SỐ 1912
CHỈ QUÁN PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT
Sa-môn Trạm Nhiên Tỳ Lăng đời Đường soạn.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

 QUYỂN 8

PHẦN 1

Giải thích cảnh phiền não, từ đây trở xuống hiện văn sáu cảnh v lược ba cảnh, đều sẽ phát được đây là phiền não do cảnh bên ngoài sanh khởi, cho đến bốn hoằng chỉ thuộc về ba ấm của ấm cảnh, cho nên bình thường chẳng phải không có phiền não cho đến phát tâm, cũng đều phải quán chẳng phải không có danh cảnh, nay văn cho rằng nói về quán ấm phát được, nên phải nói khác. “Độc”: Là hành, là không mê mờ bổn tông, như bảy pháp ở trước đều phân biệt Trung quán, nói mười cảnh đây là thuộc về ba chướng, chẳng phải ngay hiện tại khởi ba chướng.

Hiện ba chướng: Như trong Đại kinh quyển mười chép: Đại Bồ-tát cầu chủng trí, vì trừ ba món chướng cho chúng sinh.

Chướng phiền não: Là ba độc triền cái, tám mạn, bốn tà, v.v…

Chướng nghiệp: Là năm vô gián.

Chướng báo: Là ba đường ác, phỉ báng chánh pháp và nhất-xiểnđề, nên biết nêu ác năng chướng nên gọi là chướng, nay dùng lưu thứ nhiếp hai pháp sau ấy.

Ban đầu nói chung trong ý: Đầu tiên kết trước sinh sau, thượng ấm hạ kết trước mà quán sát sinh sau.

Kế, l trước quở trách ham muốn ở sau chánh nói ý, trước lại cùng các văn trên nói khác có pháp dụ cho hợp.

Ban đầu nói cùng với trên trong phương tiện quở trách muốn bỏ nói khác; kế nói khác với ấm cảnh trên, trong dục cái trên và ấm nhập, tuy có hoặc tướng mà chưa quá tăng thạnh chẳng phải cảnh phiền não, nên quở năm dục lại biết năm trần là sinh hạnh là duyên tham dục, sinh dục là lỗi, nhân lỗi sinh tội cho nên phải quở trách, trong cái chỉ là duyên hình bóng còn rơi rớt lại, trần ngăn ngại nhập quán, phải nên xả bỏ, lại hai và năm nầy hoặc quở hoặc bỏ, chỉ thành phương tiện chưa chánh dụng quán, trước quán ấm nhập quán về báo ấm, báo ấm vô ký đối với ấm kia cầu diệu giải nên ấm cảnh ấy chưa gọi là phiền não, lại trước trong văn nhất tâm phân biệt rõ ràng, tuy quán tham sân chẳng phải ý cảnh nầy, chỉ là hiện khởi các hoặc thiện ác, đều thuộc ấm nhập, nầy do nhân ấm sơ khởi phiền não, đều gọi là ấm cảnh, nay cảnh cần phải nhân quán ấm phát, phát các tham trọng mới gọi là cảnh nay, từ nay quán bỏ, chánh nêu cảnh nầy khác với ấm cái, v.v… nên nói khởi tham sân nặng. Bắt đầu như lập bày ở sau nêu dụ cho, thiết như ấm hỏa như quán, ấm chưa gặp quán hoặc đời trước thầm phục nên nói chỉ có “thức”, do quán ấm cảnh ấm giải chưa sinh tập khởi khác trước nên nói hành nhiên, lại báo thân pháp thân kế ở sau nói về khó dễ, lặp lại dục cái cho đến ấm nhập, cùng phiền não nầy bao gồm phân biệt khó dễ, cho nên thể của dục cái đều thuộc về ấm nhập, nên cùng ấm nhập thông giáo gọi là tầm thường, vì sao ở sau bên Biệt giáo giải thích, cùng ba pháp trước so sánh nói khó dễ. Ban đầu chánh nói tương đối chặng giữa trước pháp kế dụ cho trong pháp nêu ra ba độc trước so sánh với nay, trước là báo pháp và hiện phiền não, cho nên dễ dừng nghỉ, nay phát đã trọng cho nên dễ dừng nghĩ, nay phát đã trọng cho nên khó chế, đảo tưởng là si. “Tham” là rất dễ thấy, nói ngựa chết là trong Thập tụng giới đầu nói ma trời muốn hoại Nan-đề biến thành người nữ dụ đến chỗ ngựa, lại ẩn hình, người nầy nặng về dục bèn đến không phân biệt, hoặc nầy ở sau lại nói về trợ duyên, đã phát phiền não rồi lỗi ở thường, lại thêm duyên bên ngoài đến nỗi làm cho cuồng vọng, thí như ở sau nêu dụ cho, dòng nước như ấm pháp, dùng quán như khái mộc, động tập như báo khởi “liên y”, gió đi mà dòng nước thành văn, nay dùng chung gỗ, gió kia đi dòng gấp nước rút khởi lên dữ dội.

“Liên y” là trùng ba, trên sóng lại thêm sóng nên gọi là “trùng ba”. Báo tức báo biến, nay là nước khởi mượn từ nước mà làm người mạnh khỏe, dụ cho rất đồng với nước phiền não ở sau hợp dụ cho, như đụng chạm sư tử nằm ở sau lặp lại dùng thì dụ giải thích thành dụ cho trước, nếu không ở sau kết khuyến để cho biết không chỉ ở sau nói do cảnh khởi lỗi, như quyển năm có nói tùy theo dẫn người đến ác tức ý nầy, kế chánh giải thích chặng giữa ban đầu giải thích tướng, trước giải thích danh, chặng giữa có hai cách giải. Ban đầu hợp chữ để giải thích, ba độc là năng phiền, tâm thần là sở phiền.

Kế phân chữ để giải, phiền là năng phiền, não là sở não, phải biết thông là chung cho kiến tư, ở đây một phen đến phân ở sau nói trong độn có lợi, như trùng thú phàm phu cũng có thể khởi ngã, ngã là lợi, vì lợi thuộc độn nên nói là thật, không suy lý cho đến tự đại: “Như” là loài trùng nhỏ có tánh thức có thể máy động, nêu chữ “Thích”, v.v… (bò cạp) là thứ của. Bì Thương chép: Một bò cạp lớn khắp, gọi là ôm kiếm, cũng gọi là cầm lửa, do đó cũng nói: Các bò ngựa đánh nhau. “Kế” là lông trên cổ, trong văn nói: Bờm ngựa, như sói, v.v… nổi giận thì bờm nó dựng lên và tức giận hơn, ở đây nêu các pháp loài trùng thấp kém để so sánh với người. Đây còn chấp ngã huống chi là người ư? Thấp nhất là phàm phu kém cỏi ở sau nêu độn sử, phàm phu mà cũng có lợi, năm lợi đến chứng nào?, v.v… Kế nói trong lợi có độn, như các ngoại đạo nương các chấp mà khởi tức giận, chưa phát được thiền, v.v…

Hỏi: Như đệ tử Phật tu hành thứ lớp cũng chưa phát thiền, vì sao gọi là Tu-đà-hoàn đã dứt kiến hoặc?

Đáp: Nay phán xét lợi độn y theo hiện phát kiến kiến sanh khởi hoặc, như chưa đắc thiền, dù khởi tức tập đã có phiền não, và nhân hiện ấm khởi ra ngã kiến, vẫn thuộc về độn sử, sơ quả đã dứt phàm phu đều có, thầm phục ở thân chướng chân vô lậu, hoặc thấy đế lý, hoặc ở đây tự dứt trừ nên gọi là hoặc, đây cho đó là kiến, nên khác nhau với thiền sau sanh khởi, hoặc các ngoại đạo do chưa thấy đế, được thiền định rồi tuy dứt độn sử, mà vẫn không hề dứt một may kiến hoặc, kiến hoặc hiện hành, nên không đồng, chưa phát thiền đã có kiến hoặc và thầm phục, cho nên không do trong tám mươi tám sử kiến hoặc nêu bày, nên nghĩa tám mươi tám sử thuộc ấm cảnh, so sánh phân biệt lợi độn mới được gọi là kiến, lại khác với thiền sau tướng kiến hoặc, nay chỉ đối với thiền, hậu kiến phân biệt, cho nên nói, nếu đắc thiền khởi chấp, dù có tham sân đồng thuộc về lợi, như hai người học nêu bày ở sau, được lợi như độn, được ý như lợi, cả hai đều được lợi được ý tranh cãi, cả hai đều chấp ngã đắc thiền kiến thạnh, hoặc phát ở sau phân biệt chỉ bày thể cảnh, trong thân tuy có tám mươi sử. Nhưng chỗ khởi chỉ thuộc về độn sử mà ở cảnh nay, hoặc đối với lợi kế sau phán xét câu đầu, trước lại gạn khởi, hoặc trong lợi có độn, người dứt kiến hoặc chỉ gọi là đoạn lợi, đoạn trong lợi hoặc nầy lẽ ra còn, nếu không như vậy, thì trong lợi có độn, không gọi là độn. Nên kế dẫn trong luận Tỳ-đàm giải thích rằng: Lợi tuy có độn, độn nầy thuộc lợi, từ độn sử trái với trên mà khởi, người thấp nhất tuy khởi ở lợi nhưng lợi nầy thuộc về độn, nên nói tư duy cũng như vậy, hoặc khai, v.v…

Kế nói khai hợp, khai thành tám muôn hợp chỉ có ba độc, tám muôn đã không ngoài ba độc, nay quán ba độc tức quán tám muôn, là nghĩa nầy, nên phải nói khai hợp, ba độc ở sau nói là chướng khác 3 nhau.

Ban đầu nói bốn phần đều năng chướng định, chỉ có vô ký không thuộc về thiện ác, tức không chướng định vẫn thuộc về ấm cảnh. Nếu là chướng thì cả hai thuộc về không đồng, nghĩa là phát hay không phát, như trước đã phân biệt.

Trong kinh nói: Ở sau dẫn Đại phẩm để chứng minh vô ký không chướng, tức sư tử, v.v… định sở nhập tán tâm nầy đều y theo ý của luận Tỳ-đàm; kế là cũng y theo ý của người, Thành luận cũng thừa nhận bốn phần trong Tỳ-đàm đều phân tán mà không nói bốn chướng chung, nhưng nói trong tán đều có si hoặc tương ưng, nên nói tám gồm vô tri, năng chướng định thì thuộc về si nếu vậy ở sau gan thành luận nhân, bốn phần chung tán bao gồm không biết, si làm chướng định, đây là tương ưng si, si thì sân dục, si đã chướng định, si có sân dục làm sao không chướng định, mà lập riêng nói: Si năng chướng định, nay giải thích ở sau, ngày nay chánh giải, nói ý riêng, như trên giải thích bởi tùy theo người khác nhau, hoặc nặng về tham, tham tức là cái, sân si là chướng cũng giống như vậy nên nay thành chướng y theo đó nên biết, nên trong luận Tỳ-đàm đã dẫn Đại phẩm dùng làm chứng, nghĩa nầy không phải như vậy, trong Đại phẩm kinh nói Tam-muội siêu vượt, từ diệt định khởi nhập tán tâm nên nói tán nầy mà không chướng định, nay nói tán chương v không chướng, nên nói phàm phu đã có ba độc, vì sao dẫn các tướng thắng định A-la-hán xuất tán, nhưng các phiền não trở xuống là nói nay phân biệt tướng làm cảnh sở quán, nhưng nói bốn phần tướng thật chưa khắp, nếu nói tự hạnh đủ thì được làm cảnh, nên dẫn trong Pháp Hoa nói ý cảnh quán, ý ở dứt bỏ phân biệt chẳng phải gấp, nói hai mươi năm. Trong sớ có nhiều cách giải, kiến tư chưa dứt, đại cơ chưa thuần thục, cho nên hai mươi năm lại sai hốt phân, lại phá kiến hoặc dùng một vô ngại một giải thoát, phá tư duy hoặc, dùng chín vô ngại chín giải thoát, hợp thành hai mươi. Lại trong hai đường dứt kiết chung gọi là hai mươi, lại phần trên phần dưới gọi chung là hai mươi, lại y theo hai mươi khiến người cùng dứt kiến tư cũng gọi là hai mươi, ban đầu giải tức do lìa phược đắc số mà nói hai mươi, sau giải đều dùng hai nghĩa để làm hai mươi, nếu vậy ở sau giải thích nghi. Nghi rằng: Nếu ý dứt bỏ, thì năm trăm vị La-hán há chẳng phải dứt bỏ, mà trong luận Bàsa nói các thứ phân biệt ư? Là đem ở sau giải thích nghi, năm trăm vốn ở một môn nhập đạo, cũng chưa phân biệt được La-hán rồi vì trì Phật pháp làm cho tồn tại lâu dài, đã đứng đầu chúng phải thông ngoại nạn cho nên năm trăm rộng diễn phân biệt, nếu không làm chúng thủ dù thành La-hán cũng không nhập vị giả, cũng chưa phải các thứ phân biệt. Lại nữa ở sau, nói hoặc tướng nầy chánh là cảnh mười quán sở quán, cho nên phải nói là chung và riêng không thể nghĩ bàn, v.v… đã nói: Đều có đủ bốn phần, nay cảnh chỉ là bốn phần trong độn, đều có đủ bốn phần, nay cảnh chỉ là bốn phần trong độn, nay văn nói lược không rảnh phân biệt, nhưng lại phân biệt chung riêng, v.v…, nếu lựa bỏ, thuộc về ấm lợi độn chẳng phải sở quán nay, sở phát lợi độn là sở quán nay, sở phát lại có hai, lợi của thiền hậu thuộc về ở sau chấp cảnh, thấy ngoài mạng nghiệp là sở quán nay. Ban đầu nói trong Thông Biệt, nói lợi độn hợp thành bốn phần, là so sánh với trước khai thành tám muôn, nên nay nói hợp lại chỉ có bốn phần, ngoại giới đã đặt tên bốn phần, nghĩa khai hợp, nghĩa đồng giới nội, chỉ là biệt hoặc khác giới nội, nếu làm tưởng có liên quan, v.v… Kế nói nghĩ bàn hay biết nghĩ bàn, v.v…

Nói hướng chung riêng tùy giáo khác nhau, nếu khởi tương quan tức là nghĩa riêng, không rõ tức nhau nên nói tương quan, thông hoặc như mỗi nhánh, nghĩa là nhánh lá biệt hoặc bổn bổn nghĩa là cội gốc, nhánh gốc chỉ được tương quan mà thôi, tức nghĩa biệt. Nếu khởi không thể nghĩ bàn, nên nói hoặc chung như hoa pháp tánh như không, do mắt bệnh cho nên thấy hoa đốm đầy hư không, nếu thể nhận được bệnh biết hoa tức không, không hoa thể đồng, tức là nghĩa viên. Đã như quyển một, do ba chỉ quán kết phát tâm trong tâm mà nói, nên biết nghĩ bàn hay chẳng nghĩ bàn cả hai đều quán giới nội thông hoặc làm cảnh, do sở phát nên chẳng phải biệt hoặc. Ở sau khởi quán trung trước nói nghĩ bàn, nên nay dự nói, cũng đều nói, ý ở tức nhau, đối với thông hoặc hai nghĩa trên đều thông, nên nói nếu khởi; kế giới thích nhân duyên có ba, như ở sau nói, nghĩa là có ba như tập, v.v…, khởi tướng ở sau, trước dùng bốn câu phán xét, chặng giữa trước nêu bày bốn câu; kế phán xét cảnh tướng, văn trước tuy là hiện rõ các nghĩa lìa hợp chung riêng, mà chưa nói tướng trạng của nội khởi lặp lại hiện tướng khởi, nên biết nay khởi khác với dục cái và ấm nhập, nhân duyên ở sau chánh nói nhân duyên. Tập nhân nghĩa là nhân, huân tập nối tiếp làm duyên, ý nghiệp là nhân, thân miệng ác hạnh làm duyên, ma hành làm nhân mười quân thâu nhiếp thành duyên, có ba pháp nầy nên nay tu đạo, ba pháp nầy lại phát còn gọi là duyên, ban đầu tập hữu pháp thì dụ hợp, nói Đạo phẩm chỉ là chánh quán cảnh ấm nhập. Thuận lưu gọi là “duyên”, không tu quán nên thuận dòng sinh tử, nêu tu đạo ở sau thì hiện tại quán ấm, lại phát chủng tánh đời trước “nghịch lưu” nói là “tố” “hữu” tức hai mươi lăm cõi, nghĩa là bốn cõi, bốn đường ác, sáu dục và Phạm thiên, Bốn thiền, Bốn Vô sắc vô tưởng, Năm Na-hàm, “ngôi” nghĩa là khởi dáng mạo cao lớn.

Chữ “ngôi” (năm hồi năm phi năm vĩ ba thiết) hoặc bị quán chế, cho nên khởi dáng mạo cao; kế nói trong nghiệp. “Na” là sao? “Trác” là “cao”. Nghiệp tướng đã khởi gọi là thành tựu, phẩm vị không thành gọi là bất lập, trong dụ cho nói như sông, v.v… nước định lặng lẽ chảy, không nước là “phỉ”. Song như núi liền.

Trang Tử nói: Sóng trắng như núi. Trong văn Tuyền Hải Phú nói: Sóng như núi liền, ấm cảnh như sông lặng lẽ chảy, tu quán như gió đi, hoặc phát như sóng lớn, dù thân miệng như quăng buồm, mất nhất tâm như buông bánh lái, do đó buông bỏ đi thuyền phá hoại, như tâm là bánh lái quyết đoán chánh thân miệng là buồm thì thuyền chánh quán sẽ khỏi bại nghiệp, qua sông phiền não đến bờ Niết-bàn.

Kế nói trong mà có người quân, trong Đại luận giải thích bốn ma.

Hỏi: Chỗ nào giải thích phiền não là ma?

Đáp: Như trong kinh Tạp Bảo Tạng, Đức Phật nói bài kệ về ma rằng:

“Dục là quân đầu tiên của ông

Ưu sầu là thứ hai

Đói khát là quân thứ ba

Khát ái là thứ tư

Thứ năm là quân ngủ nghỉ,

Bố úy là thứ sáu

Nghi là quân thứ bảy

Ngậm độc là thứ tám

Thứ chín quân lợi dưỡng

Chấp danh quân lợi dưỡng

Chấp danh tiếng luống dối

Quân thứ mười tự cao

Khinh mạn người xuất gia

Các vị trời thế gian

Người không thể phá hoại

Ta dùng sức trí tuệ

Bẻ dẹp các quân ông

Ông tuy không muốn bỏ

Lợi ông không đến chỗ”.

Nay phiền não khởi do ma làm duyên, do mười quân nầy ngăn che người tu hành, không cho ra khỏi cho nên thuộc về cảnh ma, vì vậy chỗ khởi tuy là phiền não chẳng phải thuộc phiền não, chỉ gọi là mười quân, đều do ma lập nên nói ma quân. Dụ biển, v.v… dù không có hai ma trước năng kích động, dòng như tập chủng, phong như nghiệp lực hấp như ma quạt. Hấp: là nội dừng, nước tùy theo dừng nghỉ mà vào nên nói cấp thủy. Trong Đại luận quyển bảy chép: Năm trăm người đi buôn xuống biển lượm của báu, gặp phải cá Ma-kiệt vua mở miệng thuyền đi rất nhanh, người thuyền trưởng hỏi người trên lầu, có thấy gì không?

Đáp: Thấy ba ngày đến núi Đại Bạch, dòng nước đi nhanh như vào hầm lớn. Thuyền trưởng nói: ba ngày: 1- Suốt ngày 2- Mắt cá.

Núi bạch là răng cá, nước chảy là vào miệng cá, ta gặp rồi, lúc bấy giờ người trong thuyền đều xưng là việc, đều không có suy nghiệm, trong đó có Ưu-bà-bít bảo mọi người, chúng ta phải cùng xưng danh hiệu Phật, cá nầy đời trước có thọ năm giới, được trí túc mạng, nghe danh hiệu Phật, liền tự hối trách, cá lại ngậm miệng mọi người nghe theo, ma quạt như hút nước Ma-kiệt hoặc trong như dòng nước chảy, thân miệng tán thiện không thể ngăn chế, như không thể dùng sức chống cự chỉ quán tịch chiếu mới thông suốt được, như chuyên xưng danh hiệu Phật.

Kế bao gồm dùng lửa để dụ cho như ở văn ma nghiệp ở sau phân biệt chỉ bày cảnh xứ, tuy nêu bày chung ba pháp, nay chỉ có quán tập, kế nói pháp trị.

Ban đầu nói hai thừa Đại Tiểu pháp trị khác nhau; kế y cứ về bốn món để phán xét Đại Tiểu, văn đầu trước tiểu kế đại, ban đầu nói trong tiểu trước lược nêu bày; kế chỉ bày nơi chốn văn thiếu, đem năm môn thiền đối trị bốn phần, chỉ thiếu trị chướng đạo đồng, nên nay chỉ văn sau, tức trong nghiệp cảnh sáu tệ và chướng, v.v… ở đây, năm pháp như đối trị, v.v… đủ như trong Trợ đạo có ghi, nầy lại thêm không chuyển một thứ, đối trị sáu tệ ở đây so sánh với bốn phần, câu số nhiều ít y theo thuyết nên biết, nay trong đối trị nói mười hai, ở đây trong văn sau có mười pháp thành quán thứ bảy trong văn thứ bảy có giải thích đủ. Thật quán bất tịnh như trên trong pháp thứ bảy thuộc trợ đạo đối trị có nói, cũng như Hoa Thủ tuyển chọn Trưởng giả, giả tưởng như trở xuống là trong cảnh thiền có nói, nhưng chỗ phát kia nay có nói tu do nầy thành khác, các tâm từ, v.v… đủ như trong thiền cảnh.

Ban đầu bệnh không chuyển mà trụ chuyển, như cảnh bất tịnh chuyển thành thân tưởng, tức chỉ thân tưởng lấy đó làm tịnh, không đối với thân khởi dục tưởng, tức là bất tịnh nầy mà sinh thân tưởng, gọi là từ quán, từ nếu chuyển thành quán bất tịnh, tức thấy phù thủng sưng lên hư hoại, bản thân không nên sân, huống chi khiến cho hư hoại, trong si tu nhân duyên thành trị, nếu không phá si, lại dùng tà tuệ suy nghĩ biên vô biên, độc đầu si tâm nầy phần nhiều bị chìm đắm, nên dụng tư duy, dùng làm đối trị, biên vô biên đây là vị lai trong sáu mươi hai có bốn câu, vốn là tà tuệ nay lại thành trị. Nếu dùng sổ tức không thể trị tán, nên suy nghĩ pháp tướng vô lậu xuất thế, duyên theo tạp cảnh tán loạn liền dứt, bốn món thuốc xen chuyển thành mười hai câu, chung chuyển thành chuyển, cũng gọi là đối, y theo trước nên biết.

Kế nói Đại thừa phi đối, v.v… chỉ có nghĩa bậc nhất, như thuốc A-dà-đà, nầy một phen đến đoạt tiểu để nói tướng trị, chưa nói đủ dụng các giáo xen nhau trị cho đến đối trị trị nhiếp pháp, v.v… ở sau tu quán trong môn thứ bảy. Nay nầy lại dùng nghĩa đệ nhất trị gọi là A-dà-đà trị, Đại thừa trị nầy đủ như văn trên tùy theo tự ý Trung quán tham dục, cho nên ở sau răn dè khéo lấy ý ấy. Nếu thất ý, đủ như lỗi thầy trò trong tùy tự ý.

Kế nói trong Tiểu thừa đa dụng trở xuống, do bốn món tất-đàn xếp trị. Trong Đại luận nói, các kinh thường dùng ba món tất-đàn, tức chỉ cho ba tạng kinh gọi là “dư”, hoặc nói chung, Đại tiểu đều có bốn, nay xả chung theo riêng cho nên lại y theo luận, trong ấm nhập trước ý cũng như vậy, tuy là Thông giáo đủ, nhưng ở Thông giáo, Viên giáo, Tạng giáo, Biệt giáo ắt không có dụng nghĩa bậc nhất, mà thành trị, trong không vô sinh, chánh chỉ bày tướng vô sinh nghĩa bậc nhất, như trong mộng cứu lửa, năng sở đều không.

Kế tu Chỉ quán, từ đây vềsau hết cảnh Bồ-tát, quán pháp đồng với trước, nhưng đối cảnh có khác, tùy bệnh nói riêng, nay trước là nói mười quán; kế hội tên khác, mười pháp ở trước, trước suy nghĩ trong cảnh, súc sinh vô tàm làm gốc, nên khiến mất lệ độ, lễ độ ở người, nên thất lễ độ gọi là mất nhân chủng, cũng là xen tiếc với người khác, không muốn cảnh mình mà cũng không muốn người xâm phạm, cũng không muốn người xâm phạm cảnh dục của người khác. Quỷ do san tham làm gốc, lại do siểm nịnh nên xan tham của người khác. “Chậm hãm” là hãm hại người khác như chim độc. Trong kinh Quách Thú Sơn Hải và Quảng Nhã nói: Chim ấy thân có chất độc, lớn như chim ưng mầu xanh lục, cổ dài mỏ đỏ, dài bảy tám tấc nó ăn rắn, con trống gọi là “vận nhật”, mái gọi là “ấm giải”, do nó ăn hết đuổi nó ăn thì giết người, cho nên nói “hôn” là mê mờ, lúc mê mờ hành lễ nên gọi là hôn.

