấy mới là viên thông vô ngại, thuần chơn không tham dục, tất cả không lãnh thọ sự ràng buộc. Nếu ở trên lục trần, có một trần bị trụ trước, thì khó mà giải thoát trần lao, tức không phải là trụ xứ của Bồ Tát. Thế nên, Như Lai tôi thường nói, tâm Bồ Tát xưa nay trống rỗng nhưng sáng suốt; nếu trụ nơi sắc, thì không thể giác ngộ. Tôi nói: Không nên trụ sắc bố thí, chính là ý này vậy.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Bồ Tát do không trụ giác tâm này, phát tâm rộng lớn, không những vì mình mà là vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, phải nên bố thí vô tướng như trên. Tất cả các hình tướng Như Lai tôi đã nói thì nên xa lìa. Vốn là điểm cốt yếu cho các vị Bồ Tát giải thoát mà thôi. Kỳ  thật bản thể toàn không đều là phi tướng. Lại nói thêm cho tất cả chúng sanh, cũng là dẫn đạo, cho các vị Bồ Tát sau khi diệt độ mà thôi. Kỳ thật vọng tâm tự xa lìa, nếu thấy bản tánh, tức là không còn tánh chúng sinh nữa.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Như Lai tôi nghiệm xét pháp bát nhã đã được, cùng các pháp thế gian không đồng. Các pháp thế gian không chấp trước bên này thì cũng chấp trước bên kia. Chơn như vô tướng mà tôi đã nói là không thật; tự tính đầy đủ là không hư. Lại nữa, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát tâm trụ trước nói pháp mà làm việc bố thí thì bốn tướng chưa trừ, như người đi vào trong nhà tối, hôn ám ngăn che, không thấy được vật gì cả; trái lại nếu Bồ Tát, tâm không trụ nơi pháp, mà làm việc bố thí đồng với người đã mở mắt Kim Cang, nhìn suốt ngọn đè bát nhã, tánh sáng chiếu soi bốn phía, suốt thông chơn không, rõ biết tất cả cảnh vật, thấy suốt các thứ hình sắc.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Dề! Như Lai tôi sau khi diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào, hay đối với Kinh này, thọ trì đọc tụng, tức đến quả vị Bồ Đề, thành tựu Như Lai tự tánh. Công đức của các vị ấy, không phải hàng tiểu quả, quyền thừa mà so sánh được. Chắc chắn cảm ứng đến Như Lai tôi, quyết đem trí tuệ vô thượng mà chiếu giám (đều biết đều thấy) những người ấy, đều được thấy tánh thành tựu công đức, khắp thí muôn kiếp, vô lượng vô biên.

Thơ 14

Tu Bồ Đề! Hiểu nghĩa Kinh,

Khen ngợi lý thú, quang minh Phật truyền,

Thế Tôn chỉ giáo nghĩa huyền,

Không lo, không sợ, ngồi thuyền ba la.

 

Trở lại Phật chỉ cái ta,

Nếu ai nhẫn nhục, chắc là phá tan,

Kể lại sự tích tâm cang,

Cuối cùng thắng lợi, thân an tâm thiền!

 

Ly tướng bố thí diệu huyền,

Những lời chân thật hiện tiền kính dâng,

Bố thí, trì tụng trừ ‘sân,

Công đức khó tả, khó phân cho cùng!

 

 

PHẦN CÔNG ĐỨC TRÌ KINH THỨ 15

PHÂN GIẢI:

Phần trước đã nói nhẫn nhục xả thân, đều là phá ngã chấp. Sau khi phá ngã chấp lại phải suốt ngộ lý Bát Nhã; trái lại nhẫn nhục xả thân chỉ là lợi ích tầm thường. Nếu chỉ biết xả thân nhẫn nhục, mà không chịu thọ trì Kinh điển, trở thành anh hùng can đảm thế gian, đối với chơn tánh khó mà hiển lộ hoàn toàn. Nếu ai hay nhẫn nhục xả thân, mà cũng hay thọ trì Kinh điển, suốt ngộ cái phi của hai chấp, hai ngã đều diệt, chắc chắn được công đức pháp tánh, thì không thể nghĩ bàn vậy.

Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam cùng thiện nữ nào, phần đầu của ngày (sáng) đem thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng; phần giữa của ngày (trưa) lại dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng; phần sau của ngày (chiều) cũng dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng. Như vậy không lường trăm nghìn muôn ức kiếp, đem thân mạng bố thí; nếu lại có người nghe Kinh điển này, lòng tin không trái, phước này hơn kia, huống chi chép viết, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói. Tu Bồ Đề! Tóm lại mà nói. Kinh này có công đức vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể xứng lượng, Như Lai vì người phát tâm đại thừa mà nói, vì người phát tâm tối thượng thừa mà nói. Chỉ rõ sự sanh tử, không độ chúng sinh, gọi là tiểu thừa; những bật duyên Giác, nửa vì người, nửa vì mình, gọi là trung thừa; Bồ Tát độ khắp tất cả gọi là đại thừa. Còn tối thượng thừa là thế nào? Là Phật thừa tế độ tất cả các bậc Bồ Tát. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng, rộng vì người giảng nói, Như Lai đều biết người ấy, đều thấy người ấy, đều được thành tựu công đức không thể lường, không thể xưng, không có biên giới, không thể nghĩ bàn, những người như thế, thì được gánh vác sứu mệnh Như Lai, cho đến khi chứng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Gánh là dùng vai để gánh, vác thì dùng lưng để vác. Nói Vô Thượng Chánh Đẳng là bậc cao quý. Đạo do người hoằng, xác nhận dùng thân thừa nhiệm, do đó phải thành tựu được đại công đức vậy.

Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Nếu người nào ưa pháp quá nhỏ bị chấp trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sinh kiến và thọ giả kiến, đối với Kinh này, không thể nghe thọ đọc tụng, vì người giải nói. Tu Bồ Đề! Nơi nào chốn nào, nếu có Kinh này, tất cả trời, người, A Tu La, trong thế gian, phải lo cúng dường. Phải biết nơi ấy, chính là bửu tháp, đều phải cung kính, làm lễ đi nhiễu, dùng các hoa hương rải trên chỗ kia.

KHÁI LUẬN:

Phần trước nói đến công đức trì Kinh được thành tựu, phần này lại dùng pháp để so lường (đây là so sánh tướng phước huệ lần thứ 4), dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng, nhưng không bằng nghe Kinh điển này, lòng tin cùng phước đức không trái nghịch. Tóm lại mà nói, trì Kinh công đức thù thắng hơn bố thí. Ỳ nói rõ công vô trụ bát nhã từ nơi nghĩa lý của Kinh. Nếu trừ ngã, nhơn  v.v…các việc cố chấp thì không thể nghe thọ, đọc tụng, vì người giải nói. Như vậy là thế nào? Nhơn vì tướng phần vì hạng tiểu căn mà thuyết pháp; kiến phần vì bậc đại căn mà giảng pháp. Tướng phần là nhơn ngã tướng. Kiến phần là pháp ngã tướng. Người ưa pháp quá nhỏ là thế nào? Là ưa hô hào bẻ không phá tướng, ‘thù bất tri’ kiến phần hày còn quá nhiều vậy. Kiến phần của mỗi người chưa phá, thì pháp ngã chấp vẫn còn. Ai còn có pháp ngã chấp, tức là chưa hiểu sâu lý bát nhã, chưa đạt được tế bát nhã. Tự lợi còn chưa trọn thì làm sao có lợi tha. Vì thế nên nói phải phá tan bốn ngã tướng v.v…Những ai ưa pháp quá nhỏ, tức là không thể đối với Kinh này vì người khác giải nói.

Lại nữa, không thể suy tôn Kinh này có toàn thân Như Lai. Gắng gượng cho mọi người, không luận Tăng, tín đồ cúng dường ngoại hộ. Điểm chính thọ trì Kinh này là để sáng suốt trong lòng, cầu đạt đến cảnh giới chí thành vô vọng. Nếu ai thọ trì Kinh này được như vậy, cúng dường tâm sáng suốt, thì tâm ấy tức là Phật, cần gì phải ngoài thân tìm Phật. Như Lai chỉ ở trong tự tâm của chính mình mà thôi 

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo:

–        Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tín nữ nào, ở trong một ngày, sáng sớm dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng; đúng ngọ lại dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng; rồi chiều lại cũng dùng thân mạng bố thí nhiều như số cát sông Hằng. Những người như thế, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp lâu xa, mỗi ngày ba thời, đều bố thí như thế, chính mình (các người ấy) sẽ đặng phước đức bố thí. Nếu lại có người hay dùng tâm không trái nghịch, chánh tín Kinh này, thì phước đức thù thắng nhiều hơn sự xả thân mạng nói ở trên. Huống chi là tay viết, miệng tụng, vì người giảng nói ý nghĩa của Kinh, giữ tâm lợi mình lợi người, chẳng những sáng chói tự tánh của mình, lại còn khiến mọi người thấy tánh, căn lành thuần thục, lợi ích không cùng tận, sự nhiều phước đức kia, đâu có thể lấy chi mà so sánh được.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Nói một cách dễ hiểu, công đức xứng tánh mà làm, không thể dùng tâm nghĩ, miện bàn, không thể nào dùng số nhiều ít xưng lường. Thật là công đức không  có ngằn mé vậy. Phật Như Lai thuyết Kinh này công đức có ngằn mé hay không? Vì Kim Cang Bát Nhã là bản tính diệu dụng của người đời, là tối thượng thừa của đại thăng Bồ Tát, không phải là nơi của hàng tiểu quả đạt đến được. Vì thế nên Phật Như Lai vì khai thông cho hàng đại căn tính, nên nói lý nhiệm mầu chơn không này; vì khai thông cho những bật tối thượng thừa, nên thuyết minh pháp Kim Cang Bát Nhã này. Nếu có hạng đại căn tánh, thọ trì Kinh điển đại thừa này, rộng vì người đời khai phát diệu chỉ, thì những bậc ấy công dụng đức hạnh thành công cho người gồm cả thành đạt cho mình, không thể xưng lường, không thể nghĩ bàn, không thể dùng biên tế chỉ bày được. Những bật ấy in hợp tâm Phật, công đức được thành tựu, chỉ có Phật Như Lai thấy được biết được. Các vị ấy công đức này đã thành tựu, đầy đủ khả năng đảm nhiệm chánh pháp vô thượng Bồ Đề của Như Lai. Vì duyên cớ trên, nên các hạng ưa thích pháp quá nhỏ mọn, hạn thuộc trong chỗ thấy nghe, không khỏi có ngã, nhơn v.v…tư kiến, đối với giáo pháp tối thượng thừa đại thặng này, liền khởi tâm kinh hãi sợ sệt. Tự tâm đã không thể yên tịnh, thì làm sao mà nghe thọ đọc tụng vì người giải nói Kinh này ư?

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Những hàng người đại thặng, mỗi chỗ, mỗi nơi, nói Kinh điển này, hay khiến người nghe, tâm khai ý giải, căn lành thông cảm, chắc được trời, rồng, hàng bát bộ, thánh thần đều đến cúng dường, hộ vệ pháp thân. Khắp hiện hoa quang tam muội, thẳng vào một tòa bảo tháp xá lợi, hay khiến xa gần kính ngưỡng đảnh lễ, tung rải hoa báu hương thơm, những chỗ trì Kinh này. Ấy là việc cúng dường chí lý vậy! Có thể nói một người tâm sáng, chư Thiên cùng dường hoan hỷ!

 

Thơ 15

Có người bố thí thân dùng,

Trải qua nhiều kiếp phước trùng trùng lai,

Không bằng trì tụng những ai,

Vì người giải nói đức hoài thiên thu.

 

Nếu ai đọc tụng công phu,

Như Lai thấy biết đường tu đắc thành,

Đứng ra gánh vác hạnh lành,

Vô Thượng Chánh biến tung hoành mười phương.

 

Những ai ưa pháp tầm thường

Bốn phía còn chấp là đường gian nan,

Chỗ nào xứng lý Kim Cang,

Chư thiên hoan hỷ, cúng dàng thường xuyên

 

PHẦN HAY TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG THỨ 16

PHÂN GIẢI:

Nghiệp chướng là thế nào? Hoặc là nghiệp, hành động đời trước, hoặc là hành động hiện tại, đều có thể ngăn che chơn tánh.

Hành động đời trước, chính là sức nghiệp của đời trước, những hành động thuộc nhiều đời nhiều kiếp về trước, không thể tính kể. Bởi vì từ vô thỉ kiếp trở lại, những nghiệp đã tạo đều thu nạp vào ruộng thức thứ tám, gặp duyên phát hiện, quả thuần thục liền sanh, luân chuyển trong sáu đạo, không bao giờ thôi dứt, hòa hợp vọng sanh, hòa hợp vọng tử, sinh diệt không thôi, đều là nghiệp lực không thể nghĩ bàn, sức nó lôi cuốn mạnh mẽ. Trong Kinh có nói: “Nghiệp lực của chúng sanh, nếu có hình tướng, đầy cả hư không, không đủ chỗ chứa”. Nói như thế để biết nghiệp lực của chúng sanh vốn thuộc hư vọng, chỉ vì chúng sanh không rõ duy tâm, do đó tạo ra những nhơn hư vọng, tức là thọ khổ hư vọng. Do đó mà chúng ta rõ được nghiệp chướng từ xưa đến nay vốn là không, nếu chưa rõ là phải hoàn lại nợ đời trước.

Nói về hành động hiện tại (hiện nghiệp), tức là đời dữ năm trược này, chúng sinh trả nợ những gì đã tạo công cộng đời trước, vì nó liên quan đến đời này vậy. Nếu có chúng sanh nào thọ trì đọc tụng Kinh này, biết rõ tất cả huyễn tướng, đều là “duy tâm sở hiện”, năm uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, không bị vật chuyển mà hay chuyển được vật, thì không thọ các khổ hư dối này. Tuy nhiên muốn rõ duy tâm, cần phải sâu thông Bát Nhã. Nếu thâm nhập được Bát Nhã thì rõ các sự vật đều không, tất cả hư vọng dứt sạch. Thế nên chỉ có Bát Nhã mới hay tịnh trừ được nghiệp chướng.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Các thiện nam thiện nữ nào, thọ trì đọc tụng Kinh này, nếu bị người khinh tiện. Những việc khinh tiện rất nhiều, hoặc là bị ganh ghét, hoặc sanh tị hiệm, hoặc ôm lòng giận mà gia tâm phỉ báng, hoặc ỷ thế mà lấn lướt, thậm chí bị gia hại bởi dao, gậy, ngói, đá. Tất cả đều nằm trong hai chữ khinh tiện. Người ấy đời trước tạo nhiều tội nghiệp, phải đọa vào đường ác, đời này bị người khinh tiện; (đọc tụng Kinh này) tội nghiệp đời trước, chắc chắn được tiêu diệt, sẽ chứng đặng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tu Bồ Đề! Tôi nhờ thuở quá khứ vô lượng kiếp a tăng kỳ, a tăng kỳ dịch âm là tiếng Hoa, dịch nghĩa là vô lượng số. Ở trước Đức Phật Nhiên Đăng gặp được tám trăm bốn nghìn muôn ức na do tha các Đức Phật, gặp, ý nói gặp gỡ. Na do tha dịch âm thành tiếng Hoa, có nghĩa là một muôn muôn, thảy đều cúng dường dâng thờ, không bỏ qua một vị nào. Nếu lại có người, ở trong đời mạt phát về sau thường thọ trì đọc tụng Kinh này, thu được công đức, đối với công đức của tôi đã cúng dường các Đức Phật, trăm phần không bằng một, nghìn muôn ức phần, cho đến toán số thí dụ cũng không bì kịp.

Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam và thiện nữ nào, ở trong đời mạt pháp về sau, hay thọ trì đọc tụng Kinh này, chỗ được công đức, nếu tôi nói đầy đủ, nói đầy đủ chính là nói rõ ràng, hoặc có người nghe, tâm liền cuồng loạn, hồ nghi không tin. Tu Bồ Đề! Phải biết nghĩa của Kinh này không thể nghĩ bàn, quả báo cũng không thể nghĩ bàn

KHÁI LUẬN:

Văn trên nói công đức trì Kinh như thế nào. Phần này là chỉ rõ công đức trì tụng làm sáng tỏ Bát Nhã, có lợi ích ly chướng xuất triền; chẳng những diệt tội mà còn được thắng quả. Chia chẻ mà nói, có hai việc không thể nghĩ bàn:

Một là đời này thọ trì đọc tụng Kinh này, tội nghiệp đời trước tiêu diệt một cách dễ dàng.

Hai là chẳng những tiêu diệt tội nghiệp đời trước, lại còn đăng quả bồ đề.

Việc trước chỉ rõ phước báo không thể nghĩ bàn. Luôn dẫn chứng Phật Như Lai tự Ngài khi chưa gặp Phật Nhiên Đăng, mặc dù cúng dường vân thờ nhiều đức Phật, nhưng không bằng người đời sau thọ trì đọc tụng Kinh này, công đức nhiều hơn; đem số muôn ức để dụ cho trần sa đều không thể nào bì kịp. (Đây là lần thứ năm, dùng công đức cúng Phật để so sánh với công đức trì Kinh). Lại giải bảy có thiện nam thiện nữ nào đời mạt pháp về sau thọ trì đọc tụng Kinh này, công đức không có chi sánh được.

Như Lai cũng vì các bậc hạ căn nói pháp, do đó không thể nào chẳng nói quả báo khiến họ cảm động. Nếu đem công đức này, nói ra tất cả thì sợ chúng sinh hiểu lầm đại phước, tâm bị cuồng loạn, trái với ý chánh trong Kinh, qua đạo lý vô tướng vô trụ, giống như tin mà không tin, gây thành sự hồ nghi. Do đó nên nói quả báo nghĩa Kinh, không thể nghĩ bàn, chẳng qua là muốn cho chúng sinh hồi tâm tịch chiếu, nương theo giáo pháp tu trì, để sáng suốt tự tánh. Nếu đem Kinh điển mà nghĩ bàn thì trở thành cách ngại.

Tóm lại, Như Lai chỉ rõ Kinh này, vì một điều làm khuôn phép mà phát tâm Bồ Đề. Đại Bồ Tát phải như thế mà hàng phục tâm kia, thiện nam tín nữ cũng phải y theo thế đó mà hàng phục vọng tâm thì chắc chắn không có gì sai khác giữa Phật và chúng sinh.

 

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói:

–        Tu Bồ Đề! Mỗi khi có thiện nam thiện nữ đều thường hay thọ trì đọc tụng Kinh này, chẳng những không được người, trời, cung kính mà lại bị người khinh tiện là vì cớ sao? Đó chính là do các vị đó đời trước có tội nghiệp lớn. Đã có tội nghiệp thời đời sau phải bị vào ba đường ác là địa ngục, quỷ đói, và súc sanh, chịu khổ không cũng tận. Đời nay, nhờ công đức trì Kinh, giảm bớt tội nghiệp kia, rồi bị người khinh tiện, đó là việc phải có. Tu trì dần dần, trừ được quả hiện tại, tội diệt phước sanh, tự nhiên sẽ chứng được Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bổ Đề! Tôi nhớ nghĩ đến đời trước xa xưa, trải qua số kiếp không lường. Trước khi chưa gặp đức Phật Nhiên Dăng, tôi đã từng cúng dường vô số đức Phật, nỗi đức Phật đều tự như, đều thành tâm chuyên ý cúng dường, số nhiều không thể tính kể. Thế mà đời sau có những người đối với Kinh này thọ trì đọc tụng, thấy được bản tánh của họ, dứt được sự luân hồi, đem công đức ấy so sánh với Như Lai tôi trước kia về công đức cúng dường, lại thù thắng hơn xấp muôn muôn lần.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tín nữ nào, ở đời rốt sau thường thọ trì đọc tụng Kinh này, quyết được công đức vô lượng không nghi. Đây là những lời Như Lai tôi lược nói, nếu nói rộng thì công đức ây bao trùm cả trời đất, số lượng hơn số cát sông Hằng; sợ những người hạ căn nghe đến, tâm tánh bị cuồng loạn, những bật căn tánh khá thì lại sanh lòng hồ nghi, lại cho lời của tôi nói là quá đáng mà ngạc nhiên than thở.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Phải biết công đức, do nơi nghĩa Kinh, mà được quả báo. Nghĩa Kinh rất là cao siêu, khó mà suy lường, quả bảo rất là trọng yếu, không thể nào nói cho hết.

Thơ 16:

Những ai đọc tụng hữu duyên,

Dù bị khinh tiện, tội khiên đã làm,

Trì Kinh dứt sạch lòng phàm,

Sẽ đặng chứng quả độ hàm linh căn!

 

Xưa tôi ở trước Nhiên Đăng,

Cúng dường chư Phật như hằng hà sa,

Có người mạt thế lâu xa,

Trì Kinh công đức hơn ta rất nhiều!

 

Mạt thế trì tụng biết điều,

Nói lắm sợ kẻ đăm chiêu hồ nghi.

Tu Bồ Đề thật trí tri,

Nghĩa Kinh, quả báo khó ghi tận tường.

 

PHẦN CỨU KÍNH VÔ NGÃ THỨ 17

PHÂN GIẢI:

Ngài Tu Bồ Đề đối với ý trụ tâm và hàng phục tâm, thô trần đã dẹp, tế hoặc khó dung. Đến đây lại trình bày thỉnh trước, muốn đặng đạo lý trụ tâm và hàng phục tâm rốt ráo. Do đó, nên đức Phật hoàn toàn dùng những việc trên thân mình để khai thị, khiến mọi người biết nhân không, pháp không, rốt ráo là vô ngã vậy.

Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề lại bạch Phật rằng:

–        Thưa Thế Tôn! Có thiện nam và thiện nữ, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thế nào phải trụ, làm sao hàng phục vọng tâm?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Có thiện nam cùng thiện nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải sinh tâm như thế nầy, ta nên diệt độ cho tất cả chúng sinh, diệt độ tất cả chúng sinh rồi, nhưng không có một chúng sinh nào thật diệt độ.

–        Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát còn có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sinh tướng và thọ giả tướng, tức không phải là Bồ Tát. Lý do vì sao? Tu Bồ Đề! Thật không có pháp gì chắc thật để phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hay không?

–        Bạch Thế Tôn không. Như con đã hiểu Phật đã nói nghĩa đó, khi Thế Tôn ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có đặng pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật nói:

–        Đúng như vậy, Tu Bồ Đề! Thật không có pháp nào để Như Lai chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nếu có pháp để Như lai chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật Nhiên Đăng tức không thọ ký cho tôi, ở đời sau, sẽ được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca dịch âm tiếng Phạn Sakya, Trung Hoa dịch là Năng Nhân. Mâu Ni cũng dịch âm từ Phạn ngữ Muni, Trung Hoa dịch là Tịch Mặc. Vì thật có pháp để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thế nên Phật Nhiên Đăng cùng tôi thọ ký nói rằng: Ông ở đời sau, sẽ đặng làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Vì cớ sao? Như Lai tức là các pháp đúng như nghĩa.

Nếu có người nói, Như Lai chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Thật không có pháp để Phật chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Như lai đã đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong đó không thật không hư. Thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật Pháp. Tu Bồ Đề! Đã nói tất cả pháp, tức không phải tất cả pháp. Ấy mới gọi là tất cả pháp. Tu Bồ Đề! Thí như thân người cao lớn.

Tu Bồ Đề nói:

–        Bạch Thế Tôn! Như lai thường nói thân người cao lớn, tức là không phải cao lớn, mới gọi là cao lớn! Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng như thế, nếu nói thế nầy, ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sinh, tức không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Tu Bồ Đề! Vì thật không có pháp gì gọi là Bồ Tát. Thế nên Phật nói tất cả pháp, không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả. Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nói như thế nầy, ta sẽ trang nghiêm cõi Phật, tức không phải trang nghiêm, ấy mới gọi là trang nghiêm. Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát thông suốt có ngã, pháp, Như Lai nói ấy mới gọi là Bồ Tát.

KHÁI LUẬN:

Tu Bồ Đề! Cho đến lúc nầy nghe Phật giảng nói nghĩa Kinh, và lời hộ niệm phú chúc cho các vị Bồ Tát, rất là rõ ràng. Hiện tại lại hỏi các thiện nam, tín nữ, phát tâm Bồ Đề, làm sao hàng phục vọng tâm. Những kiến chấp thánh phàm chưa dứt, đối với tất cả chúng sanh tức là nghĩa phi chúng sinh, lại chưa được triệt ngộ. Hơn nữa, nghe Như Lai vì những người phát tâm đại thừa mà nói, vì những ai phát tâm tối thượng thừa mà nói, luôn cả các thiện nam, thiện nữ, các thứ công đức trì Kinh, nghĩa Kinh và quả báo không thể nghĩ bàn. Liên tưởng đến các thiện nam cùng thiện nữ phát tâm bồ đề, không thể nào mà không thọ trì Kinh nầy.

Nhưng hiện tại và đời sau, các thiện nam tín nữ chưa được thân thừa các diệu pháp đã nói từ trước, vị tất đã lãnh hội những lời nói về đại thừa và tối thượng thừa nói trên. Nếu khi phát tâm bồ đề nầy, phải hàng phục vọng tâm như thế nào? Câu hỏi nầy ý chánh đã hỏi trong phần thứ hai của bản kinh nầy. Tự độ, độ tha, một tấm lòng rộng lớn, ở nơi đây có thể nhận thấy. Do đó, nên Phật Như Lai mới dùng vô pháp phát tâm đề, đoạn trừ pháp nghi của Ngài Tu Bồ Đề.

GIẢNG NGHĨA:

Trong thời gian nầy, Ngài Tu Bồ Đề đương cơ hướng về Đức Phật Như Lai xin hỏi:

–        Thiện nam, tín nữ nào đã phát tâm bồ đề, làm sao hay khiến tâm bồ đề thường trú? Làm thế nào hàng phục được vọng niệm?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Tâm Bồ Đề xưa nay đầy đủ, đương thể hiện thành, chẳng qua chỉ vì chúng sinh, bị trần nhiễm ngăn che. Thiện nam, tín nữ nào đã phát tâm bồ đề, lòng ham muốn chấm dứt, lý mới trở về chơn ngã. Đó là trụ tâm, ấy là hàng phục được tâm, không cần cầu việc gì hơn nữa (phải sanh tâm như thế). Như tất cả chúng sanh, phiền não, vọng tưởng, thủ xả, nhơn ngã, tham giận, ganh ghét, các loại trong bốn tướng. Như Lai tôi phải dùng nhiền phương tiện để trừ diệt và độ thoát. Nhưng Như Lai tôi thường nói diệt độ, chẳng qua chỉ điểm chơn tán, khiến chúng sanh tự ngộ, trong không thấy ngã tướng hay độ. Bởi vì chúng sinh đã thấy chơn tánh, đã diệt độ rồi thì bát nhã quán chiếu thường trú không diệt; nói một cách rốt ráo, thật không có một chúng sanh nào được tôi độ cả. Vì duyên cớ gì thế? Bởi vì Bồ Tát học đạo, nếu còn tâm nhờ Như Lai tôi diệt độ, thì in tuồng như bốn tướng chưa trừ, tức từ đâu mà phát tâm Bồ Đề? Lam sao xưng là Bồ Tát?

Đức Phật lại bảo Tu Bồ Đề:

–        Chính là tánh vốn không tịch, hồn nhiên thiên nhiên, ai phát tâm nầy, chẳng qua là tự tu tự ngộ mà thôi! Trong chơn tánh, thật không có pháp phát tâm Bồ Đề.

Đức Phật nói tiếp:

–        Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai tôi khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, có pháp gì đặng tâm bồ đề nầy không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Thế Tôn không có pháp đặng tâm bồ đề nầy, đó là đạo lý mà Từ Phụ thường nói. Từ Phụ khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, tự tánh tự ngộ, đều không có pháp gì chứng đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

–        Đúng như vậy! Phật nói, Tu Bồ Đề! Như Lai tôi, thời gian ấy, các hạnh đã tu, thật không đặng pháp bồ đề.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Nếu nói có phương pháp chứng đặng bồ đề, thì Phật Nhiên Đăng không cùng tôi thụ ký, tương lai sẽ được truyền trao phương pháp thành Phật. Lại nữa làm sao ký đời sau sẽ được làm Phật ư? Thật tại nhân vì không có pháp gì chứng đặng bồ đề cả. Vì thế, nên Phật Nhiên Đăng, mới cùng tôi trao lời thọ ký, dự định đời sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ông có biết ý nghĩa của Như Lai không? Như Lai là bản tính trạm nhiên, không nhiễm không trước, như như bất động, nên gọi lài Như Lai. Thản như người không biết dụng ý ấy, lầm nói là Như Lai tôi, riêng có pháp có thể đặng Bồ Đề.

Ngài dạy thêm:

–        Như Lai tôi đã đặng bồ đề là bình đẳng chân như, diệu pháp thật tướng, không thể dùng sắc tướng mà thấy, không thể dùng lời nói mà cầu. Vì thế, nên Như Lai tôi nói trong các pháp, hay tự ngộ chơn như, đều là Phật Pháp.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Song các pháp không thể đắm chìm trong cái đó. Nói rằng tất cả pháp, chẳng phải thật có đối với tất cả sự vật. Đó chỉ là giả danh mà gọi là tất cả pháp mà thôi.

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Ví như thân người cao mà lại lớn, đó có thật lớn hay không?

Đức Phật lại bảo:

–        Tu Bồ Đề! Ví như thân người cao ma lại lớn, đó có thật lớn hay không?

Tu Bồ Đề thưa:

–        Bạch Thế Tôn! Pháp thể thanh tịnh, lượng của nó như hư không như hư không, mới gọi là lớn. Đức Từ Phụ thường nói thân lớn, nó có sinh diệt, lại có hạn lượng, làm sao cho là lớn, chẳng qua là giả danh để gọi mà thôi.

Phật dạy thêm:

–        Bồ Tát cũng như thế, thanh tịnh chơn như, gọi là Bồ Tát. Độ sinh là bổn phận của Bồ Tát, nếu nói ta là Bồ Tát, phải diệt độ tất cả chúng sinh, thế là đã có ngã tướng, không phải là Bồ Tát. Ấy là thế nào?

