CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

Sa môn Đạo Nguyên đời Tống – biên soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 4

Tổ thứ 31: Đại sư Đạo Tín: (Tứ Tổ) bảng xuất đệ tử nối pháp 9 đời tổng công 6 vị.

Núi Ngưu Đầu Kim Lăng truyền 6 đời tổ tông:

Đời 1: Thiền sư Pháp Dung
Đời 2: Thiền sư Trí Nham
Đời 3: Thiền sư Tuệ Phương
Đời 4: Thiền sư Pháp Trì
Đời 5: Thiền sư Trí Oai
Đời 6: Thiền sư Tuệ Trung.
Sáu vị trên đây có ngữ lục
Sáu đời Tổ tông đệ tử nối pháp tổng công có 70 vị.

* Thiền sư Pháp Dung sau 3 đời bàng xuất mười hai vị là:
1. Thiền sư Đàm Thôi ở Chung Sơn Kim Lăng có một vị
2. Thiền sư ở Đại Tố Kinh Châu
3. Thiền sư Nguyệt Không ở U Thê
4. Thiền sư Đạo Diễn ở Bạch Mã
5. Thiền sư Đinh Trang ở Tân An
6. Thiền sư Trí Sai ở Bành Thành
7. Thiền sư Đạo Thọ ở Quảng Châu
8. Thiền sư Trí Sảng ở Hồ Châu
9. Thiền sư Đỗ Mặc ở Tân Châu
10. Thiền sư Trí Thành ở thượng Nguyên
11. Thiền sư Định Chân (Thiền Sư Trí Thành lưu xuất )
12. Thiền sư Như Độ (Thiền Sư Định Chân lưu xuất, 11 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)

* Thiền sư Trí Nham sau bàng xuất tám vị:
1. Thiền sư Kính Đàm ở Đông Đô
2. Thiền sư Chí Trường ở Tương Châu
3. Thiền sư Nghĩa Chân ở Hồ Châu
4. Thiền sư Doan Phục ở Ích Châu
5. Thiền sư Long Quang ở Qui Nhân
6. Thiền sư Biện Tài ở Tương Dương
7. Thiền sư Pháp Tuấn ở Hán Nam
8. Thiền sư Mẫn Cổ ở Tây Châu
(Tám vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú, cho nên không ghi chép)

* Thiền sư Pháp Trì sau 4 đời bàng xuất hai vị là:
1. Thiền sư Huyền Tố ở Ngưu Đầu.
2. Thiền sư Hoằng Nhân ở Thiên Trụ.

* Thiền sư Trí Oai sau 4 đời bàng xuất mười hai vị:
1. Huyền Đĩnh ở chùa An Quốc ở Tuyên Châu Thiền sư trí Oai lưu xuất 3 vị.
2. Thiền sư Huyền Tố ở chùa Hạc Lâm ở Nhuận Châu.
3. Thiền sư Sùng Tuệ ở chùa Thiên Trụ ở Thư châu.
4. Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn Hàng Châu (Thiền sư Huyền Tố lưu xuất).
5. Thiền sư Đạo Lâm Ô Sào ở Hàng Châu (Thiền sư đạo Khâm lưu xuất).
6. Thiền sư Hội Thông Chùa Chiêu Hiền ở Hàng Châu (Ô Sào bàng xuất 6 vị trên đây thấy có ghi chép).
7. Thiền Sư Bảo Quán ở Linh Nham (Thiền sư Trí oai lưu xuất)
8. Thiền sư Đàm Ích ở núi Kim Hoa (Thiền sư Huyền Tố bàng xuất 2 vị)
9. Thiền sư Viên Cảnh ơ Ngộ Môn
10. Thiền sư Ngộ ở núi Mộc Chữ (Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn bàng xuất 3 vị)
11. Thiền sư Quảng Phu ở Thanh Dương
12. Thiền sư Sùng Tuệ ở núi Cân Tử thuộc Hàng Châu. (6 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
Trên đây là bản cũ, thứ tự các đời không rõ ràng, nay đều dựa vào chương vốn có chú thích thêm đệ tử nối pháp cọng thành đời.

* Thiền sư Tuệ Trung sau 2 đời bàng xuất 36 vị (trừ ra Thiền sư Vân cư Trí ở Thiên thai và Thiền sư Thanh Nguyên Chùa Thê hà ở Nhuận Châu còn lại đều do Thiền sư Tuệ Trung lưu xuất:
a. Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên Thai.
b. Thiền sư Vân Cư Trí ở núi Thiên Thai (Thiền sư Duy Tắc lưu xuất, 2 vị trên đây thấy có ghi chép).
1. Thiền sư Đạo Tánh ở núi Ngưu Đầu.
2. Thiền sư Trí Đăng ở Giang Ninh.
3. Thiền sư Hoài Tín ở Giải Huyện.
4. Thiền sư Toàn ở Học Lâm.
5. Thiền sư Hoài Cổ ở Bắc Sơn.
6. Thiền sư Quán Tông ở Minh Châu .
7. Thiền sư Đại Trí ở núi Ngưu Đầu
8. Thiền sư Thiện Đạo ở Bạch Mã
9. Thiền sư Trí Chân ở núi Ngưu Đầu
10. Thiền sư Đàm Ngung ở núi Ngưu Đầu
11. Thiền sư Vân Thao ở núi Ngưu Đầu
12. Thiền sư Ngưng nở núi Ngưu Đầu
13. Thiền sư Pháp Lương ở núi Ngưu Đầu
14. Thiền sư Hành Ứng ở Giang Ninh
15. Thiền sư Tuệ Lương ở núi Ngưu Đầu
16. Thiền sư Đạo Dung ở Hưng Thiện
17. Thiền sư Chiếu Minh ở Tưởng Sơn
18. Thiền sư Pháp Đăng ở núi Ngưu Đầu
19. Thiền sư Định không ở núi Ngưu Đầu
20. Thiền sư Tuệ Thiệp ở núi Ngưu Đầu
21. Thiền sư Đạo Ngộ ở U Thê
22. Thiền sư Ngưng Không ở núi Ngưu Đầu
23. Thiền sư Đạo Sơ ở Tưởng Sơn
24. Thiền sư U Thê Tạng
25. Thiền sư Linh Huy ở núi Ngưu Đầu
26. Thiền sư Đạo Dĩnh ở U Thê
27. Thiền sư Cư Anh ở núi Ngưu Đầu
28. Thiền sư Pháp Thường ở Thích Sơn
29. Thiền sư Ngưng Tịch ở Long Môn
30. Thiền sư Trang Nghiêm Viễn
31. Thiền sư Đạo Kiên ở Tương Châu
32. Ni Minh Ngộ.
33. Cư sĩ Ân Tịnh Kỷ.
34. Thiền sư Thanh Nguyên chùaThê Hà ở Nhuận Châu (Tuệ Thiệp lưu xuất, 3 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)

Tổ thứ 32: Đại sư Hoằng Nhẫn truyền năm đời bàng xuất một trăm lẻ bảy vị:

* Đời thứ nhất có mười ba vị:
1. Thiền sư Thần Tú Bắc Tông
2. Quốc Sư Tuệ An Tung Nhạc
3. Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn Viên Châu (3 người trên đây có ghi chép)
4. Thiền sư Đàm Quang chùa Phụng Pháp ở Dương Châu
5. Thiền sư Thiền Tháo ở Tùy Châu
6. Thiền sư Pháp Trì ở Kim Châu
7. Thiền sư Trí Sằn ở Tư Châu
8. Thiền sư Pháp Chiếu ở Thư Châu
9. Thiền sư Nghĩa Phương ở Việt Châu
10. Thiền sư Đạo Tuấn ở Chi Giang
11. Thiền sư Huyền Trách ở Thường Châu
12. Thiền sư Tăng Đạt ở Việt Châu
13. Lưu Chủ Bộ ở núi Bạch Tông (mười vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép).

