VÔ THƯỜNG
(Cảnh tỉnh vô thường I)

Nhớ lời Phật Tổ dạy rằng:
Ðời người chớp nhoáng như lằn điển quang,
Thân người giả hợp rồi tan,
Lao xao bọt nước mơ màng chiêm bao,
Nặng mang những nghiệp trần lao,
Loanh quanh ba cõi lao xao sáu đường.
Ðã sanh trong cõi vô thường,
Thì ai thoát khỏi con đường tử sanh,
Bầu trời lồng lộng cao xanh,
Xoay mưa trở nắng tan tành gió mây,
Mênh mông đất nước trời dài,
Còn đâu bể thẳm luân đầy chiều mai.
Kể từ vô thỉ vị lai,
Ðến đời mạt pháp là ngày nay đây,
Biết bao tan xác rã thây,
Biết bao những nấm mả loài mồ hoang.
Phật xưa trượng sáu mình vàng,
Mãn viên còn phải Niết bàn báo thân.
Tiên gia như Lý đại quân,
Ðến ngày vô hóa hình thần cũng tan,
Tam hoàng Ngũ đế Thánh nhân,
Nào ai giữ được sắc thân đời đời.
Phật, Tiên, Hiền, Thánh, vật, người,
Non sông biến đổi đất trời tiêu tan.
Than ôi, cuộc thế ngỡ ngàng,
Não nùng chết khổ, lỡ làng sống vui,
Nếu ba hơi thở tắt rồi,
Mưa tuôn, cỏ lợp đất vùi nắng phơi.
Than ôi giấc mộng muôn đời !
Biết bao nhiêu khách đọa đày say vui.
Hỡi vong ơi ! Hỡi hồn ơi !
Bao nhiêu nợ thế trả rồi thời thôi,
Rửa lòng cho sạch trần ai,
Rời câu dục lạc miếng mồi lợi danh,
Tránh xa cái cửa tử sanh,
Thoát nơi tham ái khỏi thành sân si,
Bước vào trong cửa từ bi,
Nương theo chơn Phật trở về liên bang.
Khỏi đường sống chết xoay lăn,
Khỏi đường khổ thống khỏi thân tội tình,
Liên bang là nước hóa sanh,
Có ao tám đức có sen năm màu,
Có giường ngọc có mành châu,
Có thành thất bảo có lầu thất trân,
Sáu thời thiên nhạc rền vang,
Màu sen chói lọi mùi hương nực nồng,
Tốt thay thế giới vàng ròng,
Bảy hàng bảo thọ chín trùng liên hoa.
Ðạo sư là Phật Di Ðà,
Mình vàng rực rỡ chói lòa hào quang,
Hằng ngày thuyết pháp rền vang,
Tiếp người niệm Phật dẫn đường thiện duyên.
Hỡi ôi ! Hồn có linh thiêng,
Phát tâm niệm Phật mà nguyền vãng sanh,
Thành lòng Phật một nguyện lành,
Hoa sen rày đã nên danh tánh rồi.
Căn lành lợi phúc vun bồi,
Nương thuyền lục độ mà hồi hương qua,
Mãn duyên sen nở một tòa,
Rước hồn có Phật Di Ðà phóng quang,
Rước về đến cảnh Lạc bang,
Sống lâu vô lượng dứt đàng tử sanh.

– Trích từ “Tuyển tập các bài sám” – Các Ban Hộ Niệm – Bản in lụa, năm 1989 tại TPHCM.
– Chưa biết được xuất xứ và trước tác.

SÁM HỒNG TRẦN
(Cảnh tỉnh vô thường II)