Phật nói:

–        Tu Bồ Đề! Chỉ có sự thanh tịnh, gọi là Bồ Tát, thật không có pháp gì khác mà gọi là Bồ Tát. Do đó, nên Như Lai tôi nói trong tánh không có bốn tướng, chơn tánh không không suốt suốt, chẳng những không chúng sanh, mà không có chỗ nào gọi là Bồ Tát, nên biết lại không có chỗ nào gọi là diệt độ.

Đức Phật lại dạy:

–        Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát nói, ta sẽ trang sức nghiêm chỉnh cõi nước của Phật, ấy là còn trước có tướng, không được gọi là Bồ Tát. Vì lẽ đó mà Như Lai tôi nói trang nghiêm cõi Phật, chẳng phải trang nghiêm bên ngoài, chẳng qua là trang nghiêm giả danh mà thôi.

Đức Phật lại dạy thêm:

–        Tu Bồ Đề! Nếu buông bỏ đại triệt đại ngộ, nhơn không pháp không, rỗng nhiên vô ngã, thân ta đã không làm gì có tâm trang nghiêm độ sanh. Như thế thật là Bồ Tát.

 

Thơ 17:

Tu Bồ Đề bạch Phật thương,

Làm sao an trụ, khỏi vương vọng trần?

Phật dạy giải toải dần dần,

Rồi mới đi đến toàn phần chứng chơn.

 

Xưa kia nhờ đó ta hơn,

Nhiên Đăng thụ ký, Năng Nhơn ta bà,

Tâm ai còn chấp Phật Đà

Vô Thượng Chánh Đẳng ắt là khó thông!

 

Vì thế Phật nói chơn không,

Khiến cho sinh chúng đại đồng thân tâm,

Loài người, cõi Phật thậm thâm,

 

 PHẦN NHỨT THỂ ĐỒNG QUÁN THỨ 18

PHÂN GIẢI:

Đây nói tâm, Phật cùng chúng sinh cả ba không sai khác. Lìa chúng sanh không có Phật, lìa Phật không có chúng sinh, lìa tâm cũng không có chúng sanh và không có Phật. Trong tâm chúng sanh đều có Phật tánh, rồi qua lại sáu đường, tùy nghiệm mà lưu chuyển. Trong biển tánh của Phật vốn có chúng sinh, mà bao la muôn loài, tùy duyên bất biến. Danh tuy có chia phàm thánh, sự thật thể chỉ có một mà thôi. Chỗ sai khác đó, là tại vì chúng sinh, theo nghiệp dời đổi, rồi bỏ quên bản thể. Chư Phật không bị nghiệp chuyển vì đã liễu ngộ được chân tâm. Chỗ vi tế chuyển cùng không chuyển kia là do mức độ biết được chơn tâm, vọng tâm tới mức độ nào. Ngộ thì toàn tướng thành tánh, tức chỗ vọng thất chơn. Mê thì toàn tánh thành tướng, tức là chỗ chơn khởi vọng. Chơn vọng đồng thời, chẳng phải một, chẳng phải khác. Nói nhứt thể đồng quán, tức là nói chúng sanh Phật tánh sẵn có, cùng với Phật không hai không khác. Phật biết chúng sinh đồng thể, nhơn đồng thể mà khởi ra lòng đại bi.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có nhục nhãn không?

–        Như thế, bạch Thế Tôn! Như Lai có nhục nhãn.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có thiên nhãn không?

–        Bạch Thế Tôn! Như Lai có thiên nhãn.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có huệ nhãn không?

–        Đúng! Bạch Thế Tôn! Như Lai có huệ nhãn.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai có pháp nhãn không?

–        Như thế! Bạch Thế Tôn! Như Lai có pháp nhãn.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có Phật nhãn không?

–        Chính vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai có Phật nhãn.

Trong Kinh thường nói: Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, và Phật nhãn. Gọi chung là ngũ nhãn. Ấy là minh giác trong bản tính. Phàm thấy hình sắc của chúng sinh đầy đủ là nhục nhãn, sắc thân tự có nhục nhãn. Phàm thấy cả đại thiên thế giới, huệ tánh chiếu soi, yến sáng thâu nhiếp cả nghìn sa giới, gọi là thiên nhãn. Phàm thấy được tự tính bát nhã, trở lại soi sáng bên trong, đuốc trí thường minh. Ấy gọi là huệ nhãn. Phàm thấy các pháp đều không, rõ sự vật chẳng có, suốt thông cả thế giới, gọi đó là pháp nhãn. Phàm phóng hào quang sáng chói phá các tối tăm, thường chiếu chơn tánh, trên từ chư thiên, dưới đến địa ngục, mảy may không chướng ngại, ấy gọi là Phật nhãn.

Lục phàm chúng sinh, đều đủ năm thứ con mắt nầy, cùng Phật không hai. Vì bị bốn tướng, sáu trần ngăn che, chỉ có nhục đoàn nhãn hiển lộ mà thôi. Sách Nho nói: “Tim thánh nhơn có bảy lỗ”, tức là chỉ cho ngũ nhãn vậy.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như trong sông Hằng đã có cát, Phật hỏi cát ấy có thật hay không?

–        Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Như Lai nói có cát ấy.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như trong một sông Hằng đã có số cát, số cát trong sông Hằng như thế, cát trong sông Hằng, dùng một hạt cát so sánh một sông Hằng, so sánh hết cát kia, số nhiều của sông Hằng đã là vô lượng, đem vô lượng sông Hằng để so sánh thế giới. Một hạt cát so sánh một thế giới, mỗi thế giới đều có 3.000 đại thiên thì thế giới lại thành vô lượng vô biên. Thế giới Phật nhiều như số cát trong những sông Hằng. Thế giới Phật, trong 3.000 đại thiên, quyết có một đức Phật thi thiết giáo hóa, nên gọi đó là thế giới Phật. Như vậy có nhiều hay không?

–        Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

–        Trong các cõi nước ấy, đã có chúng sinh, có bao nhiêu loại tâm, Như Lai đều biết. Vì sao? Vì Như Lai nói các tâm, đều là phi tâm, ấy mới gọi là tâm. Phi tâm là tâm thể của người, xưa nay nó thanh tịnh, tất cả vọng niệm do trong hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, bi sinh ra, đều không phải tâm bản nhiên, nên gọi là phi tâm. Lý do vì sao? Tu Bồ Đề! Tâm quá khứ, không thể đặng; tâm hiện tại, không thể đặng và tâm vị lai cũng không thể đặng. Suy nghĩ việc trước là tâm quá khứ, suy nghĩ việc bây giờ là tâm hiện tại và suy nghĩ việc sau là tâm vị lai. Không thể đặng, chính là ý nói bản lai không có

KHÁI LUẬN:

Văn trên phá pháp chấp cùng ngã chấp, kết thành thông đạt không ngã pháp; không nói là “vô pháp” mà nói là “vô ngã pháp”, thì biết rằng diệt pháp là ngoan không, không đủ để nói diệu giác tròn sáng. Pháp chấp thì trụ tướng cũng không đủ để nói diệu giác tròn sáng. Nói ngã, pháp thế nào? Pháp chẳng phải có nhưng không rơi vào hư không, pháp chẳng phải không, song dính líu với tích môn; như vậy biết là “phi pháp” và “phi phi pháp”. Ai thông suốt nghĩa thật tướng kia, nhưng phải quên là “phi pháp và “phi phi pháp”. Những cảnh giới ấy, không đủ khả năng quán lại chiếu soi bên trong thì khó mà biết chỗ nhiệm mầu của nó. Do đó, nên phần căn bản dùng năm loại mắt, quán sa – giới đặt thành câu hỏi. Muốn quán người, trước phải quán ta, quán sát thấy ta xưa nay tánh giác thanh tịnh, rồi nhận rõ tâm bồ đề nầy, tức là đạo tâm vậy. Quán sát thấy ta, sau khởi ý niệm  lăng xăng, tức là biết không phải tâm bồ đề nầy cũng tức là tâm người phàm mà thôi.

Chúng sinh ở thế giới hằng sa, đều đủ có Phật tánh, cho nên gọi là Phật thế giới. Đức Phật quán sát mình rồi quán sát người, thì thấy chúng sinh nhứt thể; cho nên, nói bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết. Chúng sinh chạy theo tâm vọng, bỏ mất đạo tâm chính; cho nên nói đều là phi tâm, ấy mới gọi là tâm. Các thứ tâm ở quá khứ, hiện tại và vị lai, đều là vọng tâm. Trong tánh giác xưa nay, không có các vọng nầy.

Tóm lại, tâm thể chân thật, linh minh của nó có trước trời đất, mỗi người đều có đầy đủ: “Vô cực”. Tâm đó xưa nay thanh tịnh vô vi, nhưng sau đó lại bị trần lao che lấp; muốn người trong cõi nầy phân biệt tâm người và tâm đạo, không có công quán chiếu giác sát thì không thể được. Năm thứ mắt, mắt có đủ thần diệu giác sát; phi giác sát, không thể thông suốt “vô ngã pháp”.

LỜI PHỤ THUỘC

Ngài Đức Sơn Đại Sư, nghiên cứu tinh thông tạng luật, thông suốt các kinh tánh tướng. Điểm chính Ngài thường giảng Kinh Kim Cang Bát Nhã, rất là đắc ý. Đức Sơn Đại Sư họ Châu, người đời thường gọi là Châu Kim Cang. Ngài thường nói với bạn đồng học rằng: “Một mảy lông có thể thôn tính biển cả, hạt cải để trên mũi nhọn, mũi nhọn bén không động, học cùng chẳng học, chỉ có ta mới biết mà thôi”. Lời nói bí yếu trên, khiến đồng học thán phục một thời. Lúc bấy giờ ở phương nam nhiều vị mới tu chạy theo thiền tông, Đức Sơn Đại Sư có vẽ bất bình, Ngài nói: “Sa môn nghìn kiếp phải giử đủ oai nghi học Phật, muôn đời phải đủ tế hạnh học Phật. Huống chi học còn không được thành Phật. Ma tử ở phương nam kia dám nói câu thẳng chỉ lòng người, thấy tánh thành Phật. Ta sẽ đến quét sạch hào huyệt kia, diệt ý kiến đó, để trả ơn đức Phật.”

Lúc ấy, Ngài mang tập Kim Cang Sớ Sao, ra khỏi nước Thục, sang đến đất Phong Dương. Đi giữa đường bị đói, bị khát. Thấy có một tiệm trà, bà cụ đang bán bánh. Đức Sơn Đại Sư đến  trong tiệm mua bánh, nước để ăn uống. Bà cụ trong tiệm trà chỉ tập Kinh, rồi hỏi đó là vật gì?

Đức Sơn Đại Sư đáp:

–        Đây là tập Kim Cang Sớ Sao.

Bà cụ hỏi rằng;

–        Ngài thường giảng Kinh gì?

Đại Sư đáp;

–        Tôi thường giảng Kinh Kim Cang

Bà cụ nói:

–        Tôi có một câu hỏi, nếu sư đáp được thì tôi xin cúng dường buổi điểm tâm này, nhược bằng trái lại thì xin Ngài rời sớm chốn nầy.

Đức Sơn Đại Sư xin bà cụ hỏi. Bà cụ lại hỏi:

–        Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai cũng không thể được mà trong Kinh Kim Cang đã nói, không biết ý của sư sẽ điểm tâm nào?

Đức Sơn Đại Sư nghe câu hỏi nầy, không thể nào đáp một cách dứt khoát, nên mang hành lý ra đi. Sau đó Đại Sư đến chùa Sùng Tín, xứ Long Đàm, hết sức tinh tiến học hỏi và thật hành Phật Pháp, một hôm Ngài được đại triệt đại ngộ. Lục tổ đã nói: “niệm trước, niệm sau và niệm hiện, mỗi niệm không bị nhiễm tà kiến”. Ngài Trương Chuyết cũng nói: “Một niệm không sanh toàn thể hiện”. Nhơn thuộc phi tâm, cho nên phải gọi là tâm. Nếu biết tâm thể tịch tịnh, vốn không một vật, thì quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng không can hệ gì, thì đâu có mấy loại tâm, làm gì có tên thật để mà gọi ư?

GIẢNG NGHĨA;

Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề

–        Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai tôi có nhục nhãn không? Có thiên nhãn không? Có pháp nhãn không? Có Phật nhãn không?

Tu Bồ Đề đáp;

–        Vâng, bạch Thế Tôn, Như Lai có đủ ngũ nhãn.

Đức Phật nói:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như số cát sông Hằng, đem một hạt cát, so như một sông Hằng, tính hết số cát đó, so với thế giới chư Phật, thế giới chư  Phật có nhiều như số cát sông Hằng không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Rất là nhiều, bạch Thế Tôn!

Đức Phật lại bảo ngài Tu Bồ Đề

–        Không luận là nói các thế giới xa nhiều như số cát sông Hằng; chính là gần nhứt, như trong quốc độ mà các ông đang ở, đã có những tâm của chúnhu1ninh, theo vọng tình mà thay đổi,chạy theo ngoại cảnh mà sanh vọng tâm, điên đảo mộng tưởng, mỗi loại vọng tâm đều không đồng nhau. Như Lai tôi dùng năm loại mắt thanh tịnh, đều thấy và biết hết. Ấy là nhờ duyên cớ nào? Như Lai tôi đã nói tất cả tâm, đều là vọng tâm của chúng sinh, không phải trong tính không có chơn tâm thường trú, biết nó không phải là tâm vọng tưởng hẳn, mới hay hiện bản thể bồ đề. Như thế mới có thể gọi là tâm. Đó là duyên cớ gì?

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Như Lai tôi, cái phi tâm đã nói, ấy là chơn tâm thường trú, tịch nhiên không động, vật đến thì giác ngộ. Quá khứ không có tâm lưu lại, hiện tại không có tâm chấp trước, vị lai không có tâm dự kỳ, xét lại bên trong, thì cả ba tâm đều không thể được. Biết kia không thể được thì bát nhã xuất hiện thanh thanh tịnh tịnh. Nhờ đó, tâm người tịnh thì tâm đạo sanh; đây mới là chân tâm bồ đề. “Nhất thể đồng quán” vậy.

 

Thơ 18:

Tu Bồ Đề! Ngũ nhãn tôi:

Ông thấy có thật trong đời nầy không?

Thiện hiện lời đáp rất thông,

Tất cả đều có ngoài trong tinh tường.

 

Thế giới Phật quốc so lường,

Sông Hằng số cát tỏ tường nào hơn,

Bồ Đề bạch Phật tánh chơn

Hai bên so sánh Phật hơn quá nhiều!

 

Xét về tâm thức một chiều,

Ba thời không có là điều như nhiên,

Phi tâm Phật dạy thường xuyên,

Kim Cang tánh đức đại viên muôn loài.