* Đời thứ hai có ba mươi bảy:
– Thiền sư Thần Tú Bắc Tông có mười chín vị:
1. Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ Đài
2. Thiền sư Trí Phong ở Trung Điền thuộc Phủ Hà Trung
3. Thiền sư Hàng Ma Tạng ở Duyên Châu
4. Thiền sư Đạo thọ ở Thọ Châu
5. Thiền sư Toàn Thực ở núi Đô Lương thuộc Hoài Nam ( vị trên đây thấy có ghi chép)
6. Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu
7. Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn
8. Thiền sư Sơn Hương Dục ở Đại Phật
9. Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây Kinh
10. Thiền sư Hốt Lôi Trừng
11. Thiền sư Đông Kinh Nhật
12. Thiền sư Biến Tịnh ở Thái Nguyên
13. Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc
14. Thiền sư Đỗ ở Nhữ Nam
15. Thiền sư Kính ở Tung Sơn
16. Thiền sư Tiểu Phước ở Kinh Triệu
17. Thiền sư Quán ở Quắc Sơn Phổ Châu
18. Thiền sư Sùng Khuê ở Mâu Sơn Nhuận Châu
19. Thiền sư Hoài Không ở An Lục (mười bốn vị trên đây không ó cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép).

– Quốc sư Tuệ An ở Tụng Nhạc có mười tám vị:
1. Thiền sư Nhân Kiệm Chùa Phước Tiên ở Lạc Kinh (Quốc sư Tuệ An lưu xuất 6 vị).
2. Hòa-thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc
3. Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc
4. Thiền sư Thản Nhiên ở Thường Sơn
5. Thiền sư Viên Tịch ở Nghiệp Đô
6. Thiền sư Đạo Lượng ở Tây Kinh
7. Đại Tổng Quản Lý Hiếu Dật ở Dương Châu (Thiền sư Đạo Lượng bàng xuất vị)
8. Công Bộ Thượng Thư Trương Tích
9. Quốc Tử Tế Tửu Thôi Dung
10. Bí Thư Giám Hạ Tri Chương
11. Thứ Sử Khang Sằn ở Mục Châu
12. Thiền sư Chánh Thọ (Thiền sư Thần Tháo ở Tùy Châu lưu xuất)
13. Thiền sư Sùng Tịch ở Hồng Châu (Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn lưu xuất 3 vị)
14. Thiền sư Hoài ở Giang Tây
15. Thiền sư Thần Trinh ở Phủ Châu
16. Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu (Thiền sư Trí sằn ở Tư Châu lưu xuất)
17. Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa Hưng (Thiền sư Huyền Trách lưu xuất 2 vị)
18. Thiền sư Sướng ở Hồ Châu (1 người này không có Ngữ lục).

* Đời thứ ba: Có bốn mươi chín vị.

– Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu có ba vị Đệ tử nối pháp:

1. Thiền sư Huyền Tông ở Tử Kim
2.Thiền sư Xa ở núi Đại Mai thuộc Minh Châu
3. Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới (ba vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép)
– Thiền sư Phổ Tịch ở Tung sơn có 46 vị đệ tử nối pháp:
1. Duy Chánh ở núi Chung Nam (Thiền sư Phổ Tịch lưu xuất 2 vị, một vị thấy có ghi chép).
2. Thiền sư Tuệ Không ở Quảng Phước
3. Thiền sư Thường Việt
4. Thiền sư Giáp ở núi Thạch Tương Châu
5. Thiền sư Minh Tán
6. Thiền sư Chân ở chùa Kính Ái
7. Thiền sư Thủ Hiền ở Duyễn Châu .
8. Thiền sư Thạch Tạng ở Định Châu
9. Thiền sư Trừng Tâm ở Nam Nhạc
10. Thiền sư Nhựt Chiếu ở Nam Nhạc
11. Thiền sư Cán chùa Đồng Đức ở Lạc Kinh
12. Thiền sư Tô Châu Chân Lượng
13. Thiền sư Duệ ở chùa Ngõa Quang
14. Thiền sư Pháp Dung ở Dặc Dương
15. Thiền sư Diễn ở Quảng Lăng
16. Thiền sư Tuệ Không ở Thiểm Châu
17. Thiền sư Chân Lượng ở Lạc Kinh
18. Thiền sư Hằng Nguyệt ở Trạch Châu
19. Thiền sư Đàm Chân ở bặc Châu
20. Thiền sư Sùng Diễn ở núi Đô Lương
21. Thiền sư Tự Trừng chùa Chương Kính ở Kinh Triệu
22. Thiền sư Tung Dương Tự Nhất Hạnh .
23. Thiền sư chùa Bắc Dung ở Kinh Triệu
24. Cư sĩ Định Đào Đinh ở Tào Châu.

– Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây kinh có tám vị:
1. Thiền sư Đại Hùng Mãnh
2. Thiền sư Đại chấn-động ở Tây Kinh
3. Thiền sư Thần Phỉ
4. Thiền sư Đại Bi Quang ở Tây Kinh
5. Thiền sư Đại Ẩn ở Tây Kinh
6. Thiền sư Định Cảnh .
7. Thiền sư Đạo Bá
8. Thiền sư Huyền Chứng

– Thiền sư Hàng Ma Tạng lưu xuất ba vị:
1. Thiền sư Tịch Mãn ở Tây Kinh
2. Thiền sư Định Trang ở Tây Kinh
3. Thiền sư Nam Nhạc Tuệ Ẩn .

– Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc lưu xuất một vị: Thiền sư
1. Thần Chiếu

– Thiền sư Tiểu Phước lưu xuất ba vị:
1. Thiền sư Thâm Tịch ở Lam Điền-Kinh Triệu
2. Thiền sư Nhật Một Vân ở núi Thái Bạch
3. Thiền sư Pháp Siêu ở núi Đông Bạch

– Thiền sư Quán ở Hoắc sơn lưu suất một vị Thiền sư U ở Hiện Sơn

– Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu lưu xuất bốn vị:
1. Thiền Sư Vô Tướng ở Ích Châu
2. Thiền sư Mã ở núi Trường Tùng-Ích Châu
3. Thiền sư Siêu
4. Thiền sư Hiểu Liễu ở Tử Châu
Thiền sư Phỉ ở nghĩa Hưng lưu xuất hai vị
1. Thiền sư Trí Dư ở Tây Kinh
2. Thiền sư Trí Thâm ở Đông Đô
(Cả bốn mươi lăm vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú, cho nên không ghi chép).

* Đời thứ tư: Có bảy vị.

– Thiền sư Duy Chánh ở Hưng Thiện có hai vị đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Định Tâm ở Hàng Châu
2. Thiền sư Chí Chân ở Kính Ai (2 vị trên đây không có cơ duyênngữ cú, cho nên không ghi chép)

– Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu có năm vị Đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Vô ở chùa Bảo Đường ở Ích Châu (Thiền sư Vô Tướng lưu xuất vị, một vị thấy có ghi chép)
2. Thiền sư Dung ở núi Kinh Châu Minh Nguyệt
3. Vương Đầu Đà ở núi Vân Đảnh Hán Châu
4. Thiền sư Thần Hội chùa Tịnh Chúng ở Ích Châu.
5. Thiền sư Võ Giới ( Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới lưu xuất, vị trên đây không có cơ duyên ngữ cú, cho nên không ghi chép.

* Đời thứ năm: Có một vị
Thiền sư Chí Chân ở chùa Kính Ái có một vị đệ tử nối pháp

MỤC LỤC 2

Tổ thứ 31: Đại sư Đạo Tín có đệ tử nối pháp tổng cọng 13 vị, trong đó có 6 vị bàng xuất.
Núi Ngưu Đầu-Kim lăng có 6 đời tổ tông thấy ghi lục:
Đời thứ nhất: Thiền sư Pháp Dung
Đời thứ hai: Thiền sư Trí Nham
Đời thứ ba: Thiền sư Tuệ Phương
Đời thứ tư: Thiền sư Pháp trì
Đời thứ năm: Thiền sư Trí Oai
Đời thứ sáu: Thiền sư Tuệ Trung.
Tổ tông 6 đời trước có đệ tử nối pháp tổng cọng 80 vị.
Thiền sư Pháp Dung sau 3 đời bàng xuất 12 vị (một vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Đàm Thôi ở Chung Sơn-Kim lăng
Thiền sư Đại Tố ở Kinh Châu
Thiền sư Nguyệt không ở U Thê
Thiền sư Đạo Diễn ở Bạch Mã
Thiền sư Định Trang ở Tân An
Thiền sư Trí sai ở Bành Thành
Thiền sư Đạo Thọ ở Quảng Châu
Thiền sư Trí Sảng ở Hồ Châu
Thiền sư đỗ Mặc ở Tân Châu
Thiền sư Trí Thành ở Thượng Nguyên – Trí Thành lại lưu xuất một vị: Thiền sư Định Chân. Định Chân lại lưu xuất một vị: Thiền sư Như Độ
(11 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)