Cõi hồng trần gởi thân trăm tuổi,
Kiếp phù sanh thay đổi mấy lần,
Có thân nên khổ vì thân,
Bởi xưa chơn tánh niệm lần say mê.
Nhơn vô minh vọng tình nhiễm trước,
Thọ, tưởng, hành, ý thức nghiệp duyên,
Luân hồi sanh tử lộn quanh,
Ra vào ba cõi xuống lên sáu đường.
Ðời dĩ vãng Tam hoàng, Ngũ đế,
Khó toan phương cõi thế thọ trường,
Những là diệu dược Thần Nông,
Dễ đâu cứu hết mạng vong số người.
Thuốc linh đơn tài y Biển Thước,
Cũng nan điều hết được bịnh nhơn.
Hữu hình, hữu hoại là thân,
Có đâu sống mãi ngàn năm trên đời.
Trường danh lợi lăng xăng lui tới,
Án công hầu sớm tối đua chen,
Sang giàu nghèo khổ lộn xen,
Chung qui rồi cũng một phen tan tành.
Oai lẫy lừng vua Tần Hoàng Thủy,
Tiếng anh hùng cái thế Hạng Vương,
Quyết lòng thâu đoạt giang sơn,
Dè đâu ý định sao hơn mạng trời.
Chẳng lâu đời mạng Tần ngắn ngủi,
Sông Ô giang Hạng Võ bỏ mình,
Hớn trào Hàn Tín công nghìn,
Tề Vương đại ấn dễ mang đặng nào ?
Họ Thạch giàu của bao xiết kể,
Mà bây giờ còn để lại đâu ?
Tuổi Nhan Hồi băm hai yểu số,
Sống tám trăm Bành Tổ mạng trường,
Xanh mày với tóc bạc sương,
Sống lâu thác yểu, một đường khác chi.
Mùi tục lụy đắng cay mấy nỗi,
Bả đỉnh chung nhiều nỗi nhọc lòng,
So tài đấu trí dại khôn,
Công danh, phú quí mộng hồn hoàn lương.
Cảnh vô thường tang thương biến đổi.
Người lẽ đâu sớm tối an nhàn,
Sanh giả không, tử giả không,
Mấy ai trăm tuổi uổng công lo đời.
Còn chút hơi ai ơi nghĩ lại,
Muôn việc đời cả thảy đừng mong,
Vắng đi ba tấc hơi lòng,
Bao nhiêu sự nghiệp còn trông chút gì ?
Dẫu của tiền vạn thiên chất chứa,
Bực vương hầu khanh tướng vinh huê,
Ơn thâm nghĩa trọng tận tình,
Ðem ra chuộc thế mạng mình được chăng ?
Có chi bằng tầm phương tế độ,
Niệm Di Ðà giác ngộ thiện tâm,
Ðạo là vô thượng thậm thâm,
Nếu không sớm gặp kiếm tầm dễ chi ?
Xét thân nầy một khi gặp gỡ,
Ðể mất rồi muôn thuở khó toan,
Kiếp người sanh giữa trần gian,
Nhờ nơi chưởng đặng thiện căn lâu đời.
Vậy mấy lời hôm nay tỉnh giấc,
Nguyện vong hồn khoái lạc siêu sanh,
Bao nhiêu những việc tiền trình,
Bây giờ thôi cũng phải đành hoàn không.
Một khoảnh đồng bặt tăm chôn xác,
Ôi đành cho đất cát lấp vùi,
Biệt ly là cảnh ngậm ngùi,
Bi tâm thán biệt nấm mồ ngàn thu.
Bóng trăng lu, nhìn đầu ác xế,
Tháng ngày qua quạnh quẽ mộ phần,
Gió mưa, nắng tuyết bao lần,
Cổ kim lai vãng tử sanh một đàng.
Cõi dinh hoàn, trần gian chung cảnh,
Kiếp luân hồi không rảnh thoát ly,
Mong nhờ pháp lực hộ trì,
Xả mê tùng giác tiêu diêu lạc thành.
Nguyện vãng sanh về miền Cực lạc,
Dứt hết liền ác nghiệp trần lao,
Liên hoa chín phẩm đặng vào,
Trường xuân tự tại tiêu dao hưởng nhàn.

– Trích “Kinh Di Ðà Nghĩa và 36 bài sám hay” – Sa môn Thich Thiện Tâm sưu tầm – Sa đéc 1961. Và Kinh Nhựt tụng Sen Vàng, chùa Ấn Quang 1968.

BÀI TỐNG TÁNG
(Cảnh tỉnh vô thường III)

Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán,
Kiếp phù sanh tụ tán mấy lăm hồi,
Người đời có biết chăng ôi !
Thân người tuy có, có rồi hoàn không.
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi,
Làm cho buồn bã thế ni,
Hôm qua còn đó bữa nay đâu rồi.
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô,
Khi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài,
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang,
Khi nào trau ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh,
Khi nào mắt đẹp mày thanh,
Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu,
Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh,
Khi nào liệt liệt oanh oanh,
Bây giờ một trận tan tành gió mưa,
Khi nào ngựa lọc xe lừa,
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng,
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa,
Khi nào mẹ mẹ cha cha,
Bây giờ bóng núi khuất xa muôn trùng,
Khi nào vợ vợ chồng chồng,
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn,
Khi nào cháu cháu con con,
Bây giờ hai ngã nước non xa vời,
Khi nào cốt nhục vẹn mười,
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì,
Khi nào bạn hữu sum vầy,
Bây giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu.
Cái thân như tấc bóng chiều,
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi,
Xưa ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu,
Sang mà đến bực công hầu,
Giàu mà đến bực mấy lâu Thạch Sùng,
Nghèo mà đói khát lạnh lùng,
Khổ mà tóc cháy da phồng trần ai,
Phù du sớm tối một mai,
Giàu sang cũng thác xạt xài cũng vong.
Thông minh tài trí anh hùng,
Ngu si dại dột cũng chung một gò,
Biển trần nhiều nỗi gay go,
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê,
Sự đời nên chán nên chê,
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi hỡi vong hồn !
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi một giấc say sưa,
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về.
Hồn về Cực lạc nước kia,
Cho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma.
Nhờ ơn đức Phật Di Ðà,
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang,
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng,
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân,
Quan Âm Bồ Tát vui mừng,
Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài,
Với cùng Thế Chí các Ngài,
Cũng đều khuyến thỉnh bên ngai sen vàng.
Có bảo cái có tràng phan,
Có mùi hương lạ có đàng ngọc xây,
Có trời các cõi truy tùy,
Có đờn, có trống, rước đi một đường,
Rước về đến cảnh Tây phương,
Có ao thất bảo có hương ngũ phần,
Lưu ly có đất sáng ngần,
Ma ni có nước trong tần chảy quanh,
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu,
Có ngân các, có kim lầu,
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền,
Ðã sanh về chín phẩm sen,
Mấy tai cũng sẩy mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con,
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi,
Lầu vàng đài báu thiếu gì,
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu,
Không ơn, không oán, không sầu,
Không già, không chết có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi,
Gương xưa nay đã lau chùi trần ô.
Tu hành phải đợi kiếp mô,
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ,
Lựa là phải ngộ thiền cơ,
Mà đèn trí huệ dễ lờ đi đâu,
Mấy lời hộ niệm trước sau,
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà,
Phân thân ra khỏi Ta bà,
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh.