 

PHẦN PHÁP GIỚITHÔNG HÓA THỨ 19

 

PHÂN GIẢI:

Pháp giới tức là mười pháp giới. Thông hóa là trí sáng thông suốt pháp giới, đưa vào hóa cảnh vậy. Phần trước nói ba tâm không thể được, đã nói tâm không thể được, thì phước không cần gì phải tu. Đây lại sợ người đời hiểu lầm, nên nói diệu lý phước mà không phước, đặng mà không đặng. Bởi vì phước mà không phước, mặc dù bố thí, mà quên sự bố thí. Đặng mà không đặng là sao? Là tuy có năng có sở, nhưng quên cả năng lẫn sở. Đại phàm trụ tướng bố thí đều là công dụng hữu vi, không trụ tướng bố thí, tức là công dụng vô vi. Phước hữu vi có ngày hưởng hết, phước vô vi, thời gian vĩnh viễn không cùng tận. Một bên là chỗ sở hành của vọng tâm, một . bên là chỗ kiến tánh của chơn tâm. Phần thứ 8 ở trên nói về bố thí bảy món báu, không bằng thấy tánh là nhiệm mầu. Phần thứ 11 nói bố thí bảy báu, không bằng trì Kinh này là thú thắng. Bởi vì trụ tướng là nhơn hữu lậu, nghiên cứu kỹ không thể nào đặng quả vô lậu vậy. Chỗ cao siêu của Bát Nhã, ấy là phước đức không thật tánh, ở trong không ngã, pháp, thông suốt vô ngại, sáng chiếu thật tế chơn không, thông hóa cả pháp giới, vô lượng vô biên vậy.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Nếu cò dùng bảy thứ quý báu, đầy cả 3.000 đại thiên thế giới, để mà bố thí, người dùng nhân duyên ấy, được phước nhiều không?

–        Bạch Thế Tôn! Như thế! Người đó dùng nhân duyên ấy được phước rất nhiều.

–        Tu Bồ Đề! Nếu phước đức có thật, Như Lai không nói được nhiều phước đức, vì phước đức nó không,phước đức không, tức là tâm lượng như hư không, nên đặng phước không lường. Như Lai mới nói được nhiều phước đức.

KHÁI LUẬN:

Phần này là lần thứ 6, dùng bảy thứ quý báu bố thí, so lường với công đức trì Kinh. Trước nói chỗ được phước đức. Ấy là phước đức hữu tướng. Đoạn văn này nói về phước đức ly tướng. Luận về đặng phước, tất có nhân duyên, có nhân duyên gì, tức là có phước ấy. Dù nếu có người, lấy tâm không thể đặng làm nhơn, dùng của báu đầy đại thiên thế giới làm duyên, bố thí đến mọi người, thì trong tâm có trụ trước nhân duyên; lại trụ nơi tướng hữu vi, cho là phước đức thật có (đây là gồm cả tài thí cùng pháp thí). Phật Như Lai đối trị ý này không nói được nhiều phước đức. Nên dùng tâm không làm nhân, thí của báu làm duyên, không trụ trước thì được nhiều phước đức, không thể so lường được. Tóm lại phần căn bản trước đã nói tâm không thể được, sợ chúng sinh đời sau, hoặc nghi phước không thể tu, nên dùng phước vô phước, rất là phá hại. Liền nói nhân duyên bố thí, phước do trồng bên ngoài, không bằng phước huệ song tu, phước huệ tự tính liền sanh một cách huy hoàng.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Nếu có người dùng bảy thứ quý báu đầy cả 3.000 đại thiên thế giới, đem ra bố thí. Người ấy dùng của này làm nhân duyên, trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu (nhơn hữu lậu). Người đó sẽ đặng quả phước đức có nhiều không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Người ấy nhờ nhơn duyên bố thí, phước đức rất nhiều.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Nếu đem phước đức hữu tướng cho là thật mà làm việc bố thí, thì tâm hồn bị đắm trước về phước, phước báo kia có hạn lượng, Do đó, nên Phật Như Lai không nói được nhiều phước đức. Phước đức mà Như Lai đã nói đến là bố thí không trụ tướng, dùng tâm không cầu phước (phước tánh vốn không, đức từ huệ phát sinh) mới là công đức vô vi thanh tịnh. Thế nên, Như Lai nói phước đức rất nhiều.!

 

Thơ 19:

Tu Bồ Đề! Nên xét soi,

Người đem cua báu cho loài hàm linh,

Nhơn duyên, phước đức phát sinh,

Bao nhiêu thắng lợi xin trình bấy nhiêu!

 

Bạch Thế Tôn! Phúc rất nhiều,

Như Lai thường dạy những điều cao hơn,

Phước đức vô tướng toàn chơn,

Dung thông tánh tướng, Linh Sơn hiện bày.

 

PHẦN LY SẮC LY  TƯỚNG THỨ 20

PHÂN GIẢI:

Trong Kinh văn nói: Các tướng là phi tướng, nói đi nói lại hai, ba lần. Đến đây nói ly sắc ly tướng, cùng văn trước lại sâu sắc hơn một tầng. Trước nói các tướng phi tướng là khiến cho người phá “tướng phần”. Sau đó, nói một đoạn rốt ráo vô ngã là phá “kiến phần” vậy. Tướng phần thuộc về sắc. Kiến phần thuộc về tâm. Tâm này là vọng tâm hay suy xét sự lý, vọng tâm này không thể hàng phục, mỗi thời gian vin níu với sáu trần giả cảnh, tức là pháp trần lưu ngại. Tu Bồ Đề đã đặng huệ nhơn không, biết 32 tướng là phi tướng. Rõ đặng kiến tướng phi chơn là phá kiến vậy. Nhơn, pháp, đều không, sắc tâm đều bỏ, tức là ngộ được phi không, phi sắc, lý chẳng phải một, chẳng phải khác. Bởi vì sắc tâm hai pháp, đối đãi nhau mà có, lìa đó là không được, tức đó cũng chẳng được. Nếu nói ly tướng, thì sắc thân chưa từng chẳng phải là pháp thân. Nếu nói tức tướng, thì người nói pháp không phải là sắc thân. Pháp thân chân chánh không thể dùng tức tướng kiến, cũng không thể dùng ly tướng kiến. Tức tướng kiến gọi là trụ tướng. Ly tướng kiến gọi là đoạn diệt. Nếu tức tướng mà không trụ tướng, ly tướng không sa vào đoạn diệt, ở trong tướng ngộ phi tướng kia, ở trong ngộ phi sắc kia. Thì đó là diệu lý thật hiểu biết lý tướng ly sắc vậy.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Phật có thể dùng đầy đủ sắc thân thấy được không? Đầy đủ là tròn đầy thành tựu, ý nói mảy may không kém thiếu. Sắc thân là ý nói 32 tướng tốt.

–        Chẳng như vậy, bạch Thế Tôn! Như Lai không thể dùng đầy đủ sắc thân mà thấy được. Vì sao? Vì Như Lai thường nói đầy đủ sắc thân, tức không phải đầy đủ sắc thân. Ấy mới gọi là đầy đủ sắc thân.

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai có thể dùng đầy đủ các tướng mà thấy được không? Đầy đủ các tướng, thần thông biến hóa, không những là 32 tướng tốt.

–        Bạch đức Thế Tôn! Không phải như vậy. Như Lai không thể dùng đầy đủ các tướng mà thấy được. Vì sao? Vì Như Lai nói các tướng đầy đủ, tức không phải đầy đủ. Ấy mới gọi là các tướng đầy đủ.

KHÁI LUẬN:

Phần thứ 5 trước là muốn cho mọi người thấy Như Lai vô tướng. Phần thứ 13 đã nói, cùng với kia thấy sự giả có của 32 tướng, không bằng trì Kinh thấy tánh là chơn. Trong phần này nói chẳng những 32 tướng là giả có, tức là thần thông biến hóa cũng không phải là tướng chân thật. Tóm lại, phần này cùng với phần thứ 5 và phần thứ 13 ý tướng đồng, chẳng qua là ý có cạn có sâu mà thôi. Dụng ý phải nêu hai điểm như sau:

1)     Nói Phật không tướng mới thấy, sợ e trong hàng đệ tử, nghi ngờ cho rằng đã không thân tướng, thì ai đã thuyết pháp

2)     Người tu hành trong đời mạt pháp, phần nhiều chấp sắc tướng, thiên trọng nơi bên ngoài với sự hương hoa, lễ bái, không chịu ngộ chân tánh tự mình. Do đó, nhắc đi nhắc lại, cốt yếu pháp sắc tướng đều là chấp trước hư vọng, để hiển lý, ly vọng thấy chơn.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Phật có thể dùng sắc thân đầy đủ thấy được chăng?

Tu Bồ Đề đáp;

–        Bạch Thế Tôn! Như Lai không thể dùng sắc thân đầy đủ mà thấy được, vì cớ sao? Vì Từ Phụ đã nói “Sắc thân đầy đủ, phải dùng tịnh hạnh, thế mới đầy đủ 32 tướng, mặc dù có thần thông biến hóa cũng không phải thật tướng kia vậy. Cho nên nói rằng đầy đủ sắc thân, không phải thật đầy đủ, đặc biệt gọi đó mà thôi.

Đức Phật lại nói:

–        Tu Bồ Đề! Ý ông suy nghĩ như thế nào? Như Lai có thể dùng các tướng đầy đủ thấy được không?

Tu Bồ Đề đáp:

–        Bạch Thế Tôn! Như Lai không thể dùng các tướng đầy đủ mà thấy được. Ấy là duyên cớ gì? Bởi vì Từ Phụ thường nói đầy đủ các tướng, không nên cố chấp các tướng, sắc thân đã thuộc hư giả, các tướng cũng không chân thật. Như Lai các tướng biến hiện, lấy pháp giới làm thể, khắp đầy hư không, ẩn hiện không thường, đặc biệt không thể chìm sâu nơi hình tướng. Cho nên gọi là phi đầy đủ mới thật là đầy đủ

Thơ 20:

Nghĩ gì về sắc thân này,

Dù cho thân Phật đủ đầy tinh thông,

Thấy được sắc tướng hay không?

Sắc mà phi sắc, liễu thông đạo mầu.

 

Ba hai tướng tốt khó cầu,

Không nên dùng sắc trong bầu chân như.

Thế nên dùng trí vô sư,

Tướng mà phi tướng, mới trừ lòng tham.

PHẦN PHI THUYẾT SỞ THUYẾT – THỨ 21

PHÂN GIẢI:

Phi thuyết là Như Lai thật không có ngôn thuyết. Pháp Như Lai đã nói, chẳng qua là muốn giải tỏa các ràng buộc của chúng sinh, rốt ráo không có pháp thật để nói. Nếu chúng sinh chấp trước Như Lai có ngôn thuyết, theo lời nói mà sinh ra hiểu biết, liền rơi vào chướng ngại ngôn ngữ văn tự, cho nên nói rằng phi thuyết. Sở thuyết tức là có xứ sở, có xứ sở tức là sa vào thinh trần. Phi thuyết sở thuyết là sao? Bởi vì không thể chấp trước thân tướng năng thuyết, cũng không thể chấp trước thinh trần sở thuyết, không sa vào hai bên có và không. Sự thuyết pháp của Phật, không có pháp nhứt định để nói, tùy theo trình độ cao thấp của chúng sinh, ứng cơ mà thuyết. Phải dùng pháp nào đắc nhật, Phật liền đem pháp đó dắt dẫn. Do đó, nên bậc chân chánh thuyết pháp, không ngôn thuyết, không khai thị; vị chân chánh nghe pháp, không nghe mà cũng không đắc. Nếu ai ngộ được diệu lý nầy, mới thật vào cảnh Bát Nhã.

–       Tu Bồ Đề! Ông chớ nói Như Lai nghĩ thế này; “Ta đã có thuyết pháp”. Chớ nghĩ như vậy là vì sao? Nếu có người nói Như Lai đã có thuyết pháp, tức là hũy báng Phật. Không thể nào hiểu lời tôi đã nói. Tu Bồ Đề! Người nói pháp, không có pháp gì để nói, mới gọi là thuyết pháp.

Lúc bấy giờ, ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch với Phật rằng: Huệ Mạng là thí dụ đem trí huệ làm thân mạng. Sinh mạng khi chết là tiêu diệt, còn huệ mạng thì được vĩnh viễn không bao giờ hoại diệt.

–       Bạch Thế Tôn! Vả lại có chúng sinh, ở trong đời vị lai, nghe nói pháp ấy, có sanh được lòng tin chăng?

Phật dạy:

–       Tu Bồ Đề! Kia không phải là chúng sinh, mà cũng không phải không chúng sinh. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Chúng sinh, chúng sinh là thế nào, Như Lai nói phi chúng sinh ấy mới thật là chúng sinh

KHÁI LUẬN:

Phần này là tiếp nối với văn ở trên, chẳng những thân tướng phi thân tướng, tức là nói pháp cũng phi thuyết pháp. Dùng lời nói chẳng phải pháp mới gọi là pháp để phá chỗ nghi pháp đối với Tu Bồ Đề. Dùng câu không phải chúng sanh mới gọi là chúng sanh là để phá cái nghi có chúng sanh đối với Ngài Tu Bồ Đề. Thật là thuyết pháp, phải biết đối với giáo pháp, nên không có trụ trước. Thật sự chúng sinh, nên biết diệt độ cho chúng sinh kỳ thực không có chúng sinh nào diệt độ cả.

 

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói:

–       Tu Bồ Đề! Như Lai tôi vì cơ duyên cảm ứng, tùy người ngộ bản tánh, gọi đó là yếu điểm, đầu tiên chưa từng có niệm thuyết pháp. Ông chớ nói Như Lai tôi có tâm nghĩ về thuyết pháp, đem pháp ấy khai thị cho người đời, ông chớ nghĩ như thế đó, vì sao? Vì nếu có ai nói Phật đã có thuyết pháp, ấy chính là người hiểu biết cạn cợt, câu nệ ở nơi văn tự, tức không khác gì người hủy bán đức Phật, không thể nào hiểu rõ đạo lý của tôi đã tuyên nói.

Đức Phật lại nói:

–       Tu Bồ Đề! Như Lai tôi, đã có phương tiện thuyết giáo ấy, chẳng qua là mượn khẩu thuyết diệu lý chơn không. Xưa nay không có pháp, chẳng qua là vì trừ diệt tà ngoại của chúng sinh mà nói, đó tạm gọi là thuyết pháp mà thôi.

Lúc ấy, Tu Bồ Đề hướng về Như Lai thưa;

–       Bạch Đức Thế Tôn! Con lo sợ chúng sinh ở đời vì lai, nghe nói, thuyết pháp mà không pháp, nói mà không nói, họ không thể tin hiểu, thì làm sao sanh lòng tin được?

Đức Phật dạy:

–       Chúng sinh mỗi người có Phật tánh (nên nói phi chúng sinh), hiện còn chưa giải thoát (nên nói chẳng phải không chúng sanh). Vì duyên cớ ấy nên phải tạm gọi là chúng sanh, đó là chưa liễu ngộ. Nếu đã liễu ngộ, tức thì “lập địa thành Phật”, vượt ra ngoài danh từ chúng sinh.

Thơ 21:

Các ông chớ nghĩ rằng ta,

Hô hào thuyết pháp trong đà độ sinh,

Nếu ai bảo Phật giảng Kinh,

Ấy là hủy báng, lại khinh phép mầu.

 

Pháp mà cón nói còn cầu,

Chưa phải pháp thật trong bầu vô vi,

Huệ Mạng bạch Phật tường tri,

Nói thế còn sợ đa nghi muôn loài.