– Thiền sư Trí Nham sau bàng xuất: Thiền sư Kính Đàm ở Đông Đô
Thiền sư Chí Trường ở Tương Châu
Thiền sư Nghĩa Chân ở Hồ Châu
Thiền sư Đoan Phục ở ích Châu
Thiền sư Quy Nhân ở Long Quang
Thiền sư Biện Tài ở Tương Dương Thiền sư Pháp Tuấn ở Hán Nam Thiền sư Mẫn Cổ ở Tây Xuyên.
( vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

– Thiền sư Pháp Trì sau bàng xuất:
Thiền sư Huyền Tố ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Hoằng Nhân ở núi Thiên Trụ
(2 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)

– Thiền sư Trí oai sau 3 đời bàng xuất 12 vị (6 vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Huyền Đĩnh chùa An Quốc ở Tuyên Châu
Thiền sư Huyền Tố Chùa Hạc lâm ở Nhuận Châu
Thiền sư sùng Tuệ núi Thiên Trụ ở Thư Châu
Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn-Hàng Châu
Thiền sư Đạo Lâm-Ô Sào ở Hàng Châu
Thiền sư Hội Thông Chùa Chiêu Hiền ở Hàng Châu.
Huyền Tố lại lưu xuất 2 vị:
1. Thiền sư đàm ích ở Kim Hoa
2. Thiền sư Viên Cảnh ở Ngô Môn Đạo Khâm lại lưu xuất 3 vị:
a. Thiền sư Ngộ ở núi Mộc Chữ
b. Thiền sư Quảng Phu ở Thanh Dương
c. Thiền sư Sùng Tuệ núi Trung Tử ở Hàng Châu
Đạo Lâm lại lưu xuất một vị: Thiền sư Bảo Quán ở Linh Nham (6 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
– Thiền sư Tuệ Trung sau 2 đời bàng xuất 36 vị (2 vị thấy có ghi lục):
Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên (bàng xuất vân cư ở Thiên Thai).
Thiền sư Vân Cư Trí ở núi Thiên Thai
Thiền sư Đạo Tánh ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Trí Đăng ở Giang Ninh
Thiền sư Hoài Tín ở Giải Huyện
Thiền sư Toàn ở hạc Lâm
Thiền sư Hoài Cổ ở Bắc sơn
Thiền sư Quán Tông ở Minh Châu
Thiền sư Đại Trí ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Thiện Đạo ở Bạch Mã
Thiền sư Trí Chân ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đàm ngung ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Vân Thao ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Ngưng ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Pháp Lương ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Hành Ứng ở Giang Ninh
Thiền sư Huệ Lương ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Dung ở Hưng Thiện
Thiền sư Chiếu Minh ở Tưởng Sơn
Thiền sư Pháp Đăng ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Định Không ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Tuệ Thiệp ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Ngộ ở U Thê
Thiền sư Ngưng Không ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Sơ ở Tưởng Sơn
Thiền sư Tạng ở U Thê
Thiền sư Linh Huy ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Đạo Dĩnh ở U Thê
Thiền sư Cự Anh ở núi Ngưu Đầu
Thiền sư Pháp Thường ở Thích Sơn
Thiền sư Ngưng Tịch ở Long Môn
Thiền sư Trang Nghiêm Viễn Thiền sư Đạo Kiên ở Tương Châu.
Ni Minh Ngộ
Cư sĩ Ân Tịnh kỷ.
Tuệ Thiệp trước đây lại lưu xuất một vị: Thiền sư Thanh Nguyên Chùa Thê Hà ở Nhuận Châu.
(3 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).
Tổ thứ 32: Đại sư Hoằng Nhẫn truyền đời bàng xuất 10 vị:
Đời thứ nhất có 13 vị (3 vị thấy có ghi lục): Thiền sư Thần Tú ở Bắc Tông Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc.
Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn-Viên Châu
Thiền sư Đàm Quang Chùa Phụng Pháp ở Dương Châu
Thiền sư Thiền Tháo ở Tùy Châu.
Thiền sư Pháp Trì ở Kim Châu
Thiền sư Trí Sằn ở Tư Châu
Thiền sư Pháp Chiếu ở Thư Châu
Thiền sư Nghĩa Phương ở Việt Châu
Thiền sư Đạo Tuấn ở Chi Giang
Thiền sư Huyền Trách ở Thường Châu
Thiền sư Tăng Đạt ở Việt Châu.
Lưu Chủ Bộ ở núi Bạch Tùng.
(10 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

* Đời thứ hai có 37 vị:

– Thiền sư Thần Tú ở Bắc Tông có đệ tử nối pháp 19 vị ( vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ Đài
Thiền sư Trí Phong ở núi Trung Điều thuộc phủ Hà Trung.
Thiền sư Hàng Ma Tạng ở Duyễn Châu
Thiền sư Đạo Thọ ở Thọ Châu
Thiền sư Toàn Thực ở núi Đô Lương thuộc Hoài Nam.
Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu
Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn
Thiền sư Hương Dục ở núi Đại Phật
Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây Kinh
Thiền sư Hốt lôi Trừng
Thiền sư Đông Kinh Nhật
Thiền sư Biến Tịnh ở Thái Nguyên
Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc
Thiền sư Đỗ ở Nhữ Nam
Thiền sư Kính ở Tung Sơn
Thiền sư Tiểu Phước ở Kinh Triệu
Thiền sư Quán ở Hoắc Sơn-Phổ Châu
Thiền sư Sùng Khuê ở Mao Sơn-Nhuận Châu
Thiền sư Hoài Không ở An Lạc
(1 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục)

– Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc trước đây có đệ tử nối pháp 1 vị (3 vị thấy có ghi lục)
Thiền sư Nhân Kiệm chùa Phước Tiên ở Lạc Kinh.
Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc
Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc
Thiền sư Thản Nhiên ở Thường Sơn
Thiền sư Viên Tịch ở Nghiệp Đô Thiền sư Đạo Lượng ở Tây Kinh Đạo Lượng lại lưu xuất vị:
1. Đại Tổng Quản Lý Hiếu Dật ở Dương Châu
2. Công Bộ Thượng Thư Trương Tích
3. Quốc Tử Tế Tửu Thôi Dung
4. Bí Thư Giám Hạ Tri Chương
5. Thứ sử Khang Sằn ở Mục Châu.
6. Thiền sư Thiền Tháo ở Tùy Châu trước đây lại lưu xuất một vị:
1. Thiền sư Chánh Thọ

– Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn trước đây lại lưu xuất 3 vị:
1. Thiền sư Sùng Tịch ở Hồng Châu
2. Thiền sư Hoài ở Giang Tây
3. Thiền sư Thần Trinh ở Phủ Châu

– Thiền sư Trí Sằn ở Tư Châu trước đây lại lưu xuất một vị: Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu.

– Thiền sư Huyền Trách trước đây lại lưu xuất 2 vị:
1. Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa Hưng
2. Thiền sư Sướng ở Hồ Châu
(1 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

* Đời thứ ba có 49 vị:
– Thiền sư Từ Lãng ở Kinh Châu trước đây có đệ tử nối pháp:
1. Thiền sư Huyền Tông ở Tử Kim
2. Thiền sư Thường ở núi Đại Mai thuộc Minh Châu
3. Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới
(3 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

– Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn trước đây có đệ tử nối pháp 6 vị (một vị thấy có ghi lục).
Thiền sư Duy Chánh ở núi Chung Nam
Thiền sư Tuệ không ở Quảng Phước
Thiền sư Thường Việt
Thiền sư Tư ở núi Giáp Thạch-Tương Châu
Thiền sư Minh Toán
Thiền sư Chân ở Chùa Kính Ai
Thiền sư Thủ Hiền ở Duyễn Châu
Thiền sư Thạch Tạng ở Định Châu
Thiền sư Trừng Tâm ở Nam Nhạc
Thiền sư Nhật Chiếu ở Nam Nhạc
Thiền sư Cán Chùa Đồng Đức ở Lạc Kinh
Thiền sư Chân Lượng ở Tô Châu
Thiền sư Duệ ở Chùa Ngõa Quan
Thiền sư Pháp Dung ở Dặc Dương
Thiền sư Diễn ở Quảng Lăng
Thiền sư Tuệ Không ở Thiểm Châu
Thiền sư Chân Lượng ở Lạc Kinh
Thiền sư Hằng Nguyệt ở Trạch Châu
Thiền sư Đàm Chân ở Bặc Châu
Thiền sư Hằng Nguyệt ở Trạch Châu
Thiền sư Đàm Chân ở Bặc Chân
Thiền sư Sùng Diễn ở núi Đô Lương
Thiền sư Trừng chùa Chương Kính ở Kinh Triệu
Thiền sư Nhất Hành ở Chùa Tung Dương
Thiền sư Dung Chùa Sơn Bắc ở Kinh Triệu
Cư sĩ Định Đào Đinh ở Tấn Châu.

