Chu-Cô

Từ Điển Đạo Uyển

T: tulku [sprul-sku]; S: nirmāṇakāya;
Thuật ngữ rất quan trọng được dịch âm từ tiếng Tây Tạng nhằm chỉ một hiện tượng chỉ tồn tại nơi đây và Mông Cổ. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ hai thứ tiếng, Phạn và Mông Cổ. Tại Mông Cổ, người ta sử dụng hai danh từ tương ưng với ý nghĩa gần như nhau là: 1. Hô-tất Lặc-hãn (hoblighan khublighan) với nghĩa “Tự tại chuyển sinh” (自在轉生) và 2. Hô-đồ Khắc-đồ (khutuktu), nghĩa là “Minh tâm kiến tính, sinh tử tự chủ” (明心見性生死自主). Danh từ Phạn ngữ (sanskrit) tương ưng là “Nirmāṇakāya”, Hán dịch nghĩa là “Ứng hoá thân” (應化身) hoặc “Hoá thân” (化身; Ba thân).
Tại Tây Tạng, danh từ này chuyên chỉ các dòng tái sinh (s: jātimāla) và các vị tái sinh, chỉ các vị khi chết không quên bản tính, đầu thai trở lại và tiếp nối chức vị và sự việc hoằng hoá trước. Ðó là những người được công nhận là sự tái sinh của một người đã chết, sau khi được thử thách kiểm nghiệm. Quan điểm này phát sinh từ giáo pháp Ba thân và được áp dụng tại Tây Tạng với sự phát hiện Cát-mã-ba (t: karmapa) thứ 2, Cát-mã Ba-hi (karma pakshi, 1204-1283). Chu-cô là một phương tiện quan trọng nhằm giữ vững sự nối tiếp bất đoạn về tinh thần và lĩnh đạo trong các trường phái Tây Tạng. Tây Tạng có 4 dòng tái sinh lớn mà dòng quan trọng nhất là Ðạt-lại Lạt-ma. Ngoài ra có một số lớn các dòng tái sinh khác. Các vị Chu-cô thường được dân chúng tôn là “Phật sống” (Hoạt Phật).
Kinh điển Ðại thừa đã nói đến khả năng chủ động trong sự tái sinh. Người bình thường vì chưa đoạn được vọng niệm, còn bị thần thức lôi cuốn, theo Nghiệp (s: karma) mà chuyển sinh, không tự tại. Còn các vị đã cắt đứt vọng niệm, đã đoạn ô nhiễm thì chứng ngộ được Pháp tính (法性; s: dharmatā), không còn bị nghiệp lực lôi cuốn trôi nổi mà ngược lại, có thể tự chủ được sinh tử, tuỳ cơ ứng biến hoằng hoá, trải qua ải tái sinh mà không bị mê hoặc. Ðó là khả năng của các vị Bồ Tát đã đạt địa vị thứ tám trong Thập địa. Cùng với quan điểm Ba thân (s: trikāya), trong đó thân người được xem là hiển hiện của Pháp thân (s: dharmakāya), quan niệm này là cơ sở của hiện tượng Chu-cô.
Trong phái Cát-mã Ca-nhĩ-cư (t: karma-kagyu) của Tây Tạng, nguyên lí chủ động tái sinh được tận dụng, nhất là nhằm bảo vệ giáo pháp Ðại thủ ấn (s: mahāmudrā) Khi một đứa trẻ được khám phá ra là Chu-cô, các vị thầy dốc sức giúp trẻ phát triển để sớm nắm vững toàn bộ giáo pháp và tới thời kì, đứa trẻ đó lại chỉ dạy giáo pháp cho các thầy để chuẩn bị cho việc tái sinh của các vị đó. Quan niệm tái sinh cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự lĩnh đạo, mà thí dụ rõ nhất là các vị Ðạt-lại Lạt-ma. Các vị tái sinh quan trọng nhất thời nay là Ðạt-lại Lạt-ma thứ 14 Ðăng-châu Gia-mục-thố (t: tenzin gyatso, sinh 1935), giáo chủ dòng Cách-lỗ (t: gelugpa); Cát-mã-ba Lãng-tuấn Lôi-tỉ Ða-kiệt (rigpe dorje, 1924-1982), giáo chủ dòng Ca-nhĩ-cư (kagyupa); Ðôn-châu (dujom, 1904-1987), giáo chủ dòng Ninh-mã (nyingmapa) và Tát-ca-ba Tát-ca Xứ-châu (sakyapa sakya trizin, sinh 1945), giáo chủ phái Tát-ca (sakya).