 

Nhưng rồi Phật giảng trong ngoài,

Chúng sinh chớ nghĩ bản hoài chúng sanh,

Kim Cương đức tánh tinh anh,

Thoát ly tất cả các danh từ thường.

PHẦN KHÔNG PHÁP CÓ THỂ ĐƯỢC, THỨ 22

PHÂN GIẢI:

Diệu pháp bát nhã vốn là vật trong nhà mình, xưa nay không mất, từ đâu mà có đặng. Chỉ có chỗ đặng đều là lòng chấp chưa quên, năng, sở, chưa phá. Trước nói người đặng phước đức, đấy là phân tích bên sự. Nay nói không đặng là nói về lý tánh phước đức, không phải quả phước đức để so sánh. Quả phước đức còn có tướng thấy được, lý tánh phước đức thật không có tướng, làm gì thấy được. Chẳng những không pháp gì được, tức là người “năng đắc” cũng không. Tướng phần là “sở đắc”, kiến phần là “năng đắc” ; năng, sở đều phá, tức không thấy chúng sanh “sở độ” , không thấy thân mình là “năng độ”. Thế nên vô lượng chúng sinh ta độ, thật không chúng sinh nào được ta diệt độ cả.

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng;

–       Thế Tốn! Đức Phật đặng bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hay là không chứng đặng?

Đức Phật nói:

–       Như vậy, như vậy. Tu Bồ Đề, tôi đối với bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến không có một chút pháp nào có thể đặng, ấy mới gọi là bực Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

KHÁI LUẬN:

Trước thường nói tất cả đều không, đức Phật đối với Bồ Đề (chánh giác) thật không có pháp gì có thể đặng. Tu Bồ Đề triệt ngộ lý này, nhơn lại đương cơ hỏi thẳng Phật Như Lai đặng đạo Bồ Đề, rốt ráo thật không chỗ đặng ư? Dấu hỏi này, mặc dù in tuồng nghi vấn, gạn lại chỗ ngộ. Luận về “vô sở đắc”, mới là chơn đắc. Nói không đắc mà đều đắc, mới là chơn đắc. Phần này nói Như Lai không có pháp gì đặng Bồ Đề, cốt yếu phát minh Kinh Văn; diệt độ chúng sanh, thật không chúng sanh nào được diệt độ, đối với pháp không trụ tướng để thật hành đạo lý bố thí mà thôi.

LỜI NÓI PHỤ:

Lý vô đắc rất là tế nhị và cao thâm. Lúc sơ tổ đến đông độ phá chấp được sáu tôn, quán sát chỗ phá chấp kia có lời vấn đáp ‘vô đắc tôn”, mới vừa rõ chơn lý “không pháp gì có thể đặng”. Tổ sư hỏi:

–       Ông nói không đặng, không đặng cái gì? Đã không chỗ đặng, cũng không “năng đắc, sở đắc”.

Luc bấy giờ trong đại chúng có ngài Bửu Tịnh trả lời:

–       Con nói không đặng, chẳng phải không ‘năng đắc, sở đắc’, sẽ nói “năng đắc, sở đắc”, không đặng mà đặng”.

Tổ nói:

–       Đặng đã không đặng, đặng cũng chẵng phải đặng; đã nói “năng đắc, sở đắc. năng đắc, sở đắc’ cái nào.

Ngài Bửu Tịnh lại bạch:

–       Thấy đặng không phải đặng, chẳng phải đặng mới là đặng. Nếu thấy không đặng, gọi là “năng đắc, sở đắc”.

Tổ sư nói:

–       Đặng đã không đặng, ‘năng đắc, sở đắc’ cũng không đặng, đã không sở đắc, làm sao có ‘năng đắc, sở đắc’.

Ngài Bửu Tịnh lập tức giải tỏa lưới nghi.

Đoạn vấn đáp trên đây là pháp rất sâu. Tôn này lúc ấy bao gồm trong “Vô đắc tôn’. Thù bất tri còn giữ cái tâm ‘vô đắc’, là đã bị chấp hai chữ ‘vô đắc’. Diệu pháp Bát Nhã không cho sa vào ngôn ngữ văn tự. Nếu chấp trước không quên, đem tri kiến chúng sanh, vọng lường trí Phật, thì càng tìm càng xa. Vô Thượng Chánh Giác tức là trí huệ bổn lai thanh tịnh, chẳng phải riêng có pháp gì có thể đặng. Chỉ không còn một pháp, mới thông muôn pháp, mới là Vô Thượng Bồ Đề.

Có pháp có thể đặng,

Trở thành pháp ràng buộc,

Không pháp có thể đặng,

Ấy mới là giải thoát.

 

GIẢNG NGHĨA:

Tu Bồ Đề hướng về Phật Như Lai bạch:

–       Thưa Thế Tôn! Từ Phụ con đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rốt ráo thật không chỗ nào đặng ư?

Phật bảo rằng:

–       Như vậy, như vậy! Tu Bồ Đề! Tôi ở trong giáo pháp một mảy may cũng không đặng, vì có đặng là có mất. Đem sự đặng mất ấy nói, đều là vật ở ngoài thân, không phải tự tánh vậy. Tự tánh Bồ Đề, người người đều đủ, đâu có thể nói được, không có một mảy may nào có thể được. Ấy là Vô Thượng Bồ Đề

 

Thơ 22:

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

Thế Tôn chứng đặng Tánh-Hằng cao siêu,

Vô Thượng Chánh Giác mục tiêu,

Như Lai chỉ dạy, những điều con nghi.

 

Phật dạy như thế liễu tri,

Vô Thượng Chánh Đẳng vô vi muôn đời,

Quả vị còn chứng còn lời,

Trở thành những vật tạm thời có không.

 

PHẨN TỊNH TÂM HÀNH THIỆN, THỨ 23

PHÂN GIẢI:

Đoạn văn này từ ý ‘không có pháp gì có thể đặng’ mà đến. Phàm phu ra làm nghiệp lành, đều từ tâm cầu phước đức. Đã có tâm cầu phước đức, tức là thiện phước đức hữu vi. Vừa có tâm chấp trước đều là bất tịnh. Nay nói tịnh tâm, tức là không có tâm năng đắc, sở đắc, năng cùng sở không trụ, nên gọi là tịnh tâm.

Nói về thiện hạnh là thế nào? Tức là không có việc làm ‘năng hành và sở hành’, năng sở không lập. Cho nên gọi là thiện hạnh. Tóm lại tịnh tâm hành thiện là thế nào? Tức là thiện sở hành cũng quên, tâm năng hành cũng quên. Phát tâm từ bi, làm việc lợi ích, ngoài không chấp tâm sở độ, trong không chấp tâm năng độ, không chấp trước bốn tướng, thật hành tất cả pháp lành. Ấy gọi là chân chánh đắc bồ đề.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Thiệt Pháp bình đẳng, bình đẳng là thể của chân chánh, tu thiện là dụng của chơn tánh. Bởi vì chơn tánh đầy dẫy nhân từ, tu thiện là chỗ nhơn từ phát hiện, nhưng không bị phù trần che lấp, mây hết mặt trăng sáng, chỉ còn một bờ Bồ Đề mà thôi, không có cao thấp. Ấy gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì không có ngã, không có nhơn, không có chúng sanh và không có thọ giả, thật hành tất cả pháp lành. Phàm như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, đều là pháp lành minh tâm kiến tánh. Y theo pháp ấy mà thật hành, có thể phá ngã, đến chân, sùng đức, theo đạo, để tạo quả vị chí giác, liến đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Đã nói pháp lành, Như Lai nói tức không phải pháp lành. Ấy mới gọi là pháp lành.

KHÁI LUẬN:

Trước đã nói Phật đối với pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không có một pháp nào có thể đặng. Đức Phật lại sợ Tu Bồ Đề chấp trước cái vô ngã, nên phải kêu để nói thêm: bản giác mỗi người đều có, thánh nhơn hay phàm phu đều không sai khác, nhứt luật bình đẳng, không có cao thấp. Vì không có ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, thật hành tất cả pháp lành, liền đặng giác ngộ. Tóm lại Bồ Đề vốn không pháp, nhưng không thể không nhờ pháp tu trì. Đã đặng giác ngộ, pháp cũng chẳng lập, chính là trong Kinh văn nói rõ, có ngã, nhơn v.v…bốn tướng, tức không phải đạo lý Bồ Tát, nhưng đối với các pháp không có nghĩa sở trụ, lại được chỉ rõ.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề:

–       Tôi đã nói pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là chân tánh. Tại thánh không thêm, ở phàm không tổn, người người đều đủ, kiếp kiếp tương đồng, nên gọi là bình đẳng. Phật cùng chúng sanh, tánh không cao thấp. Ấy gọi là Vô Thượng Bồ Đề. Vì lẽ ấy nên ở trong chân tánh, vốn không có vọng niệm ngã, nhơn v.v…bốn tướng. Có vọng niệm ấy thì bị phù trần căn che lấp. Vì thế nên thật hành tất cả pháp lành để minh tâm kiến tánh, để thành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (quả Phật). Đức Phật lại bảo Tu Bồ Đề:

–       Như Lai tôi đã nói thiện pháp là thế nào? Đó là diệu tính tự nhiên trong bản tánh, xưa nay không có ác, thì làm sao mà gọi là thiện, chỉ vì muốn khai ngộ cho chúng sanh, quyền gọi đó là thiện mà thôi.

Thơ 23:

Tu Bồ Đề! Lý phải thông,

Thật pháp bình đẳng, chớ mong xa gần,

Quả Phật muốn được có phần,

Dứt trừ bốn tướng, ân cần pháp cao!

 

Không nên nghĩ tưởng công lao,

Pháp lành còn nói làm sao gọi lành,

Như Lai nhắc nhở đành rành,

Chữ Phi chữ Tức hoàn toàn lòng ta.

 

PHẦN PHƯỚC TRÍ KHÔNG SANH, THỨ 24

PHÂN GIẢI:

Phước có hai thứ: Phước thế gian và phước xuất thế gian. Phước thế gian nhờ sự bố thí mà có. Gieo nhân gì thì được quả phước ấy. Ấy là thiện hữu vi. Đặng phước thiện hữu vi, hưởng hết phước lại bị đọa lạc trong biển khổ sinh tử. Phước xuất thế gian, nhờ quán chiếu Bát Nhã mà có. Ai hay thâm nhập được bát nhã, tức là được giải thoát tự tại. Ấy gọi là phước vô tận. Phước không hết cũng không đọa lạc.

Trí cũng có hai thứ: Trí thế gian và trí xuất thế gian. Trí thế gian là thế nào? Đối với tất cả pháp thế gian hiểu rõ ràng, tuy nói rằng sự lý rõ ràng, nhưng chưa xả trần tướng, còn bị sự chướng. Trí xuất thế gian là thế nào? Đối với tất cả pháp xuất thế gian hiểu biết tận tường, năng sở đều quên, trừ hết lý chướng. Nay nói phước trí không so sánh là sao? Ấy là phước trí xuất thế gian. Chỗ khác nói là phước thanh tịnh, phước vô lậu. Không phải là phước thế gian như trên đã nói, và là trí hữu lậu mà có thể so sánh được.

–       Tu Bồ Đề! Nếu trong 3.000 đại thiên thế giới, đã có các núi Tu Di lớn, như thế bảy món báu chứa nhóm trong ấy, có người mang ra bố thí. Nếu có người dùng Kinh Bát Nhã Ba La Mật này, cho đến một bài kệ bốn câu v.v…thọ trì đọc tụng, vì người khác giảng nói, đối với phước đức (bố thí) trước, trăm phần không bằng một, trăm nghìn muôn ức phần, cho đế toán số, thí dụ cũng không thể bằng

KHÁI LUẬN:

Phật Như Lai lo ngại vì văn trên có nói ‘không có pháp lành”, chưa giải thích cặn kẽ. Phần này lại nói bố thí, không bằng phước thọ trì bài kệ bốn câu. Trước là nói chấp tướng, tham cầu lợi ích. Sau là nói ly tướng, siêu thắng vô lượng. Cũng chính là muốn luận về của báu vàng ngọc là những thứ ở ngoài thân, đặng phước thế gian, thọ hưởng có khi hết; trái lại Kim Cương Bát Nhã là của báu ở trong thân, là phước xuất thế gian, thọ hưởng không cùng tận. Dùng đây so sánh với kia, cách xa muôn muôn lần. Tóm lại, phần này cốt yếu là để so sánh phước cùng huệ (đây là so sánh lần thứ 7), thấy rằng Phật Như Lai thuyết Kinh chỉ một lần, so sánh cho người đời thấy, ân cần dặn dò, khó mà nói đến lần thứ hai, thứ ba vậy.

 

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo:

–       Tu Bồ Đề! Tu Di là núi lớn hơn các núi; nếu trong 3.000 đại thiên thế giới, chỗ có các núi Tu Di, có người chứa nhóm của báu như núi, rồi đem ra bố thí, phước kia tuy nhiều thật, nhưng đem ra so sánh, nếu có ai thọ trì đọc tụng Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật này, cho đến một bày kệ bốn câu, đều vì các người khác giảng nói, thì phước đức trước khó bằng phước đức này. Tuy là từ trăm phần, trăm nghìn muôn ức phần, cho đến phần nhiều như toán số, phần rộng như thí dụ cũng không thể bằng một phần trì Kinh.

 

 Thơ 24:

Của báu bố thí hằng sa,

Dĩ nhiên được phước, nhưng mà còn thiên,

Thọ trì Bát Nhã tinh chuyên,

Dùng bốn câu kệ, giảng khuyên mọi người.

 

So với phước đức vẹn mười.

Trăm nghìn muôn ức đều từ lòng ta,

Ngoài dù có phước hằng sa,

Không bằng tự tánh mới là viên dung.

 

PHẦN HÓA, KHÔNG CHỖ HÓA, THỨ 25

PHÂN GIẢI:

Hóa là thế nào? Dùng pháp hóa độ vậy.

Không chỗ hóa là thế nào? Dùng tâm  bình đẳng độ chúng bình đẳng, ngoài không thấy có chúng sở độ, trong không thấy có ngã năng độ, làm pháp quán pháp giới bình đẳng, khi nào cũng quên mình và người. Văn này là từ câu: “Thiệt pháp bình đẳng, không có cao thấp”. Đã nói thiệt pháp bình đẳng, không có cao thấp, làm sao lại có chúng sanh đặng độ vậy. Nếu theo lý pháp giới cùng sự pháp giới so sánh mà quan sát, tức là ngộ được chộ nhiệm mầu bình đẳng độ chúng sanh. Đứng về sự pháp giới mà quán sát, thật có chúng sanh được độ, nếu không có chúng sanh được độ thì Bồ Tát cần gì phải thật hành lục độ vạn hạnh? Đứng về lý pháp giới mà quán sát, thật không có chúng sanh nào được độ thì Bồ Tát tức không thể nào nhất thể đồng quán vậy. Rốt ráo chúng sanh làm sao thoát khỏi Bồ Tát hóa độ; Bồ Tát cũng làm sao mà quên công cuộc độ chúng sanh. Chẳng qua Bồ Tát ngộ lý bình đẳng, biết tâm, Phật cùng chúng sanh cả ba không có sai khác, cho nên nói hóa độ không sai khác. Do đó, mới nói “hóa không chỗ hóa” vậy.