– Thiền sư Nghĩa Phước ở Tây Kinh trước đây lại lưu xuất vị:
Thiền sư Đại Hùng Mãnh
Thiền sư Đại Chấn Động ở Tây Kinh
Thiền sư Thần Phỉ
Thiền sư Đại Bi Quang ở Tây Kinh
Thiền sư Đại Ẩn ở Tây Kinh
Thiền sư Định Cảnh Thiền sư Đạo Bá
Thiền sư Huyền Chứng.

– Thiền sư Hàng Ma Tạng trước đây lại lưu xuất 3 vị:
Thiền sư Tịch Mãn ở Tây Kinh
Thiền sư Định Trang ở Tây Kinh
Thiền sư Tuệ An ở Nam Nhạc

– Thiền sư Nguyên Quán ở Nam Nhạc trước đây lại lưu xuất một vị:
Thiền sư Thần Chiếu.

– Thiền sư Tiểu Phước trước đây lại lưu xuất 3 vị:
Thiền sư Thâm Tịch ở Lâm Điền Kinh Triệu Thiền sư Nhật Một Vân ở núi Thái Bạch Thiền sư Pháp Siêu ở núi Đông Bạch.

– Thiền sư Quán ở Hoắc sơn trước đây lại lưu xuất một vị:
Thiền sư u ở Hiện Sơn

– Thiền sư Xử Tịch ở Tư Châu trước đây lại lưu xuất vị:
Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu
Thiền sư Mã ở núi Trường Tùng-Ích Châu Thiền sư Siêu.

– Thiền sư Thần Phỉ ở Nghĩa Hưng trước đây lại lưu xuất 2 vị:
Thiền sư Trí Du ở Tây Kinh
Thiền sư Trí Thâm ở Đông Đô
( vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục) * Đời thứ tư có vị:

– Thiền sư Duy Chánh ở Hưng Thiện trước đây có đệ tử nối pháp 2 vị:
Thiền sư Định Tâm ở Hoành Châu
Thiền sư Chí Chân ở Chùa Kính Ai
( 2 vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

– Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu trước đây có đệ tử nối pháp vị:
(Một vị không thấy có ghi lục)
Thiền sư Vô Trú Chùa Bảo Đường ở Ích Châu
Thiền sư Dung ở núi Minh Nguyệt-Kinh Châu
Vương Đầu Đà ở núi Vân đảnh-Hán Châu
Thiền sư Thần Hội Chùa tịnh Chúng ở Ích Châu.

– Thiền sư Thận Huy ở Chuyên Giới trước đây lại lưu xuất một vị:
Thiền sư Võ Giới
( vị trên đây không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

* Đời thứ năm có một vị:
– Thiền sư Chí Chân ở Chùa Kính Ai trước đây có đệ tử nối pháp.
Thiền sư Chiếu ở Tung sơn (không có cơ duyên-ngữ cú không ghi lục).

 

Tổ thứ 31: ĐẠI SƯ ĐẠO TÍN (4): về sau bàng xuất đệ tử nối pháp Núi Ngưu đầu-Kim lăng truyền 6 đời tổ tông.

– Đời thứ 1: Thiền sư Pháp Dung:

Người ở Diên Lăng, thuộc Nhuận Châu, họ Vi. Năm mười chín tuổi học thông kinh sử. Ngài tìm xem Đại Bộ Bát-Nhã hiểu rõ Chân không, Bỗng một hôm than rằng: Sách Nho ở đời là pháp không rốt ráo, Bát Nhã Chánh Quán là thuyền bè xuất thế. Bèn ẩn vào núi tìm thấy xuống tóc. Sau vào núi Ngưu Đầu Sơn, trụ trong hang đá ở phía Bắc chùa U Thê, có điều kỳ lạ là trăm chim ngậm hoa đến cúng dường. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, Tứ Tổ xa trông khí tượng thì biết núi ấy có dị nhân. Bèn địch thân đến tìm hỏi các vị tăng trong chùa rằng trong này có Đạo nhân nào chăng? Đáp có một người xuất gia nhưng không phải Đạo nhân. Tổ nói đó là Đạo nhân. Vị tăng không nói, vị khác bảo: Đi vào núi mười dặm có một người dáng khù khờ thấy người không đứng dậy cũng không chấp tay chẳng phải là Đạo nhân. Tổ vào núi gặp Sư, Sư ngồi yên chẳng đoái hoài. Tổ hỏi ở đây làm gì? Sư nói quán tâm. Tổ hỏi quán là ai? tâm là vật gì. Sư không nói mà đứng dậy đảnh lễ. Sư hỏi đại đức ở đâu? Tổ nói bần đạo chẳng quyết dừng nghỉ, hoặc Đông hoặc Tây Sư hỏi: Có biết Thiền sư Đạo Tín chăng? Đáp: Hỏi ông ấy làm gì?

Sư nói tiếng vang đạo đức đã lâu xa chỉ mong một lần lễ gặp. Tổ nói Thiền sư Đạo Tín là bần đạo đây. Sư hỏi: Sao lại đến đây. Tổ nói: Đến đây để thăm hỏi, ở đây không có chỗ nghỉ ngơi à? Sư chỉ sau lưng nói có một am nhỏ. Bèn dẫn Tổ về, quanh quẩn chỉ thấy loài con sói. Tổ tỏ vẻ sợ. Sư hỏi cũng có cái ấy ư? Tổ hỏi vừa thấy cái gì? Sư không đáp. Chốc sau Tổ viết một chữ Phật trên tảng đá mà Sư thường ngồi thiền. Sư nhìn kính sợ. Tổ hỏi cũng có cái ấy ư? Sư không hiểu bèn đảnh lễ xin nói chân yếu. Tổ nói trăm ngàn pháp môn đồng qui về gang tấc, hà sa diệu đức ở chung trong nguồn tâm. Tất cả Giới môn Đinh môn Tuệ môn thần thông biến hóa đều tự đầy đủ không lìa tâm ông, tất cả phiền não nghiệp chướng xưa nay vốn vắng lặng. Tất cả nhân quả đều như mộng huyễn, không có ba cõi để ra khỏi, không có Bồ đề để tìm cầu, người và chẳng phải người đều tánh tướng bình đẳng. Đại Đạo trống rộng dứt hết nghĩ ngợi. Pháp như thế nay ông đã được đều không thiếu sót, nào có khác gì với Phật, lại không có một pháp nào khác. Ông đã nhiệm vận tự tại, chẳng cần thực hành quán hạnh, cũng chẳng chứng tâm, không khởi tham sân, chẳng ôm sầu lo, thênh thang vô ngại mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, chẳng làm các điều ác, đi đứng nằm ngồi mắt thấy gặp duyên đều là diệu dụng của Phật thường vui vẻ không sầu lo, nên gọi là Phật. Sư nói tâm đã đầy đủ thì cái gì là Phật cái gì là Tâm? – Tổ nói: Chẳng phải tâm chẳng phải Phật. Hỏi Phật thì chẳng phải chẳng tâm. Sư nói đã chẳng cần thực hành quán hạnh thì khi cảnh khởi làm sao đối trị? Tổ nói: Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu là do tâm, nếu tâm không ranh giới tên gọi thì vọng tình từ đâu khởi lên. Vọng tình đã chẳng khởi thì chân tâm nhậm vận khắp biết. Ông chỉ theo tâm tự tại mà không cần đối trị, liền gọi là thường trụ pháp thân không có đổi khác. Ta nhận được pháp môn Đốn giáo của Đại sư Tăng Xán, nay giao lại cho ông, ông nay nhận kỹ lời ta nói, chỉ ở núi này, sau sẽ có năm vị thông đạt nối huyền hóa của ông – Tổ trao phó pháp rồi bèn trở về núi Song Phong mà ở đó đến già. Còn Sư từ đó giảng nói thịnh hành, trong niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường đồ chúng thiếu lương thực, Sư đến Đơn Dương hóa duyên, cách núi tám mươi dặm phải đội gánh một thạch tám đấu gạo, từ sáng đến tối nuôi ba trăm vị Tăng, mà hai thời khóa tụng không thiếu sót, suốt trong ba năm. Ấp Tể là Tiêu Nguyên Thiên, thỉnh sư về chùa Kiến Sơ giảng kinh Đại Bát Nhã, người nghe rất đông. Đến phẩm Diệt Tịnh thì mặt đất rúng chuyển bèn trở về núi. Bác Lăng Vương hỏi Sư rằng khi cảnh duyên sắc phát ra mà chẳng nói duyên sắc khởi thì làm sao biết được duyên mà muốn dứt khởi ấy? Sư đáp: Cảnh sắckhi mới phát, hai tánh sắc cảnh là không, vốn không biết duyên đó, tâm lượng cùng biết đồng, chiếu bổn phát chẳng phát, khi ấy khởi tự dứt, ôm ám sinh giác duyên, tâm sẽ không theo duyên, còn như lúc chưa sinh, sắc tâm không nuôi dưỡng, từ không vốn vô niệm, tưởng thọ nói niệm sinh, khởi pháp không hề khởi, đâu dùng lệnh Phật dạy?