Trong sách Nhĩ Nhã nói: “Tế” gọi là “nhân”, “phụ” gọi là hôn, “sính” là cưới.

Trong sách Châu Lễ nói: Mọi người đến nói là đem sinh lễ đến gọi là “sính”, chữ “thiếu” là “thở điều thiết”. “Sính” nghĩa là cầm khăn ngọc đến hỏi “tiết kiệm” là có lễ nghi. Trong sách Chu Lễ nói, quân tử cung kính có lễ nghi, người thấp hèn dục thô, như Nan-đà, v.v… Lại quán dục tâm quở trách bỏ, bỏ như bỏ trong dục cái, quở trách như quở trong dục, do quở bỏ cho nên phát được sơ tuy Nan-đà cao siêu còn chưa ra khỏi sắc. Lại nếu quán dục là ngăn che mà hạnh ở xả, cho đến si, lược nêu sáu món tệ chặng giữa ban đầu sau hai tệ. Kế trong không thể nghĩ bàn, trước chánh giải thích.

Kế là thứ bỏ các ý kinh để giải thích thành cảnh diệu.

Ban đầu chánh giải thích chặng giữa trước dẫn kinh lập cảnh.

Kế giải thích, trong giải thích ban đầu nói lược có tinh tấn hay không.

Kế dẫn trong kinh luận Tịnh Danh không dứt, v.v… giải thích không tùy, v.v…; kế dẫn không trụ, v.v… giải thích các bất đoạn.

Văn đầu chánh do Tịnh Danh chuyển giải thích vô hạnh, không dứt si nên khởi ba minh, si tức vô minh, vô minh tức minh, khác nhau với Nhị thừa đoạn vô minh khởi tiểu ba minh, không đoạn ái nên khởi tám giải thoát, ái tức là ràng buộc ràng buộc tức giải thoát, khác nhau với Nhị thừa dứt tham ái đã khởi tám giải thoát Tiểu thừa, ở minh ở giải thoát các pháp đầy đủ, cho nên khác nhau với phàm phu Nhị thừa, và trong giáo đạo các giáo Bồ-tát, kế dẫn không trụ, v.v… giải thích không dứtn, v.v… trước nêu câu.

Kế nói lý do vì sao ở sau giải thích, ban đầu giải thích ý kinh khai thành bốn câu; kế từ nay nói trở xuống là khai thành tám câu. Bốn câu đầu: Ban đầu giải thích kinh phân tích lỗi, kinh ấy vốn lập ý không thể nghĩ bàn, chánh vì hàng Bồ-tát phân tích cả thiện tà, kế lập cảnh diệu, nên phán phàm tiểu trụ lỗi ở câu thứ nhất, câu thứ hai. Kế từ không dứt phiền não trở xuống là phân tích tà ngụy, tức là trụ ở lỗi câu thứ ba, thứ tư, ban đầu phàm phu trở xuống phân tích trong phàm phu nói rất tội ác, rất là tranh cãi, cũng là lệ. “Lệ” là khác, như chó ra cửa mà thân uốn lượn, lệ đây là bi ngậm, chẳng phải ý nay “thuần”. Trong Tự Lâm nói: Tánh hạnh điều hòa, chữ “thuận” là (dư luận thiết) cũng là âm tuần, Nhị thừa kế ở sau phân tích tiểu. A-la-hán ở sau nói lặp lại nói lỗi tiểu, hoặc ba cõi hết không hoặc có thể điều phục, nầy giải thích ý không điều hòa, khác nhau với Đại thừa bất sinh bất sinh, gọi là bất điều, do dùng trí vụng về phân đoạn thông hoặc, chỗ thông hoặc hết phân minh không điều hòa, không điều nầy chánh gọi là điều, từ tiêu chủng bỏ lại phân tích lỗi tiểu, cho nên trong kinh Tịnh Danh nói, như rang mầm lúa, cũng như việc Ca-diếp thấy các Bồ-tát không thể nghĩ bàn, bèn hạ mình nói, chúng tôi ở đây như bại chủng, Bồ-tát ở sau nêu cao siêu so sánh liệt để diện ở đắc.

Ban đầu song lập; sắc song giải thích, trong giải thích trước giải thích có năm, nói như hoa mọc trong, v.v…

Trong kinh nói: Ở cao nguyên lục địa không mọc hoa sen, thấp ướt bùn đọng có mọc hoa nầy, nên biết Niết-bàn cao nguyên không mọc hoa đại bi Bồ-tát, trong bùn sinh tử có thắng dụng Bồ-tát lợi tha, tuy ở trong sinh tử mà sinh tử không nhiễm, lương y dụ cho rất đồng.

Lại hoa dụ cho thân luận Bồ-tát, thầy thuốc dụ cho ý luân Bồ-tát, cũng có thể đều dụ cho ba luân của Bồ-tát.

Nên trong Đại luận nói: Phật như thầy thuốc giỏi kinh dạy như phương thuốc, Tăng như người khám bệnh, nên biết đến Phật mới gọi là Đại y vương (thầy thuốc giỏi).

Lại nói Bồ-tát hóa sinh tuy thấy các thứ phiền não của chúng sinh mà không chịu giáo hóa, lại sân Bồ-tát lúc bấy giờ cũng là Đại y vương trị bệnh cho người, người bệnh mắng trở lại, Đại y vương không trách người bệnh đồng sân giận liền biết người ấy là quỷ sai khiến, Bồ-tát cũng vậy, biết các chúng sinh bị quỷ phiền não sai sử.

Kế giải thích trong không có vị, nói như chim bay giữa hư không, Đại Bồ-tát dứt hoặc nhập không mà chẳng trụ hư không, phải xuất giả lợi ích chúng sinh.

Ban đầu dụ cho bùn lắng, là dụ cho khổ mà không bị ô nhiễm; kế dụ cho trị bệnh, dụ cho tập không thể ô nhiễm, sau dụ cho chim bay không chấp diệt đạo, trong văn tuy so sánh xuất giả Bồ-tát ý chánh là thành cảnh không thể nghĩ bàn, tức thành xuất giả dụng không thể nghĩ bàn, cho nên Bồ-tát khác với nhị biên, chánh hiển bày cảnh mầu Trung đạo chân thường, trước dẫn kinh Tịnh Danh, văn đầu nói không dứt si ái khởi nói giải thoát, phải biết văn nầy y cứ theo về vô tác để nói ứng chân tự tại của Bồ-tát, không dứt phiền não, ở sau phân tích tà ngụy.

Ban đầu chánh phân tích không trụ lỗi câu thứ ba thứ tư, ở chặng giữa ban đầu chánh nói lỗi của câu thứ ba, thứ tư.

Kế lặp lại nói lỗi câu thứ tư; ban đầu nói câu thứ ba thứ tư, trước nêu ra tướng bị mê; kê do kết trước bao gồm lỗi sau sinh; kế nay đời mạt pháp người si phân tích lỗi khắc chân thật thái quá. Trong Đại kinh thứ mười nói:

Này người thiện nam: Thí như có người ăn trái Yêm-la, nhổ hột xuống đất, mà lại nghĩ rằng: Hột nầy vị ngọt, rồi lại lấy nếm, vị ấy rất đắng, tâm sinh hối hận, sợ mất giống trái, lại lượm hột trồng dưới đất, siêng năng chăm sóc, dùng bơ dầu sữa lạc, tùy thời tưới bón, có thể sống được không? Dạ không bạch Đức Thế tôn, dù chotrời mưa cam lồ Vô thượng cũng còn không sinh, không sinh gọi là nhất-xiển, người nếm thử vị người si đời sau cũng giống như vậy, nghe không dừng cho là điều trái, nói song phi đây là không ngại song trụ, cho là vô ngại, lại trái với hạnh hai bên ở vô ngại, trái mất pháp điều phục như mất vị ngọt, trái pháp không điều phục, như mất giống trái. Bồ-tát không như vậy, vì được minh thuyết, nên nói song phi, song chiếu hai bên giáo hóa lợi ích không cùng, nên nói song trụ, nên biết người si chỉ trái với phương tiện điều phục hoặc của Đức Như lai, gọi là Tám trụ điều, dầu ở trong sinh tử mà không trụ quán sát, gọi là không trụ không điều, nên biết hai hạng người nầy đều mất, mất câu thứ tư, nói không ngại ở điều không điều, nghe vê song phi nghĩa không ngại song tru, làm nhiều việc phi pháp, nên biết tức là lỗi câu thứ ba, đây là ở sau dùng dụ cho kết lỗi, phân tích vô ngại ác không ở trước.

Hám viêm thái quá: Ở đây Thổ Tề Linh Công Thần nấu nước biển thành muối, xứ ấy có đã lâu, nói không biết phải là bắt đầu có muối, hoặc là giả thiết làm dụ cho, nên trong Đại luận quyển mười tám chép: Như ruộng nhà người ban đầu không biết muối, thấy người và các thứ rau thịt mà điều gọi là muối.

Hỏi người khác rằng: Vì sao?

Đáp: Muối nầy có thể khiến cho các mùi vị ngon, người đây lài nghĩ: muối làm cho các mùi vị đều ngon, có lẽ mùi vị rất nhiều, lại đồ vào đầy thức ăn, chua đắng làm tổn thương miệng, mà lấy làm lạ nói khác. Vì sao ông nói muối làm cho ngon, người khác là nói, người si, nầy sẽ so lường nhiều ít hòa hợp lại khiến cho ngon, vì sao ăn hết được, người vô tác nghe môn không, giải thoát, không thực hành các công đức chỉ muốn đắc không, đây là tà kiến dứt các gốc lành, hoặc giải không Tam-muội, thì biết các nghĩa, không trái bỏ nhau, có thể biết việc đây là là năng lực Bát-nhã, nếu được nhập Bát-nhã tất cả pháp đều không có tà kiến. Lại luận quyển chín mươi chín nói, thí như có người ăn tương thái quá, thì như không thực hành năm độ, chỉ thực hành Bát-nhã, có dục chấp nên sinh tà kiến, không thể tăng thêm tất cả pháp lành, nên dùng năm độ hòa hợp với công đức, đầy đủ nghĩa vị, mới gọi là vô ngại, nay văn mất đối với các ý song phi, nghĩa cũng đồng, phải biết người tu hành thất ý đối với vô ngại, chẳng những lỗi với vị ở trong các pháp, mà còn tổn thương với cửa thường trụ, như tham muối tương bị lỗi vị tổn thân. Trong kinh nói ở sau dẫn chứng, ban đầu dẫn lỗi vô hạnh chứng minh với trái pháp.

Kế dẫn trong Đại kinh do chẳng phải tu vãng suy nghiệm, người nầy ở sau phân tích chung, lại có người tu hành ở sau lặp lại nói luận người trong câu thứ tư, không trụ điều phục, cùng không điều phục mong cầu Trung đạo, tuy cầu Trung đạo mà nầy chỉ thành trụ ở câu thứ hai, cho nên gọi là thất.

Kế là phương Bắc ở sau kết phương Bắc đều đủ lỗi ba bốn câu, trong văn tuy kết thành trụ câu thứ nhất thứ hai, lỗi nầy vốn từ câu thứ ba, thứ tư sinh. Lại sơ học Trung quán ở sau kết tương lỗi.

Ban đầu kết song trụ tức thành lỗi, trong tất cả kinh luận không nói, tâm ban đầu dứt bỏ tham dục. Lại nói tu trung phi viên phi tiệm, cho nên trái nhau huống chi ở sau hạnh buông lung vô ngại, nhà Chu ở sau dẫn việc làm suy nghiệm, như trước tùy tự trong ý dẫn Vũ Văn Ung, v.v… đều lỗi câu thứ tư, cũng là trụ không điều và trụ điều, là lỗi trụ song trụ, sơ học Trung quán dứt bỏ tham dục tợ trụ ở điều, trụ điều càng không buông tâm làm điều ác, gọi là trụ không điều, người nầy chấp trung dùng làm bất trụ điều và không điều, sau lại buông tâm thành trụ bất điều, và thành trụ trước, ở lỗi điều, không điều đâu có liên quan với không trụ. Chánh phân tích lỗi song phi, nầy gọi là đại ngại, v.v… phân tích lỗi câu thứ ba thứ tư vô ngại ở trước, nầy đều mất ý kinh Tịnh Danh Vô Hành, như vậy ở sau chung kết bốn câu văn trước, lại thành trụ lỗi câu thứ hai, nên nói không điều phục, cho nên đều lỗi ý không thể nghĩ bàn, từ nay nói ở sau rộng khai tám câu nhiếp tất cả pháp thành không thể nghĩ bàn, trước nêu bày hai bốn câu, vì sao ở sau giải thích. Trước giải thích bốn câu bất trụ, hai câu đầu rất dễ hiểu. Kế câu thứ ba nói tức trung nên không trụ hai cũng như vậy, cả hai cũng tức là Trung đạo song chiếu, song phi tức là Trung đạo song giá, do song chiếu nên không trụ song phi, do vì song phi nên không trụ song chiếu, tóm lại, chỉ là phi một, hai, ba.

Kế tuy không trụ ở sau nói trụ bốn câu và bốn câu không trụ nhập tức nhau, trụ trong không trụ mỗi câu chỉ nêu hai câu đầu, các chấp có hai, theo văn đủ nghĩa, cũng nên lại giải thích bốn câu trụ rồi mới cùng bốn câu bất trụ nhập nhau tức nhau, là tránh văn rườm rà nên lại nói tức nhau, theo nghĩa bất trụ giải thích bốn câu trụ, tức không nên trụ điều phục tức giả, nên trụ bất điều phục song phi nên trụ câu thứ ba, song chiếu nên trụ câu thứ tư.

Hỏi: Trụ và bất trụ đều có hai câu thứ ba, thứ tư đều là già chiếu hai văn khác nhau thế nào? Bất trụ là bất trụ giá chiếu, trong trụ là trụ ở giá chiếu, tuy có trụ và bất trụ đều là thểdụng Trung đạo, trụ là dụng Trung đạo, bất trụ là thể Trung đạo, nếu theo ý nầy cũng phải hỏi lại, trụ và bất trụ đều có thứ nhất thứ hai, cùng thứ ba, thứ tư đâu có khác nhau, nên nói hai câu ban đầu nói riêng trụ và bất trụ, ba bốn đều nói trụ và bất trụ, nầy vẫn phân biệt so sánh nên thực hành thuyết nầy. Hoặc trong Nói chung, tám câu đều là thể dụng của Trung đạo, do bên tức Trung, nên có hai lớp ba bốn câu, vì Trung tức bên, nên có hai lớp hai hai câu đầu, đã quán tham dục tức là tám câu phải biết tham dục tức là pháp giới, vì sao ở sau giải thích pháp giới. Dụng kế sau nầy kết tham dục khắp tất cả pháp tùy theo sở thuộc ấy, hoặc lại đối với câu tức nhau nầy, ở sau thực hành thuyết tùy nghi nầy thời thuận theo phương tiện ý giáo và pháp mê, đều làm tám câu nhiếp hết, y theo đây mà nói thì được gọi là Tự tại thuyết, nên biết y theo cảnh diệu quán mới có thể cùng kiếp không nói ra ở đây, thể đạt như vậy, v.v… có thể nương giải thích tướng được mất trụ bất trụ, ở giữa và trước mắc lỗi kế, ban đầu nói được ở trước nói phần lợi ích để giải thích đắc, ở giữa lại trước nói trụ, bất trụ được lợi ích.

Kế là thế nào giải thích ở sau. Trong văn dẫn Hòa Tu Mật đủ như trong quyển hai, bốn câu trụ nầy đều nói là lợi ích, do mỗi câu đều có đủ các câu, tuy lại hoặc nói trụ điều cho đến quán chung, vì trong mỗi câu đều không thể nghĩ bàn, cho nên đều lợi ích, cũng nên lại nói bất trụ điều, v.v… không ở đâu là không được lợi ích, không có văn là lược. Như hỷ căn kế ở sau nói lợi ích xa. Trong Đại luận thứ bảy giải thích khéo vụng về trong hai độ, là căn cơ là vụng về, thuyền vuông là khéo léo. Vụng về là Thinh văn “khéo léo” là Bồ-tát, như ngài Văn-thù bạch Phật: Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp có Đức Phật hiệu là Sư Tử Âm Vương, và các chúng sinh thọ mười muôn ức na-do-tha tuổi, dùng Ba thừa giáo hóa chúng sanh, người, cây báu thường phát ra âm thanh bất sinh bất diệt, người nghe đắc đạo, các chúng Bồ-tát đều được pháp nhẫn Vô sinh, Đà-la-ni Tam-muội, người mới nhập đạo không thể xưng tánh, sau khi Phật nhập Niết-bàn cây không phát ra âm thanh nữa. Lúc bấy giờ, có hai vị Tỳ-kheo: 1- Tên là Hỷ Căn 2- Tên Thắng Ý.

Hỷ Căn dung nghi ngay thẳng không bỏ thế pháp, cũng không phân biệt pháp thiện, pháp ác, đệ tử Hỷ Căn thông minh ưa nghe nghĩa sâu xa, thầy ông chẳng khen, ít muốn, giữ giới, thực hành đầu-đà, chỉ nói thật tướng các pháp, bảo đệ tử rằng: Tướng si của dâm dục tức là thật tướng, không có ngăn ngại, đó là phương tiện ở trong mọi người, không sân không hối, được vô sinh nhẫn, ở trong ý pháp bất động như núi.

Thắng Ý trì giới, hành hạnh Đầu-đà tu Tứ thiền, đệ tử độn căn cầu nhiều phân biệt. Vào lúc khác Thắng Ý đến nhà đệ tử Hỷ Căn, khen nói trì giới, hành hạnh Đầu-đà vắng lặng chê bai Hỷ Căn, người nầy dạy người khác ở trong tà kiến nói dâm nộ si không ngăn ngại, là người tạp hạnh chẳng phải thuần thanh tịnh, mà là đệ tử đã được đắc pháp nhẫn.

Hỏi Thắng Ý rằng: Thưa Đại đức! pháp dâm dục đây là những gì?

Đáp: Là phiền não.

Lại hỏi: Ở trong hay ở ngoài?

Đáp: Phiền não nầy không ở trong không ở ngoài, hoặc ở trong, không nên đội duyên, hoặc ở ngoài là ở vô sự của ta.

Ơ đây nói: Nếu thế phiền não chẳng phải ở trong chẳng ở ngoài, chẳng phải ở mười phương, tìm không thật có, tức không sinh diệt, làm sao có thể gây ra phiền não ư?

Thắng Ý nghe rồi tâm mình không vui, không thể nói thêm, liền đứng dậy nói: Hỷ Căn làm mê hoặc mọi người, khiến chấp tà kiến, Thắng Ý chưa được âm thanh Đà-la-ni, nghe Phật nói liền thích nghe, bên ngoài nói thì sân, nghe ba điều lành thì vui, nghe ba việc ác thì sân, từ nhà cư sĩ đến trong rừng, đến Tinh xá bảo các Tỳ-kheo, phải biết Hỷ Căn làm mê hoặc mọi người đi vào tà kiến, người nói dâm dục là pháp vô ngại. Lúc này, Hỷ Căn nghĩ rằng: Người nầy đại sân, nghiệp ác che giấu phải đọa vào đại tội, nay ta phải nói cho ông nghe pháp sâu xa làm nhân đời sau, liền nhóm họp chúng tăng, đồng thời nói kệ: “Dâm dục tức là đạo Sân si cũng như vậy”.

Hơn bảy mươi hàng kệ, ba muôn vị trời được Vô sinh nhẫn, tám ngàn Thinh văn đều được giải thoát. Thắng Ý tức thời hiện đời rơi vào địa ngục, chịu khổ ngàn muôn ức năm, khi ra sinh vào loài người bị bảy mươi bốn muôn đời thường bị chê bai, trong vô lượng kiếp không nghe danh hiệu Phật, tội nầy lần lần mỏng, được nghe Phật pháp, xuất gia hành đạo mà lại xả giới, như vậy sáu muôn hai ngàn đời thường xả giới trong vô lượng đời làm Sa-môn tuy không xả giới mà các căn tối tăm. Bồ-tát Hỷ Căn nay ở Phương Đông, qua mười muôn ức cõi Phật thành Phật, hiệu là Bảo Nghiêm, Phật hiệu là Quang Du Nhật Nguyệt, Thắng Ý lúc bấy giờ, tức là thân ta ngày nay.

Văn-thù bạch Phật, có người cầu đạo Ba thừa không nên chấp tướng, mà ôm lòng tức giận.

Phật hỏi ngài Văn-thù, ông nghe các bài kệ được những lợi gì?

Đáp: Tôi nghe các bài kệ được lìa các điều ác, đời đời lợi căn, được các pháp căn bản, khéo nói các pháp, đối với pháp Bồ-tát được bậc nhất, khéo quán hạ kết được tướng lợi ích. Cận nghĩa là cư sĩ nghe Hỷ Căn nói được Vô sinh nhẫn. Viện nghĩa là Thắng Ý, trải qua lâu mới được lợi ích, được lợi ích không ra ngoài tướng tám câu. Nếu không trái lại ở sau dùng lỗi kết đắc, tự hành phải nương cảnh mầu, dạy người ắt vị ở pháp thân, mới có thể xưng thể dùng tám câu, nếu một niệm, v.v… là chánh nói tám câu thành cảnh không thể nghĩ bàn. Pháp trước dụ kế, trong dụ nói: Bóng cây trong tối, v.v… ban đầu dụ cho lý tánh trong tối có sáng, ba dụ cho thần châu Trung đạo trí quang, ba ý nầy nói sáng tối không hai, để thành cảnh không thể nghĩ bàn. Ý văn đầu, trong Đại kinh thứ hai giải thích thường trụ ba bảo trong đó nói: Thí như do cây mà có bóng sinh, nếu có ba bảo thì có quy y. Ngài Ca-diếp gạn rằng: Trong tối có bóng mà không có bóng.

Đức Phật nói: cây trong tối chẳng phải không có bóng nhưng chẳng phải nhục nhãn thấy được, trí nhãn của Đức Như lai mới thấy được.

Ban đầu, Phật lập dụ rằng: Nếu có cây thì có bóng, nếu có ba bảo thì có quy y. Ca-diếp gạn là cây trong tối không có bóng, lẽ ra có ba bảo mà không có quy y. Đức Phật lại đáp rằng: Cây trong tối có bóng, phải biết ba bảo có quy y. Nay nói hễ chỗ nào có cây thì chướng ánh sáng, nếu chướng ánh sáng thì có bóng, những chẳng phải nhục nhãn thấy được, như trong vô minh có pháp tánh sáng, nhưng chẳng phải bốn thứ nhãn thấy được, cho nên thể phiền não vốn không thể nghĩ bàn, những chẳng phải chỗ thiên tiểu thấy được, nay chỉ bày phiền não tức là pháp tánh nên biết thể của tối và sáng không hai, cho nên gọi là cảnh không thể nghĩ bàn. Trí chướng ở sau nói trong sáng có tối, thể trí của hai trí, tuy nói sáng, mà thể là vô minh, nên biết thể sáng và tối không hai cho nên gọi là cảnh không thể nghĩ bàn, cũng như kế ở sau làm trí chướng ban đầu làm dụ cho đèn, đèn như trí chướng, tối như vô minh, như vậy ở sau quán tánh sáng tối, trước dụ, kế hợp, trong dụ trước lập, vì sao ở sau giải thích. Ý trong giải thích thể tối tức sáng, thể sáng tức tối, là chỉ trí chướng tức là vô minh, trong nghĩa nói tối đến, mà tối thật không đến, chỉ là hai trí tức là vô minh nên nói đèn bít, cũng chỉ hai trí năng phá hai hoặc. Trong nghĩa nói tối đi mà tối thật không đi, tự tìm tối mà không có tôi đi, chánh dụ cho dụng trí mà khởi chiếu, chiếu ở sáng tối, từ tuy không bỏ hợp, trong hợp trước chánh hợp. Thể tuy không hai, cái đâu rõ ràng, phá nghĩa là phá tối, nghĩa là che sáng. Không thọ, v.v… trùng lặp hiển bày hình tướng cảnh mầu.