– Trích từ “Liên Hoàn Sám Nguyện” – Sa môn Thích Thiện Tâm sưu tầm – Sa đéc 1961.
– Ðối chiếu lại và sửa chữa từ “Tam Bảo Tôn Kinh” Thích Ca Tự Sàigòn 1967.

SÁM VÔ THƯỜNG
(Cảnh tỉnh vô thường 4)

Biển trần khổ sóng bồng lai láng,
Kiếp phù sanh đáng chán biết bao,
Tấm thân chìm đắm dạt dào,
Mịt mờ chưa biết đời nào thoát ly.
Cõi giả tạm ích gì sự thế,
Uổng tâm tư tìm kể miên trường,
Trần hoàn vạn vật vô thường,
Khổ não, vô ngã đầy đường chông gai.
Do nghiệp báo lưu lại từ trước,
Các pháp hành, tạo được thân duyên,
Pháp hành kế tục nhau liền,
Diệt sanh, sanh diệt triền miên không ngừng.
Người hay thú đồng chung số phận,
Hễ có thân ngũ uẩn không bền,
Chịu điều biến đổi đảo điên,
Sanh, già, đau, chết không yên lúc nào.
Thể vật chất không sao giữ nỗi,
Sức vô thường phá mỗi sát na,
Xét cùng đâu phải thân ta,
Khó ngăn tóc bạc không cầm răng long.
Lửa ái dục đốt lòng từ phút,
Vấy ưu phiền, chẳng chút nào nguôi,
Dễ chi đặng tạm an vui,
Suy mòn vì nhuộm nặng mùi trần ai.
Chứng thân chết nảy hơi hôi hám,
Người, ai ai chẳng dám lại gần,
Gớm ghê, dầu bậc chí thân,
Ðều sợ xui lụy vương lân, cửa nhà.
Chọn một chốn rừng già thanh vắng,
Ðem thây thi an táng cho xong,
Ðịa táng, hỏa táng chẳng đồng,
Tùy duyên, tùy lực, vẫn không quản gì.
Ðưa xác chết, người đi đông đúc,
Kẻ thân nhân uất ức, khóc than,
Hình hài ba khúc rã tan,
Thinh danh tiêu diệt họ hàng cách xa.
Khổ tử biệt thiết tha nung nấu,
Biệt gia tài, của báu, tình yêu,
Tấm thân ngũ uẩn đã tiêu,
Ðất, nước, gió, lửa, về nhiều căn nguyên.
Thân đã chaúng thiêng liêng ngày tháng,
Buổi chia lìa ngao ngán đau thương,
Chúng sinh, ba cõi vô thường,
Nên vun cội phước, tìm đường siêu sanh.
Lựa các thứ nhân lành gieo giống,
Quả kết trong kiếp sống về sau,
Mở lòng bố thí dồi dào,
Học kinh, trì giới, khá mau tu hành.
Kẻo rồi phải điêu linh sa đọa,
Vào bốn đường ác đạo khó khăn,
Vô cùng khốn khổ thân tâm,
Ðời đời kiếp kiếp trầm luân không về.
Thân khẩu ý giữ gìn trong sạch,
Dẫn trên đường thanh bạch mà đi,
Dầu cho chuyển kiếp đến kỳ,
Cũng còn trông ngóng thoát ly khổ sầu.
Rán hối quá quay đầu hướng thiện,
Ác nghiệp trần, đoạn tuyệt chớ gieo,
Tâm đừng xu hướng, vui theo,
Thiện duyên gầy dựng, trần lao dứt lần.
Các phương pháp, yên tâm định trí,
Chúng sinh cần tìm kiếm học hành,
Cho lòng bi mẫn phát sanh,
Dứt nguồn khổ não biến thành an vui.