– Hỏi rằng: Nhắm mắt chẳng thấy sắc, cảnh nghĩ lại càng nhiều, sắc đã không quan hệ đến tâm, cảnh từ đâu mà phát? Sư đáp: Nhắm mắt chẳng thấy sắc, trong tâm động nghĩ nhiều, huyễn thức giả thành dụng, khởi danh không hề lỗi, biết sắc chẳng quan tâm, tâm chẳng dính líu người, tùy hành có tướng chuyển, chim bay trong chân không.

– Hỏi rằng: Cảnh phát không nơi chốn, Duyên giác rõ biết sinh, cảnh mất giác còn chuyển, giác bèn biến thành cảnh, nếu dùng tâm kéo tâm, lại vì giác mà giác, theo nó từ từ đi, chẳng lìa cõi sinh diệt? Sư nói: Sắc tâm trước giữa sau thật không duyên khởi cảnh, một niệm tự ngưng mất, ai hay kể động tịnh. Tri (biết) này tự (không biết), biết hết duyên chẳng gặp, thường tự giữ bổn hình, đâu cần cầu cảnh ngoài. Cảnh trước chẳng đi mất, niệm sau nay không đến, tìm trăng cầm huyễn ảnh, bỏ dấu theo chim bay, muốn biết tâm bổn tánh, lại như thấy trong mộng, ví như băng tháng sáu chỗ chỗ đều giống nhau, lánh không trọn chẳng thoát, tìm không lại chẳng thành, mượn hỏi cảnh trong gương, tâm từ đâu sinh ra?

– Hỏi rằng: Khi vừa phải dụng tâm, mới (có) là tốt an ổn? Sư nói: Khi vừa phải dụng tâm, vừa phải không dụng tâm, nhọc luận bàn danh tướng, nói thẳng không phiền trọng, không dụng tâm vừa khớp, thường dùng không vừa khớp, lại nói không chỗ tâm, cũng không có tâm khác.

– Hỏi: Người trí dẫn lời mầu, thì cùng tâm gặp nhau nói khác nẻo với tâm, họp thì muôn lần trái nhau? Sư đáp: Phương tiện nói lời mầu, phá bịnh Đạo Đại thừa, không liên quan bản tánh, lại từ không hóa tạo vô niệm là chân thường, trọn phải dứt nẻo tâm, lìa niệm tánh không động, sinh diệt chẳng trái nhau, tiếng vang hay do tiếng, có ảnh bởi xem gương.

– Hỏi: Người tu thế cảnh có, nhờ giác biết cảnh mất trước giác và sau giác. Cảnh đều có ba tâm? Sư nói: Cảnh dùng chẳng phải thể giác, giác nghỉ chẳng nên lo, nhờ giác biết cảnh mất, khi giác cảnh chẳng khởi, trước giác và sau giác, cảnh đều có ba châm.

– Hỏi: Trú định đều chẳng chuyển, sắp là chánh Tam-muội, các nghiệp chẳng thể kéo, chẳng biết tế vô minh, từ từ đuổi theo sau? Sư đáp: Lại nghe có người khác, vọng chấp khởi tâm lương, việc trong ba không thành, chẳng chuyển lại luống dối, tâm là chánh thọ buộc hay là tịnh nghiệp chướng, tâm trần muôn phần một, chẳng hiểu nói vô minh, nhỏ nhặt tập nhân khởi, từ từ danh tướng sinh, gió thổi sóng liền động, muốn nước lại lặng yên, lại muốn nói đường trước, sợ hậu tâm kinh sợ. Vô niệm thú lớn gầm, tánh không dưới sương mai, sao tan dẹp cỏ dơ, ngang dọc chim bay lạc, năm đường định phân luận ma không tiến bước, đã như lửa dữ đốt, lại như kiếm bén chém.

– Hỏi: Nhờ giác biết muôn pháp, muôn pháp xưa nay thế, nếu giả chiếu dụng tâm, chỉ được chiếu sáng tâm, chẳng nên việc trong tâm? – Sư nói: Nhở giác biết muôn pháp, muôn pháp không hề nhờ, nếu giả chiếu dụng tâm, thì chẳng ở ngoài tâm.

– Hỏi: Tùy theo không chọn lựa, tâm minh chẳng hiện tiền, lại lo tâm đen tối, ở tâm dùng công hạnh, trí chướng lại khó dứt? Sư đáp: Có này chẳng thể có, tìm đây chẳng thể tìm, không chọn tức thật chọn, được tối sinh tâm minh, người lo tâm mê tối, giữ tâm nhờ công hạnh sao luận nạn trí chướng, đến Phật mới là bịnh.

– Hỏi: Chiết trung thì dứt hỏi thật cũng khó an vui, nếu chẳng phải người tu, nạn này rất khó thấy? Sư nói Chiết trung muốn tiêu dứt, tiêu dứt chẳng khó dễ, trước quán tâm ở tâm, kế suy trí trong trí, thứ ba chiếu suy ra, thứ tư chung vô ký, thứ năm gọi giải thoát, thứ sáu không chân ngụy, thứ bảy biết pháp bổn, thứ tám từ vô vi, thứ chín biết không ấm, thứ mười mây mưa khắp, rốt lại kia không giác, vô minh sinh Bổn trí, cảnh tượng hiện ba nghiệp, người huyễn hóa bốn nẽo, chẳng trụ ở không biên phải chiếu không trong có, trong có chẳng ngoài không, chưa ắt không có đủ, gọi đó là Chiết trung, Chiết trung không nói năng, yên vui không chỗ yên, dụng hạnh đâu có quyết?

– Hỏi: Riêng có một loại người, khéo hiểu không vô tướng, miệng nói Định Loạn một, lại nói không trong có, đồng chứng dụng thường tịch, hiểu biết dụng thường tịch, dụng tâm gặp chân lý, sau nói dụng vô dụng, trí tuệ phương tiện nhiều, lời nói hợp với lý, như như lý tự như, không do thức tâm hiểu. Đã biết tâm hiểu quấy, tâm tâm lại cùng mất, như thế khó biết pháp, không bao giờ biết được , đồng người dụng tâm này, pháp đều không thể hóa? – Sư nói: Có người riêng chứng không, lại như kệ trước nói, hành không giừ vắng lặng, thúc thấy chỉ tạm thời, hiểu chân là tâm lượng, chưa hề biết nguồn cội, lại nói dứt dụng tâm, nhiều trí nghi tương tự, bởi do tánh chẳng sáng, cầu không lại nhọc mình, nhiều kiếp ở thức tối, ôm nhau đều chẳng biết. Phát sáng liền động đất, ở đó muốn làm gì.

– Hỏi: Việc trước là khán tâm, lại có nạn lưới giăng? – Sư nói: Xem tâm có lưới giăng, huyễn tâm đâu đợi xem huống không có huyễn tâm ung dung mở miệng khó.