Ban đầu không thọ, v.v… trước là nêu bày bốn câu, kế mới khởi ở sau giải thích, trung trí là tân, vô minh là cựu, lý tánh là trong các pháp là ngoài, nếu dùng mười hai nhân duyên căn trần làm tân cựu, tự là ý các ba tạng Thông giáo, nếu từ đèn thế trí bỏ, lại dùng thần châu dụ hiển bày trung trí, trung trí thường sáng, không đồng hai trí, gồm sáng gồm tối, bắt đầu từ bóng cây cuối đến thần châu, do thức trí chướng và dụ đèn, nên thể trí sáng trong thức không hai, tức chỉ phiền não, dùng làm cảnh diệu, nên chung kết nói: Quán cái tối của phiền não tức cái sáng của Đại trí, hiển bày cực quả của Phật vô minh hết hẳn, mới gọi là bất lai, theo trên, v.v… thì âm cảnh không khác với vô minh, như vậy khi quán ở sau hai minh phát tâm, lại y theó phiền não dùng làm sáng tối, y theo sự sáng tối nầy mà khởi hoằng thệ, y theo sáng khởi từ, y theo tối khởi bi, tức y theo tứ đế vô tác đủ phát bốn hoằng thệ, nên nói chung khởi, đủ như ấm cảnh, thành đủ kế ở sau nói an tâm. Trước nương thứ lớp ba món chỉ quán, kế khéo léo ở sau chỉ bày tướng chung riêng an tâm, như năm trăm mười hai lần ở trước, để nói nhất tâm, nhãn trí thành tựu, nếu nhãn trí chưa khai.

Kế nói phá khắp, y theo văn trước chỉ thiếu trao thuốc và ba món giả trung vô minh pháp tánh, chỉ là văn lược, ở ngay không trung, sau nói thông bít.

Nói phiên cấu thông khởi bít, nên nói phiên cấu, đây thì chính là tướng riêng của thông bít.

SỐ 1912
CHỈ QUÁN PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT
Sa-môn Trạm Nhiên Tỳ Lăng đời Đường soạn.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

 QUYỂN 8

PHẦN 2

Lại quán kế ở sau nói đạo phẩm, văn tướng đã lược, lại kết tươi khô cho đến ba thoát, hoặc ngăn chướng, kế ở sau nói đối trị ý, chỉ nêu bày việc trị không rảnh ở tướng hợp hạnh, ngoài tham dục, v.v… có mười hai trị, văn trước đã chỉ bày tức văn nầy, bốn phần đều có ba nên thành mười hai.

Kế giải thích trong văn, quán ở thân khác thành chín tưởng, nên trị tham bên ngoài. Bối xả trước quán xương tự thân tiêu hao, cho nên trong năng trị, thắng xứ nhân ở xương của tự thân mình, quán thành tiệm kiến y chánh mười phương, cho nên năng trị tham dục của tự tha, trái pháp sân và sân thuận lý người khác, nên quán chúng sinh khởi tưởng thân mình, thuận pháp sân là sân trái lý người khác, sự tuy thuận lý nhưng sân trái quán tâm, nên quán các pháp và chúng sinh không, cho đến Niết-bàn cũng không thật có. Hý luận sinh, khắp ở các pháp mà chấp tánh thật, hoặc chấp quyền phá thật, hoặc chấp thật phá quyền.

Như trong Tịnh Danh nói: Nếu nói ngã phải thấy khổ đoạn tập, nầy thời hý luận chẳng phải cầu pháp. Người Nhị thừa chấp quyền còn thành hý luận, huống chi nay phàm phu tranh chấp đúng sai, phải quán pháp tánh không quyền không thật, dứt bặt các tên gọi, hai đời ba đời nói đủ như trong quyển bảy. Nói một niệm là chẳng phải nói cực ngắn trong một sát-na, nghĩa là nghiệp thiện ác thành gọi là nhất niệm, khác với tướng hai đời ba đời trói buộc, nên gọi là nhất niệm, đều là vô thường nên không có tánh thật, có đủ như trong thứ lớp pháp giới có giải thích, danh nghĩa trong Câu-xá, Bà-sa lựa bớt luận, có đủ bốn thứ mười hai nhân duyên;

  1. Sát-na
  2. Liên phước
  3. Phân vị- Gần xa.

Ba thứ sau chỉ là nhân duyên ba đời để y cứ năng thuận sinh các thọ sau nên khai thành ba, trong luận vẫn thiếu nhân duyên hai đời.

Trong Đại luận hỏi: Phật nói nhân duyên rất khó hiểu, làm sao khiến người si quán sát ư?

Đáp: Chẳng phải trâu, v.v… khiến quán nhân duyên, cầu thật đạo sinh ra tà kiến gọi là người si, ở trong chưa khai kế sau nói trong vị kế.

Nói: “Thử tức”, v.v… là không thấu suốt đế lý lầm nói tức danh, sao lấy làm lạ chuột làm tiếng ri rỉ ngay tiếng là không có ý chỉ lẫn lộn vối sinh tử tức là Niết-bàn, cũng như chim lạ phát tiếng giữa hư không đâu được lẫn lộn đồng với trùng lặp không Tam-muội, nên ở sau hợp lại nói, cho nên thành quái “thao”, là tham, hoặc trong ngoài ở sau an nhẫn, được là ở sau lìa ái, dùng xe lớn làm dụ cho như ở văn, sau bỏ mười pháp đều dụ cho xe lớn, đâu thể không tin Pháp Hoa là diệu thừa. Kế là sinh ở sau kết tất cả các pháp không ngoài mười thừa, cho nên dùng mười thừa kết nhiếp chung chỉ bày, cũng gọi, v.v… hội với phiền não mười thừa quán pháp ở trước, tên khác khiến đồng, trước quán phiền não tức là pháp giới, cũng gọi là hạnh ở phi đạo cho đến bất đoạn mà nhập Niết-bàn v.v… tức là hội tên khác của mười quán trước, nói rộng trở xuống nói rộng tên khác, gồm có ba lần ba mươi sáu câu, ba mươi sáu câu đầu đã nói Niết-bàn, Niết-bàn tức là đức ở giải thoát, nầy khai ngài Tịnh Danh không dứt phiền não mà nhập một câu Niết-bàn, thành ba mươi sáu câu, ở đâyhiểu khác văn y theo ý Đại luận, trong Đại luận nói: nếu pháp quán Bát-nhã cùng Niết-bàn của Phật, là ba thì một tướng, thật ra không khác, tuy là không khác, nhưng không khác mà khác, trong đây lại thuộc về đức giải thoát. Nay ban đầu nêu chỉ nói ba mươi sáu, lại từ một thứ căn bản mà nói, theo ban đầu nêu văn, tức là xuất nhập đều làm căn bản, cho nên căn bản ban đầu chỉ làm tên nhập, cho đến ra khỏi Niết-bàn mười sáu câu đầu, tức tự nêu bày nêu ra bốn câu căn bản, do đó ở sau kết nói, nếu đều lập hai bốn câu căn bản thì thành bốn mươi câu.

Hỏi: Vì sao lập hai bốn câu căn bản?

Đáp: Nơi phát sinh đều có khác nhau, lại có thể chỉ là khai hợp khác.

Khai: Tức là xuất nhập đều có bốn, hợp cùng làm một với căn bản, tức dùng xuất nhập xen nhau thành bốn, như nói đoạn nhập, không đoạn nhập, đoạn xuất hai căn bốn câu, ở hai câu nhập lại thêm câu thứ hai thứ ba, ở hai câu xuất cũng thêm câu thứ ba, thứ tư, cho nên có ba mươi sáu và ba mươi khác nhau, song căn bản có bốn không cần chuẩn bị giải thích, đến sau giải thích văn hai câu căn bản đều ở trong nhập xuất hai cái mười sáu câu, nên biết thật cú chỉ có ba mươi hai.

Hỏi: Căn bản đều ở trong mười sáu câu, câu nào đúng?

Đáp: Đồng tức là đúng, văn nêu ở đầu bốn câu, nay cũng giải thích sơ lược.

Kế trong giải thích riêng tìm kỹ các câu, văn rất rõ ràng không phiền phải giải thích. Nay y cứ văn tướng hơi ẩn, lược là nêu ra tướng trạng ấy. Trong bốn câu đầu đều dùng phàm phu ràng buộc gọi là bất đoạn, bốn câu thứ hai bỏ đều y theo thể chiếu, gọi là bất đoạn, trong bốn câu thứ hai, vừa đoạn vừa bất đoạn, nghĩa phải gồm cả hai.

  1. Phân tích pháp gọi là đoạn, thể gọi là bất đoạn.
  2. Đã là người học đã đoạn gọi là đoạn, còn các tên không đoạn.

Nói nhập là hoặc chưa hết phần được hữu dư, cũng gọi là nhập, cũng có thể nên nói phân tích thể vô học, sợ văn lầm, phi đoạn phi bất đoạn, lý thể song phi tánh ấy thầm chân, được gọi là nhập. Trong bốn câu, câu thứ nhất không được y theo trước làm cả hai đều giải thích, tức là lẽ ra trước sẽ vừa đoạn vừa không đoạn, là phân tích thể xong.

Kế đem hoặc đã dứt gọi là vừa nhập, các nghĩa chưa hết gọi là vừa không nhập, là câu khác nêu bày ở đây nên biết. Trong bốn câu thứ tư, câu thứ tư nghĩa cũng gồm cả hai, nêu bày trong bốn câu thứ hai, trước gồm hai nghĩa giải thích, mười sáu câu nầy phàm nói nhập, ý đều ở từ giả nhập vào không là so sánh khiến thành mười sáu câu, do phàm phu ngoại đạo làm bốn câu thứ nhất, nên bốn câu đầu đều là quán không sở quán sở phá, mười sáu câu sau đều nói xuất, đều từ không nhập giả gọi là xuất, cũng thành mười sáu câu, so sánh nhập không mà nói, không giả nầy chánh ở tạng thông, nhưng nghĩa bao gồm ở Biệt Viên, như ở sau hỏi đáp trong phân biệt đủ nêu ra ý kia, lại mười sáu câu trước câu bốn căn bản ban đầu, tùy đều dùng nghĩa, mà gồm so sánh xong.

Đến sau, trong giải thích lại thuộc đối là chỉ bày tướng đồng nên so sánh trùng lập, trong xuất nêu bày nhập lẽ ra cũng nêu bày trước là vì biết đồng, nên chỉ thẳng nêu bày bốn câu căn bản, mà không giải thích tướng.

Kế nói xuất, trong bốn câu thứ nhất, câu thứ ba, đây là trung căn xuất giả Bồ-tát, phân đoạn phiền não cũng gọi là bất xuất, lại có thể xuất giả gọi là cũng xuất, nếu người hạ căn dứt hết kiến tư mới được xuất giả, thời không nên nói vừa xuất vừa không xuất.

Câu đầu trong bốn câu thứ hai. Ban đầu ở Vườn Nai đã nhập vô học, không nhập Niết-bàn mà thường giúp Phật, cho đến trong Phương Đẳng và Bát-nhã, cũng được nghĩa rằng Nhị thừa xuất giả, trong bốn câu thứ ba, câu đầu đây là thể môn gồm dụng phân tích, phân tích cũng là đoạn, thể là bất đoạn, lúc đầu nhập không gọi là vừa bất xuất, sau ắt xuất giả gọi là vừa xuất, chẳng phải nói chánh dùng ba tạng phân tích pháp, nên đều nói là bao gồm, người Nhị thừa cũng vậy dùng thể bao gồm phân tích, trong câu thứ ba có phân tích có thể, nên nói vừa đoạn vừa không đoạn, đều là người Nhị thừa nên nói bất xuất, trong bốn câu thứ tư, hễ nói lý, tức là song phi, câu đầu nên nói phân tích thể chân lý, nói thể pháp chỉ là nói lược, ba câu sau đều nên nói lý, nói lý thể pháp Bồ-tát xuất giả, do xuất giả nên gọi là xuất, khi xuất giả đã có chân lý, dù là thượng căn cũng duyên lý trước, câu thứ ba, thứ tư là nói theo câu thứ hai.

Kế hỏi đáp trong phân biệt, nói thể pháp ý thông chung ba giáo nên so sánh phân tích thành bốn. Lại nói: Lại y phân biệt theo Biệt viên bốn môn, bốn môn như văn, nên nghĩa trong văn trước ở Tạng Thông nên lại so sánh hai giáo sau, hoặc lại y theo trước làm các tên phân tích thể nhập không xuất giả thầm chân, nêu ý Viên giáo nghĩa cũng nên như vậy, chỉ là biệt giới ngoại không giả, và thần với lý Trung đạo không thể nghĩ bàn, do nầy mà thành khác, văn dùng bốn môn Biệt viên, trong mỗi môn có bốn môn bốn tất, tùy theo tướng mạo ấy không đâu mà không có khác nhau.

Ban đầu nói nhập trong bốn câu căn bản, đã dùng Biệt viên cộng thành bốn môn, cho nên trong bốn môn nói bất đoạn, giới ngoài thể viên thể hoặc tánh không, nghĩa phải không môn, không vô sở đoạn cũng lại không nhập, nói đoạn nhập là giới ngoại phân tích pháp, thứ lớp dứt hoặc, đã có nghĩa sở đoạn thì phải có môn, có sở đoạn cho nên gọi là có nhập, môn thứ ba gồm dùng phân tích thể, môn thứ tư là phân tích lý thể, kế mỗi câu ở sau nói bốn môn khai thành mười sáu, lại do trong mỗi môn đều có đủ bốn nghĩa đoạn, lại dùng bốn nghĩa thuận theo bốn tất, do mười sáu tất thành mười sáu câu, như trong không môn, tuy thể thông suốt hoặc, gọi là bất đoạn, thế giới đã không sinh thiện diệt ác đến thấy lý, nên gọi là bất nhập, ba tất ở sau bất đoạn như trên, nếu là người trung thiện đã sinh, hoặc trong đối trị y theo trị về bệnh biên, gọi là nhập, không so sánh với bệnh nên gọi là bất nhập. Trong nghĩa bậc nhất lý tánh không đúng nhập và không nhập, còn ba môn, môn ấy tuy khác so sánh với bốn món tất nghĩa ấy chẳng khác.

Kế lại ở sau, để bốn món tất ở trong mỗi môn lại khai ra bốn môn, dùng mười sáu môn làm mười sáu câu, tức dùng không, v.v… so sánh bất nhập, v.v… đầy đủ như trong căn bản ở trước có nói, câu căn bản kia tuy gọi là không, vì không, v.v… trong đó lại có không, v.v… bốn nghĩa khác nhau, cho nên dùng sở khai không, v.v… bốn nghĩa cũng có thể so sánh với bốn nghĩa bất đoạn, v.v…, cho nên phân tích thể của hai giáo đều đủ ở nhập bất nhập, v.v… bốn nghĩa khác nhau. Nhập nghĩa là đến lý ắt như. Bất nhập nghĩa là lý vô sở nhập, câu thứ ba dùng lý nghĩa song chiếu, câu thứ tư lại dùng lý là song phi, song nầy cùng bất tức dùng thể phân tích, đều dùng đức làm Niết-bàn. Đã nói xuất là vì khởi dụng, nói nhập là khế hợp với lý, đoạn và bất đoạn nghĩa đồng với trước, một môn đã vậy ba môn cũng vậy, trong xuất tuy tức nhưng so sánh bốn môn, y theo nêu bày cũng phải so sánh bốn tất, chỉ là văn lược, kế nầy thì ở sau lại dùng Biệt Viên, gồm chung thông tạng, do thể xuống nhập phân tích tên đồng, nên suy nghĩ kỹ không thể ghi nhớ đủ.

Kế nói ba mươi sáu câu Bát-nhã, v.v… tuy nhân Niết-bàn y theo luận vấn khởi?

Đáp: Trong đây cũng ngay nơi đồng là khác thuộc Đức Bát-nhã.

Nói sinh, v.v… ở Đây y theo Đại phẩm chiếu nói phẩm trung, ngài Xá-lợi-phất hỏi Phật, vì sao là phải Bát-nhã Ba-la-mật?

Đức Phật đáp: Sắc không sinh Bát-nhã sinh, cho đến trí Nhất thiết chủng sinh Bát-nhã sinh, tuy trải qua các pháp, chỉ thành một câu, nay y theo câu nầy khai thành ba mươi sáu câu trong kinh từ sắc tâm cho nên chủng trí là thuộc về ý kinh, không thể bỏ qua mà chỉ nói các pháp, các pháp đã xa Bát-nhã thông sâu, nên y theo ba trí để giải thích Bát-nhã, cũng y theo ba đế, để giải thích các pháp, nếu làm cùng tên trước khác mà nghĩa đồng, các pháp chỉ là phiền não, Bát-nhã chỉ là Niết-bàn, Niết-bàn từ đoạn Bát-nhã từ trí, trí đoạn tuy khác mà đều phá các pháp, nên nói là tên khác mà nghĩa đồng. Lại từ trí đoạn khác nhau nghĩa biên, lại gọi là Biệt. Lại Bát-nhã nầy các pháp có mười sáu câu, đều thuộc về trước đến hai chỗ ba môn giải thoát sáu câu, nầy chính là mỗi câu nói theo viên, nếu từ thứ lớp, tức như trước nói phiền não Niết-bàn xuất nhập, trước y theo Tạng Thông nhập không xuất giả, nghĩa bao gồm Viên Biệt, thuộc về môn Đại thừa, y theo đây thì lẽ ra các pháp các trí sinh bất sinh, đều chung bốn giáo, cho nên văn trước ba mươi sáu câu.

Kế do tướng phân biệt mới lại Biệt xuất Biệt Viên, nay trong Bátnhã tức so sánh ba trí ba cảnh, thời trong nhất trí đã bao gồm phân tích thể, còn hai trí, tức là giả trung, ba trí rõ ràng không cần phải lặp lại câu hỏi, cho nên không có văn phân biệt, lại trước gọi là phiền não cho đến Niết-bàn, mà nói xuất nhập, lại phải y theo hai giáo trước để nói. Nay nói Bát-nhã Bát-nhã vốn không cho nên liền y theo ba trí giải thích chung. Lại phiền não ở trước một bề y theo lược hiển thô định giáo, cho nên luận đoạn và bất đoạn nhập không xuất giả, nay trong Bát-nhã cho đến hiển bày đối thuyết bất định, nên có cảnh trí so sánh phát ra chẳng đồng, căn bản khai hợp y theo trước nên biết, ở trong đó trước nói xen phát mười sáu câu.

Kế nói xen chiếu mười sáu câu. Chỗ nói phát là phát có hai nghĩa.

1- Y theo không thể nghĩ bàn trong đó không biệt mà biệt dùng tướng luận để phát, phát trí đã vậy, chiếu cảnh cũng. Lại nếu cảnh xen phát trí nên nói về túc tập, nếu chuyển trí xen chiếu thì không nói phát tập, hoặc theo cảnh xen chiếu cũng là phát tập. Lại nếu hai trí không giả xen chiếu hai cảnh, thì thông thông biệt nghĩa cũng chung ở ba tạng Bồ-tát, trung trí chiếu hai, chỉ ở Biệt viên, nghĩa cũng chung ở Viên Biệt nhiếp thông. Nếu đặt tên Trung thì không có thể trung, cũng thông thông giáo bát địa và ba tạng Phật, nhưng không thông ở không giả chiếu trung, chiếu trung chỉ ở Biệt viên và nhiếp bốn xứ, lại nếu nói theo Biệt thì Bồ-tát ba tạng đến cây Bồ-đề mới được chiếu chân, cho nên phải dùng các giáo các vị, cao thấp các trí, quyền thật hữu vô, hoặc thiếu không thiếu, đoạn vị phục vị, thượng trung hạ căn, hoặc đơn hoặc phức, dùng lập cảnh trí, tự tại mà nói, nghĩa có chung riêng nên phải nói khắp, nếu được ý nầy nêu bày giải thích các câu các nghĩa nên theo, bao gồm các văn nầy xen phát xen chiếu, bao gồm văn chỉ cho đến khai quyền, chỉ là trí mầu cho đến cảnh mầu chiếu nhau phát nhau, thành mười pháp thành thừa ở Viên giáo, cho nên được mười sáu pháp mà tên khác, Bát-nhã đã vậy đến thân cũng giống như vậy, lại không phân biệt nói, rất là sâu xa.

Kế là nói ba mươi sáu thân, y theo trước dẫn luận làm lời hỏi đáp. Như pháp quán Phật. Phật tức là pháp thân, pháp thân nghĩa đúng với Niết-bàn Bát-nhã, sở ưng sở chiếu nghĩa tương đương với các pháp phiền não, nên được gọi là một tướng trong ba tướng, hoặc không biệt mà biệt, trong đây chánh đáng đức pháp thân, thân tướng của thân mong thành ba mươi sáu, hoặc tên khác mà nghĩa đồng, không cần phân biệt, đủ như ở cuối quyển hai dùng ba Bát-nhã mà so sánh ba thân, cảnh trí đã xen phát xen chiếu, nên khiến thân cũng xen khởi xen nhập, chiếu cảnh như nhập phát trí như khởi, nay nếu lại y theo nghĩa biệt, phân biệt thẳng ở thân Phật làm ba mươi sáu, lẽ ra lại khai ra hóa thân, do so sánh pháp báo, nên được làm bốn. Nói xuất nhập, hóa hưng là xuất hóa, dừng nghỉ là nhập.

Hỏi: Chỉ nghe ba thân từ pháp thân khởi, vì sao không nghe ba pháp khác từ hóa thân khởi, cho đến pháp báo từ ứng thân khởi?

Đáp: Từ thắng khởi biệt tức là thi quyền, từ biệt khởi thắng tức là khai quyền, “khoa tiết” là nói nghĩa không thể nghĩ bàn, không ở đâu chẳng phải pháp giới, nên được tướng khởi tướng nhập không ngại, tướng ấy thế nào?

Như hóa ứng tự nói nay thân ta đây là là pháp thân, huống chi là không có báo, năng khởi đã vậy, tướng nhập nêu bày ở đây, lý không khởi nhập là nói theo hóa duyên, đâu thể từ duyên mà quên ở lý. Lại nên dùng ba mươi sáu câu cảm ứng trong huyền văn mà so sánh. Ba thân hóa, ứng, báo gọi là hiển pháp tức là Minh.

Lại báo thân, cũng được gọi là minh, cũng được là hiển, vì phần báo thân ở tự thọ dụng khác nhau, cho nên nay văn cùng luận thầm hợp. Trong luận nói ba là một tướng, cho nên nghĩa đồng, tuy một mà ba nên lại nói biệt.

Kế giải thích cảnh bệnh hoạn, là trước gồm nói trong ý.

Văn đầu nói lược hai bệnh quyền thật.

Ban đầu nói trong bệnh thật Nói: Bốn rắn là dụ cho bốn đại, trong đó lại dùng cú mèo tánh thăng để dụ cho hỏa phong, mãng xà chuột ở hang để dụ cho địa thủy, đều là văn trong Kim Quang Minh. “Xi” là loài chim bất hiếu ăn thịt cha mẹ. “Mãng” là loài rắn lớn khí độc nặng, mật rất đắng, ba việc nầy đều dụ cho ấm khổ “Tẩu” là đầm lớn, trong đó không có người chỉ có nước tụ lại, cho nên dùng để dụ cho khổ không có chủ tể, do các pháp nhóm họp, nếu có đại nghịch lại có thể gây ra các điều ác, nên trong Đại kinh hai mươi mốt nói: Bốn rắn hại người, không rơi vào các ác, bốn đại hại người, quyết định rơi vào đường ác, bốn đại trái nhau nên gây ra các điều ác, gọi là hại người. Khí độc nặng, mật đắng suy nghĩ nên biết. Bốn nước làm lân cận, v.v… nghĩa là tiếp cận, bốn đại hòa hợp là nghĩa lân cận, nầy cũng là văn kinh Kim Quang Minh “hư” là “nhược”, “thừa” là “tiếp”, cũng là tiện, “hữu” là “mỹ”, “phủ” là “suy”. Cho nên trong Phẩm Không nói: Nghiệp lực cơ quan giả đối không nhóm họp, như nước lửa gió cùng tàn hại nhau, như bốn con rắn ở chung một giỏ, bốn đại rắn rết tánh nó đều khác, hai thượng hai hạ, các phương cũng vậy, hai tánh tâm thức tháo động không yên, Chư Phật thăm hỏi, v.v…: “hỏi” là “mạng”, nầy dùng thượng hỏi hạ.

Cho nên trong Trịnh Huyền nói: “tửu sính” nói là hỏi, lại dùng hạ để khai thượng làm lời hỏi, nay ý văn đồng hỏi trái nhau.

Trong Hán Thư chép: Hỏi dứt dự định, “tấn” cũng là hỏi, cũng là lời rộng. Rộng là dùng ý mình nói lời hỏi, như trong kinh Pháp Hoa Đức Phật nhóm họp các phân thân, đều sai thị giả thăm hỏi Đức Thích-ca ít bệnh ít não, v.v… trong Đại luận rộng giải lời Phật thăm hỏi. Đức Phật chỉ bày đồng với người nên nói thiểu. Bệnh có hai nghĩa: Kế sau phân ra quyền thật, hoặc nằm ngửa ở sau, ban đầu nói tạm bệnh, tức như trong kinh Tịnh Danh nương phương trượng bệnh, Quốc vương Trưởng giả Đại thần nhân dân đều đến hỏi bệnh, vì thân bệnh rộng nói pháp cho họ nghe , tức dùng phàm tục. Nói phân tích tiểu là như phẩm Đệ Tử, nói quở trách như phẩm Bồ-tát, lại do ngài Văn-thù truyền ý chỉ Như lai hỏi quả bệnh xong, tức tự hỏi rằng: Cư sĩ: bệnh gì, do đâu mà sinh cửu trụ, phải làm sao đã diệt.