–       Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ thế nào? Các ông chớ nói Như Lai suy nghĩ: Ta sẽ độ chúng sanh. Tu Bồ Đề chớ nên suy nghĩ như vậy, vì cớ sao? Thật không có chúng sanh nào Như Lai độ cả. Nếu có chúng sanh được Như Lai độ, thì Như Lai có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

–       Tu Bồ Đề! Như Lai nói có ngã, thì không phải có ngã, nhưng các người phàm phu  cho là có ngã. Tu Bồ Đề! Phàm phu là thế nào? Như Lai nói tức không phải phàm phu. Ấy mới gọi là phàm phu.

KHÁI LUẬN:

Phần căn bản, Đức Phật muốn phá nghi là có nhơn ngã, để hiển lộ pháp thân chơn ngã. Trước đã nói thiệt pháp bình đẳng, không có cao thấp. Phật Như Lai sợ người đời hiểu lầm, nghi ngờ cho rằng pháp đã bình đẳng thì không có Phật, không có chúng sanh, vì sao lại nói ta sẽ độ chúng sanh? Chúng sinh là muôn loài chúng sinh, ta độ chúng sanh là có ngã rồi. Do đó mà Như Lai phải nói vô ngã để kêu gọi thức tỉnh chúng sinh và phàm phu. Bời vì pháp giới bình đẳng, chúng sanh cùng Phật, đồng trong bản tánh. Phật cùng phàm phu đồng là một thể; dùng tâm từ mẫu tìm nhiều phương tiện giải nói để chúng sanh tự giác tự ngộ. Thật thì muốn ngộ tính kia, nên tìm lý do để độ.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật bảo:

–       Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Như Lai tôi độ người, chỉ muốn cho chúng sanh giác ngộ, chỉ dẫn chỗ giải thoát giác ngộ; bản lai chính là tự tánh tự độ. Các ông chớ nên nói Như Lai tôi có tâm hóa độ chúng sanh.

Đức Phật lại bảo:

–       Tu Bồ Đề! Ông chớ nên nghĩ duyên cớ ấy, nhơn vì tâm chúng sanh bản lai không tịch, trí tuệ bát nhã vốn tự đầy đủ; nếu nghe Kinh ngộ đạo, chúng sanh tự có thể hóa độ, thật tại không có chúng sanh để Như Lai tôi diệt độ họ. Nếu nói tất cả chúng sanh được Như Lai tôi độ hóa thì Như Lai tôi liền có ngã, nhơn v.v…bốn tướng, pháp bèn có cao thấp, không được bình đẳng vậy.

Đức Phật lại bảo Tu Bồ Đề:

–       Như Lai tôi có ngã, dù miệng nói có ngã, nhưng tâm không chấp.Ở phàm phu thì chấp trước có ngã, cho là chỉ có ngã năng độ, chẳng phải ngã thì không thể độ. Đó là ngã tướng.

Đức Phật lại bảo;

–       Tu Bồ Đề! Mê thì phàm phu, ngộ được làm Phật. Phật cùng phàm phu, vốn đồng một tính, vốn là bình đẳng, chỉ hay liễu ngộ, tức không phải phàm phu. Nhưng hạng nào chưa tỏ ngộ, nhơn danh đó mới gọi là phàm phu mà thôi.

Thơ 25

Các ông chớ nghĩ Như Lai,

Ra tay tế độ muôn loài chúng sanh,

Thật sự không có trọng khinh,

Kim Cang tự tánh, chơn minh vô cầu.

 

Tu Bồ Đế phải nghĩ sâu,

Phàm phu phi được mới mau siêu phàm,

Hóa mà không hóa, không tham,

Chúng sanh tâm Phật bao hàm như như!

 

PHẦN PHÁP THÂN PHI TƯỚNG, THỨ 26

PHÂN GIẢI:

Pháp thân giáp khắp pháp giới, không một chỗ nào mà không có pháp thân chơn thể của Như Lai. Pháp thân Như Lai là đầy khắp pháp giới, tức là không thể trụ tướng để quán Như Lai. Cho nên gọi là phi tướng. Như Lai biết phàm phu vọng tình cố chấp quá sâu, nếu nói thẳng pháp thân phi tướng, sợ người đời khó tin hiểu. Do đó, mà từ các phần trước lớp lớp phá nghi, phá chấp. Đến đây mới tận tình trình bày, bảo ngài Tu Bồ Đề răng pháp thân phi tướng, thì các nghi vấn từ trước một thời bị phá tan.

–       Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Có thể dùng 32 tướng quán Như Lai được không?

Tu Bồ Đề đáp:

–       Đúng vậy, đúng vậy! Dùng 32 tướng quán Như Lai.

Đức Phật nói:

–       Nếu lấy 32 tướng quán Như Lai, thế Chuyển Luân Thánh Vương tức là Như Lai. Chuyển Luân Thánh Vương, tức là bốn vị Đại Thiên Vương, quản thủ thiện ác trong bốn đại bộ châu: tháng giêng, tháng năm, tháng chín quán sát thiện ác châu Nam Thiệm Bộ; tháng hai, tháng sáu, tháng mười, quán sát thiện ác châu Tây Ngưu Hóa; tháng ba, tháng bảy, tháng mười một, quán sát thiện ác Châu Bắc Câu Lư; tháng tư, tháng tám, tháng mười hai, quán sát thiện ác châu Đông Thắng Thần. Chuyển động như bánh xe, nên gọi là chuyển luân.

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

–       Thế Tôn! Như con hiểu Phật đã nói nghĩa, không nên dùng 32 tướng quán Như Lai. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ rằng: (Kệ là phát lời thành câu).

Nếu dùng sắc thấy ta, (Như Lai)

Dùng tiếng giọng cầu ta,

Người ấy hành đạo tà (đạo tà tức là ngoại đạo)

Không thể thấy Như Lai.

KHÁI LUẬN;

Văn trên đã nói: Phi phàm phu, ấy mới gọi là phàm phu. Phần này lại dùng khác với phàm phu của Phật Như Lai là 32 tướng tốt. Do đó hỏi dùng 32 tướng tốt có thể quán thấy Như Lai không? Chính vì muốn phá 32 pháp tướng, dạy người không nên trụ tướng Như Lai. Vì thế nên KINH HOA NGHIÊM nói: ‘Không rõ chơn tánh kia, người ấy không thấy Phật”. Duy nội quán phản chiếu, tức tánh mà tìm cầu, mới có thể thấy Như Lai.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói:

–       Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Có thể dùng 32 tướng quán Như Lai không?

Tu Bồ Đề chưa thấu ý kia, nghĩ rằng muốn quán pháp Như Lai, sẽ không ra ngoài 32 tướng này. Thế nên Ngài đáp:

–       Đúng vậy, đúng vậy!

Đức Phật nghe thế mới hướng về Tu Bồ Đề nói:

–       Tu Bồ Đề Chuyển Luân Thánh Vương, cũng đủ 32 tướng sắc thân; nếu có thể dùng 32 tướng quán Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương đâu không phải là Như Lai ư?

Tu Bồ Đề theo tiếng ấy thưa rằng:

–       Bạch Thế Tôn! Con đã hiểu đạo lý mà Từ Phụ đã nói, không nên dùng 32 tướng mà quán Như Lai.

Thời gian ấy, Phật Như Lai chỉ bài kệ ly tướng để chỉ dạy. Là pháp thân bình đẳng đồng hư không, linh giác toàn chơn, diệu thể trạm tịch, lìa ngoài hình tích, vượt hẳn tai mắt; các ông nếu chạy theo nhan sắc để thấy hình dùng, hoặc nghe theo tiếng dạy, chạy theo âm thanh, dùng hai yếu tố này để tìm chơn tánh của ta; thì những người ấy chấp  nơi sắc thân thấy Phật, bỏ hẳn con đường chánh, hướng ngoài để tìm cầu. Đó tức  là đạo tà, quyết không thể nào thấy được bản lai diện mục của Như Lai.

 

Thơ 26:

Ba hai tướng là Như Lai,

Thánh Vương cùng Phật đúng sai lẽ nào?

Tướng tốt là Phật hay sao?

Không nên chấp trước, sợ vào đường ma.

 

Phật dạy dùng sắc thấy ta,

Âm thanh cầu Phật, thật là tối tăm,

Hạng ấy hành đạo muôn năm,

Không bao giờ thấy chơn tâm Phật đà!

 

PHẦN KHÔNG ĐOẠN, KHÔNG DIỆT, THỨ 27

PHÂN GIẢI:

Đoạn là chấp người chết rồi mất hẳn. Chấp trước sự vật trong thế gian, không khỏi được tri kiến điên đảo, cho nên ở trong đoạn chấp thường, ở trong thường chấp đoạn. Người đời chấp đoạn, nhưng pháp Bát Nhã không cùng tận, thì làm sao gọi là đoạn. Trái lại người đời cho là thường, nhưng pháp Bát Nhã có dụng tùy duyên, không thể gọi đó là thường. Nay nói không đoạn là thế nào? Là nói pháp Bát Nhã vốn không đoạn, không thường, không thể dùng kiến chấp rồi cho là đoạn là thường được.

Con diệt là dứt sự sanh diệt vậy. Người trong thế gian không ngộ được thật tế Niết Bàn vì sanh nói diệt, vì diệt nói sanh. Cho là diệt, nhưng pháp Bát Nhã vốn không sanh, không được nói là diệt. Cho là sanh, nhưng pháp Bát Nhã vốn không diệt, không được nói là sanh. Nay nói không diệt là thế nào? Ấy là nói pháp Bát Nhã vốn không sanh không diệt, không thể dùng pháp sanh diệt mà luận nói.

–       Tu Bồ Đề! Nếu ông nghĩ như vầy, Như Lai không dùng đầy đủ các tướng, đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Chớ nghĩ như thế, Như Lai không dùng đầy đủ tướng tốt để đặng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tu Bồ Đề! Nếu ông nghĩ rằng, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nói các pháp đoạn diệt, tức là nói tất cả pháp đều không thể ứng dụng. Chớ nghĩ như thế ấy. Vì sao? Vì người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt. Tức là nói khi chưa giác ngộ, quyết phải y theo Phật pháp mà tu hành vậy.

KHÁI LUẬN:

32 tướng là tướng trang nghiêm đầy đủ. Đức Phật đủ công hạnh vô lượng vô biên, rồi sau đó trạm nhiên viên tịch, hiện ra tướng nhiệm mầu, Phật đặng Bồ Đề, không duyên nơi tướng mà nhiệm mầu, mà do nơi công hạnh. Công hạnh khi viên mãn thì tướng nhiệm mầu tự hiện. Tướng nhiệm mầu này, không thể chấp có, cũng không thể chấp không. Chấp có thì trụ một bên tướng, làm sao thấy được Như Lai. Chấp không lại trụ ở một bên phi pháp, lấy gì để khuyến lệ công hạnh. Do đó lại phải trình bày, một là nói “nếu ông nghĩ như vầy”, hai là nói “chớ nghĩ như thế”.  Rồi lập lại “nếu ông nghĩ rằng”: người phát tâm Bồ Đề, nói các pháp đoạn diệt”. Lại trịnh trọng cảnh tỉnh: “Chớ nên nghĩ rằng: “Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, không nói tướng đoạn diệt”. Phần này điểm cốt yếu là muốn pháp tướng phi pháp, phá sự chấp không của các học giả.

GIẢNG NGHĨA:

Phật Như Lai, dùng 32 thứ tịnh hạnh, thành 32 tướng tốt.Ấy là do nhơn đã tu, nên mới chứng quả bồ đề, nhờ sức tu hành mới có. Do đó mà phải hỏi gạn: ông hoặc nghi Như Lai, không dùng tướng tốt cụ túc, để đặng Vô Thượng Bồ Đề này. Lại nữa, chính đáng Phật bảo: ông chớ nên nghĩ Như Lai thật không đầy đủ nhân duyên tạo tướng tốt nhiệm mầy này, mà được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Rồi một lần nữa, đức Phật còn cảnh tỉnh: nếu ông nói không nhờ tu phước, lại được thành bực Chánh Giác, thì tất cả pháp đều có thể bỏ mà không cần dùng, quyết đến chỗ trầm không trệ tịch, lạnh lòng mờ trí, rồi thành tướng đoạn diệt. Ý niệm này quyết định không thể khởi. Tóm lại, người phát tâm chánh giác, không nương theo Phật pháp tu hành thì không thể được. Cốt yếu là ở nơi KHÔNG nhưng không đoạn diệt, KHÔNG mà chẳng diệt.

 

Thơ 27:

Nếu ông cứ nghĩ đến ta,

Không cùng tướng tốt cao xa chứng thành,

Tu Bồ Đề! Chớ nghĩ rành,

Như Lai không tưởng thật hành chánh tri.

 

Thế là còn đoạn hữu vi,

Vì sao chớ nghĩ, chớ ghi đạo mầu,

Vì còn tướng tốt vọng cầu,

Còn sanh còn diệt, có đâu siêu phàm!

 

PHẦN KHÔNG THỌ KHÔNG THAM, THỨ 28

PHÂN GIẢI:

Lãnh nạp nơi thân gọi là thọ. Phàm người đối với trần tướng bên ngoài, không luận hoàn cảnh thuận hay nghịch, chỉ đem tâm thương ghét, đều gọi là thọ. Ngược lại tất cả cảnh thuận nghịch không thọ thộ mà chỉ phần tế, cũng gọi là thọ. Chỉ có lưu tâm động niệm đều gọi là thọ. Nếu xét căn bản tìm thọ, tức là ngã vi tế chưa quên. Đã thông suốt pháp vô ngã, vô ngã thì vô thọ, ngã năng thọ đã không, nên gọi là không thọ. Thường thấy mình chưa đủ gọi là tham, ham tìm vui ngũ dục không thôi dứt, gọi đó là tham, tham cầu phước đức gọi đó là tham, ham muốn Niết Bàn cũng gọi là tham. Bồ Tát sau khi ngộ lý vô ngã, không tham nghĩ ngũ dục, không ruổi tìm phước đức, không tiến tới Niết Bàn. Thế nên gọi đó là không tham.

–       Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát dùng bảy thứ báu đầy đủ cả hằng hà sa thế giới, đem ra bố thí; nếu lại có người, biết được tất cả pháp là vô ngã, thành tựu được đức nhẫn. Bồ Tát này thắng hơn Bồ Tát chỗ đặng công đức. Vì cớ sao? Tu Bồ Đề! Vì các Bồ Tát không thọ phước đức.

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

–       Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát không thọ phước đức?

–       Tu Bồ Đề! Bồ Tát phước đức đã làm, không hề tham trước. Vì thế, nên nói không thọ phước đức.

KHÁI LUẬN:

Pháp không đoạn diệt, nhưng pháp lại không chỗ trụ. Phật Như Lai, lại dùng Bồ Tát đem của báu bố thí đầy sa giới làm thí dụ để hiển thị công đức vô trụ hành thí. Tiếp theo nói rằng: Nếu có người biết tất cả vô ngã, đặng thành sức nhẫn, người ấy tức là chơn Bồ Tát, hơn công đức bố thí của Bồ Tát trước (đây là lần thứ 8 dùng 7 thứ báu bố thí để so lường công đức). Đây là chỉ cho ta công hạnh thực tại phát tâm Bồ Đề, đã không thể dùng tướng để quán, lại cũng không thể nói tướng đoạn diệt, đây tự có chân đế tồn tại. Phần này điểm cốt yếu là để phá phước đức không thể trụ, pháp chấp có của các học giả.