-Trích Nhựt Hành của Người Tại Gia Tu Phật. THPG Tp. HCM, 1991

SÁM HỒNG TRẦN
(Cảnh tỉnh vô thường 5)

Cõi trần thế sắc thân trôi nổi,
Mấy ai từng trăm tuổi được đâu;
Ðời là bể khổ bấy lâu,
Chỉ vì mê muội ăn sâu khôn rời.
Bởi vô minh tự thời vô thủy,
Thọ, tưởng, hành, thức khởi nhân duyên;
Luân hồi sinh tử liên miên,
Ra vào ba cõi, xuống lên sáu đường.
Lê Long Ðỉnh khôn lường hoang đạo,
Giết dân lành, dâm bạo vô lương;
Nhãn tiền nghiệp báo liệt giường,
Hờn chồng oán chất, cùng đường bỏ thân.
Lý Thái Tổ xuất thân học đạo,
Lấy đức lành dạy bảo dân yên,
Lẫy lừng phạt Tống bình Chiêm,
Mấy trăm năm Lý, văn minh rạng ngời.
Trần Thái Tôn dựa nơi Phật pháp,
Lấy tu hành trị nước an dân;
Mấy lần đuổi giặc ngoại xâm,
Truyền ngôi kế vị mấy trăm năm liền.
Hãy nhìn lại tôi hiền Nguyền Trãi,
Tận trung mà vẫn phải oan gia;
Vì sao tru diệt cả nhà?
Vì sao ba họ rồi ra bỏ đời?
Về sao được phục hồi chức tước,
Có phải vì nghiệp trước hay không?
Anh hùng cái thế Quang Trung,
Vì sao mạng yểu não nùng non sông?
Nhìn những cảnh vô thường khôn xiết,
Tử sinh mà ai biết ra sao?
Ðời này đời trước đời sau,
Ngươøi hiền tự thuở trông vào đức nhân.
Hãy nhìn lại Lý, Trần, Lê, Nguyễn,
Người hiếu hiền thể hiện đức nhân,
Dù cho danh lợi muôn phần,
Bất nhân thất đức xa gần ai khen?
Giữa trần tục bon chen danh lợi,
Mùi thế trần sao vội cho thơm;
Vinh hoa phú quý chập chờn,
Như là bọt nước trong cơn sóng cồn.
Thuốc tiên của Lãn Ông Hải Thượng,
Ðã bao giờ cứu mạng mình đâu;
Sinh già bệnh chết bấy lâu,
Ðã thành qui luật gây bao khổ sầu.
Dù vua chúa công hầu khanh tướng,
Hay nghèo hèn vất vưởng thương đau;
Cuối cùng ba tấc đất sâu,
Yên mình một nấm cỏ khâu xanh rì.
Ðã biết vậy đừng mê muội nữa,
Kiếp nổi chìm lần lựa trôi qua;
Thành tâm niệm Phật Di Ðà,
Làm lành, gây phươùc để mà tu tâm.
Ðã biết cảnh hồng trần trôi nổi,
Một ngày nào cát bụi buông xuôi;
Vô thường muôn sự rõ rồi,
Hoa sen chín phẩm là nơi an bình.
Ðã qui luật tử sinh không khỏi,
Sống cũng đừng nông nổi gian tham,
Chỉ vì nghiệp ác đã làm,
Chuốc vào quả báo lại càng đau thương.
Quyền chức trọng đường đường tự đắc,
Chỉ một cơn gió lốc tiêu điều!
Cuûa tiền tranh đoạt bao nhiêu,
Rồi hai thước đất ai nhiều hơn ai?
Hãy về trước Phật đài sám hối,
Biết bao điều tội lỗi xưa nay;
Nhất tâm niệm Phật đêm ngày,
Nguyện về Cực lạc ngồi đài hoa sen.

-Trích Kinh Báo Hiếu và Vu Lan, chùa Giác Ngộ ấn hành nội bộ, Sàigòn, 1994

SÁM VÔ THƯỜNG (II)
(Cảnh tỉnh vô thường 6)

Thế gian giả tạm bến mê
Thành tâm hướng tới nẻo về đường chơn
Cuộc đời cõi mộng chi hơn
Người trong nhân thế oán hờn tranh nhau
Dòng đời lắm nỗi lao xao
Ðâu là bền chắc, có nào chi đâu?
Sống thì ngụp lặn vọng cầu
Tâm kia điên đảo, mối đầu trầm luân
Tham sân si nặng vác khuân
Thế nên tâm tánh trôi lăn đêm ngày!
Từ thương đến giận ai hay
Từ yêu đến ghét tháng ngày đa mang
Từ buồn đến muốn lầm than
Ðeo mang cho lắm con đàng sầu thương!
Ðấy là tâm vọng đâu thường
Tâm duyên trần cảnh là đường khổ đau
Tâm nầy không thật mảy hào
Cho nên biến đổi khi nào dứt đâu ?
Thân ta ví một con tàu
Luôn thay đổi bến chẳng lâu ở thường
Khi thì nóng sốt khổ vương
Khi thì lạnh rét tai ương đeo hoài!
Lão sanh tử bệnh đổi thay
Thọ thân là khổ nơi này trần gian
Có đâu bền chắc mà màng
Se sua thân xác theo đàng lụy thôi!
Trau tria cho lắm để rồi
Vô thường chợt đến mà lôi ra gò!
Vô thường hai chữ nhớ cho
Có chi bền chắc mà đo với lường
Cảnh đời cũng phải vô thường
Mọi loài mọi vật có dường bền lâu ?
Thế nên phải dứt vọng cầu
Gắng lòng tụng niệm đạo mầu bước lên
Ðể tạo phước báo thiện duyên
Ngày sau sẽ hưởng vượt lên cõi trần
Ðừng say ngũ dục ấm thân
Lầm mê trần thế, đắc phần tội mang
Ai ai thức tỉnh thế gian
Vô thường quỉ bắt, biết đàng nào đi ?
Thân tâm hoàn cảnh bủa vây
Nghiệp mang lửa đốt, do đầy lầm mê
Ai ơi lòng hướng cầu về
Nương theo chánh đạo một bề tu thân
Tử sanh khổ ải muôn phần
Vô thường phải sợ chuyên cần tu tâm
Khổ công giáo lý nghiêm tầm
Tâm kia bền vững đừng lầm đường mê
Ðó là giác ngộ đường về
Ai ơi nhớ lấy chớ mê cảnh trần.