Hỏi: Nhân bệnh, ngài Tịnh Danh do đó nói rộng về nhân bệnh, do đây để nói ba quán điều phục bốn giáo dẫn dụ, nói rộng nhân bệnh, cho đến quả bệnh. Người nói ngài Tịnh Danh quở trách riêng Thinh văn, cho nên đầu kinh không ưa Thanh văn, văn sau cũng quở Bồ-tát. Vì sao đầu kinh cũng khen Bồ-tát? Có khen hay không khen từ kinh nầy hoặc tồn hoặc lược, nầy chính là không liên quan quở trách hay không quở trách.

Lại người xưa nói: Ý kinh Tịnh Danh bẻ dẹp Thinh văn, nêu cao Bồ-tát, thất ý đồng với trước, nay chỉ nói bẻ dẹp Tiểu thừa riêng khen ngợi Viên giáo, đồng dùng tám chữ, được mất cách nhau như trời với đất, nên nay nói lược phân tích tiểu quở đại, ba quán chiết phục, v.v… đã nói như ở trước.

Kỳ diệt đàm thường: Trong văn Đại kinh là nương ứng tích diệt độ bàn luận pháp thân viên thường, nên trong bài tựa ngài Thuần-đà thỉnh trụ qua lại với Văn-thù, đã khai tông thường, đến quyển năm chép: Ta vì các đệ thây chếtnh văn nói luận Tỳ-già-la, nghĩa là Như lai thường tồn không có đối khác, nên có ngôn thuyết là Như lai vô thường.

Thế nào là hai người không đọa lạc, khắp nơi trong văn nghiên cứu tỉ mỉ hỏi đáp, hiển bày Phật tánh thường hằng không thay đổi, nếu không do xương diệt thỉnh trụ, thì không nhờ đâu nói về thân thường không diệt, nhân bệnh mà nói lực, trong phẩm Hiện Bệnh, Ca-diếp hỏi Phật: Đức Như lai thuở xưa đã ở trong vô lượng muôn ức kiếp, tu hạnh Bồ-tát, thường hành ái ngữ, lợi ích chúng sinh, không làm cho họ khổ não, ngày nay tự nói bị bệnh, bạch Đức Thế tôn, người đời bị bệnh, hoặc ngồi hoặc nằm thân ở không yên, hoặc xin ăn uống dạy bảo thân thuộc xây dựng sản nghiệp, vì sao Đức Như lai nằm yên lặng, không dạy đệ thây chếtnh văn, vì sao không nói Thi-la, các thiền và giải thoát, v.v…, vì sao không nói kinh điển Đại thừa, vì sao không dùng vô lượng phương tiện, dạy tượng vương trong hàng Đại Ca-diếp, giúp cho không lui sụt tâm Bồ-đề, lại không trị các Tỳ-kheo ác, vì sao nằm yên lặng nghiêng hông bên phải, như trong kinh nói rộng. Lại nói: Đức Như lai bốn đại điều hòa thân lực đầy đủ. Ngài Ca-diếp lại dùng ba con trâu, mười bốn con voi, lực sĩ Bát-kiền-đề, ba Tỳ-na-la-diên, sau sau nữa tăng thêm mười mươi so sánh một tiết Thập trụ, cho nên năng lực Bồ-tát rất lớn, huống chi là Đức Như lai thành đạo ban đầu ngồi dưới đạo tràng chứng được mười lực, ngày nay không thích hợp như trẻ thơ kia, nhân Đức Như lai liền phát ra ánh sáng rực rỡ các thứ thần biến, bảo Ca-diếp rằng: Thuở xưa, từ vô lượng vô biên ức na-do-tha trăm ngàn muôn ức kiếp ta đã dứt trừ gốc bệnh, lìa hẳn dựa nằm, các chúng sinh nầy không biết Mật Ngữ Phương Đẳng Đại thừa, lại cho rằng Đức Như lai thật bị bệnh não, nói như vậy là đều do Ca-diếp hiện bệnh thưa hỏi, lại do bệnh là ba hoặc, quả bệnh là hai món sinh tử, chúng sinh thật hoặc và dứt chưa hết, quyền bệnh là các Đại Bồ-tát tùy theo dứt hoặc gì, thì sẽ chỉ bày hiện quyền đồng thật bệnh, như vậy quyền thật chẳng phải sở quán ngày nay, từ sở quán ngày nay ở sau có nêu. Nay cảnh sở quán là phàm phu bốn đại thật bệnh, nhưng do quán ấm và phiền não, v.v… bốn đại thêm bớt tức ở trước dẫn kinh Kim Quang Minh nói về tướng bệnh làm cảnh ngày nay. Thượng trí lợi căn, v.v… là chánh nói ra ý, trước là pháp kế là dụ.

Trong pháp ban đầu nói thượng trí, v.v… người thượng trí hiểu trong cảnh ấm nhập ở trước, an nhẫn không theo cương nhu. Đã vào Thập tín không cần đến nầy, nên văn trước nói: Nếu an nhẫn là không cần chín cửu, nghĩa là an ở trong ngoài bệnh hoạn phiền não, đây là bệnh hoạn về trước đã an xong, “tích” là nghiêng đổ, “trác” là như trong quyển ba có giải thích, độn căn bệnh nặng nên phải lớp lớp nói về quán hạnh, như đại thọ đá lớn chẳng phải một, một phen xuống một búa có thể xuyên đứt, nên nhắc lại ở đây nói về mười thừa, như ức xuống muôn búa, phàm bệnh lâu, v.v… nêu chung trong kinh có thể thành chướng ngại, nay ý văn nầy chưa chắc lâu dài, nhưng có khả năng chướng thiền, nên phải quán sát. Cho nên kinh A-hàm nói bốn pháp làm cho lui sụt quả A-la-hán, nghĩa là bệnh lâu dài, đi xa, can ngăn nhiều việc, nay chẳng phải hoàn toàn ở sau kết nói bốn tất.

Văn đầu tức thế giới, theo kinh nói ở sau chứng minh làm người, đã nói ba món học, tức sinh thiện ý, giới định như văn theo khởi tà đảo, ở sau tức là thất tuệ, do mất hiển đắc, đắc tức sinh thiện, giới định cũng vậy, lại nữa ở sau tức ý đối trị, trở lại ở sau tức là nghĩa bậc nhất.

Kế trong chánh giải thích văn tự thành năm, ban đầu trong tướng bệnh trước nói rõ, cho nên trong đó nói: “Chẩn là hầu mạch, nói nay không cần phải chuyên tinh phán xét, v.v… không cần phải như đến thượng trung hạ y dược, quả thật là nói về pháp chẩn mạch, nay nói lược: Mạch là khí huyết của đạo sở hành, mạch pháp là vốn ở đạo thầy thuốc, chẳng thể biết đủ được, nay phải lược biết tướng của năm tạng mà dùng pháp trị. Tướng mạch bốn thời: Xuân huyền hạ hồng thu phù đông trầm, bốn mùa thổ vương, đối trị tướng ngã tạng, ngã hành, sinh ra tương khắc, để nói về tướng mạch, nói lược hầu pháp, từ ngư (cá) đến quán suốt gọi là xích trạch, tức ở mẩu chỉ, sau đại ngang văn trước gọi là “ngư” sau văn rộng khắp gọi là quán, quán sau ba tấc gọi là “thốn miệng”, xích sau thốn trước, gọi là “quan dương”, gan tim ra trái, tỳ phế ra phải, thận trái là “mạng môn”, thận phải là “mạng căn”, khi phổi mạch đến thuận là cây du gọi là “kính”, như gió thổi lông gọi là “bệnh”, như liên châu gọi là “tử”, khi tim mạch đến như ống gọi là “bình”, như liên châu gọi là “bệnh”, trước cong sau thẳng như mang móc câu gọi là “tử”, khi gan mạch đến kém yếu gọi là “hình”, như gương cung huyền gọi là “bệnh”, như gà đạp đất gọi là “tử”, khi tỳ mạch đến, hà hà như diên, gọi là “bình”, như gà đưa chân gọi là “bệnh”, như chim mổ nước lậu gọi là “tử”. Khi thận mạch đến vi tế mà dài gọi là “bình”, như đạn đá gọi là “bệnh”, như giải thích sách gọi là “tử”, các mạch tạm lớn rồi lại nhỏ thành “ấm”, tạm nhỏ lại lớn gọi là “dương”, nhưng trong các thể văn dễ rõ, mà chỉ ở sau khó rõ, nay lại lược biết chưa phiền thật rõ ràng, nay văn nói tướng năm tạng chẳng phải tướng sinh, cũng chẳng phải tướng khắc, nhưng ngay tạng quá tăng thêm mà thành bình, như tánh cây phần nhiều thẳng, nay quá to thẳng.

Kế là đại tánh thắng, nay phần nhiều nhẹ nổi, tánh vàng cứng lợi, nay rất bén nhọn, tánh nước lưu chú nay thì giọt nước lách tách, tánh đất cứng rít nó rất trầm nặng, hoặc tánh quá phần đến nỗi bệnh, hoặc suy nhược mà gây ra bệnh hoạn, hoặc xung khắc nhau là y theo ngã hành nên biết, từ dưới mặt không có sáng bóng, thể ngã tạng giảm bớt cho nên thành bệnh, gan là chủ của cây, nếu nhánh lá khô héo thì cây bị bệnh, cho nên không có sáng bóng, v.v… như cây không trơn, là tâm chủ lửa, nếu lửa mất mầu không đỏ là lửa bị bệnh, bệnh phổi mầu trắng là chủ vàng, mà nay mầu đen là phổi bị bệnh, thận chủ nước, chỗ trôi chảy ngăn trệ làm cho thể không có năng lực, nên thận bị bệnh, tuỳ chủ đất, nếu như đồi gò không bằng thì tỳ bị bệnh, từ trên gan có vật trắng, năm hành tương khắc bệnh năm tạng sinh, nên dùng sáu khí để trị ở năm tạng, pháp trị phải ở trong pháp trị sau, nay văn so sánh ở đây nói lược là tiện, nên định trước ví dụ. Trong pháp trị văn sau lại không nêu ra, nhưng sáu khí nầy chỉ dùng hô hấp ngăn trệ tiếng phát ra hơi thành trị, cũng không hoàn toàn dùng thể chữ làm nghĩa, như thổi cũng có hơi lạnh.

Kế là hơi thở nói là xuất khí. “Hô” là hơi ấm. “Hy ha thi”, ba chữ nầy hoàn toàn không có thể chữ, chỉ có chữ “Hy”, tức tiếng bệnh, chỉ cần hô hấp, tiếng tợ như năm ấm, tức thuộc năm tạng lại trị năm tạng, dùng thì phải răng nếu môi lưỡi điều hòa ra tiếng khiến không mất năm âm, “ha” thuộc về tiếng thương hơi thổi thuộc tiếng vũ, hơi thở thuộc tiếng trưng hy thuộc về tiếng cung, thị thuộc về tiếng giác, lấy năm hành so sánh thức thứ năm tạng. Nay đều dùng hơi trên bổn tạng để trị bổn tạng, cho nên dùng bổn tạng.

Đã khắc tha tạng, khiến cho tha tạng bệnh, nên dùng bổn khí kéo về bổn tạng, không để hại người, như phế hại gan là kim khắc mộc, lại dùng khí phế thâu lấy kim hành, còn bốn tạng y theo đây nên biết. Chữ “Lâm” là bệnh quỷ ấy như táo quân, chỉ là mầu đen, thận bị tỳ hại, tức thành bệnh thận, bệnh quỷ lại theo mầu bổn tạng, cũng như táo quân, trong bổn thứ nhất theo đủ năm mầu nói quỷ năm tạng. Nay văn chỉ lược về thận tạng để rõ, y theo thứ lớp của văn lẽ ra ở trong nhân duyên bệnh tức quỷ bệnh. Văn tùy tiện nên phó thác ở đây để nêu bày.

Kế giải thích tỳ nói mầu lồng thùng kia: Nên nói là lồng thùng mầu vàng, lại có nhiều mờ mịt là tướng bệnh sáu thông, ở đây là nói theo thế tục, cho nên một thần đều giữ một tạng vương ở sáu căn, ấm là căn bổn của thân, thông ở năm tạng năm căn như trong Kinh Luật Dị Tướng có chép: Xưa, có vị Quốc vương bảo người tìm sư tử con rằng “nếu ông tìm không được thì sẽ bị giết mạng ông”, sợ lịnh vua nên tìm khắp nơi, được sư tử con đem dâng lên vua, giữa đường nằm ngủ, sáu căn sáu thần đều tranh công. Mục thần nói “do ta nhìn thấy biết chỗ sư tử con”, nhĩ thần nói: “do ta nghe được nên biết được chỗ sư tử con”; Túc Thần nói: “do ta ta đi đến được nên mới bắt được sư tử con nầy”; Thủ Thần nói: “do ta nắm bắt được sư tử con”; Tỷ Thần nói: “do ta ngửi được nên bắt được sư tử con” các thần đều nói: “lưỡi thật không có công, “Thiệt thần không phục, hết lòng xin công ấy”.

Có một vị La-hán nhân đi qua gặp các vị thần nầy tranh cãi, sợ vua giết lầm, liền theo sư tử con đến chỗ vua, sư tử con đến trước. Vua hỏi sư tử con: Đây có phải là sư tử con chăng?

Đáp: Không phải.

Vua sai người giết.

La-hán trình bày đủ với Đại vương, người ấy được miễn tội chết.

Văn ấy vốn dụ cho người ở các nơi đều có công chinh phạt, nếu người không có đức, thật là rất hại. Đây dụ tuy tợ mối người đều có căn thần, chẳng có hữu tình khác.

Kế là nói nhân duyên bệnh trong văn có sáu.

Kế là ăn không có chừng mực nên thành bệnh, cũng như trong Bát Vật Chí chép: Nếu người tạo ăn thì đồng với trăm bệnh yêu tà, ăn càng ít tâm càng sáng, ăn càng nhiều tâm càng tổn, nên ăn không được ăn quá độ, trong Yếu Lãm chép: Nói về “bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra” nên người quân tử cẩn thận nói năng tiết độ ăn uống.

Kế nói tướng tổn ích: Nói từ ba lỗ lưng mà vào bốn chi. Trong Đại luận quyển hai mươi sáu có giải thích mười tưởng rằng: Thí như cất rượu, cặn đục thành phân, trong thành nước tiểu. Lưng có ba lỗ, gió thổi nước mồ hôi bay vào trăm mạch, cùng máu trước ngưng tụ biến thành thịt, từ thịt sinh ra mỡ sáp cốt tủy, từ đây sinh gọi là thân căn, cho đến sinh ở năm tình và các căn, như đều do nuôi dưỡng thành sinh. “Phích” là nước không thể lưu hành. Lại lửa của thân ở sau dạy pháp điều hòa ăn uống.

Kế dẫn ngạn ngữ ở đời; kế ăn năm vị ở sau y theo tạng tăng tổn, rất dễ thấy: Ngồi thiền không có tiết độ thành bệnh.

Ban đầu nói nghi của thân không ngay, tâm thêm biếng nhác, kiêu mạn chuốc lấy bệnh ma.

Kế cùng trong phát ánh trái nhau, nói trong như trần, v.v… nói tám tướng xúc, tám xúc nầy có bốn thượng, bốn hạ, nói so sánh nói xúc, xúc thuận theo bốn đại, nên thuận theo tám xúc, nếu phát xúc trọng ở sáu, nói xúc trái thành bệnh, lại chỉ ở sau nói dùng chỉ quán do động bệnh.

Ban đầu dùng chỉ quán Trung quán quá mức nên tăng thành bệnh.

Kế nói dùng quán không điều hòa, năm trần năm tạng năm hành sinh nhau khắc nhau, trong mỗi trần lại đều có năm, phải nên khéo biết tướng sinh nhau khắc nhau chủ đối.

Ban đầu là năm sắc: Như Bạch Hổ Thông Bác Vật Chí chép: Gỗ Phương Đông, vua Thái Hạo, giúp Câu Mang giữ phép bít mà trị thanh xuân, sao thái tuế, là loài thú rồng xanh, âm giác kia, là ngày giáp ất, vị ấy chua, mùi hôi Hỏa phương nam; là vua Diêm Đế, giúp Chúc Dung giữ sao Hoành mà trị hạ, sao hỏa, loài thú chim đỏ, âm Trưng, là ngày Bính đinh, vị đắng, hôi cháy.

Kim phương Tây; vua Thiếu Hạo, giúp Nhục Thâu giữ khuôn phép mà trị thu; sao Thái bạch, thú Bạch hổ, âm thương, ngày Canh tân vị cay, hôi tanh, phương Bắc thủy; vua Chuyên Húc, giúp Huyền Minh, nắm quyền mà trị đông, sao Thần kinh, thú Huyền võ, âm vũ, ngày Nhâm quý, vị mặn, hôi thối nát, trung ương thổ, vua Huỳnh Đế, giúp Hậu Độ, nắm cương lãnh mà chế phục bốn phương, sao Trấn tinh, thú Huỳnh long, âm cung; ngày Mậu kỵ, vị ngọt, hơi thơm, giúp Quan chủ năm hành, đủ như trao thề thuốc pháp trong đó có nói, nên năm thinh cũng thuộc năm hành ngũ âm. Hô Hoán thuộc Giác mộc, ngôn ngữ thuộc trưng hỏa, khóc thuộc trưng kim, ngâm thuộc vũ thủy, ca thuộc cung thổ, trong năm xúc, thể mộc thật hỏa tánh ấm, nếu so sánh bốn đại phương Tây thuộc phong nên nhẹ, như ở văn, so sánh y theo ý kinh Đại Tập. Nếu theo tục văn, như trong Bát Vật Chí, v.v… các hơi tanh hôi như trước đã giải thích.

Trẻ thơ là anh cảnh sức, như trong Thiên Thương Hiệt nói: Con trai gọi là nhi, gái gọi là anh, là chung cả nam nữ, cho nên giải thích tên, người mới sinh gọi là trẻ thơ, trước ngực gọi là anh, dìu dắt anh trước đó mà nuôi dưỡng gọi là anh, như Quốc vương, v.v… thứ hai vốn không có văn nầy. “Cung” là chắp tay, cũng như Trương hoa trị bệnh cho Lý Tử Dự, bị bệnh quỷ rất nặng mà không chịu trị. Hoa là đi tránh, Dự tự đi ngựa đuổi theo. Hoa bèn xuống đường núp, nghe trong cỏ có quỷ, mà hỏi nhau rằng: “Đế sao không trốn”

Đáp: Tôi đang bị bệnh nặng kim châm không được, cần gì phải trốn, chỉ sợ dùng tám độc hoàn. Chốc lát Tử Dự đến, Hoa lại dùng tám độc mà rửa, bệnh quỷ ấy kêu la mà đi ra khỏi đám cỏ, quỷ cũng không lừa dối người bệnh sau đó nói vì bị bệnh, do hành giả tà niệm, cũng như dụ cho trong kinh, có thanh tín sĩ, ban đầu giữ năm giới tinh tấn không sát, lúc sau già suy thường bỏ quên. Lúc bấy giờ trong núi có vị Phạm Chí tên khát, đến khất thực, việc ruộng nhà bận rộn không rảnh để tham kiến, bèn hận mà đi, Phạm Chí có thể khởi thi sai quỷ giết người rằng: Tôi bị nhục, tôi đến giết nó. Trong núi có vị La-hán biết được, đi đến điền gia bảo rằng: nay ông sớm tối nhang đèn quy y ba bảo, miệng tụng giữ miệng thân, đừng để phạm kệ, từ niệm chúng sinh sẽ được an ổn. Sau khi Sa-môn đi người chủ y theo lời dạy, thông hiểu niệm Phật tụng giới, quỷ đến sáng đi tìm Điền Gia, lờ mờ muốn giết, quỷ thấy điền gia có từ tâm không thể hại được, phép bít của quỷ thần người sai phải giết, liền đến muốn giết, nhưng Điền Gia có đức không thể giết được, theo phép lại phải giết Phạm Chí sai quỷ thần, quỷ thần bèn tức giận muốn hại Phạm Chí, La-hán ngăn che để quỷ không thấy. Điền Gia ngộ đạo Phạm Chí được sống, không phạm tội sát, Điền Gia chuyên chú niệm Phật, suốt đời chỉ một pháp môn, phải biết chánh niệm quỷ không có dịp hại được, các việc nầy nên so sánh văn tụng bài tựa giới ngăn được quỷ ma, chánh là trong kinh Quan Âm chép lại văn của bổn nhân, cũng như Thái Công làm đàn quán đảnh khiến cho Long Thần con không thể đến cảnh làm gió to mưa mạnh, huống chi là người dùng pháp Phật dưỡng tâm chánh niệm ư? Phải biết tà quỷ được nhập, là đều do tà niệm. Dẫn quỷ Hê-la, v.v…, tức trong văn trước có quỷ năm mầu, có thể bị bệnh năm tạng. Trong bệnh năm ma, ban đầu cùng bệnh quỷ nói có khác.

Kế nói lý do bị bệnh, cũng do hành giả sinh tà niệm, trong bệnh sáu nghiệp nếu có các tội giết, đây là bệnh phá năm giới bệnh thuộc về năm tạng, tạng thuộc về năm căn, đồng với trước các ý không giết hại. Nếu muốn trị tùy theo tạng nào bệnh, biết phá giới nào để tăng thêm trị hay bớt. Nếu người trị giới thay đổi được bệnh túc nghiệp, tùy theo căn phán xét giới để suy nghiệm tội diệt, rồi sau dùng trị, quán tâm trị song sáu trị.

Kế nói pháp trị.

Trước chỉ bày trong đồng khác nói không thể cầm dao cầm mũi nhọn, v.v… dùng trị mất nghi như cầm dao mất cán, cầm mũi nhọn tổn thương tay, bệnh cũ không trừ hại, lại thêm bệnh mới.

Kế trong chánh dùng trị; ban đầu trong đồng đều nói khí điều hòa quân bình, “tuân” là “quân”, dẫn dắt theo ở rốn: Rốn đã là nguồn gốc của các ruột già và bao tử, khi ở trong thai từ rốn mẹ đi vào rốn con nên mẹ ăn từ rốn mà vào, để nuôi con, hơi thở cũng. Ban đầu con ở trong thai nương hơi thở mẹ, nên quen gọi là lấy mẹ làm hơi thở.

“Lữ” là xương sống.

Kế là dừng ở tâm đa điền, v.v… nên biết, tâm phần nhiều là các duyên trên, trên nóng là lửa giúp, hỏa tiêu các thức ăn năm tạng dễ điều hòa, phần trước thuộc về âm, thái âm tổn thương lạnh thiếu lửa nên loạn. “Tưởng Ngô Mao”: Nghĩa là nước Tưởng thêm văn, Ngô rõ suốt, Mao vui vẻ, đây là trình bày cơ quan cốt yếu, đều là cách bẩm thọ hơi thở lại khí được dứt, có nói đủ như trong Bích Nham Lục, đây là đích thân nương Đại sư Trí Giả để bẩm thọ pháp dạy bảo, được lợi ích việc trị, cho nên dẫn ra.

Dẫn Hoàng đế năm hành sinh nhau khắc nhau: Là Hoàng Uông Chánh “đế” là đức giống như trời đất gọi là “Đế”. Ban đầu, từ vàng hóa thành nước sinh ra ở sau rõ sinh nhau, từ lửa được nước ở sau nói tương khắc, nước gặp đất mà không trôi chảy, chữ “Hành” và năm hành nghĩa đồng, là lấy vận nên mượn âm nầy, như vàng khắc mộc ở sau là nói dụng trị, như vàng khắc mộc, phổi mạnh mà gan yếu, gan là gan bệnh, thì tìm dừng ở phổi, nên biết không bít ở chỗ bệnh tim. Lại dùng chỉ quán trị bốn đại, trong đây là là tướng đối lại thành trị, như tánh nước rộng trị gấp, còn các đại y theo đây.

Sáu khí trị: Là văn chỉ nói lược, trước nêu bày; kế giải thích, giải thích so sánh trong bệnh bốn đại.

“Đàm ấm” chánh thể làm âm, năm tạng như trong tướng bệnh trước đã nói, nói bình thường nhổ ra, đưa vào, v.v…, nhổ ra nghĩa là tán trừ thô khí, nạp nghĩa là nạp vào an nghĩ, như bình thường ngồi thiền, đều phải làm cho lớn mạnh và đưa ra khí thô trong thân, chỉ một vài lền là đủ, chẳng phải chuyển thành trị bệnh, dùng trong hơi thở nói nương hơi thở, giả tưởng có mười hai tức y theo báo tức mà khởi giả tường, như sân do tâm biến mà làm cho hơi thở thô đầy, nên biết đều là tâm chuyển báo tức, khiến báo tức thô, nay giả tưởng cũng giống như vậy.