LỜI NÓI PHỤ:

Tất cả pháp phải cần vô ngã. Không thể vô ngã của người đời đều do không thể nhẫn. Không thể nhẫn thì làm gì có vô ngã ư? Sở dĩ nhần nhục ba la mật là vì hay nhẫn hay nhục, thậm chí không những quên nhục, cũng phải quên nhẫn nữa, nghịch đến lãnh chịu, lại thêm độ thoát, thì ngã mới được thành tựu. Không thể nhẫn, làm gì nói vô ngã, chỉ không có ngã mới hoàn thành nhẫn nhục. Đầy là bản lãnh tinh tấn kiên cường để thành Phật. Toàn bộ Kinh hơn 5.000 câu chỉ sớ giải mấy chữ này là lời tinh yếu của Phật Như Lai.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói;

–     Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát tuy dùng bảy thứ báu làm việc bố thí trong vô lượng thế giới, vì tâm trước tướng, nên phước có sở đắc, mặc dù nhiều, nhưng có hạn. Nếu lại có người, tâm không trước tướng, biết tất cả pháp vô ngã, mỗi thời mỗi thời nhẫn, mỗi việc mỗi việc nhẫn, kiên trì nhẫn nại, nhẫn ở trong nhẫn, cho dến nhẫn mà quên nhẫn, vô ngã mới được hoàn thành. Như thế thì Bồ Tát này công đức sở đắc, so với công đức của Bồ Tát trước lại quá nhiều. Vì sao vậy? Vì nhờ nhơn ly tướng, thì đặng quả thù thắng, song mà không lãnh thọ.

Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:

–     Thế Tôn! Nhơn quả thọ thí, lý nó tự nhiên. Sao lại nói Bồ Tát không thọ phước đức?

Do đó, Đức Phật lại bảo:

–     Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí độ sanh vốn là hành chỗ phải hành, ban đầu không có nghĩ kể công lao, phước đức đến cùng không đến chẳng màng, cho đó rồi thôi. Đó gọi là không tham không thọ.

Thơ 28:

Bồ Tát bố thí ra làm,

Bảy báu ban rải thánh phàm ngợi khen,

Thế, thua pháp ngã một phen,

Công đức thù thắng khó xem ngôn từ.

 

Vì sao tu kiến mỗi người,

Không thọ phước đức vẹn mười về sau,

Tu Bồ Đề hỏi một câu,

Tai sao Bồ Tát không cầu vinh quang?

 

Đức Phật dạy lý Kim Cang,

Ra làm phước đức chớ mang lòng trần,

Không tham, không trước, không phần,

Phúc đức không thọ mới gần chơn tâm.

 

PHẦN OAI NGHI TỊCH TĨNH, THỨ 29

PHÂN GIẢI:

Oai nghi tức 32 tướng, 80 vẻ đẹp, tướng muôn đức trang nghiêm. Tịch tĩnh là thế nào? Tức là thể vắng lặng, không khứ không lai, chẳng động chẳng tịnh. Trong Kinh Tịnh Danh nói: “Không khởi diệt tận định, nhưng hiện các oai nghi, lúc nào cũng hiện bày hóa thân Bồ Tát”. Ý chính muốn nói Đại Bồ Tát, thể dụng không hai, mỗi thời ở trong định, không có dấu tích khứ lai xuất nhập. Luận về Bồ Tát còn có dụng oai nghi, không mất thể tịch tĩnh, huống chi là Như Lai ư? Như Lai thì tức oai nghi, tức tịch tĩnh, tức thể, tức dụng, tức dụng, tức thể, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, vô trụ mà không tự tại vậy. Đoạn văn này là tứ ý vô ngã vô thọ mà đến. Đã còn nói vô ngã vô thọ, thì Như Lai hiện có khứ, lai, tọa, ngọa, đâu không phải là ngã tướng ư? Đã hiện ngã có tướng, thì đâu không thật có thọ ư? Bởi vì chỗ thấy ba thân một và khác chưa quên, không rõ nhất thể của ba thân, còn chưa ngộ lý bình đẳng pháp thân. Nay nói oai nghi tịch tĩnh là sao? Như Lai tuy hiện tướng oai nghi, không phải là thể tịch tĩnh. Mặc dù là thể tịch tĩnh, nhưng tùy tướng hiện oai nghi. Như Lai ba thân tức một thể, một tức ba, ba cũng tức một. Thế nên nói oai nghi mà tịch tĩnh.

–     Tu Bồ Đề! Nếu có người nói, Như Lai, hoặc đến, hoặc đi, hay ngồi hay nằm, người ấy không hiểu nghĩa mà tôi đã nói. Vì sao? Vì Như Lai là không có chỗ nào đến, mà cũng không nơi nào đi, cho nên gọi là Như Lai.

KHÁI LUẬN:

Trước nói Như Lai không thể dùng tướng quán sát, nhưng lại chẳng phải không tướng. Tướng vốn là pháp sở hiện, cho nên đối với pháp không nói tướng đoạn diệt, nhưng lại không thể trước pháp, thẳng nói đến pháp vô ngã, được hoàn thành đức tín nhẫn nhục, biết tất cả pháp vô ngã, thì Bát Nhã được hiển lộ, thành được sức nhẫn thì chứng được ba la mật. Từ đây, xét lại chỗ cùng cực, tức là Như Lai. Như Lai là các pháp như ý, tức là Thành Nhơn từ tâm biến khởi, không vượt ngoài tánh linh, thì đâu có đến, đi, ngồi, nằm. Phật Như Lai nhơn đó bảo rằng:

–     Nếu có người nói, Như Lai hoặc đến, hoặc đi, có ngồi, có nằm, người ấy không hiểu được đạo lý mà tôi đã nói. Chính là không liễu ngộ chân đế viên diệu, trụ nơi tướng danh tự của Như Lai. Ngài lại dạy thêm không chỗ đển cũng không nơi đi. Ấy gọi là Như Lai. Lời nói ấy như bất động, trước trời đất khí tượng vô cực. Đã đem nhứt hiệp tướng không thể nói để ra ngoài ngôn thuyết.

Trước đem 32 tướng để quán Như Lai, là nói tướng ngôn tự. Đây chính là nói danh tự Như Lai. Pháp tướng không thể chấp, tướng phi pháp không thể chấp, tướng phước đức không thể chấp, tướng danh tự không thể chấp, thì được tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, như mây tan mặt trăng hiện. Phần này cốt yếu nói rõ ý nghĩa của Như Lai và chỉ pháp thân vô tướng, cũng chính là để phá tướng danh tự Như Lai không thể trụ vậy.

LỜI NÓI PHỤ:

Người đời phần đông dùng trong bốn oai nghi, cầu Phật qua sắc thân hữu tướng, mà không biết Phật trong Bát Nhã chơn tính. KINH HOA NGHIÊM nói: “Nước trong mặt trăng hiện, mặt trăng vốn không đến, mây ngăn mặt trăng bị che, mặt trăng cũng chẳng đi đâu. Cũng như vậy, tâm yên tịnh thì thấy Phật, không phải là Phật từ đâu dến, tâm nhơ đục thì không thấy, cũng chẳng phải Phật đi đâu”. Tâm người tự có nhơ sạch, Phật vốn không bao giờ có khứ lai. Ba mươi hai pháp tướng là ứng thân hóa hiện của Như Lai thôi!

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói;

Tu Bồ Đề! Nếu có người dùng bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm của Như Lai tôi, mà chỉ cho đó là Như Lai. Ấy đều là chấp trước ở nơi hữu tướng, thật chưa hiểu được đạo lý mà tôi đã nói. Duyên cớ ấy là do Như Lai, chơn tánh Phật vậy. Chơn tánh như như, đầy khắp pháp giới; tùy theo cảm ứng mà có phát hiện, đến vốn không đến, có khi phải ẩn kín, đi cũng không đi. Duy nhất không khứ lai, cho nên gọi là Như Lai, tức là diệt không, cảm mà bèn thông suốt đó vậy.

 

Thơ 29:

Tu Bồ Đề! Nghĩa thậm thâm,

Nếu có người nói, mê lầm cần chuyên,

Như Lai nghĩa thật chân nguyên,

Không đi, không đến, không riêng, không ngồi!

 

Xuất trần chấp tướng giống đời,

Sự thật mà nói không rời mảy may,

Không lai, không khứ xưa nay,

Thế nên mới gọi ĐỨC THẦY NHƯ LAI.

 

PHẦN NHỨT HIỆP LY TƯỚNG, THỨ 30

PHÂN GIẢI:

Nhứt (một) thì không khác, khác thì không nhứt (một). Nếu nói vi trần không phải thế giới thì khác, nếu nói vi trần tức thế giới là một. Nếu nói là một, thì làm sao có tên vi trần thế giới; nếu nói là khác thì thật không chia thế giới vi trần. Bởi vì vi trần nhóm lại tức là thế giới, thế giới tan hoại tức là vi trần. . Nói khác không được, nói một cũng không được. Nói hợp không được, nói chẳng hợp cũng không được. Vì hợp một thì không thể khác, hợp khác thì không thể một, đây là mê nơi một và khác, đều không rõ lý pháp thân bình đẳng. Nói tướng một, khác đều là hiểu biết của chúng sanh. Kỳ thật tướng một khác, đều do bịnh chấp danh chấp thủ. Bởi vì thế giới vi trần này đều không phải thật có; nếu vi trần là thật có, tức không thể nhóm họp thành thế giới; nếu thế giới là thật có, tức không thể tản mác thành vi trần.

Một vi trần gồm có 5 đại tánh, thế giới cũng gồm có 5 đại tánh. Một vi trần tánh, tức tánh thế giới, thế giới tánh tức là tánh vi trần, chẳng phải một, chẳng phải khác.Tìm tướng một khác kia, rõ không thể được. Nếu ai nói một tướng hiệp không phải một hiệp tướng, đều là biên kiến vậy. Rốt ráo chơn tế pháp thân, tướng nhất hợp không thể thấy tức là lý nhứt hợp cũng không thể thấy. Danh tướng đều không, ngôn ngữ đạo đoạn, bình đẳng bình đẳng, trở về chơn tế pháp thân.

–     Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, đem 3.000 đại thiên thế giới nghiền nát như vi trần, ý ông nghĩ thế nào? Các vi trần ấy có nhiều hay không?

–     Tu Bồ Đề thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn!

–     Vì cớ sao? Vì nếu vi trần ấy thật có nhiều, Phật liền không nói vi trần ấy là rất nhiều. Lý do vì  sao? Vì Phật nói số vi trần nhiều, tức là không phải là vi trần nhiều. Ấy mới gọi là vi trần nhiều.

–     Bạch Thế Tôn! Như Lai đã nói 3.000 đại thiên thế giới, tức không phải thế giới, ấy mới gọi là thế giới. Vì cớ sao? Vì nếu thế giới thật có, tức là nhứt hiệp tướng. Chân tánh dung thành, hồn nhiên như vậy, không hai không khác. Ấy gọi là nhứt hiệp tướng. Như Lai nói nhứt hiệp tướng, tức không phải là nhứt hiệp tướng. Ấy gọi là nhứt hiệp tướng.

–     Tu Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng, tức là không thể nói, nhưng các người phàm phu, tham trước việc kia. Tham trước là quyến luyến vậy. Tham trước những việc kia, tức là sắc trong sáu căn vậy.

KHÁI LUẬN;

Phật Như Lai, sợ Ngài Tu Bồ Đề chấp kiến chưa dứt, không rõ chơn đế bát nhã, chưa thông lý pháp thân, ứng thân, cho nên dùng 3.000 đại thiên thế giới nghiền nát thành vi trần, lập thí dụ để pháp trừ. Bởi vì ứng thân không là pháp thân, cũng như vi trần không lìa thế giới. Thế giới dụ cho pháp thân, vi trần dụ cho ứng thân. Thế giới nghiền nát thành vi tràn, tức là pháp thân chia thành ứng thân. Vi trần nhóm thành thế giới, tức là ứng thân quy về pháp thân. Ứng thân chẳng phải khác, ứng thân cũng là thể của pháp thân. Pháp thân chẳng phải một, pháp thân hay khởi dụng ứng thân. Vi trần không phải thế giới, nhưng vi trần thật là thể của thế giới. Thế giới không phải vi trần nhưng thế giới thật do vi trần mà phát khởi. Đức Phật nói thế giới nghiền nát thành vi trần, chính là nói pháp thân chia mà thành ứng thân. Pháp thân vốn như hư không, thì ứng thân lại không phải thật có. Thế giới vốn như hoa trong gương, thì vi trần cũng đồng như mặt trăng dưới nước. Vi trần đã không thật có thì thế giới cũng không thật có. Thế giới nếu là thật có, tức là một thể, tức là nhứt hiệp tướng tức là không thể nghiền nát thành tướng vi trần.

Tóm lai, ứng thân đã không thật có, pháp thân cũng không thật có. Pháp thân nếu là thật có, tức là một tướng, một tướng cũng là nhứt hiệp tướng, tức không thể phát khởi thành tướng ứng thân. Chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải hiệp, chẳng phải không hiệp. Do đó, nên Như Lai nói nhứt hiệp tướng, tức không phải nhứt hiệp tướng, chỉ giả danh nhứt hiệp tướng mà thôi! Phần căn bản cốt yếu chỉ rõ có tướng đều là hư vọng, để phá nhứt hiệp tướng cũng không thể trụ.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật dạy:

–     Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam, tín nữ nào đem 3.000 đại thiên thế giới, nghiền nát chia thành hạt bụi nho nhỏ, ý ông nghĩ sao? Như thế có nhiều không?

 Tu Bồ Đề thưa:

–     Bạch Thế Tôn! Vì hạt bụi không thật, nên thấy rất nhiều. Vì cớ sao? Bởi vì những hạt bụi này dù nhiều vô số, song không có định thể, khởi diệt chẳng thường, có sanh có diệt, cuối cùng không thật có. Nếu vi trần thật sự có thì Phật Như Lai tức không nói là vi trần chúng. Bởi vì Phật nói vi trần chúng không chân thật, tức là thế giới cũng không thật có, nên tạm gọi đó là vi trần chúng mà thôi.

Tu Bồ Đề lại hướng về Đức Phật bạch rằng:

–     Thưa Thế Tôn! Từ Phụ đã nói 3.000 đại thiên thế giới, cũng là một sự chứa nhóm vọng trần, thành tức có hoại, cuối cùng đến chỗ chấm dứt.  Hư huyển không thật, nên chẳng phải thật thế giới. Chỉ tạm gọi là thế giới mà thôi. Ấy là thế nào? Lý luận trong thế giới bản thể thật có. Duy có nhứt hiệp tướng, nó chính là chân tính vậy, thường trú không hoại. Một là không thể chia ra làm hai, hiệp không bao giờ tách rời. Như Lai nói nhứt hiệp tướng, dùng hư không dụ cho bình đẳng chơn tánh, không thể dùng ngôn nghữ hình dùng, tức không phải nhứt hiệp tướng, chỉ gắng gượng gọi đó là nhứt hiệp tướng mà thôi.