– Trích soạn lại theo “Phật học sám kệ” – Thiích Tâm Minh – Bản in lụa Sàigòn 1994.

SÁM CẦU SIÊU CÚNG THẤT
(Cảnh tỉnh vô thường 7)

Ðường sanh tử, nối dài quá ngán,
Cõi hồng trần, tụ tán mấy hồi,
Một đời mau lẹ ai ôi!
Thân người tuy có, có rồi hoàn không!
Mấy bữa trước: ước mong lắm việc,
Ngày hôm nay, tử biệt gia đình,
Cùng là lối xóm bạn mình,
Bỏ nhà xuống đất thân hình còn đâu!
Nhớ những lúc tình sầu man mác,
Nghĩ đến hồi lên gác xuống lầu,
Bây giờ để thảm để sầu,
Cho người quyến thuộc buồn rầu khóc than.
Ra đến chỗ đồng hoang cỏ lạnh,
Với nấm mồ hiu quạnh từ đây,
Nhớ hồi sum hiệp vui vầy,
Bây giờ vĩnh biệt mặt mày thấy đâu.
Nhớ mấy lúc, canh thâu phất phưởng,
Nghĩ đến hồi vào trướng ra màn,
Bây giờ xa cách xóm làng,
Thân bằng quyến thuộc họ hàng biệt tăm.
Nhớ từ thuở ngồi nằm sớm tối,
Nghĩ mấy hồi trao đổi tình nhân,
Bây giờ xa cách chẳng gần,
Nỡ đành ra ở mộ phần đồng sâu.
Ba bảy thất, ưu sầu buồn bã,
Mãn hai năm, mồ mả quạnh hiu,
Dù cho tiền của có nhiều,
Cũng không mua chuộc người yêu sống hoài.
Ðã nhiều kiếp trần ai lao khổ,
Ðã bao lần quá khổ cực thân,
Từ đây đã dứt nợ nần,
Nương về với Phật cảnh trần lánh xa.
Ðừng mến tiếc Ta bà uế trược,
Về Tây phương mới được an thân,
Di Ðà, Bồ Tát được gần,
Dạy hồn phương pháp hóa thân độ đời.
Nơi cảnh Phật đời đời chẳng có,
Ở trần ai mưa gió không chừng,
Tử sanh tiếp nối chẳng ngừng,
Vô thường chi phối không ngừng ai ơi!
Nơi biểân ái lội bơi cũng ngán,
Giữa sông mê phải rán lướt qua,
Quyết lên cho khỏi bờ ma,
Về nơi an dưỡng mới là tiêu diêu.
Ao thất bảo có nhiều của báu,
Ngọc xà cừ mã não bao quanh,
Kim ngân xây bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu.
Nào ngân các với kim lầu,
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng tâm mê giác liền.
Hồn về Cực lạc ở yên,
Ðến sau trở lại hóa duyên Ta bà.
Nam Mô Từ Phụ Thích Ca,
Ðộ hồn thoát khổ thẳng qua Liên trì.
Niệm rành sáu chữ A Di,
Nhứt tâm niệm Phật tham si hết liền.
Nguyện sanh về cửu phẩm liên,
Ở nơi Cực lạc vô biên thanh nhàn.
Nam Mô Tịnh Ðộ Lạc Bang,
Ðộ vong hồn đặng Tây phương mau về.

— Trích trong “Kinh Nhật Tụng,” chùa Ðại Giác ấn hành, Sài Gòn, 1974.
— Ðây là bài cải biên từ bài sám Tống táng, số 51, tập I. Văn phong có nhiều nét mới, dễ đọc và tiện dụng hơn, nên đưa vào để tùy độc giả lựa chọn mà tụng.