Kế trong giả tưởng chép: Biện cách trị bướu. Bổn thứ nhất nói: Như ở Cao-ly (Hàn Quốc) nói về cách trị bệnh bướu, giả tưởng bướu nầy, như bày lộ tổ ong, con ong ở tổ, chốc lát qua lỗ mà ra, mủ sưng chảy ra, con ong đi hết, các lỗ nhỏ nhủ tổ ong trống, tâm tưởng thành rồi thì tiêu bệnh bướu, như người bị bệnh bít ruột nên dùng cách châm, nên làm chữ “Trưng”. Bổn thứ nhất nói: Như người lo lắng bệnh tắt ruột ngưng tụ ở bụng, tưởng thành kim châm vào bụng khiến cho ruột bị bít thông qua, như vậy thường làm không dừng, khi thông qua thì bị ngưng bít rồi lại đi, từ đây được lành mà thường bị bệnh lo thắc mắc, sau đó lại hỏi người rằng: Bệnh lo nầy đã khỏi, mà thắc mắc thường sau.

Người khác đáp rằng: Tưởng ông châm phá bít nghẽn, bít nghẻn phá mà kim châm vẫn còn, nay lại tác tưởng trừ kim châm, y theo đời nói mà khỏi.

Như trong kinh A-hàm dùng bơ, trong bổn thứ nhất nói: Tương nhu như bơ ở đảnh nhỏ giọt vào não, rót chảy vào năm tạng nhuần thấm khắp thân, trị người lao tổn rất có hiệu nghiệm. Nếu theo Tạp A-hàm thì có bảy mươi hai pháp, dùng tưởng để trị, nhưng chẳng phải giải thích cho người độn căn đời sau.

Có thuyết nói: Đức Phật ngự tại vườn ông Cấp Cô Độc, có vị Tỳkheo trong ba tháng hạ ở trong rừng tu Tam-muội. Vương tử Lưu Ly cùng năm trăm vị Thích Tử cỡi voi dạo chơi, các voi đấu nhau, có voi đen tiếng như sấm sét, lại có tiếng nhỏ như con mèo, Tỳ-kheo Thích Tử vào phong quán sát phát tưởng cuồng si, xuất định như voi say chạy, các Tỳ-kheo đóng cửa sợ bị tổn thương, có một Tỳ-kheo đến chỗ ngài Xá-lợi-phất hỏi: Cúi xin thương xót cứu giúp các Thích Tử.

Ngài Thân Tử đứng dậy dẫn A-nan đến chỗ Phật, bạch Phật rằng:

Các Thích Tử phát cuồng năm việc:

  1. Loạn thinh
  2. Do tiếng xấu
  3. Do lợi dưỡng
  4. Do ngoại phong
  5. Do nội phong.

Phải làm sao?

Phật nhân đó nói Tỳ-kheo Lan-nhã có bảy mươi hai bệnh, nói pháp Tu-na Bát-na, tiếng xấu bên ngoài chạm tâm căn bên trong, bốn trăm lẻ bốn bệnh mạch chậm tim gấp, đồng thời động loạn, sức gió mạnh đồng thời vào miệng, nên dạy pháp uống sữa mật và Ha-lê-lặc, nghĩa là buộc tâm một chỗ, trước tưởng gương pha lê, tự quán thân mình ở trong gươngấy thấy các việc cuồng, thấy rồi lại dạy, ông ở trong gương trừ tiếng, lưỡi để trên hàm ếch, tưởng hai ma-ni ở trong hai tai, tưởng ở trong như sữa nhỏ giọt chảy ra đề hồ, thấm nhuần nhĩ căn làm cho không nghe được tiếng, như dầu mỡ trơn không hề lay động, tưởng nầy thành rồi.

Kế tưởng chín lớp Kim cương từ ma-ni phát ra che thân hành giả, ở sau có Kim cương hành giả ngồi trên đó, có núi Kim cương vây quanh bốn phía, bặt dứt tiếng bên ngoài, trong mỗi núi xuất hiện bảy tòa Phật.

Nói Bốn niệm xứ, lúc bấy giờ vắng lặng không nghe tiếng bên ngoài tùy theo Phật dạy, ông phải tu tập cẩn thận chớ quên sót, nay lại nương bổn thứ nhất dùng bơ có lợi ích, lại nói: Mùa xuân nhập lửa Tam-muội ấm quá thành bệnh, nhập địa Tam-muội thấy thân thành núi không đá, phải mau trị, nhập nước Tam-muội thấy thân như suối nước lớn, nhập Tam-muội phong thấy thân như rồng chín đầu, phải mau mà trị, các văn rộng như trong kinh đã nói.

Như cách nuốt rắn: Bổn thứ nhất nói: Như người ăn nuốt bóng con rắn, cho là rắn, do đó mà thành bệnh.

Người khác hỏi việc ấy biết nguồn gốc của bệnh rồi, liền đem mật thuốc để rắn chết, người bị bệnh kiết lỵ, nói là rắn ra, bệnh liền khỏi. Vẽ bóng rắn trên vách vào trong chín rượu cũng giống như vậy.

Như trong kinh A-hàm chép: Ở nước Xá-vệ có vị Trưởng giả tên là Thần Cư, ông có một đứa tớ gái rất xấu, thường sai khiến các việc bên ngoài như cắt cỏ, lấy nước, v.v…, ngoài đồng có con suối, trên con suối có cây, trên cây có một cô gái xinh đẹp, tự thắt cổ chết, bóng hiện dưới suối, đứa tớ gái thấy cái bóng đó cho là bóng mình, liền sân với mọi người “tôi xinh đẹp như thế mà sai tôi làm ruộng vườn, bèn đập bể bình về nhà vào ngồi trong màn báu, mọi người cho rằng đứa tớ gái bị bệnh cuồng bèn hỏi, đứa tớ gái liền trả lời bằng những việc trước, vì sao mọi người không phân biệt, không thấy việc đã thấy gặp, liền cho soi gương, bèn thấy hình xấu, vẫn chưa tin, bèn cho rằng gương xấu, mọi người biết trước chỗ suối ấy có người nữ chết, bèn đưa đến chỗ suối, thấy bóng người con gái chết, tâm hiểu ra và hổ thẹn, quán tâm trị cũng như Đại sư Nam Nhạc khổ vì thủng đầy chân, dùng lực quán đuổi bệnh tiêu khỏi.

Kế nói về phương thuật, ở giữa trước trị đời, nói như pháp trị nôn mửa, trong bổn thứ nhất nói, do sợ sệt liền khỏi.

Trong Tạp A-hàm nói, dùng tâm thở quá gấp, lại chỗ ngủ sợ kém do phong hàn bên ngoài, do chuyển bao tử ống thận, v.v… trên nghịch ngực bít, mỗi tiết nước chảy dừng ở trong ngực, gọi là nôn mửa phải trị gấp, pháp trị như trong kinh có nói rộng.

Như cách trị răng. Trong bổn thứ nhất nói: Hướng về sao Bắc-đẩu chú nguyện rằng “nếu răng đau, Bắc đẩu trị tự biết”, đau liền hết. Ai dùng răng chó từ ấm địa hướng về dương địa chú nguyện rằng: “Khiến cho răng người hết đau, không khỏi ông mạnh, khỏi lại như cũ”, thì đau liền khỏi.

Như dùng ngón tay cái trị gan, năm ngón tay đứng đầu năm tạng, nên ngón tay cái đứng đầu về gan, đầu ngón tay đứng đầu về phổi ngón tay giữa đứng đầu về tim, ngón vô danh chủ tỳ, ngón út chủ thận.

Kế trong đó dùng chú nguyện cũng không trái. Như sớ kinh Pháp Hoa, dùng bốn món tất nhân duyên nên không trái, nay văn nhiều là ý đối trị, mạng sống trong hơi thở ra vào mà nói: Là miệng khiến qua đời chú nầy rồi vẫn phải thân nói rằng “A-NA-BẠT-NA”

Đau đánh bốn mươi năm mươi, khiến tâm dứt chỗ đau, như người Giang Đông lo chết, đều dùng tay đánh vai đến một vài trăm, lo liền khỏi.

Kế nói về tổn ích, tâm lợi bệnh nhẹ đốn ích, tâm lợi bệnh nặng tâm ích, tâm độn bệnh nhẹ tiệm tổn, tiệm độn bệnh nặng đốn tổn, hơn nữa tuy tâm đốn khéo giải quán pháp cũng được thành tiệm đốn trong ích.

Nói về thế gian ở sau thương thán, nói “dong”, v.v… Dong là bọn phàm thường.

Không ỷ người, trong Quãng Nhã nói là ngu. Vận cao, v.v…, như Tượng Bá Tuyết ở Sính Nhân Bá Nha, cắt đứt dây đàn ở Tử Kỳ, nên Tăng Bưu có làm bài thơ rằng:

“Chủng Kỳ không thể gặp,

Ai nói khác giữa tâm”.

Chủng Kỳ nghe Bá Nha vỗ Sơn nói rằng:

“Vòi vọi toàn bộ đều cao”

Nghe đờn khác nước rằng:

“Mênh mông đầy tai ư?

Nên biết thanh vận nếu cao thì người hòa phải ít, nay cách trị hay nên người tin cũng ít.

SỐ 1912
CHỈ QUÁN PHỤ HÀNH TRUYỀN HOẰNG QUYẾT
Sa-môn Trạm Nhiên Tỳ Lăng đời Đường soạn.
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

 QUYỂN 8

PHẦN 3

Kế nói trong mười pháp có nêu giải thích kiết. Trong giải thích nói, như người bệnh hủi, tin máu là sữa, cho đến tin xương lạc đà là xá-lợi, cũng như Kinh căn đắc giới, xương dê phát ra ánh sáng, v.v… “chẩn” là “chẩm”. Nếu tu bốn pháp Tam-muội mà không điều phục được: ở đây có bốn ý nên không bị bệnh nào không khỏi:

  1. Đạo lực
  2. Thần che chở.
  3. Pháp trị
  4. Không tiếc thân mạng.

Đại sư huynh Trần Hàm; Sư Tạng Pháp ở chùa Khai Thiện, nầy nêu người tội diệt chướng chuyển.

Trần Hàm tuổi ở mạng quan, ban đầu được tướng sư Trương Quả xem tướng sẽ chết vào cuối tháng âm lịch, sau dó Đại sư sai thực hành sám Phương Đẳng, thấy trên cõi trời có tấm bia đề: Thiên Đường Trần Hàm đến năm sáu mươi lăm, đây là một phen thực hành sám Phương Đẳng tăng thêm tuổi thọ mười lăm năm, sau gặp lại Trương Quả. Trương Quả hỏi do làm phược lực gì? Đây chẳng phải một vài trăm muôn tiền phước, tính ra ông không có nhiều tiền như thế, vậy phải làm phương tiện gì?

Trần Hàm đáp: Có chút hành pháp không nói với ông, nên biết nghiệp phải chết, hành pháp có thể chuyển, như Đế-thích có nêu ví dụ. Tâm tinh tấn mạnh mẽ như Đế-thích, làm đạo tràng riêng như cõi trời Đế-thích, đạo tràng thần biến như phụ tướng, tiểu ngang các lỗi như tiểu quỷ, nên biết đạo tràng thần biến các bệnh không xâm phạm.

Chủ thành, v.v…: Nhạc sợ, lo sợ, bận rộn. Thành như thân, chủ như tâm, người giữ như thân thần, đồng với thân gọi là cùng thân đồng sinh, gọi là thiên thần, tự nhiên có nên gọi là thiên, tuy thườnghộ người phải nhờ tâm vững chắc, thần giữ thì mạnh, thân thần cũng vậy, ở sau so sánh ở trước. Thân có hai vai, thần thường hộ người, huống chi là thần đạo tràng. Trong Đại luận nói các quỷ tinh tấn, quyển mười sáu chép: Đức Thích-ca đời trước từng làm Thương chủ, đem các dịch mua hàng vào chỗ hiểm nạn, trong đó có La-sát dùng tay ngăn rằng: Ông đứng đừng nhúc nhích, thương chủ dùng tay phải đánh, đánh liền dính quỷ, tôi kéo không thể lìa được, lại dùng tay trái đánh chân phải chân trái, như vậy thứ lớp đều bị dính vào nhau, lại dùng đầu đánh, đầu lại dính vào Quỷ hỏi: Ông muốn làm việc gì, tâm ngừng dứt chưa?

Thương Chủ đáp: Ty đánh năm chỗ mà tâm còn không dừng, do năng lực tinh tấn đánh nhau với ông, không muốn biếng nhác lui sụt.

Quỷ nghe sinh tâm vui mừng nghĩ rằng người nầy sức gánh vác rất mạnh, bảo rằng: Ông tinh tấn sẽ không dừng, nay tôi thả ông. Hành giả đối với pháp lành, đầu hôm, nửa đêm, gần sáng, thân tâm không biếng nhác cũng giống như vậy.

Kế nói tu chỉ quán, trong cảnh nghĩ bàn cũng nên có tội thượng trung hạ, trong văn đã có tội địa ngục xong. Nếu do bệnh cho nên siểm cuồng cầu sống tức cõi quỷ, hoặc cầu quyến thuộc toan dưỡng thân bệnh tức cõi súc sinh, tạo ba cõi thiện, trong văn chính là nói thông dung, tuy biết nhân quả mà thường chê bai nghi ngờ người không bệnh, cho rằng tâm thiện của ta mạnh hơn, là cõi Tu-la, tâm thiện không thay đổi đây là cõi người, giữ gìn mười điều lành đây là cõi trời, sợ sệt sinh tử là cõi Thinh văn. Cũng như luận Tỳ-đàm Bà-sa nói: Tỳ-kheo Ta-ma bệnh rất nặng, các Tỳ-kheo bảo Tỳ-kheo Đà-ma đến thăm hỏi. Ta-ma nói: Bệnh tôi không khỏi, cũng như người tráng sĩ lấy hạ liệt, là sợi dây ràng buộc đầu hai tay quấn chặt vào nhau, đầu tôi đau cũng giống như vậy.

Lại như người hàng thịt cầm dao mổ bụng trâu, bụng tôi đau cũng giống như vậy, cũng như tráng sĩ lấy một hạ liệt, treo trên lửa, lửa đốt chân kia, chân tôi đau cũng giống như vậy. Đà-mà thưa đủ các việc như trên với các tỳ-kheo, các tỳ-kheo lặp lại các lời nói. Đức Phật nói năm thọ ấm, ông có chút phần quán sát phi ngã phi ngã sở chăng?

Đáp: “Có thể quán”. Sau lại bảo Đà-ma hỏi việc ấy quán được năm ấm có chứng quả A-LA-HÁN hay chăng? Cũng như dạy bảo, quán sát như vậy nên được lậu tận bình phục hết đau.

Lại, trong Tăng Nhất có Tỳ-kheo Quân-đầu bị bệnh, oán trách Đức Như lai không đến thăm, Đức Phật và các Tỳ-kheo đến thăm.

Hỏi rằng: Có bị khổ não làm tổn hay không?

Đức Phật lại hỏi: Ông tu Bảy giác y chăng?

Tỳ-kheo đáp: Bị bệnh.

Đức Phật nói: Vị thuốc quan trọng nhất trong các vị thuốc không gì hơn Bảy giác chi, khiến Tỳ-kheo thọ trì.

Kế theo lại quán bệnh đây là cõi Duyên giác, văn nầy khó thấy phải chia làm năm:

  1. Ban đầu suy niệm quả biết nhân xưa.
  2. Kế suy hiện nhân biết hiện quả.
  3. Từ cuồng khát nhân ở sau.

Quán hiện quả, dứt nhân hiện.

4. Tỳ-kheo hay không tùy theo trở xuống, hiện nhân dứt nên nên mười hai chi dứt.

5. Bắt đầu đã không được ở sau, kết thành chi cõi Phật.

Văn kế lại có hai:

Ban đầu quán hữu chi cho đến danh sắc; kế theo quán căn đại nầy trở xuống là suy hiện danh sắc cho đến thức.

Ban đầu như văn; văn kế lại có hai, trước suy hiện sắc; kế suy ở thức. Văn đầu lại có hai:

Ban đầu suy sắc từ duyên sinh, nên không có tự tánh; kế suy sắc từ tâm sinh nên không có tự tánh. Văn đầu lại có hai:

Ban đầu suy năm hành; kế suy năm tạng. Ban đầu lại có hai; trước ngang kế dọc; kế suy tạng cũng có hai, trước ngang kế dọc, từ như thị trở xuống, kế suy sắc từ tâm sinh nên không có tự tánh, ở trong đó trước ngang kế dọc.

Ban đầu ngang: Là nói do tâm giữ bốn đại nên bốn đại không hai, thức sinh các tâm nên thức như địa, tưởng giữ tướng mạo, như gió động chuyển, tánh thọ lãnh nạp như vật lửa bền chắc, hành tâm là làm như nước đi đến.

Kế sau đây là dọc suy bốn tâm xoay vần tưởng sinh đều không có tự tánh; kế thức từ ở sau; kế đó suy hiện thức theo đến nghiệp sinh như cuồng khác ở sau, kế suy hiện quả, dứt hiện trong nhân.

Trước dụ cho suy; cũng lại không được bốn chữ dụ cho tức, phía Nam ở sau hợp suy như vậy ở sau hợp tức; kế nếu không tùy theo ở sau nhân tức, đã không được ở sau chung kết mười hai chi diệt nên nói không được, khác với tiệm phá, nên gọi là không được, là thành nghĩa mười cõi, cho nên ba tạng chỉ nêu ra Thinh văn. Bên Thông giáo chỉ nêu ra Duyên giác. Lại quán ở sau Bồ-tát ba tạng, trước nêu sáu tệ.

Kế nay từ đây về sau nói nguyện hạnh, trong sáu tệ đầu, đầu tiên là xan, cũng là trì giới ở sau phá giới, cũng là tâm chí ở sau tức giận, cũng là tinh tấn sau đó biếng nhác nói “Bổ nhương” là người có tinh tấn, bên trong thì giúp chánh đạo ngoài thì cứu giúp cầu nạn, cũng là không thiền sau đó loạn ý, đã bị bệnh rồi chỉ có duyên mến thân quên ở chánh niệm, nên nói bị động, cũng là trí tuệ kém, sau đó ngu si, chẳng thông suốt khổ không.

Kế trong nguyện hạnh trước nguyện kế hạnh, nguyện là bốn hoằng thệ nguyện, hạnh tức sáu độ, bốn chữ đầu là đàn, hai chữ thuận lý là cửa, hai chữ an nhẫn là nhẫn, hai chữ cần gia là tấn, hai chữ chánh ý là thiền, bốn chữ giác ngộ vô thường là trí.

Kế là Bồ-tát Thông giáo, Biệt giáo, như văn rất dễ thấy, trong cõi Bồ-tát đã là ba biệt, do phát tâm trông mong, trí nguyện đều khác, đồng có tâm lợi vật đều gọi là Bồ-tát. Hai giáo Nhị thừa có lý có hợp, một cõi trí khác, nên suy nghĩ rất dễ biết.

Lại ban đầu nêu mười cõi đều gọi là nghĩ bàn, nay nầy trong giải thích chỉ đến Biệt giáo. Cõi Phật cũng có thể chỉ cho Sơ địa Biệt giáo, do Sơ địa Biệt giáo chứng đạo đồng viên, cũng có thể một giáo chung gọi là Bồ-tát, do đạo Biệt giáo thông thỉ chung, đủ như trong quyển hai đã phân biệt xong.

Kế nói trong không thể nghĩ bàn. Nói thẳng nghe, v.v… Trong kinh quyển ba phẩm Trị Bệnh chép: Phật bảo thần cây Bồ-đề: Ở quá khứ có Đức Phật hiệu là Bảo Thắng, sau khi diệt độ có Trưởng giả tên là Trì Thủy khéo biết phương thuốc cứu các bệnh khổ. Trì Thủy có người con tên là Lưu Thủy, lúc ấy trong nước có thiên tai biến loạn, Lưu Thủy thấy vậy tự nghĩ; Cha ta tuổi già không thể đến thành ấp xóm làng ấy được, lại đến chỗ cha hỏi phương thuốc, do đó biết được tất cả phương thuật, đến khắp thành ấp nói rằng: Ta là thầy thuốc, ta là thầy thuốc, biết rành các phương thuốc trị tất cả bệnh, tất cả mọi người nghe rồi bằng lòng trị bệnh, mãi nghe nói bệnh đều trừ, thí như nghe cảnh mầu được nhập Sơ trụ.

Nói sơ quán, tức sơ quán cảnh không thể nghĩ bàn ở sau lại có dụ cho chín pháp. Trong kinh nói: Lại có vô lượng trăm ngàn chúng sinh, bệnh khổ rất nặng khó lành, đến chỗ Trưởng giả trao cho thuốc hay, cũng được bình phục, nay văn từ nghĩa tức dụ cho quán cảnh vô minh chưa dứt, phát tâm như vậy cho đến lìa ái, nên nói các thứ thuốc, dụng quán như vậy cũng được nhập vị Sơ trụ. Dù chưa nhập vị đắc nhập Ngũ phẩm, danh tiểu trừ khỏi, còn tất cả kế sau nói phát tâm, văn đầu nói chung tướng phát tâm, trước cũng nương thứ lớp ba quán, trong mỗi pháp quán đều có bốn văn.

  1. Ban đầu do hoằng thệ tự điều hòa.
  2. Kế từ bị hiện sinh.
  3. Hiện sinh đắc ích.
  4. Kết tên giáo quán.

Như vậy ở sau kết thành nhất tâm, chỉ có ở sau dẫn người làm chứng, nay y theo bệnh khởi bốn hoằng thệ nguyện, tức đồng với ngài Tịnh Danh trụ Thường Tịch Quang, mà hiện hóa trong ba cõi, nên biết

Bồ-tát pháp thân tất cả đều như vậy, chỉ có ngài Văn-thù, v.v… ngài Tịnh Danh đã nương hóa không thể nghĩ bàn, nếu chẳng phải đạo lực của ngài Văn-thù kém ngài Tịnh Danh thì làm sao có thể hợp cơ, nương ý chỉ hỏi bệnh, trước truyền ý chỉ vô lượng của Đức Như lai.

Kế tự lập khởi ba lần hỏi.

Đáp: Ở sau cư sĩ đáp; ban đầu đáp nhân bệnh khởi, chúng sinh bệnh nên ở sau đáp bệnh lâu, chúng sinh khỏi bệnh ở sau đáp phải làm sao diệt. Khi Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề, gọi là đại bi, phải biết bệnh nầy cùng phát tâm đồng có, chúng sinh từ vô thỉ bị bệnh nhân quả, Bồtát cũng nghĩ bệnh từ vô thỉ, cho nên Bồ-tát tự niệm niệm tha, nên biết bệnh nầy cùng phát tâm đồng khởi, Bồ-tát duyên khắp tất cả chúng sinh, các chúng sinh đều bị bệnh, nên tất cả chúng sinh bệnh thì Bồ-tát cũng bệnh, bệnh chúng sinh lành, bệnh Bồ-tát cũng lành. Nói về chúng sinh ở sau, tức do sở hóa hiện ở năng hóa, phương trượng, v.v…: Là đều nương xưa y bệnh mà khởi thệ nguyện, nên thành đạo rồi có thắng năng nầy. Nói thành tranh đau lưng; Thanh tranh đều là đều là thành nhà, vũ tên đủ như trong quyển một có giải thích.

Nói đau lưng, như trước do bệnh mà nói trong năng lực có dẫn, theo kinh Hưng Khởi Hạnh, Phật bảo ngài Xá-lợi-phất, thuở xưa lâu xa ở đại thành La-duyệt, trong nước có ngày lễ hội, Quốc vương có hai lực sĩ:

  1. Dòng Sát-đế-lợi
  2. Dòng Bà-la-môn

Đều đến chỗ hội tự đánh nhau, Bà-la-môn bảo Sát-đế-lợi rằng: Khanh đừng đánh ta, ta sẽ cho tiền báu, Sát-đế-lợi không đánh hết sức, để Bà-la-môn khuất phục được, cả hai người đều được vua ban thưởng, Bà-la-môn rốt cuộc không giữ lời hứa, đến sau ngày hội đánh nhau, Bà-la-môn lại cầu xin như trước, Sát-lợi lại hiểu cũng không phục, như vậy đến ba lần, Sát-lợi nghĩ: Bà-la-môn thường lừa dối ta, lại bảo Bàla-môn: Ông ba lần dối gạt tồi, tôi không dùng vật, lại dùng tay phải đánh đầu, tay trái đánh lưng, chân quì lưng gãy như cây mía gãy, đánh ba vòng khiến mọi người thấy, rồi sau đánh đất, ngã xuống đất chết ngay. Vua rất vui mừng và ban mười muôn đồng. Phật bảo ngài Xá-lợiphất: Lực sĩ Sát-lợi chính là ta, Bà-la-môn là Điều-đạt, ta do sân nên đánh giết lực sĩ, do nầy đọa vào ngục thiêu đốt, hình phạt trị tội trải qua mấy ngàn năm, nay tuy thành Phật mà do nhân duyên còn sót lại nên bị bệnh đau lưng. Đây là nói theo tinh dùng pháp môn lịnh, để lợi ích cho người.