– Hỏi: Lâu có cơ nghiệp lớn, nẻo tâm khác lẫn nhau, hiểu được chướng vi tế, liền thấu suốt bờ chân. Nếu không phải thầy giỏi, không thể quyết lý này. Rất mong Đại sư con, vui lòng mở yếu môn, dẫn dắt người dụng tâm chẳng để mất chánh đạo – Sư đáp: Pháp tánh vốn cơ nghiệp, mong cảnh thành khác nhau, thân thật tướng nhỏ nhiệm, sắc tam thường chẳng ngộ. Bỗng gặp kẻ hỗn độn, buồn thương xót chúng sinh, giả nghi rộng hỏi han, trong ôm lý thường sáng, cắt ngang đường sinh tử, khen chê tâm chẳng động, lão già quê phân đáp, pháp tướng vẻ thẹn thùng, mong phát thuốc chúng sinh, lại làm như sắc tánh.

– Niên hiệu Hiển Khánh năm thứ nhất Ấp Tể là Tiêu Nguyên Thiện mời Sư xuống núi đến ở chùa Kiến Sơ, Sư tạ từ mãi không khỏi bèn khiến vào thất của Thượng Thủ Trí Nham trao phó cho pháp Ấn để thứ lớp truyền trao. Khi sắp xuống núi thì bảo chúng rằng: Ta chẳng còn trở về đây nữa đâu. Lúc đó chim thú buồn kêu thảm thiết cả tháng không ngưng. Trước am có bốn cây ngô Đồng lớn, giữa tháng mùa Hạ mà bỗng héo rụng. Năm sau Đinh Tỵ ngày 23 tháng giêng nhuận thì Sư tịch tại chùa Kiến Sơ, thọ sáu mươi bốn tuổi, hạ lạp . Ngày 2 thì chôn ở núi Kê Lũng, người đưa hơn cả vạn. Trong chỗ ở cũ tại núi Ngưu Đầu, nguồn vàng, suối Hổ gầm, suối Tích trượng, ao rùa vàng, nhà đá nơi sư ngồi tĩnh tọa hiện nay vẫn còn.

* Đời thứ 2: Thiền sư Trí Nham:

Người ở Khúc A, họ Hoa, khi tuổi trưởng thành thì trí dõng hơn người, thân cao bảy thước sáu tấc. Trong niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy làm Lang t ướng. Sư thường dùng cung mang một túi lọc nước đi đâu cũng dùng được. Sư nhiều lần theo Đại tướng đi chinh phạt có lập nhiều chiến công. Trong niên hiệu Võ Đức đời Đừơng, tuổi đã bốn mươi bèn xin xuất gia. Sư vào núi Hoãn Công ở Thư Châu làm đệ tử Thiền sư Bảo Nguyệt. Sau, một hôm ngồi yên thấy có vị Tăng thân cao hơn trượng thần sáng khí thanh bảo Sư rằng: Ông tám mươi đời xuất gia càng phải nên tinh tiến, nói xong liền biến mất. Ông từng ở trong hang nhập định, nước khe núi tràn ngập. Sư vẫn an nhiên bất động thì nước ấy tự rút. Có một thợ săn gặp Sư vì vậy đổi nghề tu thiện. Lại có hai người đồng quân trận xưa nghe ẩn vào núi bèn tìm đến gặp bảo Sư rằng: Lang tướng điên à sao lại ở đây. Đáp: rằng: Ta điên muốn (sắp) tỉnh còn các ông thì đang phát điên. Ưa thích thanh sắc dâm tham vinh nhục thì thường trôi lăn trong sinh tử biết khi nào thoát ra, 2 người cảm ngộ than thở tự rút lui. Niên hiệu Trình Quán năm thứ mười bảy ông trở về Kiến Nghiệp vào ở núi Ngưu Đầu, gặp Thiền sư Dung mà phát minh việc lớn. Thiền sư bảo Sư rằng: Ta nhận được chân quyết của Đại sư Tín, chỗ được đều mất, nếu có một pháp hơn Niết-bàn ta nói cũng như mộng huyễn. Một hạt bụi bay mà che mù cả trời, một hạt cải rơi mà phủ khắp đất, nay ông đã bỏ qua thấy này thì ta biết làm sao. Tất cả sơn môn hóa đạo sẽ giao lại cho ông. Sư bèn lãnh lịnh làm Tổ đời thứ hai. Sau đem chánh pháp được giao lại cho Thiền sư Phương, ở tại hai Chùa Bạch Mã và Thê Huyền. Lại dời về ở thành Thạch Đầu, vào ngày 10 tháng giêng năm nghi Phụng thứ 2 thời nhà Đường thì thị tịch, nhan sắc không đổi co duỗi như còn sống. Trong thất có mùi thơm lạ suốt cả tuần không tan. Sư căn dặn là thủy táng, thọ bảy mươi tám tuổi, tuổi lạp ba mươi chín.

* Đời thứ 3: Thiền sư Tuệ Phương:

Người ở Diên Lăng thuộc Nhuận Châu, họ Bộc, vào chùa Khai Thiện xuất gia và thọ giới cụ túc, thông suốt kinh luận. Sau đến núi Ngưu Đầu gặp Thiền sư Nham học hỏi bí yếu. Nham quán xét căn khí của Sư có thể đảm nhận chánh pháp bèn chỉ bày Tâm Ấn, Sư rỗng sáng lãnh ngộ. Do đó không ra khỏi rừng núi suốt mười năm, người học từ bốn phương đến đông như mây ùn. Một hôm Sư bảo chúng rằng: Ta muốn đi nơi khác tùy cơ lợi vật, còn các ông hãy nên tự lo. Bèn giao phó chánh pháp cho Thiền sư pháp trì. Bèn đến ở Mao Sơn suốt mấy năm khi sắp mất thấy có năm trăm người râu tóc đều có dáng vẽ như Bồ tát, đều cầm phướn đẹp bảo rằng: Mời Pháp sư giảng kinh. Lại cảm được thần núi hiện thành thân rắn to đến trước sân như sắp khóc mà từ biệt. Sư bảo Thị giả là Hồng Đạo rằng: Ta sắp đi đây. Ông vì ta báo cho các môn nhân, khi môn nhân đến thì sư đã tịch. Lúc đó là ngày mồng 1 tháng niên hiệu Thiên Sách năm thứ nhất thời nhà Đường. Núi rừng bạc trắng, khe suối ngưng chảy suốt bảy ngày, đạo tục khóc than tiếng động núi rừng. Sư thọ sáu mươi bảy, tuổi lạp bốn mươi.

* Đời thứ 4: Thiền sư Pháp Trì:

Người ở Giang Ninh thuộc Nhuận Châu, họ Trương. Tuổi nhỏ xuất gia. Năm ba mươi tuổi đền trong pháp hội của Đại sư Hoằng Nhẫn ở Huỳnh Mai nghe pháp mà tâm khai. Sau lại được Thiền sư Ngộ Phương ấn khả. Bèn nối dấu sơn môn làm tông tổ ở Ngưu Đầu. Khi ngài Huỳnh Mai tạ thế thì bảo đệ tử là Huyền Trách rằng: Sau có mười vị sẽ truyền pháp ta mà Pháp Trì ở Kim Lăng là một. Sau giao phó pháp Nhãn cho Thiền sư Trí Oai. Vào ngày mồng tháng 9 niên hiệu Trường An năm thứ hai đời Đường Sư thị tịch tại Viên Vô Thường chùa Diên Tô ở Kim Lăng. Di chúc khiến để bày hài cốt dưới cội thông để nuôi chim thú. Ngày đưa thi hài ra giữa hư không có Thần cầm phướn từ phía Tây đi đến nhiễu quanh núi mấy vòng. Chỗ ở tre trúc đều bạc trắng suốt bảy ngày mới ngưng sư thọ sáu mươi tám tuổi, tuổi lạp bốn mươi mốt.

* Đời thứ 5: Thiền sư Trí Oai:

Người ở Giang Ninh, họ Trần, trụ ở núi Nghinh Thanh. Mới đến tuổi tóc để trái đào, bỗng một hôm không thấy trong nhà, chẳng ai biết đi đâu. Đến khi. Cha mẹ hỏi tìm mới biết đã nương Pháp sư Thống ở chùa Thiên Bảo mà xuất gia, năm ba mươi tuổi thọ Giới cụ túc. Sau nghe Thiền sư Pháp Trì ra đời bèn đến lạy gặp và được trao truyền chánh pháp. Từ đó học chúng ở Giang Tả đều đến, trong đó có Tuệ Trung được xem là pháp khí, Sư có nêu kệ rằng:

Chớ phiền niệm niệm
Thành sông sinh tử
Biển luân hồi sáu đường
Chẳng thấy nổi sóng cao

Tuệ Trung đáp kệ rằng:

Niệm tưởng từ huyễn đến
Tánh vốn không đầu cuối
Nếu được ý ở đây
Sóng dài phải tự dừng.
Sư tiếp kệ rằng:
Bổn tánh ta hư vô
Duyên vọng sinh nhân ngã
Làm sao dứt vọng tình
Lại về ngồi chỗ không.