Như Lai biết Tu Bồ Đề đã triệt ngộ tính chân thật kia, nên hướng về Tu Bồ Đề nói:

–     Đạo lý nhứt hiệp tướng, không mà chẳng không, nhiệm mầu không thể nói. Nhưng các hạng người tầm thường, bản tính che lấp vởi vô minh, con mắt tham trước, nhận huyển duyên cho là cảnh thật, chấp trước nhiều lớp, không thể nào liễu ngộ.

 

Thơ 30:

Tu Bồ Đề! Nếu có ai,

Đem nhiều thế giới, công khai đập nghiền,

Trở thành bụi đất chia riêng,

Ông xem như thế, có phiền lắm không?

 

Bạch rằng số ấy khó thông,

Như Lai đã nói mênh mông vi trần,

Thế là đừng chấp có phần,

Luận qua thế giới, cũng gần như nhau.

 

Phật nói nhứt hiệp trước sau,

Tức phi nhứt nhiệp mau mau kiện toàn,

Những người mê chấp nói càn,

Tham trước danh tướng, Kim Cang bị mờ

 

PHẦN TRI KIẾN KHÔNG SANH, THỨ 31

PHÂN GIẢI:

Thật biết in tuồng như không biết, nhưng không chỗ nào mà chẳng biết. Thật thấy hình như không thấy, song không chỗ nào mà chẳng thấy. Phàm phu không ngộ được lý Bát Nhã, không thể hàng phục vọng tâm. Phàm có biết thấy, ngoài không thể lìa sáu trần, trong không thể lìa duyên ảnh, biết thấy càng nhiều thì trần lao càng lắm, trọn ngày bị tri kiến làm mê, không vướng năng tri kiến, thì cũng sa vào sở tri chướng, không mê nơi tướng phần sở kiến, thì cũng phải mê chỗ kiến phần năng kiến.

Vọng cảnh huân tập vọng tâm, vọng tâm chấp lấy vọng cảnh, đều là ngoài tâm chấp pháp, đối với tự mình, trên bản tánh lại thêm chướng ngại. Chỗ khác đã nói: Dứt trừ phiền não lập thêm bịnh, xu hướng chân như đều là tà. Nếu ai “trực hạ” không sanh tri kiến, rõ biết niết bàn cùng sanh tử, đều như hoa đốm giữa hư không, bản nguyên tâm thể thanh tịnh, lúc bấy giờ tròn sáng khắp nơi. Thế nên Đức Phật nói: ta đối với bồ đề thật không sở đắc, sợ người đời không tin lý này, nên dẫn năm nhãn bị thấy, năm lời bị nói, chân thật bất hư để chứng minh. Song đã nói rằng tri kiến, cũng không phải hoàn toàn không tri kiến, nếu toàn không tri kiến, tức thành đoạn diệt. Đã nói không sanh là không sanh tà tri kiến, chẳng phải là không chánh tri kiến. Nếu ai thấu dụng bát nhã, không xa lìa tri kiến, khéo hay phân biết tướng của các sự vật, đối với đệ nhất nghĩa không bao giờ động, liền liễu ngộ bản tâm, biết như vậy, thấy như vậy, không sanh vọng tướng sự vật.

–     Tu Bồ Đề! Nếu người nói, Phật đã nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ như thế nào? Người ấy hiểu được nghĩa ta đã nói không?

–     Bạch Thế Tôn! Chắc là khó hiểu. Người ấy không thể hiểu nghĩa Như Lai đã nói. Vì cớ sao? Thế Tôn nói ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức không phải ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến. Ấy mới gọi là ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến và thọ giả kiến.

–     Tu Bồ Đề! Người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với tất cả sự vật, phải biết thật đúng, phải thấy thật đúng, biết đúng, thấy đúng, tức là chơn tri, chơn kiến của Vô Thượng bồ đề, tin hiểu đúng như thật, không sanh vọng tướng các sự vật. Sự vật đây là muôn sự muôn vật; tướng tức là hình tích. Không sanh vọng tướng các sự vật là thế nào? Vật gì có hình tướng, như chấp có ngã, nhơn, chúng sinh, thọ giả, đều không móng vọng tâm chấp tướng. Tu Bồ Đế Đã nói là pháp tướng Như Lai nói tức không phải pháp tướng. Ấy mới gọi là pháp tướng.

KHÁI LUẬN:

Đức Phật lại sợ Tu Bồ Đề nghi thể pháp thân, đã không thể cùng thấy thì làm sao Phật Như Lai cũng từng nói ngã, nhơn các kiến chấp v.v…nhơn đó mà phá kiến chấp có ly tướng để hiển lộ chơn đế bát nhã.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật nói:

–       Tu Bồ Đề! Nếu có người nói Đức Phật nói ngã, nhơn v.v…bốn kiến chấp, ý ông nghĩ thế nào? Người ấy quả thật đã hiểu rõ đạo lý của tôi nói không?

Tu Bồ Đề đáp:

–       Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói bốn chấp siêu việt ngoài ý nghĩ của người đời, họ không thể nào hiểu thấu. Những người ấy đâu có thể lãnh hội được đạo lý của Như Lai đã nói? Bốn kiến chấp mà Thế Tôn đã nói, chỉ vì muốn hàng phàm phu, nhổ sạch gốc bịnh, chẳng qua là mượn tên của bốn kiến chấp này mà thôi. Nếu diệu trí tuệ trong chơn tánh như vầng thái dương ở giữa hư không, suốt thông không ngăn ngại, tức là không cò vọng kiến ngã nhơn, chúng sanh và thọ giả.

Đức Phật lại nói với Tu Bồ Đề:

–       Phàm người phát tâm Chánh Đẳng Chánh Giác đã liễu ngộ được lý nhiệm mầu vô tướng, tự nhiên thật hành diệu hạnh vô tướng. Biết như thế thì cái biết không bị che; thấy như thế thì cái thấy không bị ngăn. Tin hiểu như vậy, tức là giác ngộ nhiệm mầu, không bao giờ sanh vọng tướng sự vật. Vọng tướng dứt trừ, hằng không thoái chuyển. Thế là có sự nhiệm mầu vô tướng chân không. Cuối cùng đức Như Lai nói thêm:

–       Tu Bồ Đề! Pháp tướng vốn không, tức không có pháp tướng. Ở trong không có tướng, ấy mới gọi là pháp tướng. Thật là pháp tướng chân không thì chẳng có vọng kiến nào mà có thể so sánh được.

Thơ 31:

Nếu ai còn bị chữ ngờ,

Ngã, nhơn bốn chấp, tôn thờ lời ta,

Ông có cho đó cao xa?

Hay là giải tỏa cho ra luân hồi?

 

Những người phát chí tô bồi,

Vô Thượng Chánh Đẳng không rời kiến tri,

Tín giải chơn thật chi si,

Không sinh vọng chấp, mâu ni hiện bày.

 

Pháp tướng đã nói lâu nay,

Tức phi pháp tướng có ngài toàn chân,

Ấy là pháp tướng hiện thân,

Như Lai thuyết giáo, không cần nghĩ suy.

 

PHẦN ỨNG HÓA PHI CHƠN, THỨ 32

PHÂN GIẢI:

Đây là văn tổng kết, nói rằng pháp thân phi tướng, ứng hóa không thật. Các đoạn trước nói nhơn pháp đều không, đã là nhơn pháp đều không, trì Kim có lợi ích gì? Sở dĩ phần chót quy kết vẫn tôn trọng sự thọ trì đọc tụng. Bởi vì chúng sinh mỗi người trước tướng, nếu không theo pháp Bát Nhã, thọ trì đọc tụng, thì khó mà ngộ lý pháp thân, phi tướng. Không sanh tuy ngộ toàn thể pháp thân, lại nghi ngờ phát thân không ngôn thuyết, đã là pháp thân không ngôn thuyết, thì tại sao Như Lai hiện có ngôn thuyết. Như Lai đã có ngôn thuyết, đó không phải là hữu tướng hữu thuyết? Người chưa liễu ngộ đều do không hiểu hóa thân của Phật thường nói cáp pháp NHƯ NHƯ. Kỳ thật hóa thân chẳng phải ứng thân, ứng thân chẳng phải hóa thân, có khi cũng ứng cũng hóa, có lúc không ứng không hóa, toàn là đại dụng pháp thân. Thế nào gọi là hóa thân không ứng thân? Pháp thân là pháp thường trú, tùy tâm chúng sanh được sự cảm ứng, ẩn trong thân Phật, hoặc hiện thân rồng, quỷ.

Thế nào gọi là ứng thân chẳng phải hóa thân? Ứng theo địa phương, tùy theo căn cơ hiện thân Phật, chẳng bị nhiếp trong ngũ thú vậy. Thế nào gọi là cũng ứng cũng hóa thân? Thanh van chỗ thấy tướng là tu để thành Phật, thuộc thân hiện có. Thế nào gọi là không ứng không hóa thân? Pháp thân báo thân, không thuộc ứng thân cũng chẳng thuộc hóa thân. Nay nói ứng hóa không chân thật là nói pháp thân vốn không có tướng ngôn thuyết, mượn hóa thân mà nói. Dùng thân như như, nói pháp như như, không chấp nơi tướng, không tướng nhưng đều là tướng. Ba thân một thể, một thể ba thân. Đến đây mới thật là pháp Bát Nhã vô thượng; thể pháp thân như như bất động.

–    Tu Bồ Đề! Nếu có người đem bảy thứ quý báu đầy vô lượng A tăng kỳ thế giới. A tăng kỳ là tiếng Phạn Asankhya. Trung Hoa dịch là vô ương số, đem dùng bố thí; nếu có thiện nam, tín nữ nào phát tâm bồ đề thọ trì KINH KIM CANG này, cho đến một bài kệ bốn câu v.v…thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói, phứơc này hơn phước bố thí trước. Làm thế nào vì người diễn nói, là không chấp nơi tướng, như như bất động. Tâm như gương sáng, nên gọi là như như bất động, không chấp sự tướng, muôn pháp đều không, như như bất động, tức là viên dung tự tại vậy. Như như bất động, muôn pháp về nơi chơn tánh cũng như lưỡng nghi, tứ tượng về nơi thái cực vậy.

–    Vì cớ sao? Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao huyễn hóa, bọt nước, bóng trong gương. Chiêm bao là khi ngủ thấy cảnh vật giả dối; huyển hóa là huyễn thành vọng ý, hóa biết vào huyễn, huyễn kết thành hóa đều từ điên đảo, mà phát khởi; bọt nước là bào bọt tụ động trên mặt nước, có luồng gió thổi là tiêu tan; bóng trong gương là hình chiếu thành bóng, hình theo bóng diệt, tất cả đều là hư vọng không thật. Như sương cũng như điển chớp, sương kết tụ thì mặt trời chiếu soi là tiêu tan; điển chớp, xẹt lên rồi tan, khởi diệt rất mau chóng vậy, phải quán sát như thế. Chiêm bao, huyễn hóa, bọt nước, bóng trong gương, sương tuyết, điển chớp, sáu thứ này gọi là “lục quán”. Quán sáu cái đó đều giả thì chơn quán hiển lộ. Chơn quán tự nhiên tức là như như bất động, chơn không thật tướng, bản giác của nó có trước vũ trụ muôn loài.

Các Pháp thế gian thuộc hữu vi,

Như đương ngon giấc mộng đông thùy,

Như đồ giả dối không bền chặ,

Như bọt tiêu tan mất cấp kỳ,

Như bóng bên hình, không lại có,

Như sương trên cỏ nắng còn chi,

Như luồng điển nhoáng không tồn tại,

Nhận xét như vậy, mới thật tri!

Đức Phật thuyết Kinh này rồi, trưởng lão Tu Bồ Đề cùng các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, tất cả người, trời, a tu la, trong cõi đời nghe Phật thuyết KINH KIM CANG này đều rất hoan hỷ, tín thọ y giáo phụng hành.

KHÁI LUẬN:

Trước đã nói nhơn không, pháp không, Đức Phật e sợ người đời sau nghi nhơn, pháp đã không, trì Kinh đâu có lợi ích gì? Thế nên phần cuối lại nói thêm so sánh phước huệ lần thứ 9. Nhơn vì trước tướng đặng phước thọ hưởng có thời gian hết, huống là nhơn hưởng phước mà tạo thêm nghiệm. Duy có phước xuất thế không xót không mất, thụ hưởng vô cùng tận. Tuy là so lường khuyến nói, song làm cho người đời tỉnh ngộ, thọ trì đọc tụng kinh điển là thù thắng, đinh ninh lập đi nói lại, muốn cho mọi người lòng tin thanh tịnh, thật tâm hộ niệm phú chúc một tấm lòng thành vậy.

GIẢNG NGHĨA:

Đức Phật dạy:

–       Tu Bồ Đề! Nếu có người đem bảy thứ quý báu đầy dẫy vô lượng vô ương số thế giới, thật hành hạnh bố thí, phước vẫn nhiều. Song mà có thiện nam tín nữ, phát tâm rộng lớn khắp giúp, thọ trì đọc tụng Kinh này dù chỉ là bài kệ bốn câu, không những tự mình thấy tánh, lại muốn vì người diễn nói, khiến người thấy tánh, thì phước xuất thế này so sánh với phước bố thí trước thù thắng rất nhiều. Phải diễn thuyết cho người nghe như thế nào? Cốt yếu là không trước tướng, không động tâm. Đó là vì duyên cớ gì? Nhơn vì phàm phu trong thế gian có những cách tạo tác thi vi, hiện diệt bất thường, như đồng cảnh chiêm bao, đồng duyên huyễn hóa, đồng như bóng trong gương, đồng như sương mai có ánh nắng liền tan, đồng như luồng điện chớp liền tan. Phàm những gì thuộc về pháp hữu vi, phải làm sáu cách quán như trên.

Đức Phật lại cặn kẽ giảng thông pháp bát nhã, nói Kinh này rồi, Tôn giả A-Nan ghi lại Kinh này đầy đủ, trưởng lão Tu Bồ Đề cùng các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ và trời, rồng, hàng bát bộ cũng như các chúng quỷ thần A Tu La v.v…đồng ngồi trong pháp hội đạo tràng , nghe Kinh được sự cảm hóa bởi Đức Như Lai, toàn thể không sợ hãi, không e dè rất là hoan hỷ, tín thụ lời Phật nói, phụng hành lời dạy của đấng Thiên Nhân Sư.

Thơ 32:

Nếu ai đem của thực thi,

Bố thí bảy báu từ bi giúp đời,

Không bằng những kẻ đúng thời.

Thọ trì diễn nói những lời KIM CANG,

 

Vì sao thắng phước cao sang?

Không chấp không trước, tâm an bình thường,

Hữu vi sáu pháp tơ tường,

Quán sát như vậy, trên đường thành công.

 

Phật thuyết Kinh Pháp vừa xong,

Thất chúng đệ tử, cũng đông người trời,

Toàn thể tín thọ những lời,

Phụng hành Kinh giáo, trọn đời tiến tu.

hoasen58