Trong Đại kinh nói: Nay thân nầy của ta tức là pháp thân, vì độ chúng sinh chỉ bày đồng cây độc, do bệnh lợi vật tức là ý nầy.

Thệ Nguyễn nói rõ sơ tâm thệ rộng, hậu tâm mới xứng, tức thể của thệ. Từ bi ở sau nói công năng của thệ, nói pháp hỷ, v.v… đây là Chương Cư nói bổn thứ nhất rằng: Thiền sư Như Hỷ, Đại sư Thiên Thai phát tâm chân thật tùy niệm liền trừ, nếu nói tâm khác nhau thì không chân thật, nầy lại tu sữa văn chân thành, là ở sau được mất.

Thiền sư Hỷ, ban đầu từ Quang Châu cùng bảy người như Pháp Hỷ, v.v… đồng đến Kiến Nghiệp, tức người ấy. Hỷ Sư lớn tuổi hơn Nhĩ Thuận. Đại sư lúc bấy giờ mới hai mươi bảy. Mao Hy đùa rằng: Sao Tôn Sư trẻ, mà đệ tử lại già?

Hỷ Sư nói: Cung kính ở đức, không ở tuổi.

Mao Hỷ hỏi: Thế nào là đức?

Hỷ Sư nói: Khéo nói pháp tức Phú-lâu-na đời sau, hàng ma trừ chướng tức Ưu-ba-cúc-đa đời sau.

Mao Hỷ khéo biết người ấy, triều đình và dân chúng cho là lời chân thật, có lần thật hành Phương Đẳng chim Trĩ đến đòi mạng, Thần vương ngăn rằng: Pháp Hỷ phải đến phương Tây kế đó sinh đắc đạo, há đền mạng cho ông, sau ở Kiến Nghiệp đều thấy thiên hạ cùng biết, nếu phát tâm ở sau phán xét được mất, nói không chân thật, cốt yếu là ba thứ báu, v.v… nầy. Yếu nghĩa là yếu lặc, vừa ngăn vừa ước lược, tự mình không chuyên chí. Trong Yếu Phật Gia Trì chép: nếu Phật không giaa tâm đại bi làm sao tồn tại, cho nên thông thường nói vua phài là Vô thượng.

Nói quy là hoặc cầu quả gần hoặc cầu mau khỏi, có hai lỗi nầy gọi là lừa dối chúng sinh, nếu chân thành thì trái lại hai lỗi trước còn có đến lực Sơ trụ, cho đến cực quả đâu chỉ trừ bệnh mà thôi.

Kế trong an tâm nói: Thể giải, v.v… hễ muốn an tâm, thì trước biểu cảnh; kế khởi hoằng thệ, nên nay an tâm trước lặp lại hai pháp. Thể giải: Là biết canh; phát tâm là khởi thệ. Duy chỉ duy quán là duy tịch duy chiếu, không còn cầu gì khác; kế là khéo léo dùng năm trăm mười hai lần. Nói thuốc hay, nghi trị thứ nhất là bao gồm vô duyên từ bi, nầy gọi là thuốc hay không cần phải lo lắng đối chuyển bao gồm đầy đủ.

Kế phá pháp khắp, từ ban đầu đến nầy bệnh suy bệnh do tâm, từ nay quán chánh nói dụng quán, ở trong từ đâu đến như huyễn, phá nhân thành, không được bệnh tâm sinh diệt là phá nối tiếp còn đối đãi nhau và giả trung các văn ấy đều được. Ban đầu nhân thành trung phi địa đại không lìa địa đại, bệnh do tâm tạo nên phi địa đại, bệnh thật bệnh thân nên không lìa địa đại, nêu địa là đầu tiên còn cũng giống như vậy, bốn đại không bệnh nên không có thân hợp, tâm đã như huyễn, huyễn vốn không bệnh, thông bít như văn.

Kế trong Đạo Phẩm chép: Chẳng phải các ý bốn đại, cũng đồng với trước, nói phi tịnh, v.v… là nói theo phá đảo, có chân, v.v… là nói theo đế cảnh, tức văn trước nói, bệnh của chúng sinh tôi đều chẳng phải chân, chẳng phải có, cũng là quán bệnh dùng làm Trung đạo cùng ở trong đây mà nói, không giải, v.v… là nói theo quán trí, khô tươi, v.v… là nói về tiêu biểu mà nói, đủ như văn trước nghĩa bao gồm đại tiểu, khô tươi đều lập, chỉ là một niệm viên Bốn niệm xứ, trong trợ đạo nói nếu tu chánh quán tức là chánh hạnh. Chánh hạnh tức là đạo phẩm, v.v… có sáu, nhưng quán sáu chướng trước nếu không trừ, phải là trước kia chỉ quán khí tức tưởng thuật sáu trị, lấy đó làm trợ, chánh trợ hợp hạnh có đủ như trong quyển bảy, còn nhập Sơ trụ được Vô sinh nhẫn, huống là bệnh bốn đại mà không tiêu khỏi.

Giải thích trong vị kế như lưu ly ấy, v.v… nước trong nên thấy sâu, vì thế chưa được, tuy quán tức đây là chưa nhập vị, nên nói theo sáu tức thì đầu cuối không khỏi các tai nạn, tức ba tiểu tai, nghĩa là đao bịnh, ôn dịch, đói khát, hoặc ba đại tai là hỏa tai, thủy tai và phong tai, sáu căn tuy tịnh thật quả trói thân, ở cõi cõi dục, cõi sắc hoặc gặp ba tiểu tai, dù gặp mạt kiếp pháp nhĩ lìa tai, nếu nhập vô sinh như Đàm-vô-kiệt còn có quả thân gọi là quả bệnh, nay ta không chứng các vị như trên, đâu được tự cho là bằng thượng nhân ấy.

Kế là đại xa thí như văn; kế nói nghiệp cảnh, trước nói trong ý rằng: Nay tu chỉ quán, chỉ quán như ánh sáng mặt trời, nghiệp tướng như muôn tượng, người nghi nói phân biệt ở sau.

Ban đầu dẫn hai kinh, để chứng minh đại tiểu đều có tướng, kế dẫn trong Pháp Hoa, do đạt sâu nên thấy tướng mười cõi.

Kế dẫn ngài Tịnh Danh, do nghĩa bậc nhất khéo phân biệt nghiệp, bốn kinh nói văn đại tiểu hữu tướng, vì sao nghi nói Đại thừa vô tướng; kế khai chương giải thích riêng.

Ban đầu trong nhân duyên trước chỉ bày nhân duyên trong ngoài, trong nội nhân duyên nói tâm lần lần sáng sạch cũng có thể nói sáng tịnh, sáng sạch nói thông suốt chỉ quán, nếu nói sáng tịnh thì dùng hai chữ biệt đối chỉ quán, do chỉ quán nên thiện ác có sinh diệt, do hai đời thiện ác, ác có nặng nhẹ, thiện có tà chánh, và tu chỉ quán động nghiệp quá khứ, lại do chỉ quán thiện ác sinh diệt, chỉ là do ở Chỉ Quán thấy tướng sinh diệt chẳng phải cho rằng: Chỉ Quán khiến thiện ác sinh diệt nên nêu dụ cho rằng: Như gương được mài, v.v… lý tánh như gương bóng tối tan như trần. Chỉ quán như mài, nghiệp như bóng tượng hiện.

Kế nói duyên ngoài: Chư Phật, Bồ-tát nói mình là ngoài trong văn chỉ bày tướng tuy tức trong ngoài hai duyên đều nói, theo lý thì phải trong ngoài hòa hợp, văn nói riêng, từ mạnh mà đặt tên, như quyển một trong cảm ứng cũng có các thuyết nhân duyên, ở đây cũng như vậy, tu quán là hiển cơ. Chư Phật là hiển ứng, vừa được là vừa minh vừa hiển cơ, vừa minh vừa hiển ứng, cũng có không tu mà cảm, tu mà không cảm, không tu không cảm để phán xét cơ ứng minh hiển bốn câu. Chúng sinh, v.v… có bốn món rõ cơ có thể khiến Chư Phật không khởi diệt định, chỉ bày tướng thiện ác, thiền lực có thể chỉ bày gọi là thiền thiện ác, chỉ bày tướng hiển rõ như hoa chỉ bày cho người. Nếu được, v.v… là nói tướng thức đã tự ích, ích tha, nay chỉ, v.v… là nói lý do lập cảnh.

Kế chánh nói nghiệp tướng phát trong đó nói có sáu ý, là thứ nhất thứ hai phát riêng tập nhân báo quả, thứ ba thứ tư nhân quả xen nhau phát, thứ năm đều phát, thứ sáu xen lẫn, tóm lại thì chỉ là tập nhân báo quả pháp tướng, sáu món nầy phát thông đầu tiên ở sau hai tướng thiện ác. Đến sau giải thích văn chỉ nói hai tướng, còn chỉ lược chỉ văn nầy mà nói trước sau đều xen lẫn nên dùng ý mà biết. Văn đầu trước giải thích tập nhân tập quả; kế giải thích báo nhân báo quả, tập quả báo nhân văn thì không lập hai nghĩa nên cũng phải giải thích:

  1. Tương đối nên giải thích.
  2. Hoặc xen đặt tên.

Cho nên trong văn dẫn luận giải thích chung. Nói tập nhân là tự phân thân, v.v… trong luận Tân kinh gọi là nhân đồng thứ, nên trong Câu-xá nói, có thể tạo tác và có chung, đồng loài cùng tương ứng biến hành và khác thục thừa nhận nhận chỉ có sáu món, nay lại y theo Đại luận lược nêu ra tướng sáu nhân.

Kế bỏ bớt văn nay, luận ba mươi hai nói: Nói sáu nhân là sở tác nhân cộng nhân, tự chủng nhân, biến nhân, nhân tương ưng và báo nhân.

Nói bốn duyên; là nhân duyên, thứ lớp duyên, duyên duyên, duyên tăng thượng, tân dịch duyên thứ đệ gọi là Đẳng vô gián duyên, duyên duyên gọi là sở duyên duyên, còn hai tên đồng. Nhưng ngài Long Thọ đặt tên ngài La-thập phiên dịch, tuy tiểu khác nhau nên chẳng phải hoàn toàn sai, vì trong Đại luận là một nhà thường dùng, danh tự hơi giống nên lại nương. Trong Đại Phẩm nói: Muốn biết bốn duyên, phải học Bát-nhã, trong Đại luận giải thích rằng: bốn duyên trong Bát-nhã đều không thật có, vì sao nói muốn biết bốn duyên phải học Bát-nhã?

Đáp: Ông không biết tướng Bát-nhã cho nên nói Bát-nhã không có bốn duyên, Bát-nhã đối với tất cả pháp không xả, rốt ráo thanh tịnh không có các nói suông, như Phật đã nói bốn duyên, nhưng nói thiểu phần, người không có trí chấp bốn duyên mà sinh hý luận, vì phá chấp nên nói thật tướng, các pháp là không vô sở hữu, phá các tâm nầy như mộng như huyễn, nên biết bốn duyên chẳng phải rất sâu, các pháp thiểu phần Bát-nhã, cho nên tuy nói nên biết lìa chấp. Thế nào là chấp, nghĩa là rốt ráo đầy thời danh chấp, nay vì nói sự độ sự che tướng phát thiện ác, là thuộc bốn nhân trong sáu nhân trong bốn duyên, có nhiều ít khác nhau, cho nên nói lược bốn nhân cho đến sáu nhân, như ở sau tu quán nên quán nhân duyên tức là pháp giới, muốn biết bốn duyên trước nói sáu nhân, nhân sở tác là không ngãi đối với tha. Nhân tương ưng là pháp tâm, tâm sở, đồng tướng đồng duyên, do tâm, tâm pháp tương ưng nhau, gọi là nhân tương ưng, pháp tâm, tâm sở dùng tâm tương ưng làm nhân, gọi là nhân tương ưng, như thân hữu tri thức hòa hợp thành sự. Cộng nhân, tất cả pháp hữu vi đều cộng sinh nhân, do cộng sinh cho nên lại giúp nhau, như anh em đồng sinh thành tựu giúp đỡ lẫn nhau. Tự chủng nhân, là pháp thiện quá khứ làm nhân với pháp thiện hiện tại, pháp thiện hiện tại làm nhân với pháp thiện vị lai, pháp ác vô ký cũng giống như vậy, tất cả mỗi pháp đều có tự chủng nhân. Biến nhân là khổ tập đế ở sau mười một biến, gọi là biến nhân. Báo nhân là làm nhân thiện ác được báo thiện ác, gọi là báo nhân.

Nói bốn duyên là như năm nhân trên gọi là nhân duyên, pháp tâm, tâm sở thứ lớp vô gián tương trụ mà khởi gọi là duyên thứ đệ, pháp tâm, tâm sở nương gá duyên sinh, gọi là duyên duyên, khi các pháp sinh không sinh chướng ngại, gọi là duyên tăng thượng. Lại nữa, pháp tâm, tâm sở từ bốn duyên sinh, vô tưởng diệt định từ ba duyên sinh, trừ duyên duyên, còn các tâm số bất tương ưng hành và từ hai duyên sinh, trừ duyên thứ đệ và duyên duyên, còn pháp hữu vi liệt không có từ một duyên sinh, báo sinh pháp tâm, tâm sở từ năm nhân sinh, trừ biến nhân, vô lậu pháp tâm, tâm sở từ ba nhân sinh, nghĩa là tương ưng cộng và vô chướng ngại, trong thành luận chỉ hợp ba nhân bốn duyên, đủ như trong Huyền Thích Tiêm thứ mười có ghi, nay nghiệp tướng phát thuộc hai nhân tập, báo.

Tập nhân là tự chủng nhân, văn bao gồm giải thích ở tập quả báo nhân nhân đời trước niệm thiện ác trước, nên đời sau niệm thiện ác sau được khởi đều gọi là tập nhân, đã pháp tâm, tâm sở cộng tướng nhân y cũng được gọi là nhân tương ưng, vì không chướng ngại nên cũng được gọi là nhân sở tác, đều có trợ tác nên cũng gọi là cộng nhân, nếu tế tướng khởi cũng gọi là biến nhân, do tập do đây chưa thể chiêu vời quả báo, nên không gọi là báo nhân.

Nói báo quả, cũng chỉ có bốn nhân, sở tác tự chủng, cộng nhân, báo nhân, ngay quả tướng hiện nên nói báo quả, y cứ lý thật là báo nhân mà thôi, không cùng nhiễm pháp của năm bộ làm nhân chung, chẳng phải nhân biến hành, chẳng phải tâm, tâm sơ không nhân tương ưng. Nếu dùng nhân tập so sánh trong bốn duyên được nhân duyên nầy có ba không nương gà duyên mà khởi, không có duyên sở duyên. Khi tập nhân khởi cũng có nghĩa tăng thượng và có vô gián nối tiếp, cũng gọi là thứ đệ, quả báo chỉ ở nhân duyên tăng thượng. Luận về nghĩa nhân duyên căn bản của Phật pháp là bỏ tà theo chánh, nguồn gốc nhập đạo tu quán, nên tập Phật pháp, không thể hoàn toàn mê, nay vì phán xét nghiệp tướng chưa có nói rộng, cũng là tu quán nói rộng chẳng phải gấp nên y theo Đại luận lược được ra danh tướng, văn từ đâu ở sau giải thích trước.

Kế nói phát tướng; ban đầu trước nói tập nhân tập quả, ở giữa trước chánh giải thích; kế phán xét ba tánh, nói tập quả là y quả, y theo tập nhân mà có tập quả, tức quả đẳng lưu, do y cứ theo sát-na giải thích tập quả, nên y theo niệm trước niệm sau để nói rõ; kế từ nghĩa nầy trở xuống phán xét ba tánh, từ sát-na mà nói, hoặc đầu cuối mà nói, tức quả vô lậu không chung ba tánh; kế theo luận gia ở sau giải thích tập nhân, tập quả không thông ba tánh; Kế nói bào nhân báo quả đã hợp tập nhân, tập quả, dùng làm báo nhân, phải biết tên tuy có bốn mà chỉ thành ba nghĩa, chỉ dùng hai tập mong ở hai báo, lại đặt tên nhân; kế y cứ nay ở sau luận gia lại giải thích tập nhân tập quả, cách đời phát khởi đồng thứ tập quả, do hai tập nầy về sau gọi là nhân nói danh quả trước, nầy thời trên nhân quả lại lập nhân quả, mong nhân trước cùng quả đều gọi là quả, nói ở sau thì nhân và quả, đều gọi là Nhân, nầy cũng là hữu lậu cho nên y theo ba đời, đây và Tỳ-đàm có hai cách giải thích khác nhau, luận ấy có hai cách giải thích đều không nói về ba đời.

Kế số gia ở sau lại nói số gia và luận, phán xét báo quả tập quả ít khác, tuy phán xét thuộc về dâm nhiều khác nhau, nhưng giải thích nghĩa cũng không sai biệt với luận gia, thường y luận Tỳ-đàm theo trước mà giải thích. Lại đời nay ở sau luận gia lặp lại giải thích hơi khác cách giải thích trước, hai nhân hai quả đều cách đời, y theo luận thành nghiệp, chưa thành nghiệp, v.v… do phán xét tập nhân báo nhân, y theo cách đời lặp lại khởi dùng làm tập quả, đền đáp báo đời trước gọi là báo quả, bốn tên nầy có bốn nghĩa, khác nhau cách giải thích trước chỉ thành ba nghĩa, hoặc từ ngồi thiền kế sau nói tướng hiện.

Ban đầu nói báo quả trong tướng hiện nói xen đặt tên, khi tướng nầy khởi thì gọi là quả tướng, do báo nhân xưa nên có chiêu cảm quả báo, gọi là báo quả, cũng được gọi là nhân, chưa đền đáp nhân, nên lại có thể ở sau nói khi tướng quả báo nầy hiện, tức là nhân năng khởi, do đây quyết định chiêu vời lấy quả đương lai, cho nên tướng nầy cũng được gọi là báo nhân, nay chỉ ở sau phán xét tướng, hậu báo quả tướng sẽ ở hiện tại cho nên gọi là báo quả tướng hiện, gọi là xen thọ đặt tên.

Kế nếu ngồi ở sau nói tập nhân phát tướng ở trong đó cũng nói xen thọ tên, vì hý luận nầy khi tâm tập khởi gọi là tập nhân, có thể dẫn dắt ở sau có thể làm sau đó thành tựu tập quả, cũng được gọi là tập quả, nói tập nhân khi tâm khởi, do xưa có khởi nên nói đền đáp xưa, thì gọi tướng nầy cũng được gọi quả, gọi là xen nhau thọ tên, nên biết tập nhân quả báo trong đây đều y cứ về ta hiện gọi là xen thọ tên, nếu như Tỳđàm, tập quả đương lai mong bào làm nhân, và cách đời tập quả mong sau làm nhân, tuy cũng gọi là xen thọ tên ấy, nhưng nghĩa ý thì khác với tướng hiện nay, hoặc đem ý nầy để phán xét tế độ, thiện ác tuy khác tướng ấy rất dễ thấy, từ thiện tướng chúng nhiều ở sau phân biệt nói phát tướng.

Ban đầu trong Sáu độ trước nói tướng bố thí, các tướng khác nhau, tùy theo thấy một thứ, tức tiêu biểu cho báo tướng, trong ấy tuy có thấy người mà không thấy vật, hoặc có thấy vật mà không thấy người, v.v… nhưng khiến cho thấy tướng và tập nhân khác nhau tức gọi là báo tướng, năm độ sau y theo đây nên biết.

Kế đều không thấy ở sau nói tập nhân phát trong ấy, mãi như vậy khởi tâm gọi là Tập, tiêu biểu quá khứ tiêu biểu hiện tại, tướng ấy không khác năm độ sau cũng y theo đây nên biết.

Nói pháp môn: Là hai đời quá khứ hiện tại, hoặc phân biệt riêng pháp môn bố thí, hoặc khi muốn thì trước phải phân biệt các tâm tà chánh thiên viên, cho nên tâm nầy hiện chung gọi là Tập nhân, độ nầy đã như vậy các văn đều nêu bày như.

Kế trong giới tướng nói Thập sư, lại nương một pháp Trung quốc mà nói, là nói quần áo, trên gọi là áo, dưới gọi là xiêm, nên phục sức của người xưa như Đạo sĩ không có áo choàng nầy, đến thời Ngụy, Đạo sĩ mới bắt đầu thêm áo choàng ngang, nay người xuất gia cũng dùng ca sa Niết-bàn tăng để ví dụ áo xiêm. Bổn thứ nhất nói, một người Trần Lưu ngồi thiền phát tập bỗng nhiên giảng luật, các tướng nhẫn thiền lược nên biết. Trong trí tướng nói cảnh Bồ-tát, nói chung thông thủ Bồ-tát ba giáo, nếu nói về hiện tướng phần nhiều ở sự, Bồ-tát ba tạng cũng có trí vô thường phục hoặc, cho đến Biệt giáo trụ tiền mong lý, cũng được gọi là sự, nếu trí Nhị thừa thông thủ cũng nên nương vào văn Bát-nhã. Sáu độ biệt luận duy ở Đại thừa, tuy nầy phân biệt Thông giáo, Biệt giáo bỏ lấy tướng định ấy quyết định thuộc về trong cảnh Nhị thừa Bồ-tát, cho nên chỉ ở hậu cảnh, tập báo sáu độ ở sau khuyên răn. Quyển năm ở trước, đã khuyên rằng: Cẩn thận siêng năng chú trọng, nhưng tìm rõ sáu ý chẳng việc nào không rõ, các sư ở các phương ở sau kế nói phán xét phải bồi thường trong cái khác nhau. Chữ “thác” là nên làm, là cầu vật tiếng ở trong Tam bảo, mượn vật chưa trả lại, (tức được người khác trả lại). Nếu viết chữ “Thải”, thì trước có mượn cho họ (tức thay người khác trả lại) chẳng phải ý trong đây, Tiểu thừa chấp quả còn thừa nhận không đền trả, huống chi nay bổn Đại thừa làm lên tha, gần thì trong mong đến cực quả, rộng năng ích cúng dường ba bảo. Nên biết hai thừa Đại Tiểu chánh vì nhập đạo đều chưa đền trả, xưa mắc nợ tuy như vậy rốt cuộc không có mới tạo, chữ “để” cũng có thể làm chữ “để”, để là chống cự.

Kế nói hiện tướng sáu tế, trong san nói là mỏi mệt, cấu là sỉ nhục (thừa nhận tay chạm nhau khi chạm trái ba lần).

Kế nói trong phá giới chỉ nêu tướng tánh giới của bảy chi, giá giới chẳng phải một lược đưa một giới rượu, nêu bày chung các già, sân cho nên liền giết, tham cho nên dâm, hai giới nầy và trộm đến miệng có bốn lỗi, tức bảy chi, nếu miệng có bốn lỗi thì đồng một nói dối, tức năm giới.

Lại nữa, trong tâm ở sau lược nêu tướng bốn phần tập nhân, còn bao nhiêu lược không nói đến, kế phân biệt.

Ban đầu y cứ lược về chướng không chướng trong phân biệt, trước nêu bày bốn câu.

Kế giải thích; sau nữa phán xét; ban đầu y theo sự sinh diệt để phán xét; kế y theo ba đế trong đó nói ban đầu thiện, gồm y theo hữu lậu cho đến ba đế, nên gọi hữu lậu là sơ thiện; kế y theo tác, vô tác nói tánh và vô tác, tập nhân đã dùng nội tâm suy nghiệm, chỉ y tâm phán xét thiện ác dễ, báo quả tướng ở trong thiền tâm, bỗng hiện cảnh ngoài do ở tâm, cho nên khó phán xét hoặc thiện báo tướng ở sau chánh phán xét, nay do tánh thiện ác, lúc nhân ắt quả giúp nhau mà khởi, nên sau tướng hiện cũng phải giúp nhau. Nếu vô tác thiện ác một phen phát về sau chưa xả lỗi, nhậm vận thường có, cho nên nay tướng hiện không nhờ nội tâm, ở đây lại y cứ phát được hình dáng đều là vô tác, nếu tác đều vô tác cũng nhờ nội tâm dùng khi làm việc, ắt phải là ở tâm, cho nên nếu có ngoại tướng lại có nội tâm, hoặc là lúc nhân làm đều vô tác, đã thành vô tác, lúc sau trái giáo và trái bổn, gọi là trái vô tác, cho nên vô tác ở sau lại dùng mười pháp ba tướng đến suy nghiệm. Lại nữa các ác ở sau lại y cứ ba thời để phán xét tánh thiện sinh ác diệt, văn nói ban đầu sân sau hỷ thời tướng ác diệt, lấy nầy nêu bày trước hỷ sau sân, tức tướng thiện diệt, trước sau đều sân tức tướng ác sinh, trước sau đều hỷ tức tướng thiện sinh. “Gián” viết chữ rằng: Dùng đạo dạy bảo người gọi là “gián” “gián” có năm: Nghĩa là thuận tụng cám dỗ sa đọa, trong đây là tụng khuyên can.