Tuệ Trung đáp kệ:

Hư vô là thật thể
Nhân ngã đâu lại còn
Vọng tình không cần dứt
Tức ngồi thuyền Bát-Nhã.

Sư biết người này đã liễu ngộ bèn trao cho Sơn môn rồi tùy duyên hóa độ. Ngày 1 tháng 2 niên hiệu Khai Nguyên năm thứ mười bảy đời đường thì tịch tại chùa Diên Tộ. Khi sắp tịch bảo đệ tử hãy đem thây vào rừng thí cho chim thú, hưởng thọ bảy mươi bảy tuổi.

– Đời thứ 6: Thiền sư Tuệ Trung:

Người ở thượng Nguyên thuộc Nhuận Châu, họ Vương. Năm hai mươi ba tuổi thọ nghiệp ở chùa Trang nghiêm. Sau nghe Thiền sư Trí Oai ra đời bèn đến yết kiến. Oai vừa thấy liền bảo: Chủ núi đến. Sư cảm ngộ ý chỉ sâu kín bèn cho làm thị giả. Sau từ biệt đến lễ các nơi khác. Oai trụ ở viện cụ Giới thấy dây lăng tiêu mùa hạ mà héo, người muốn chặt bỏ. Do đó bảo rằng: Chớ chặt. Tuệ Trung trở về thì cây này sống lại. Lúc ấy Sư về thì quả nhiên đúng như lời nói. Bèn giao cho sơn môn, rồi ra ở chùa Diên Tộ. Sư (Tuệ Trung) bình sinh chỉ dùng 1 áo nạp và 1 bình bát từng cúng hai kho lúa nuôi Tăng. Kẻ trộm rình thì có hổ giữ kho. Huyện lệnh là Trương Tốn đến núi đảnh lễ hỏi Sư có đồ đệ nào không? Sư nói có ba mươi lăm người. Tốn hỏi làm sao được gặp? Sư gõ vào giường thiền thì có ba con hổ gầm rống chạy ra. Tốn kinh hãi lui về. Sau chúng thỉnh sư trở về chùa cũ Trang Nghiêm. Sư muốn xây pháp đường ở phía Đông điện. Trước có cây cổ thụ bầy chim khách làm tổ trên đó, thợ sắp đốn. Sư bảo chim rằng: Đất này nay xây pháp đường, sao các ngươi không sớm bay đi. Nói xong thì bầy chim khách dời tổ sang cây khác. Lúc mới xây cất có hai thần định bốn góc lại ngầm giúp việc ban đêm nên chẳng mấy ngày thì xong. Do đó học đồ bốn phương nhóm về, người được pháp có đến ba mươi bốn vị, đều ở một phương khác mà độ nhiều chúng. Sư từng có kệ an tâm dạy chúng rằng:

Nhân pháp đều dứt
Thiện ác cùng quên
Chân tâm chân thật
Đạo tràng Bồ đề.

Niên hiệu Đại Lịch ba năm thứ ba đời Đường, trước thạch thất treo nồi, trên cây treo áo mùa hạ cây bị chết khô. Ngày rằm tháng 6 năm Đại Lịch thứ tư, Sư nhóm chúng Bồ tát xong thì sai thị giả cạo tóc rửa mình. Giữa đêm có mây lành che trên tinh xá, trên hư không có tiếng nhạc trời Ngài hỏi sáng chưa? rồi ngồi mà hóa. Lúc đó, mưa to gió lớn thổi gãy cây trong rừng, lại có cái mống trắng vắt ngang qua núi, mùa Xuân niên hiệu Đại Lịch năm thứ năm làm lễ trà-tỳ, Xá-lợi thu được vô số, thọ tám mươi bảy tuổi.

Thiền Sư Pháp Dung trước đây có ba đời bàng xuất đệ tử nối pháp.

Thiền sư Đàm Thôi trụ ở Chung Sơn thuộc Kim Lăng.

Người ở Ngô Quận, họ Cố. Lúc đầu đến yết kiến đại sư Pháp Dung ở Ngưu Đầu. Đại sư nhìn thấy cho là kỳ lạ, bảo rằng: Sắc thanh là rượu độc của vô sinh thọ tưởng là hầm bẫy của bậc chí nhân, ông có biết chăng. Sư làm thinh mà xét thì Đại Ngộ Huyền Chỉ. Liền ẩn dấu ở Chung Sơn suốt trong nhiều năm. Cất am tranh ở Ngõa Phủ để ở đến hết đời. Ngày mồng 06 tháng 02 niên hiệu Thiên Thọ năm thứ 3 đời

Đường, Sư điềm nhiên nhập định bảy ngày mà tịch, thọ sáu mươi hai tuổi.

Thiền sư Trí Oai trước đây có ba đời bàng xuất đệ tử nối pháp Thiền sư Huyền Đĩnh ở chùa An quốc ở Tuyên Châu:

Không biết người ở đâu, đã từng vào một ngày ở Trường An đến giảng kinh Hoa Nghiêm, có một vị Tăng đến hỏi Ngũ Tổ rằng: Chân tánh duyên khởi nghĩa ấy thế nào? Tổ im lặng. Lúc đó Sư đứng hầu một bên mới nói rằng: Này Đại đức, chính lúc khởi một niệm hỏi ấy là trong chân tánh duyên khởi. Vị tăng sau lời nói liền đại ngộ. Lại có người hỏi Nam tông từ đâu mà lập? Sư đáp Tâm tông chẳng có Nam Bắc.

* Thiền sư Huyền Tố ở Hạc Lâm Nhuận Châu:

Người ở Diên Lăng thuộc Nhuận Châu, họ Mã. Trong niên hiệu Như Ý đời Đường Sư thọ nghiệp tại chùa Trường Thọ ở Giang Ninh. Về già tham kiến ngài Trí Oai Thiền sư bèn ngộ Chân tông. Sau chùa Hạc Lâm tại Kinh Khẩu. Một hôm có người đồ tể đến gặp Sư mời về nhà cúng dường. Sư vui vẻ đến nơi. Chúng đều nghi ngờ, Sư bảo: Phật tánh bình đẳng hiền ngu như nhau nhưng người đáng được độ thì ta liền đến độ, đâu có gì khác nhau. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là ý từ Tây Trúc đến. Sư nói hiểu tức chẳng hiểu, nghi tức chẳng nghi. Sư lại nói: Chẳng hiểu thì chẳng nghi, chẳng nghi thì chẳng hiểu. Lại có vị Tăng gõ cửa, Sư hỏi: Ai đấy? Đáp: Là Tăng. Sư nói: Chẳng phải chỉ là tTăng, Phật đến cũng không dính. Thưa: Phật đến sao không dính mắc Sư nói không có chỗ ông ghé nghỉ ngơi – Ngày 11 tháng 11 niên hiệu Thiên Bảo năm thứ mười một lúc nửa đêm, Sư không bịnh mà tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, xây tháp thờ ở núi Hoàng Hạc. Vua sắc chỉ ban thụy hiệu là Đại Tân Thiền sư, tháp hiệu Đại Hòa Bảo Hàng.

* Thiền sư Sùng Tuệ, ở núi Thiên Trụ Thư Châu:

Người ở Bành Châu, họ Trần. Niên hiệu Càn Nguyên đời Đường lúc đầu Sư đến núi Thiên Trụ ở Thư Châu xây chùa. Niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất vua sắc ban hiệu là chùa Thiên Trụ. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Thiên trụ? Sư nói: Núi Chủ Bộ cao khó thấy mặt trời. Trước ngọn Ngọc cảnh dễ hiểu người.