SÁM CẦU SIÊU TỈNH THẾ
(Cảnh tỉnh vô thường 8)

Tử sanh giã biệt cuộc đời,
Huyễn thân trả lại, về nơi mịt mờ.
Sống thời chồng, vợ, con thơ,
Thác thời một nấm bơ vơ ngoài đồng!
Ðâu nào gác tía lầu hồng,
Giờ đây cách biệt núi sông ba đào.
Cái thân là gốc khổ sầu,
Muốn cho khỏi đọa phải mau tu hành.
Ðến khi công quả viên thành,
Mới mong thoát khỏi tử sanh luân hồi.
Cõi đời khổ não lắm ôi,
Khuyên hồn niệm Phật về ngôi sen vàng.
Ở đây biển khổ trần gian,
Sanh già bịnh chết không an chút nào.
Kiếp người là kiếp khổ đau,
Mày xanh mới đó, lẹ mau bạc đầu.
Hôm nay tang quyến khẩn cầu,
Lạy xin chư Phật ân sâu cứu nàn.
Biệt ly đứt ruột bầm gan,
Thân tình quyến thuộc nát tan cõi lòng.
Ngưỡng cầu Phật lực thần thông,
Tây phương tiếp dẫn vong hồn bước sang.
Quan Âm Ðại Sĩ từ hàng,
Lòng bi cứu khổ muôn vàn chúng sanh.
Ðức ngài Ðịa Tạng U Minh,
Xả thân vào chốn ngục hình độ vong.
Ðạo sư Thái Thượng tiên ông,
Luyện trường sanh dược cũng không thọ dài.
Kìa ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ cũng thời tiễn đưa.
Thích Ca Thái tử thuở xưa,
Nghiệm xem tứ khổ nắng mưa vô thường.
Nửa đêm lén trốn phụ vương,
Lìa con bỏ vợ tìm phương tu hành.
Ẩn nơi tịch mịch non xanh,
Sáu năm khổ hạnh lưu danh muôn đời.
Ta bà giảng đạo khắp nơi,
Bồ đề ngồi gốc làm nơi tham thiền.
Ðến ngày tứ đại mãn duyên,
Cũng theo định luật tịch viên Niết bàn.
Cho hay hoa nở cũng tàn,
Pháo nào kêu lớn lại tan xác nhiều.
Giàu sang sung sướng đủ điều,
Vui đây, khổ đó, ái yêu giả trò.
Cuộc đời như thể bến đò,
Kẻ qua người lại đắn đo khổ sầu.
Chi bằng tìm chốn đạo mầu,
Tu hành giải thoát nguyện cầu lợi tha.
Noi gương Từ phụ Thích Ca,
Dắt dìu nhân loại Ta bà trầm luân.
Ðộ đời bá tánh vạn dân,
Cứu hồn hoạnh tử hóa thân liên trì.
Cầu ngài giáo chủ A Di,
Ðộ hồn nam nữ đồng qui lạc thành.
Ở yên mát mẻ tu hành,
Xa lìa hầm lửa vô sanh đời đời.
Phá tan địa ngục khắp nơi,
Kíp nghe kinh kệ chiều mơi an nhàn.
Thành tâm nương chốn đạo tràng,
Chuông khuya mõ tối độ an vong hồn.
Nam mô cứu khổ Bổn tôn,
Xá tội vong giả ngục môn xa rời.
Hiện thân lễ Phật trọn đời,
Ba đường tám nạn khỏi nơi luân hồi.
Nguyện cho tất cả muôn loài,
Ðồng lên bến Giác liên đài kết hoa.

Soạn phỏng theo bài sám cùng tên in trong “Pháp môn tu Tịnh Ðộ” trang 347-350, chùa Niệm Phật, Bình Dương, 1974
— Nguyên tác bài cũ đoạn đầu là sự lắp ghép cải biên từ bài Sám tống táng số 51 và đoạn cuối là sự trùng lặp từ các bài nguyện Tịnh Ðộ. Không đủ giá trị để phổ biến, nên phải soạn rút lại cho có chất lượng.
— Người soạn lại: Chiêu Ðề, tháng 8/1997.