Phàm phát tâm ở sau y cứ giải hạnh để phân biệt, nếu tự chánh chánh tha ở sau y cứ sư chứng minh để phân biệt, vì người khác phán xét tướng thật không dễ dàng, nên phải tự chứng mới nêu bày lời nói được. Cái gọi là chứng, chẳng phải cho là nhập vị, chỉ là từng cảm lấy tự để chứng cho người, hoặc hoàn toàn chưa cảm mất không có họ sư, nên dùng văn nầy và trong thiền môn suy nghiệm tướng thiện ác và miệng quyết của Đại sư so sánh thêm để sơ lược để biết, nếu không như vậy, thì chỉ dùng quán không thể nghĩ bàn mà quán xét, khiến thành cảnh không thể nghĩ bàn, tất cả các chướng không bằng là sao? tức như văn trước mà quán hiểu, trong văn sở dĩ răn dè là e người học đời sau tự không cố gắng thực hành nương tựa theo kiểu cạn, luống chiếm ngôi vị họ sư, phán đoán rộng, trái lại tự mình làm chìm đắm sự lợi ích người khác, không có bao nhiêu, nếu cận sư thị lý phải bàn luận hỏi nghi, nhưng phải khéo dụng sức quán chống cự. “Thị” là họ tộc, người xưa từ chữ sư mà làm dòng họ, cho nên từ xưa gọi là “sư thị”, tự an công đến nay đồng gọi là thích chủng.

Hỏi: Ở sau phân biệt hiện tướng nghi, trong lời hỏi vốn hỏi các

tướng hiện nghiệp ác.

Trong lời đáp không đâu chẳng hỏi tướng hiện. Cho nên văn đầu chỉ nói thật. Phàm đạo tràng thần bảo hộ oán trách, như quân ngu hầu. Nhưng nghiệp là thật trách chẳng phải thần ngăn ngừa. Nói phòng, là ngăn nhiễu loạn. Nói “ngu hầu” là vị quan trong quân đi tuần tra hầu hạ, “ngu” là trợ giúp, là chuyên, là đầy đủ, hầu là tư, cũng nói là vị quan, cũng nói là vị quan coi giữ núi sông, việc coi giữ núi sông chẳng phải thường, dò xét cũng là hầu, cũng là trông coi.

Lại nữa các nghiệp ở sau giải thích thiếu sơ lược cho nên nghi, nói hai nhà ấy làm thiếu lẫn nhau, trong luận Tỳ-đàm thiếu pháp quán, trong luận thiếu nghiệp tướng, nay nói lược nghiệp, tướng đủ nói rõ tà chánh, khắp nói pháp quán nhập môn sâu xa, tự hành nhập đạo trở thành hữu dư. Nếu mong hai nhà tuy nói chưa đủ, hai luận chỉ nói khắp pháp tướng mà thôi, y theo pháp thành quán luận ấy sơ lược.

Kế chánh nói trong tu quán; ban đầu văn nghĩ bàn sáu cõi, lược nêu mà thôi, kế chung kết, nói các nghiệp như vậy vời lấy sắc tâm, các nghiệp thiện ác không ngoài giới nội phân đoạn sinh tử, nên nói sắc tâm, sắc tâm cũng thuộc mười cõi thiện ác, đâu chỉ có sáu cõi, nay lại nêu có sáu, đủ như cảnh ấm nhập, ban đầu nêu ra kinh luận; kế Thinh văn quán nghiệp cùng tận, Duyên giác quán nghiệp là hạnh, đều không nói vô thường cũng huyễn hóa, ý chung cho hai giáo Thanh văn, v.v… Thông giáo không Bồ-tát là chung Ba thừa. Lại trong văn không nêu Bồ-tát ba tạng, trước đã phát so lường nghĩa tương đương với Bồ-tát ba tạng.

Kế nói cảnh không thể nghĩ bàn; ban đầu lặp lại so sánh quyết định, nêu ra trong Pháp Hoa chiếu khắp mười phương, v.v… văn sau đã nói hai báo y chánh, mười phương đây là đủ hai ý, nếu thực hành chánh báo tức dùng mười phương tiêu biểu cho mười cõi, tuy nói trăm cõi ngàn pháp, v.v… không ra ngoài mười cõi, nếu thực hành ý báo, ba ngàn thế gian cũng không ngoài mười phương, năng chiếu tức là quán không thể nghĩ bàn, sở chiếu tức là cảnh không thể nghĩ bàn, mười cõi y chánh hai ý đầy đủ nên rất sâu xa.

Kế chánh nói chặng giữa trước nêu cảnh; kế là dẫn chứng.

Hỏi: Trong chứng cứ đã dẫn trong Hoa Nghiêm, là đồng với Biệt giáo trong kinh trước dẫn, nay thành Viên giáo vì sao nói khác?

Đáp: Trước nói Biệt giáo chỉ nói địa là năng sinh, năng sở khác nhau nên thành nghĩa biệt, nay nói Viên giáo thể địa sinh tánh tất cả đầy đủ, huống chi lại bền chắc đều là đất cứng, năng sinh sở sinh không đâu chẳng phải pháp giới, đã đạt sâu nghiệp rồi sau đó phát tâm, là vì đối nghiệp, ở sau mỗi văn đều y cứ về thiện ác, trước cũng nương tựa ba tướng ba đế, kế đó mới gồm lược nhất tâm ba đế, mỗi pháp đều nói chẳng phải trái chẳng phải thuận, phải biết đều nương thứ lớp mà nói điều không thứ lớp; kế trong an tâm từ nghiệp không trở đi, cũng nương thứ lớp để nói không thứ lớp, trong mỗi đế đều nói thiện thuận ác tức là thiện thuận, tức quán ác tức tức chỉ, kế phá khắp chặng giữa trước dẫn ra hai luận, tuy lại đều tính cộng thành ba đời, ba đời tức là cảnh sở quán; Kế theo nay quán ở sau tức quán năng quán, cũng lại y theo lược thứ lớp nên trước quán không, sau kết thành ba đế tướng ba đời gọi là dọc; kế nếu nói ở sau trong quá khứ hiện tại, do thời gian đối nhau là ngang, đó gọi là tế chủ, chủ là ngã, trong mỗi đời đều suy ra bốn câu, lại gọi là ngang, ba đời ở sau kết thành quán không mà nói giả quán ở sau, cho nên Trung quán ở sau; kế là trong thông bít có bốn câu, nghiệp tức hữu lậu, phi nghiệp tức vô lậu, vừa nghiệp vừa phi nghiệp tức xuất giả. Trước đã nhập không, gọi là phi nghiệp, lại tên xuất giả cũng là Nghiệp. Song phi tức là Trung đạo nghiệp phi lậu phi vô lậu trong mỗi câu góp nhặt năng sở đủ như âm cảnh; kế trong đạo phẩm từ thành luận đến thân niệm xứ là niệm xứ. Ý nghiệp khởi riêng là tâm niệm xứ, ý được thật pháp, gọi là thọ niệm xứ, tướng được giả gọi là tướng ấm, hành thì đồng duyên là hành ấm, tưởng hành hai ấm cộng thành pháp niệm, và thân miệng nghiệp gọi là thân niệm xứ, chúng thành Bốn niệm xứ, y kinh bộ tông thứ lớp mà khởi, được thực hành thuyết nầy, như văn trong Tỳ-đàm, ở đây lại lược thuật ba tạng, niệm xứ từ nay quán bỏ chánh nói Bốn niệm xứ vô tác. Nói đồng thứ, tuy mười cõi khác nhau, nhưng đồng gọi là năm ấm, nên gọi là đồng thứ, còn bao nhiêu như trong ấm cảnh có nói.

Kế nói trong trợ đạo, niệm Phật trị chướng, chướng tức là nghiệp, nên dùng niệm Phật để làm đối trị niệm ba mươi hai tướng và công đức báo Phật, nghiệp ác thô trọng phải thêm sắc tướng, cho nên phải niệm ba mươi hai tướng của Phật, lại niệm công đức sở hữu báo Phật, mới thành trị được, nếu chỉ nhân thiện tập tâm khởi, thì chỉ niệm pháp môn Phật, dùng làm đối trị, nếu quả tướng thiện báo hiện, báo là sắc pháp, cho nên chỉ niệm sắc tướng ứng Phật làm đối trị, nếu quả tướng ác báo hiện khiến niệm pháp môn Phật, y theo nêu bày tập nhân nghiệp ác, đã niệm ba mươi hai tướng cho đến báo Phật vô lượng công đức, nay chỉ khiến niệm pháp môn Phật, văn từ cao siêu mà nói, nêu lý bổn duyên không thể trị ác. Nói nghiệp ác chướng chuyển là nói chung thiện ác đều là chướng, sáu tệ nghiệp nặng nhất là năng chướng, nên nói theo ác.

Kế nói cảnh ma, nói việc ma, là thiên ma chánh do thuận theo sinh tử tham năm dục, lui sụt Bồ-đề, ganh ghét quyến thuộc là sự.

Hành: Là hành nghiệp ma, nay trái nhân đời trước việc đời trước lại ngăn, nên nói việc ma, trong Đại luận ma do phá pháp thiện của người thành sự đủ như trong phẩm Việc ma có nói: Ban đầu trong ý có đủ phá bốn tất, nói tu bốn món Tam-muội, lặp lại trước tu chung ấm nhập, từ ác đến dục bỏ hết, lặp lại nghiệp cảnh ở trước. Trước quán nghiệp cảnh là không thể nghĩ bàn, việc ác đem bỏ lý thiện sẽ sinh, ma sợ xuất cảnh làm tổn hoại việc, cho nên phải quán cảnh việc ma nên có cảnh nầy kế đó có nghiệp cảnh.

Nói xuất cảnh là ý phá thế giới lại phải bỏ, e sinh lý thiện phá ý của người, lại ý suy nghĩ bỏ phá đối trị, được thần thông rộng lớn, được trí tuệ quán rộng lớn.

Chỉ quán ấy có thể hoại ngã, cho nên nay ta phải dự phá, vội vàng đến.

Nói hoại gốc lành, phàm ma chỉ có ganh ghét thiện Bồ-đề mà không ganh ghét hữu lậu, hữu lậu đồng với ma nên ma không ganh ghét. Nói đương cõi, cận cõi Dục thành cõi xa là phi tưởng thành cõi. Nếu biết chúng sinh không ngoài sinh tử, không kính mến Phật thừa, ma đối với người cũng nghĩ là thân.

Mậu: Trong sách Nhĩ Nhã nói là ngăn trở, giữ để dứt giặc chỗ cố từ người cầm binh, nên Phật đối với ma như kẻ thù. Trong kinh nói khứ, nghe phẩm Ma sự trong Đại phẩm, có người nói là tội, vì ma có sự nhận sự có tội, nên gọi là tội ma, lại chỉ thuận theo sinh tử đều gọi là ma tội, trong Đại Phẩm nói: Giáo Bồ-tát lìa Lục Ba-la-mật đều gọi là việc ma, lại có ác tri thức cũng gọi là việc ma.

Lại tội ma: Đại Bồ-tát không nói chúng sinh lời này, ma làm tượng Phật, Bồ-tát tượng tăng đến dạy rằng: Dụng là Lục Ba-la-mật. Có chỗ nói: Ông không có chân thật Bồ-đề, chẳng phải hạnh không lui sụt, cũng không được Bồ-đề, có chỗ nói: Giữa hư không không có tất cả pháp dụng Bồ-đề nầy, hoặc nói: Giữa hư không cũng không có dụng Ba thừa là Bồ-đề, không gọi Bồ-tát mà đều gọi là việc ma ma tội. Trong kinh Đại phẩm quyển tám mươi nói: Có việc ma vi tế, chưa được Bạt trí mà cuồng nói đã được, theo văn nay tức là ma-la có thể làm các việc như trên, cho nên phải lược biết các việc như vậy, nếu không vì người khác khéo phân biệt, gọi là ác tri thức, đều gọi là tội ma, nếu thông suốt ở sau lược chỉ bày cảnh quán phá tướng ác, ác nếu đã phá hoại hoài bão như vậy, biết cõi ma như ở sau ý nghĩa đệ nhất, ma và Phật lý là một nên gọi là như.

Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: Khi Phật nói kinh nầy thì thọ ký trong chúng có hai trăm ma nữ, đã từng ở chỗ năm trăm Đức Phật trồng sâu gốc lành, trải qua bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành Phật đồng hiện là Tịnh Vương, ma nghe các nữ được thọ ký thành Phật, đến bạch Phật rằng: Nay ta đối với quyến thuộc của mình không được tự tại, lúc bấy giờ ma nữ thị hiện tưởng yếu đuối mà giảng nói diệu lý, lại nói lời ma: Ông chớ sầu não chúng tôi ngày nay, không ra ngoài cõi ông, vì sao? Vì cõi ma như cõi Phật như, không hai không khác, chúng ta không lìa cõi ma như vậy, vì cõi ma tức cõi Phật, cõi ma không có pháp nhất định để chỉ bày, cõi Phật cũng không có pháp nhất định để chỉ bày, tất cả các pháp đều không có tánh nhất định, vì không có tánh nhất định nên không có quyến thuộc và phi quyến thuộc.

Kế giải thích riêng chặng giữa ban đầu nói khác là cùng bốn cảnh trước đối diện tướng khác, trong văn nghiệp cảnh sơ lược không đối nói, song bỏ bốn đảo, cùng bốn đảo nói khác, vă nói bốn đảo chỉ là ma phiền não, như trong cảnh phiền não trước đã dẫn ra mười quân, trong mười quân nầy đầy đủ bốn đảo. Nên nói bốn ma tuy chỉ phiền não, do phiền não nên sinh ba ma sau, nếu mười quân trước là ma gây ra lại thuộc cảnh nay, nếu ngoại giới ở sau y theo giới mà nói về khác, y theo văn thứ hai mươi đã dùng bốn món vô thường, là bốn ma ngoại giới, nầy chính là thông suốt đặt tên ma, chẳng phải nay là cảnh ma, nếu lại do Niết-bàn mà nêu bày văn nầy, giới nội phiền não cũng là bốn đảo đối với các ấm thây chếtên tử đồng với ba, hợp thành bảy ma, y theo nêu bày giới ngoại cùng thành bây trong ngoài, hợp thành mười bốn ma, nên phải phân biệt trong ngoài ấm thây chếtên tử ba ma. Nay nói khác nhưng không được dùng tên bốn món vô thường để đối trị ấm, v.v…, nếu trong các luận, là giới nội gọi là thường, v.v… bốn món, giới ngoại gọi là bốn món vô thường. Bốn ma nầy tên thể đều khác, Thiên tử ba món nội, ngoại, ấm tử, thể khác tên đồng, cho nên phải nói đồng và khác.

Trong Đại luận quyển sáu hỏi, chỗ nào nói ấm là ma?

Đáp: Phật ở núi Mạt-câu-la dạy La-đà rằng: Sắc là ma cho đến thức là ma, đây là lại nói theo giới nội, nói cho đến Đẳng giác ba ma đã qua, đây là trong kinh Anh Lạc dạy nói, nếu từ thật mà nói lỗi thì đều lỗi, nói không có thiên ma thứ sáu, đã đến Đẳng giác ba ma đã qua, duy còn có một phần tử ma, nầy vẫn từ giáo, nên Đẳng giác về trước bốn ma đầy đủ.

Hỏi: Lúc bấy giờ chỉ nên có phiền não ấm và biến dịch sinh tử, làm sao có ma Thiên tử được? Nên văn giải thích rằng: Thật không có sáu cõi trời, ma Thiên tử chỉ là mầu đỏ Tam-muội chưa cùng tột, ở trong nghĩa lập Thiên tử ma, cho nên gọi là đầy đủ bốn ma, nên biết phàm giới nội gọi là chung đến giới ngoại, đều là nghĩa lập thể không được đồng, nên mầu đỏ Tam-muội quán ở cõi trời Tha hóa tự tại, phá ba hoặc cõi trời ấy chưa hết, cho nên gọi chung là ma Thiên tử, trong Đại kinh mười ba có nêu đủ tên hai mươi lăm Tam-muội, văn thứ tư giải thích chân thật.

Kế dẫn văn kinh để nói đồng khác, trong tân kinh quyển năm mươi tám, phẩm Ly Thế Gian nói: Đại Bồ-tát có mười thứ ma:

  1. Ma Ấm, sinh các thủ
  2. Ma Phiền não, vì sinh tạp nhiễm
  3. Ma Nghiệp, vì chướng ngại
  4. Ma Tâm, vì khởi cao mạn.
  5. Ma chết, vì bỏ chỗ sinh.
  6. Ma trời, vì tự kiêu mạn, buông lung.
  7. Ma gốc lành, vì hằng chấp thủ.
  8. Ma Tam-muội, vì đắm vị lâu dài.
  9. Ma Thiện tri thức, vì tâm khởi chấp.
  10. Ma Bồ-đề pháp trí, vì thường không xả.

Nếu dùng mười pháp nầy để nói văn nay có hai ý thông biệt, đó nói là Thông.

Mười ma trong mỗi giới trong ngoài, nghĩa là giới nội ấm và giới ngoại ấm, cho đến Nhị thừa Bồ-đề pháp trí, Bồ-tát Biệt giáo, Bồ-đề pháp trí, hoặc trong Biệt luận, sáu pháp chỉ có giới nội còn chung giới ngoại, trong sáu pháp giới nội ban đầu một năm sáu, giới nội ba ma, thứ hai ba bốn, hộp thành giới nội phiền não ma. Còn bốn thông như trước đã giải thích, cho nên cùng bốn tên giới nội, đồng thì từ biệt mà giải thích, hoặc tên khác, tức từ thông giải thích, nghĩa biệt lại thông, cho nên như trước giải thích tùy có Thông Biệt vẫn không ngoài bốn pháp, còn bốn nhiếp ở trong ma phiền não, nầy thì trong ngoài đều là mười bốn cũng như văn trước, chung bảy đều có bốn, kinh ấy lại có mười thứ ma nghiệp mười pháp lìa ma, đủ như trong kinh ấy không thể dẫn ra. Lại trong Đại Phẩm văn mười ba Ma sư đều là thứ sáu ma Thiên tử, trong Đại luận sáu mươi bảy, sáu mươi tám tướng Ma rất rộng đâu chỉ hiện trong Tam-muội, cho đến trong tất cả sự nghiệp não loạn hành giả, hoặc ma hoặc dân ma vì nhân duyên ác, vào trong thân người nhiễu loạn tâm người, hoặc khiến người viết mỏi mệt, cõi nước sự khởi, hoặc thủ giả không được cúng dường, hoặc đọc tụng thầy trò không hóa, hoặc trong đại chúng nói có người đến nói lỗi lầm Pháp sư, nói Pháp sư không thể như lời nói mà thực hành, làm sao đáng tin thọ, hoặc nói tuy trì giới, mà lại độn căn không hiểu nghĩa sâu, nghe có lợi ích gì? Hoặc nói Đại thừa là pháp không diệt, chỗ không thể hành, hoặc khi làm tốt kính tin Sa-môn nói, Bát-nhã Ba-la-mật không, chẳng có tên tội phước, không có đạo lý, như ở sau trong phát tướng có nói khiến người đọa vào đường ác, tức là ý ấy, hoặc nói có thể chấp Niết-bàn, tức trong phát tướng khiến rơi vào hàng Nhị thừa.

Lại nói: Hoặc Pháp sư không nhận tín thì của đệ tử, hoặc thầy thích bố thí mà đệ tử không nhận. Trong luận giải thích rằng: Đệ tử nên cúng dường pháp ở sư, vì sao nói sư bố thí cho đệ tử, nhưng đệ tử khởi niệm nầy, Sư có chút vật còn không xả làm sao có thể xả thân? Tuy khen ngợi bố thí chính là lừa dối, gọi là không hòa hợp, cho nên sư phải bố thí đệ tử, đệ tử lại dùng bốn việc cúng dường Sư, sư ít muốn nên không chịu thọ, lại hổ thẹn nói, như pháp mua bán, cho nên không nhận, hoặc sư nhiều tri thức không thiếu, có thể nuôi dưỡng đệ tử, đệ tử tự nghĩ, người phải nói là tham y thực của sư, cho nên thọ pháp, hoặc nói đức mỏng, không hơn sư bố thí, đẳng tâm như vậy tuy tốt, không thành Bát-nhã Ba-la-mật, cũng là ma sư, nầy, v.v… tức trong tướng phát trước khiến cho người đọa thiện. Tuy chẳng phải nhân quán mà phát, hoặc cũng là tương quan với túc duyên, hoặc thực hành Tam-muội sư cùng đệ tử có các việc ngăn ngại Tam-muội trên nên chẳng thể không biết, nầy, v.v… đã vậy thì các hành nêu bày như vậy, nên lược ghi để chỉ bày người học sau.

Kế nói pháp tướng chặng giữa ban đầu nói về dân chủ, nên biết; kế khai mở giải thích văn chặng giữa ban đầu rất dễ thấy. “Thu sát”, Sở Từ nói: Tiếng trùng kêu ti tỉ, lại nói tiếng chim líu lo.

Sát là tiểu ngữ (nói nhỏ) ma tợ tiếng ấy nên nói như vậy, thời kế gần gũi chặng giữa ban đầu nói về quyền thật, trong kinh Đại tập có mười hai loài thú, hoặc trong năm hành gọi là mười hai tiêu, “tiêu” là tợ, mười hai thần nầy tợ với tiêu. Trong kinh Đại Tập quyển hai mươi bốn nói giữa biển Phương Đông có núi Lưu ly, cao hai mươi do-tuần, trong đó có thỏ, hổ, rồng. Giữa biển phương Nam có núi Pha-lê, cao hai mươi do-tuần, trong đó có rắn, ngựa, dê, giữa biển phương Tây có núi Bạch ngân, cao hai mươi do-tuần, trong đó có khỉ, gà, chó, giữa biển phương Bắc có núi Huỳnh kim, cao sáu do-tuần, giữa biển có heo,

2 chuột, trâu ở trong hàng (trong kinh đều có tên quật) thần cây Phương Đông, Hỏa thần phương Nam, Hỏa thần phương Tây, Thủy thần phương Bắc, mỗi phương đều có hai La-sát nữ và năm trăm quyến thuộc, tùy theo phương diện ấy đều tự cúng dường ba thần phương ấy, hang ấy là chỗ ở của Bồ-tát, mỗi thú đều nói tu từ Thinh văn, ngày đêm thường đi trong cõi Diêm-phù-đề mọi người đều cung kính, đã từng ở chỗ Phật quá khứ phát nguyện, một loài thú thường đi khắp một ngày một đêm ở cõi Diêm-phù-đề, còn mười một loài thú ở yên tu từ, từ hủy báng ngày mùng một chuột làm đầu, ngày mùng hai trâu cho đến ngày thứ mười ba lại từ chuột đi, cho nên cõi nầy có nhiều thú nuôi, có khả năng đi giáo hóa, nên phương khác cung kính.

Trong kinh nói: Nếu bốn bộ đệ tử Phật nầy muốn được đại trí đại định đại thần thông, muốn thọ tất cả sách cổ sở hữu, tăng tấn pháp thiện, nên làm núi Bạch độ, vuông rộng bảy thước, cao một trượng hai thước, làm các thứ hương bùn kim bạc mỏng, bốn phía cao hai trượng, rải hoa Đảm bặc, dùng đồ bằng đồng đựng các thứ nước phi thời, đặt ở bốn phía, trì giới thanh tịnh ba ngày tắm gội, kính tin ba bảo, cách núi ba trượng đứng tụng ở chánh Đông, chú nguyện như vậy, trải qua mười lăm ngày phải ở trên núi thấy tượng, tháng đầu liền biết đã thấy mười hai loài thú, thầy rồi có nguyện cầu tùy ý liền được, mười hai loài thú nầy có lúc làm các tượng quỷ chim, v.v…, đi khắp cõi Diêm-phù giáo hóa đồng thứ, Bồ-tát chỉ làm các tượng trời người là chưa bị nạn bị thú thì khó, thú nầy đã nói, một ngày một đêm đi khắp cõi Diêm-phù-đề, nên biết tức là quyền hóa, nay văn sau nói tùy thời ấy đến não hại người đi, chính là bọn chi lưu thực hành, hoặc tà tưởng ở sau chính là nói phát tướng, nay muốn ở sau dùng thời gian suy nghiệm, chín thứ nầy thuộc về các thứ cây Phương Đông, như chín thú Phương Đông nhưng có ba loài là chánh, nên dùng ba thứ chánh mà đối trị Mạnh Trọng Lý.

Nói trước sau: Mạnh là đầu, chánh thú thì ở sau giữa của ba loài, trọng là trung, chánh thú thì ở giữa ba thu, quý là cuối, chánh thú thì ở đầu trong ba loài, còn ba phương cũng giống như vậy, ở sau của đầu ở đầu của sau, nên nói truyền làm phần trước sau, còn pháp năm hành đều chỉ là mười hai, chỉ có sáu nhâm thử nêu bày chặng giữa có ba mươi sáu, y theo văn ấy có ba, chim chuột núp bay, nay văn nói mèo, vẫn sợ lầm còn các tên thú đều cùng cách thức đồng, chó soi là chân chó.

E ở thời gian không biết, nên lại khai thành một trăm lẻ tám, tùy thời phân ấy lại dùng mười hai thân, tùy theo thời ấy đến chỉ xưng tên mười hai loài thú, hoặc xưng ba mươi sáu tên, gần gũi ấy thì bỏ, nên biết pháp quỷ sợ người biết tên, biết tên còn không dám đến, huống chi lại biết hình, nên biết hình tên ấy không dám làm quấy.

Kế là Ma-la phát, ban đầu nói ý phá và cách phá, gần gũi đều thuộc Ba-tuần xa, nay Ma-la đều thuộc Ba-tuần, hoặc Thiên Chủ tự đến rất là khó điều phục, hai thiện hai ác, bốn hoằng thệ là thiện các hạnh là chưa thiện, kiến tư là đã ác vô minh là chưa ác, trong Đại luận nói ở sau dẫn chứng. Nói hoa tiễn, v.v… trong Đại luận hỏi rằng: Thế nào gọi là Ma?

Đáp: Ma phá tuệ mạng hoại đạo pháp, cho nên gọi là ma, các bọn ngoại đạo nói là muốn chủ dẫn người sinh chấp, lại gọi là hoa, từ năm căn vào phá hoại năm căn, lại gọi là ngũ tiễn, phá pháp thiện Phật pháp nên gọi là Ma-la.

Lại nữa, tạo nhân duyên kiết sử ở thế gian, cũng là lực Ma vương, bị oán thù với Chư Phật phá hoại tất cả bậc Thánh, ngược dòng việc người, không ưa pháp Niết-bàn. Lại nói là ma có ba thứ việc có thể phá hành nhân, cười giỡn nói năng, ca múa tà thân, v.v… là từ ái sinh, trói đánh tra khảo chẻ đâm, phá chặt, v.v… là từ sân sinh, năm thứ nóng đốt thân tự đói gieo mình xuống sườn núi là từ si sinh, những thứ nầy tức là dòng ba giặc, cho đến tham nhiễm thế gian đều là việc ma. Lại nói hoặc làm các thứ thân hình khủng bố Bồ-tát, hoặc làm năm dục hấp dẫn não loạn Bồ-tát, hoặc chuyển tâm người thế gian, làm việc đại cúng dường, tham cúng dường nên mất đạo pháp, hoặc chuyển tâm người để não loạn hành giả, tùy theo nhân thú, trước đến nhân mà não loạn, luận văn rất rộng thủ trần ắt là nơi được dịp làm hại của Ma-la, Ma-la được dịp làm hại bởi do thất niệm, thất từ căn nên nói ngũ căn đều một sátna, nên luận Bà-sa thứ chín nói: Đức Phật đắp y ôm bát vào thành khất thực, ma Ba-tuần nghĩ, phải hoại đạo pháp, lại làm xa giá nhân thứ cầm roi tìm trâu, mặc áo xấu rách, đầu bạc rồi bù, đi đến chỗ Phật, hỏi Phật có thấy trâu tôi ở đâu không?

Đức Phật nghĩ ma não loạn, liền bảo ma rằng: Ác ma đâu có trâu dùng làm trâu.

Thiên ma nghĩ Sa-môn biết ta là ma, liền bạch Phật rằng: Nhãn xúc nhập xứ là thừa của ta, cho đến ý xúc nhập xứ là thừa của ta, Samôn ở đâu?

Đức Phật nói: Ta đến chỗ không có sáu xúc, chỗ ông không đến, chỗ ta sẽ đến, ý của Ba-tuần cho ta như xa giá, sáu xúc như thừa, có thể chở thừa nầy chuyên chở các chúng sinh, đến ở ba cõi, cho nên Niếtbàn chẳng phải chỗ đến, nên Phật nói, ta đến không có sáu xúc, và chỗ 2 ông không đến nơi, tức là Niết-bàn, cho nên các văn trong Đại Phẩm Ma-la làm não loạn không ngoài sáu xúc cho nên trong văn nay ngoài quạt trong não loạn, không ngoài sáu xúc, Thiên ma Ba-tuần còn dùng sắc não loạn Phật làm người tu hành mê man, nay nói ý năm xúc tức bao gồm sáu, do từ năm căn chuyển nhập ý, tức có pháp xúc, nên nói cộng hoại, căn trần đối nhau nên có mười tám.

Lại nữa, ở sau giải thích rộng ngoài đến, ban đầu khiến đọa ác, kế khiến dứt thiện, nếu vốn là cao sĩ xuất thế thực hành được thuyết nầy, hoặc vốn là người tán thiện vốn là quyến thuộc của ma, chỗ nào nói về đọa, người như đây nếu bỏ pháp thiện lại thành việc ma.

Kế khiến cho đọa vào người Nhị thừa, ngôn hạnh phải là chỉ bày; kế khiến đọa vào không vô phương tiện, v.v… là ác không giả, trước quán không ở bốn câu duyên sinh, không rõ các pháp đều chẳng có tự tánh, chẳng hiểu tướng các pháp tánh không, tuy sinh không giải không tổn phiền não, gọi là vô phương tiện không, nếu không thực hành Bồđề, không có tâm đại bi, tuy nói hóa vật chỉ thêm sinh tử, như vậy gọi là thiên sự là giả, còn không bằng giả của Bồ-tát ba tạng, huống là các giáo ư? Nhẫn đến cũng có thể khiến người vào giả của Ba tạng, như làm A-nan cũng tợ Biệt giáo, nhưng chẳng phải từ không nên nói thiên, Anan ở sau nêu sâu để so sánh cạn, này A-nan Đức Như lai khi sắp nhập Niết-bàn ở ngoài rừng Ta-la bị sáu muôn bốn ngàn ức ma não loạn.

Phật hỏi các đại chúng, A-nan nay ở đâu?

Đáp: nay ở ngoài rừng Ta-la mười hai do-tuần bị sáu muôn bốn ngàn ức ma não loạn, các ma đều tự thấy hình thành tượng Như lai, hoặc nói các pháp từ nhân duyên sinh, hoặc nói không từ nhân duyên mà sinh, hoặc nói từ duyên sinh, đều là vô thường, hoặc nói là thường, hoặc nói ấm nhập là thật, hoặc nói là hư giả, hoặc nói mười hai nhân duyên có bốn thứ, hoặc nói như huyễn hóa, hoặc nói do văn do tư, do tu, hoặc nói quán bất tịnh xuất nhập tức, Bốn niệm xứ, bốn thiện căn, ba không môn vô học, Sơ địa cho đến Thập trụ mười hai bộ kinh, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, hiện mười tám biến tám tướng thành đạo A-nan nghĩ rằng: Các tướng như vậy từ xưa chưa thấy, ai làm mà cho rằng chẳng phải Như lai làm? Muốn khởi muốn nói đều không từ ý, vì ma nhập cốt, lại tự nghĩ rằng: Đức Phật ngày nay nói khác nhau, ngày nay ta vì ai nói?

Này A-nan nay rất cực khổ, Đức Phật sai ngài Văn-thù dùng năng lực chú thuật phá hoại các ma, nhưng những điều các ma nói, duy không thể nói pháp môn viên đốn, do pháp viên đốn chẳng phải cảnh giới ấy, nói bao gồm phần nhiều là ma Đột-la quốc, nửa tháng nói pháp, đó gọi là thí luận giới luận nói về sinh thiên, muốn làm bất tịnh xuất yếu bậc nhất, Ma Ba-tuần lại sinh sầu não, mà khởi niệm nầy, Ưu-ba-cúc-đa làm hội Đại tập, phải giải để ra khỏi cảnh giới của ta, nay ta phải đến hoại ý chúng, ở chỗ nói pháp, mưa hoa chân kim hoa anh lạc, v.v… hóa thành voi trắng bảy báu, hóa thành người nữ xinh đẹp đặc biệt, nêu hội quán sát không có nghe pháp, trong ba ngày giảng nói pháp sâu xa, không có một người đắc đạo quả, Ma vương rất vui mừng, Cúc-đa liền nhập quán Tam-muội, ai đã gây ra, liền biết Ba-tuần Ma vương gây ra, lại dùng anh lạc đeo trên cổ Tôn giả, biết rồi lại nghĩ rằng: Ác ma ganh ghét xấu ác, có tâm não loạn chánh pháp, vì sao Đức Như lai không điều phục, liền quán tâm Phật biết Phật sai khiến rồi điều phục, liền dùng ba xác chết rắn, người và chó, hóa thành anh lạc, cảm ma sai đến nói rằng: Ông và ta tình cảm sâu dày, nay lại lấy vật nầy tặng ông, ma rất vui mừng đưa cổ nhận, đến trên cổ lại thấy thây chết trùng giòi sắp bò ra, ma thấy việc nầy rồi rất sinh nhàm ghét, bảo Cúc-đa rằng: nay ông vì sao lấy thây chết nầy mà cột cổ ta

Đáp rằng: Tỳ-kheo không nên dùng tràng hoa để trang nghiêm, ông trước vì sao đeo cho ta, nay được ông đeo chánh được phải lúc, ma dùng thần lực muốn chỉ bày mà không được, thây chết nầy ở cổ như núi Tu-di không thể động chuyển, thận vọt lên hư không thỉnh cầu các vị trời vì họ bỏ thây chết nầy, các vị trời đều nói: Đây là việc làm của Đại Thánh, ta chẳng thể ung dung mở được, đến chỗ Phạm vương xin cởi bỏ. Phạm vương nói: Đệ tử Mười lực đã làm ta không thể cởi bỏ được, dù cho kiếp gió, dù cho bị gió mạnh sương mù thổi, cũng không thể động, như nhân đất đổ lại từ đất đứng dậy. Nếu quy y Ưu-ba-cúc-đa, thì sẽ mở được, ma thọ giáo Phạm vương đến chỗ Cúc-đa, rất sinh kính trọng năm vóc gieo sát đất bạch rằng:

Thưa Đại đức: Đức Phật mới thành đạo ta dẫn đến quyến thuộc của quan mà bức não, không hề một lời mà thấy khinh nhục, ông A-lahán thấu lực từ bi ở trước trời người thấy lăng nhục ta.

Cúc-đa nói: Ông đại ngu si không có trí tuệ, so sánh người Thinh văn với Đức Như lai, muốn so sánh hạt cải với núi Tu-di, ánh sáng đuốc, đom đóm đồng với ánh sáng mặt trời, mặt trăng, nay ta yếu kém nên hủy nhục ông. Lại Đức Như lai sai ta điều phục ông, ông vì do đây mà có tâm lành sinh không rơi vào đường ác, ma nghe vui mừng sinh tâm ít có, nay hãy cởi bỏ ba thây chết nầy dùm ta.

Tôn giả đáp rằng: Ông không làm não hại chánh pháp, thì ta sẽ cởi bỏ thây chết cho ông, ma nói thọ giáo cho đến vì hiện các tướng

Đức Như lai, sao khỏi tự tha mươi sáu tiễn, một có ba ba trăm năm mươi lăm, chuyển vào ý địa lại có ba tiễn, nên thành mười tám, ma tự làm não loạn gọi là tự, quạt động đàn việt gọi là tha, tự tha đều có một trăm mười tám tiễn, nên có ba mươi sáu, nếu biết ở sau chánh y cứ lược lý điều, trái với thật tế nên thấy qua khác Phật. Nếu vào thật tế ma Phật không hai, ma không trái Phật cũng không thuận Phật. Trong Đại kinh ở sau dẫn chứng. Tiểu thừa dứt hoặc, nên nói điều ma như Cúc-đa, v.v… thể pháp Đại thừa ma là pháp giới, như trong kinh Lăng-nghiêm nói Tam-muội, ma muốn não loạn tự thấy bị trói buộc, không có người điều phục. Lại người Tiểu thừa đã có thể phá, chỉ gọi là phục, người Đại thừa, không có ma để điều, gọi là đoạn.

Kế nói trong phòng loạn, đồi không, v.v… mười pháp phân biệt hai mươi tà pháp; văn nói chánh pháp đều gọi là thái quá, thật ra nếu quá không bằng mỗi pháp có mười, đến trong cảnh thiền phải nói luận.

Kế kết trong số nói ba trăm tà pháp, lại y cứ tà thì từ ngoài đến, nên nói ba trăm tà pháp, lại y theo tà từ thì ngoài đến, nên nói ba trăm, nếu bao gồm độ nhập ýđịa thì ba trăm sáu mươi, nên trong văn nói; mà sơ nhập ấy phải nương năm căn, nên lại từ nhân để nói ba trăm.

Trong Trị Đôi Địch nói: Là trộm năm tăng pháp, ý tránh tăng sai, mong lợi tham ăn nên có tên nầy. Lạp là săn bắn, trong tháng nầy săn bắt cầm thú để cúng tổ, từ sự mà lập nên gọi là lập, có chỗ nói lạp là tiếp. Trong Sử Ký nói: Đời Thỉ Hoàng gọi lạp hạ là da bình, nhà Ân nói Thanh Tự, nhà Châu nói đại thố, từ đời Hán về sau là lạp cho đến nay, kết chi là tên quỷ, quỷ nầy vốn do phá giới, nên nghe bài tựa giới cũng sinh tâm hổ thẹn, huống chi là giới thần ủng hộ khiến quỷ phá giới đi, cũng như trước đã dẫn năm giới duyên khởi, thì tất cả quỷ thần đều sợ giới pháp, ở đời có lời tương truyền rằng: Thỉnh tăng cầu tai nạn, tăng tụng bài tựa giới bị giới thần đuổi ra ngoài chỗ vắng lặng, tức là việc ấy. Trong trị Ma-la, nói tất cả vật chẳng thọ không, không sở đắc, đủ như trong đầu quyển bốn có dẫn, thêm quyển một trăm hai mươi bảy nói, ma có năm lực gọi là năm trần, một lực đệ tử Phật và Thánh có thể chống cự, cho rằng không buông lung.

Trong Đại luận hỏi: Bồ-tát Tân học đạo lực còn kém, làm sao sai khiến được ma không có dịp làm hại?

Đáp: Các Bồ-tát hộ, lại nói người nầy khéo tu không nên ma chẳng bằng, như thân không có ghẻ độc không được vào, cho nên tu không ma chẳng được dịp làm hại.

Kế nói tu quán, ban đầu ba ác, v.v… trong Đại kinh nói có bốn việc thiện đọa vào ba đường ác:

  1. Vì hơn người nên tụng kinh điển.
  2. Vì lợi dưỡng nên gữi giới cấm.
  3. Vì quyến thuộc người khác nên thực hành bố thí-
  4. Vì Phi tưởng nên buộc niệm tư duy.

Nói tha thuộc là bố thí vật vốn là nhiếp tha từ mình, nay dùng tha thuộc làm ba việc lành, lại y cứ bên thí từ sự mà nói, hoặc từ tâm mà nói thì thuộc ba ác, tuy sinh thiện đạo đời đời tướng nhiễm, v.v… Ý khiến thuộc người khác mà trái lại thuộc về ma, cho nên đời đời bị ma nhiễu loạn. Trong kinh nói: Ở sau trong văn Đại phẩm, trong Đại luận quyển tám mươi mốt nói. A-nan hỏi Phật, ma vì nhiễu loạn tất cả Bồ-tát, cũng có không nhiễu loạn ư?

Đức Phật hỏi: Có khi nhiễu loạn hay không. A-nan bạch Phật: Vì sao bị nhiễu loạn?

Đức Phật nói: Hoặc có Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã không thể tin hiểu, xa thiện thiện tri thức gần gũi bạn ác, lìa Bát-nhã, làm các việc ác, nghe Bát-nhã sâu xa nói với người rằng: Ta cũng không được nguồn gốc ấy ông cần gì học.

Lại khinh các Bồ-tát rằng: Ta hành Bát-nhã ông không có hạnh nầy. Lại có Bồ-tát ỷ dòng họ khinh khi người khác, ma vui trời vẻ nói: Cung điện của ta không luống uổng lợi ích trong ba đường ác. Lại có Bồ-tát tranh cãi với Đức Thích-ca.

Ma nói: Uế Tát-bà-nhã, hoặc cúng cầu Tát-bà-nhã tranh cãi.

Ma nói: Hai Tát-bà-nhã nếu không có việc nầy thật rất thanh tịnh thì không có ma não loạn, tuy ở đường lành có quan hệ với ma, Bồ-tát bị ma não loạn như vậy nói suy lường Thông giáo đến Biệt giáo, như vì A-nan nói các pháp.

Kế trong cảnh không thể nghĩ bàn nói một ma tất cả Phật, là ma đã tức lý nên một ma tức tất cả Phật, như đây ở sau nói công năng diệu quán.

Nói trị ma hiển lý, hàng ma là đạo tràng, tức là trị ma cám hiển bày lý dạo, ma làm thị giả, hễ làm thị giả thì thuận theo ý người, nên quán cõi ma thuận theo thật tướng, duyên tu không thể tịch chiếu, v.v…, tức trong Tịnh Danh Bồ-tát Trì Thế trụ ở tịnh thất, Thiên ma Ba-tuần đem theo một muôn hai ngàn thiên nữ hình dáng giống như Đế-thích, trống nhạc đờn ca, đến chỗ Trì Thế, Trì Thế cho là Thích-đề-hoàn-nhân mà an ủi nói rằng: Lành thay! Kiều-thi-ca, kế lại trách rằng: Tuy phước có không nên tự buông lung, phải quán năm dục vô thường để cầu gốc lành.

Ma nói: Nhận một muôn hai ngàn thiên nữ nầy đủ để quét dọn, ý nghe pháp dụng nêu bày cúng dường do đây làm não hoại tâm Bồ-tát, Trì Thế chưa hiểu nên chỉ đáp rằng: Không dùng vật phi pháp nầy mời Sa-môn Thích Tử ta, v.v… Lúc bấy giờ ngài Duy-ma-cật vì điều phục quyến thuộc ma, quở trách Trì Thế rằng: Đây là người đến chẳng phải Đế-thích. Lúc bấy giờ ngài Duy-ma-cật liền bảo ma rằng: Hãy cho ta người nữ nầy, thì ta sẽ thọ, ý Đại sĩ nói: Ta là dòng tục đáng được thọ, người xuất gia chẳng phải việc nên làm. Nay văn lại giải thích ý kinh.

Trì thế chỉ là Bồ-tát Biệt giáo, duyên tu xuất quán không biết ma nhiễu loạn, ngài Tịnh Danh là Bồ-tát Viên Giáo chân tu tịch chiếu, quán vô xuất nhập, nên bác bỏ Trì Thế không thể tịch chiếu bị ma mưu hại, từ cõi ma tức cõi Phật bỏ phát tâm, từ cùng chúng sinh cõi Phật tức điều vui cõi Phật, cho nên nói từ vô lượng Phật, bi cứu vớt chúng cõi Phật, tức khổ cõi ma, nên nói bi vô lượng ma, từ ham muốn đầy đủ nguyện nầy bỏ an tâm. Trong văn nương việc nên y cứ việc Tất-đạt hàng ma để nói chỉ quán, nhưng do ở sau kết thành hành nhân dùng tướng an tâm.

Kế tùy ma ở sau phá khắp, ban đầu chung kết trải qua giáo, trải qua giáo trong ba tạng nhiếp phục bốn và ba kỳ trăm kiếp, khi ngồi đạo tràng ba mươi bốn tâm phá ma phiền não, lúc bấy giờ gọi là đạo Bồ-đề, sau khi nhập Vô dư, gọi là thân pháp tánh, do Bồ-đề đầy đủ nên thành quả Phật, do vì thành Phật, nên nhập Vô dư, nhập vô dư nên phá ấm ma, do phá phiền não và được thân pháp tánh, không hề có phân đoạn, cho nên hai pháp nầy đều phá ma chết, nên ba tạng Phật, tuy hàng phục ma trời, dứt ma phiền não, thân Hữu dư còn, vẫn chữa khỏi ấm, tám mươi tuổi nhập diệt vẫn chưa khỏi chết nên được Bồ-đề, đến khi nhập diệt rồi đến thân pháp tánh mới khỏi hai ma ấm tử, trong văn tồn lược chỉ nói tử, được Tam-muội Bất động, đủ như trong kinh Đại Tập nói: Thiên chủ ban đầu sai các quân, kế sai Thái tử; kế sai ba phi, đều không thể hoại, sau tự lãnh quân bị Phật hàng phục, đại quên lui bại vua điên đảo rớt mão kiếm cả ba đều ở một chỗ, nầy đều là văn quyển sáu của Đại luận. Nay văn nghĩa thông đến sau ba giáo, Thông giáo kiếm vị đồng phục ba tạng, đến khi sáu địa đắc đạo Bồ-đề, đồng với ba tạng dứt, hai giáo Thinh văn, không phá Thiên tử ma nên ban đầu bị não loạn, tu đắc thần thông, tuy là điều phục cũng không gọi là Đoạn, theo giáo thì hoàn toàn chưa biết ở Tam-muội xích sắc. Biệt giáo nương giáo đạo nên trước sau đều đoạn, nầy thời ba giáo trước đều thuộc về giáo đạo. Nếu không như vậy, đâu có dứt thông hoặc, phục lợi hoặc mà phá ma được.

Viên giáo đều phá, không có trước sau, nên y theo sáu tức để nói cạn sâu, Sơ trụ đều phá tám ma. Trong Đại luận quyển hai mươi nói: Nếu muốn tu tập định Thủ-lăng-nghiêm thì phải phá tám ma, phải nên gần gũi Đại Bát Niết-bàn, nghĩa là ấm, v.v… bốn thứ và bốn món vô thường, nghĩa chung trong ngoài như trước đã nói, từ trên mỗi ở sau thông bít, đạo phẩm như văn, từ cửa nếu chưa mở ở sau trợ đạo, sáu món nầy đối với ma thành độ, đối với hành nhân thành tệ vì sinh tử nên trở thành ma độ, trái đạo Bồ-đề, cho nên thành tệ, nay dùng y lý mà bác bỏ sự độ, do sự nầy có sáu trị đối với ma có sáu, sáu tệ nầy tuy tợ sáu độ mà không nhận Bồ-đề đều thuộc về ma, bốn độ trước đốt cháy sinh tử, đã được thiền định thông Bát-nhã với quỷ, đã thông Bát-nhã mà không lìa kiến chấp.

Nói chánh độ: Là bốn giáo sáu độ đều gọi là chánh, đủ như trong pháp trợ đạo nói.

Gồm trị, vì trong ma gồm có hai nên phải mượn dùng, nếu xen lẫn phiền não và nghiệp như trong hai cảnh trước dùng trị, tạp nghiệp mượn niệm hai Phật, đó là sắc thân pháp môn thân, trong tạp có ác phải dùng niệm sắc, trong tạp có thiện phải niệm pháp môn.

Văn tuệ: Bốn giáo đều ở ngoại phàm, nên nay Viên giáo ở năm phẩm “truất” là thối”biếm” là bỏ, sau mười pháp nầy cũng nên dùng xe lớn làm dụ cho, văn không có lược, mà chỉ nói thẳng đến đạo tràng. Kế lại dùng chung một ý làm quán, kết quán chung riêng, mười thừa quán pháp có chung riêng hai ý.

1. Do ấm cảnh đầu tiên của pháp sau có chín cảnh, gọi là Thông, chì là một pháp quán không thể nghĩ bàn người căn độn nên khai đối với mười pháp, trước nói ý liễu chung mỗi tiết nhập biệt mỗi quán đều vậy, quán pháp dễ rõ, nên dẫn Trung luận chung riêng làm ví dụ.

Kế trong phân biệt hỏi như văn, trong lời đáp ở trước trái hỏi đáp, nên nói duyên biệt.

Kế dẫn văn luận để chứng minh thì thuận hỏi đáp, tuy thuận hỏi đáp nhưng đây thành bất định, nên khác nhau với lạnh đi xuân đến, nếu ma đi rồi thì pháp lành sẽ đến, không hẳn đều như vậy, cho nên khác nhau. Trong Đại luận nói: Ưa pháp Phạm Chí trong mười hai năm đi khắp Diêm-phù-đề, cầu biết pháp Thánh, mà không thể được, lúc bấy giờ đời không có Phật Phật cũng hết, có Bà-la-môn nói: Ta có một bài kệ pháp Thánh, nếu thật ưa thích sẽ đem cho ông.

Đáp rằng: Thật ưa thích.

Bà-la-môn nói: Nếu thật ưa pháp, phải dùng da làm giấy, dùng xương làm bút, dùng tủy làm nước, dùng máu làm mực, liền như lời nói ấy viết được bài kệ Phật, bài kệ rằng:

“Như pháp nên tu

Phi pháp không nên tu hành

Đời nay hoặc đời sau,

Người hành pháp an tuệ”.

Lại có thuyết nói: Ma đến dối ưa pháp khiến cho lột da, v.v… ý muốn lui sụt tâm ưa pháp, tâm ưa pháp chắc chắn liền lại lột da, v.v… ma lại ẩn đi, cảm động rồi Phật vì họ nói kệ, sau giải thích hợp với văn, hơi khác với luận.