BÀI TỐNG CHUNG
(Cảnh tỉnh vô thường 9)
Thái Không Pháp Sư

Nhớ lời Phật Tổ dạy rằng,
Ðời người chớp nhoáng như lằn điển quang.
Thân người giả hợp rồi tan,
Lao xao bọt nước mơ màng chiêm bao.
Nặng mang những nghiệp trần lao,
Loanh quanh ba cõi lao xao sáu đường.
Ðã sanh vào cõi vô thường,
Nào ai tránh khỏi con đường tử sanh.
Bầu trời lồng lộng xanh xanh,
Xây mưa, trở nắng tan tành gió mây.
Mênh mông đất nước nặng dày,
Cồn dâu, bể thẳm lưng đầy chiều mai.
Kể từ vô thỉ dĩ lai,
Ðến đời mạt pháp là ngày hôm nay.
Biết bao tan xác rã thây,
Biết bao những nấm mả lài mồ hoang.
Phật xưa trượng sáu mình vàng,
Mãn duyên còn phải Niết bàn hóa thân.
Tiên gia như Lý Ðạo Quân,
Ðến ngày vỏ hóa, hình thần cũng tan.
Tam hoàng Ngũ đế Thánh nhân,
Nào ai giữ được xác thân đời đời.
Hạng Vương khuấy nước chọc trời,
Tám ngàn tử đệ còn người nào đâu?
Thủy Hoàng bạo ngược tóm thâu,
Tràng thành giữ được bao lâu vững bền.
Trọng Ni thất thập nhị hiền,
Tam thiên đồ đệ hiện tiền còn ai?
Tám trăm tuổi số thật dài,
Mà nay Bành Tổ mặt mày là đâu?
Băm hai tuổi trẻ xanh đầu,
Thầy Nhan Uyên có van cầu được thêm.
Lang thang tơi tả áo xiêm,
Tăng Sâm, Yến Tử có bền gì ru!
Giàu như Ỷ Ðốn, Ðào Châu,
Thạch Sùng, Vương Khải há mua vô thường.
Thánh, Tiên, trời, đất giang sơn,
Noãn, thai, thấp hóa sáu đường cũng tan.
Than ôi cuộc thế ngỡ ngàng,
Não nùng chết khổ, lỡ làng sống vui.
Nếu ba hơi thở tắt rồi,
Mưa tuôn cỏ lợp đất vùi nắng phơi.
Nào người hống hách rùm trời,
Xiêm rồng mão phụng chói ngời trên ngai.
Ba ngàn hổ bái kim giai,
Hầu trong mỹ nữ, vệ ngoài trảo nha.
Ngày nay gió táp mưa sa,
Rêu phong mặt đất đốm lòa đầu cây.
Nào người Bắc phạt chinh Tây,
Binh hùng dậy đất gió bay lộng trời.
Thanh gươm mũi sóc sáng ngời,
Máu tuôn thành bể thây phơi chật đồng.
Ngày nay tuyết phủ sương lồng,
Véo von giọng dế, não nùng tiếng quyên.
Nào người thẻ ngọc bài huyền,
Gia phong cửu tích, chưởng quyền tam công.
Tới lui kiệu phụng xe rồng,
Linh đình nghìn tứ, chập chồng muôn chung.
Ngày nay khói tỏa rêu phong,
Sớm soi gương thỏ, chiều dòm bóng ô.
Nào người trướng ngọc giường ngà,
Châu hài nghìn khách, kim thoa mấy hàng.
Ê chề hải vị sơn trân,
Thóc tiền hàng triệu, ngọc vàng dư muôn.
Ngày nay quạnh quẽ bên truông,
Bóng lau âm ỉ tiếng người nỉ non.
Nào người gác tía lầu hồng,
Tay tiên đơm ngọc gót sen rải vàng.
Mái mây rẽ ngút mai trang,
Phấn tô vóc liễu gấm choàng mình mai.
Ngày nay một nhúm mộ lài,
Vỉ lau hiu hắt mấy ai tưởng tình!
Nào người đổ nước nghiêng thành,
Sóng xao biển bạc, gương nhìn non xuân.
Bóng Nga nhẹ tách Quảng Hàn,
Lừ đừ cá ngắm, rập ràng nhạn sa.
Ngày nay biềm sắn giắt gia,
Líu lo chim hót rườm rà cỏ đơm.
Âu sầu nắng sớm mưa hôm,
Nào ai hương khói dưng đơm ít nhiều.
Quạnh hiu hiu quạnh đến điều,
Thê thê thảm thảm chín chiều bâng khuâng.
Xót thay cho lẽ tuần hoàn,
Còn còn mất mất xoay vần như xe.
Gẫm đường sống thác mà ghê,
Sớm sanh chiều diệt ai dè vậy vay!
Hồi nào giao mặt bắt tay,
Ái ân dan díu những ngày bén duyên.
Bây giờ rẽ thúy chia quyên,
Bỗng dưng dương cảnh hoàng tuyền cách xa.
Hồi nào mẹ mẹ cha cha,
Ngày nay một nắm cỏ hoa dãi dầu.
Ôi thôi nghĩa nặng cù lao,
Ơn sâu thăm thẳm trời cao khôn cùng.
Hồi nào cháu cháu ông ông,
Ngày nay phân cách xa trông biệt ngàn.
Chạnh niềm cây cội nước nguồn,
Ðã đành u hiển hai đường lạnh tanh.
Hồi nào như lá liền cành,
Ngày nay cốt nhục tan tành rụng rơi.
Ngẩn ngơ chiếc nhạn bên trời,
Tích linh lịu dịu rã rời bơ vơ!
Hồi nào điểm cúc vây cơ,
Ngày nay nước chảy hửng hờ non cao.
Bâng khuâng mai úa liễu xàu,
Gương treo bóng xế mây rào vườn xuân.
Than ôi cuộc thế xoay vần,
Hợp tan tan hợp mấy lần từ xưa.
Than ôi tạo hóa khéo lừa,
Bày chi cái chết không chừa một ai?
Than ôi giấc mộng muôn đời,
Biết bao nhiêu khách dạ đài say vui.
Hỡi vong ôi! Hỡi hồn ôi!
Bao nhiêu nợ thế trả rồi thế thôi!
Rửa lòng cho sạch trần ai,
Lưỡi câu dục lạc, miếng mồi lợi danh.
Tránh xa cái cửa tử sanh,
Thoát nơi tham ái, khỏi thành sân si.
Bước vào trong cửa từ bi,
Nương theo chơn Phật trở về Liên bang.
Khỏi đường sống chết xây lăn,
Khỏi điều khổ thống khỏi thân tội tình.
Liên bang là nước hóa sanh,
Có ao tám đức có sen bốn màu.
Có cây ngọc có lưới châu,
Có thành thất bảo có lầu thất trân.
Sáu thời thiên nhạc vang rân,
Màu hoa chói rạng mùi hương nực nồng.
Tốt thay thế giới vàng ròng,
Bảy hàng bửu thụ, chín trùng liên hoa.
Ðạo sư là Phật Di Ðà,
Mình vàng rực rỡ chói lòa hào quang.
Hằng ngày thuyết pháp rền vang,
Tiếp người niệm Phật dẫn đàng thiện duyên.
Hồn ôi hồn có linh thiêng,
Phát tâm niệm Phật mà nguyền vãng sanh.
Thành tâm phát một nguyện lành,
Hoa sen vàng đã nêu danh tánh rồi!
Căn lành cội phúc vun bồi,
Mượn thuyền lục độ để hồi hướng qua.
Mãn duyên sen nở một tòa,
Rước hồn có Phật Di Ðà phóng quang.
Muôn trùng bửu cái tràng phan,
Lư hương khói tòa sen vàng hoa đơm.
Hiện thân Thế Chí, Quan Âm,
Vô biên Bồ Tát thiên trùng Thánh Tăng.
Hồn ngồi trên tọa sen vàng,
Nhạc tâu hoa rải vinh quang ai tày.
Ðến nơi quỳ trước Liên đài,
Vâng lời thọ ký nghe bài pháp âm.
Nhiệm mầu Phật pháp cao thâm,
Linh quang sáng suốt chân tâm tỏ tường.
Dạo xem cảnh giới Tây phương,
Ðơm hoa Bát nhã xông hương ngũ phần.
Chói ngời cây ngọc lá vàng,
Mưa sa hoa báu gió đàn mành châu.
Bạch hạc trước, Khổng tước sau,
Ca lăng, Anh võ… chầu hầu nghiêm trang.
Kêu lên những tiếng dịu dàng,
Tám phần chánh đạo, bảy phần giác chi.
Thâm trầm những tiếng từ bi,
Nhiệm mầu không thể nghĩ suy luận bàn.
Nghe ra ai cũng phát tâm,
Nguyện sanh với bực thượng căn một nhà.
Mạn đà rải rác mưa sa,
Nhạc trời chập thổi diệu hòa rền vang.
Gió khua cội báu như đàn,
Ðồng thời in rập muôn phường nhạc tâu.
Những cây báu những lưới châu,
Những đài hổ phách những lầu ma ni.
Gác mã não, tọa lưu ly,
Chiên đàn trầm thủy xông nghi ngút mùi.
Mỗi tòa trên có mỗi ngôi,
Màu phù đàn, Hóa Phật ngồi nghiêm trang.
Mi gian phóng bạch hào quang,
Ðôi tròng trong trẻo mình vàng sáng trưng.
Chói ngoài tám vạn do tuần,
Mỗi tia lại có một vầng hoa sen.
Mỗi hoa một thế giới riêng,
Nước tên Cực Lạc, Phật tên Di Ðà.
Cũng hóa Phật cũng Liên tòa,
Cũng đồng thuyết pháp diệu hòa cao sâu.
Vô vi pháp Phật nhiệm mầu,
Hóa sanh cơm ngọc áo châu đủ mùi.
Rảnh rang hưởng sự rất vui,
Những điều ác thú, luân hồi vốn không.
Làu làu chân tánh sạch trong,
Tinh tường muôn kiếp tỏ thông ba đời.
Ngộ lòng thường trú không dời,
Bao trùm tất cả đất trời đại thiên.
Bấy giờ vận dụng phép huyền,
Từ chơn lại tục tùy duyên hiện hình.
Phân tâm tùy thuận chúng sanh,
Ra vào khắp cõi Khí, Tình thế gian.
Rải gieo hột giống sen vàng,
Cứu đời ác trược vớt đoàn trầm mê.

— Nguyên tác của Hòa Thượng Thái Không soạn, Hòa Thượng Khánh Anh chép lại trong “Phật hoá gia đình” trang 79-85. Nhà in Sao Mai ấn bản, Sài Gòn, 1951. Thư viện Phật học Xá Lợi tàng bản.
— Sao y nguyên văn, không có sửa đổi.

(*) Bài này nguyên đã có ở quyển I, bài số 46, tựa là Kệ Vô Thường. Tuy nhiên trong bài đó đã được người sau rút ngắn để làm bài sám thường tụng phổ thông. Ở đây sở dĩ biên giả cho đăng vào là có ý lấy đầy đủ tác phẩm, dài gấp 3 lần bài sám 46.