– Hỏi: Khi Đạt-ma chưa đến xứ này thì có Phật pháp hay không? Sư đáp: Thời vị lai đã bỏ việc nay lấy gì sinh. Thưa rằng: Chẳng hiểu gì xin Sư giảng rõ. Sư nói: Vạn cổ bầu trời cao rộng, lúc nào cũng có gió trăng. Hồi lâu lại nói Xà-Lê hiểu chăng. Tự mình phần trên làm sao

sinh. Can hệ gì Đạt-ma kia đến hay chưa đến làm gì. Người khác đến rất giống ông thầy bói. Thấy ông chẳng hiểu cho ông một chùy mà phá tan lời văn kỳ quái). Vừa sinh lành dữ ở phần trên ông tất cả tự xem. Vị Tăng hỏi: Thế nào là người hiểu bói toán? Sư nói khi ông vừa ra khỏi cửa liền chẳng trúng. – Lại hỏi: Thế nào gia phong của Thiên trụ? Sư nói: Khi có mây trắng đến thì đóng cửa. Lại không có gió trăng bốn núi sông. Hỏi: Tăng chết rồi thì ở đâu? Sư nói: Núi Tiềm cao vót ngọn xanh rì, sông thư trăng sáng màu rực rỡ – Hỏi: Thế nào là Phật Đại Thông Trí Thắng? Sư nói: Nhiều kiếp đến nay không hề bít lấp chẳng phải Phật Đại Thông Trí Thắng thì là cái gì? – Hỏi: Vì sao Phật pháp chẳng hiện tiền? Sư nói: Chỉ vì ông không hiểu cho nên thành chẳng hiện tiền. Nếu ông hiểu rồi thì không có Phật Đạo để thành. – Hỏi: Thế nào là Đạo? Sư nói: Mây trắng tự che núi xanh, chim ong bay sân hoa – Hỏi: Từ trên các Thánh có nói năng gì? Sư nói: Nay Ông thấy ta có nói năng gì. – Hỏi: Trong tông môn thỉnh Sư lên tiếng? Sư nói: Trâu đá rống dài ngoài chân không, ngựa gồ hý vang ẩn núi. – Hỏi: Chỗ lợi người của Hòa-thượng như thế nào? Sư nói: Một cơn mưa thấm khắp sắc đẹp của ngàn núi. – Hỏi: Thế nào là người trong núi Thiên trụ? Sư nói: Riêng mình đến ngàn đảnh núi, dạo chơi khắp suối chín khúc. – Hỏi: Thế nào là ý từ phương Tây đến? Sư nói: Vượn trắng ôm con đến núi xanh, ong bướm ngâm hoa mà hút nhụy. Sư ở núi giảng Đạo suốt hai mươi hai năm. Ngày 22 tháng niên hiệu Đại Lịch năm thứ mười bốn thì Sư thị tịch. Xây tháp thờ ở phía Bắc chùa để an táng toàn thân.

Thiền sư Huyền Tố chùa Hạc Lâm Nhuận Châu trước đây có đệ nối pháp:

* Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn, thuộc Hàng Châu.

Người ở Côn Sơn Tô Châu, họ Chu. Xưa theo Nho học, năm hai mươi tám tuổi thì gặp Thiền sư Huyền Tố, bảo rằng: Xem thấy ông thần khí ôn hòa thật là pháp bảo. Sư cảm ngộ nhận xin làm đệ tử. Huyền Tố đích thân cạo tóc và dặn rằng: Ông đi theo con sông gặp núi Kính thì dừng. Sư bèn đi về Nam đến Lâm An thấy một ngọn núi ở phía Đông Bắc nhân hỏi tiều phu thì đáp đó là Kính Sơn, bèn đến ở đó. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là Đạo? Sư nói: Trên núi có cả chép, đáy nước có bụi cỏ bồng. Mã Tổ sai người đưa thư đến, trong thư vẽ một hình tròn. Sư bèn vạch một nét trong vòng tròn rồi gấp thư gởi lại. Có vị Tăng hỏi Thế nào là ý Tổ sư từ tây-trúc đến? Sư nói: Ông hỏi không đúng. Lại hỏi: Thế nào là đúng, thì đáp đợi ta diệt độ rồi sẽ nói cho ông biết – Mã Tổ sai đệ tử là Trí Tạng đến hỏi: Trong mười hai giờ (2 giờ) lấy gì làm cảnh? Sư nói: Đợi ông trở về sẽ có tin. Trí Tạng nói: Tôi đang trở về. Sư nói: Truyền lời thì phải hỏi lấy Tổ Tào Khê (Lục tổ) – Niên hiệu Đại Lịch năm thứ ba đời Đường, Đường Đại Tông mời Sư vào Triều kính lễ. Một hôm Sư ở trong sân thấy vua liền đứng dậy. Vua hỏi: Sư vì sao mà đứng? Sư nói: Thí chủ, đâu được trong bốn oai nghi mà thấy bần đạo. Vua rất vui bảo Trung Quốc Sư rằng: Muốn ban cho Khâm Sư một danh hiệu. Trung vui mừng dâng chiếu bèn ban hiệu là Quốc Nhất. Sau từ biệt vua trở về núi. Vào tháng 12 niên hiệu Trinh Quán năm thứ tám Sư đang nói pháp thì mất thọ bảy mươi chín tuổi. Vua sắc ban thụy hiệu là Đại Giác Thiền sư.

Thiền sư Đạo Khâm ở Kính Sơn thuộc hàng Châu trước đây có Đệ tử Đệ tử nối pháp:

Thiền sư Đạo Lâm ô Sào ở Hàng Châu.

Người ở Phú Dương thuộc Bổn quận, họ Phan. Mẹ là bà họ Chu thấy ánh sáng chạy vào miệng bèn có thai. Khi sinh ra thì mùi thơm lạ đầy nhà bèn đặt tên là Hương Quang. Chín tuổi xuất gia, năm hai mươi mốt tuổi thọ giới cụ túc tại chùa Quả Nguyện ở Kinh Châu. Sau đến nơi Pháp sư Phục Lễ ở Chùa Tây Minh tại trường An mà học kinh Hoa Nghiêm và Luận Khởi Tín. Phục lễ lấy tụng Chân Vọng dạy tu thiềnna. Sư hỏi rằng: Trước hết quán cái gì, dụng tâm như thế nào? giây lâu Phục lễ không nói. Sư lạy ba lạy mà lui ra. Vua Đường Đại tông ban chiếu mời Thiền sư Quốc Nhất ở Kính Sơn vào triều. Sư đến yết kiến bèn được chánh pháp. Khi trở về Nam trước là chùa Vĩnh Phước Cô Sơn, có tháp Bích Chi Phật, lúc đó đạo tục cùng làm pháp hội. Sư chống tích trượng mà vào, có Pháp sư Thao Quang ở chùa Linh Ẩn hỏi rằng: Pháp hội này lấy gì làm tiếng? Sư nói: Không có tiếng ai biết là hội. Sau thấy núi Tần Vọng có cây thông lớn cành lá sum xuê tròn như cái lọng bèn leo lên đó mà ở, nên người ta gọi là Thiền sư Ô Sào. Lại có ổ chim Thước (khách) ở đó rất quen thuộc với người, nên gọi là là Hòathượng Thước Sào. Có thị giả là Hội Thông bỗng một hôm đến từ giã Sư mà đi. Sư hỏi: Nay ông đi đâu? Đáp: Hội thông vì pháp xuất gia, vì Hòa-thượng không dạy dỗ gì nên đến các nơi khác mà học Phật pháp. Sư nói: Nếu là Phật pháp thì ta ở đây cũng có chút ít. – Hỏi: Phật pháp của Hòa-thượng ra sao? Sư bèn lấy lông tơ vải áo đang mặc mà thổi. – Hội thông hiểu được ý sâu kín. Trong niên hiệu Nguyên Hòa, Bạch Cư Dị ra trấn thủ ở Quận Tư, nhân vào núi lễ Sư bèn nói Sư rằng: Thiền sư ở chỗ rất nguy hiểm. Sư đáp: Thái Thú nguy hiểm càng hơn. Bạch hỏi: Đệ tử vị trấn giữ sông núi sao có nguy hiểm. Sư nói: Củi lửa giao nhau 60 tánh biết không dừng, sao chẳng nguy hiểm. Lại hỏi: Thế nào là Đại ý Phật pháp? Sư đáp: Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng làm. Bạch Cư Dị nói:trẻ ba tuổi cũng nói được. Sư đáp: Trẻ ba tuổi nói được mà người già tám mươi không làm được. Bạch bèn đảnh lễ. Sư vào ngày mồng 10 tháng 2 niên hiệu Trường Khánh năm thứ tư, bảo thị giả rằng: Nay ta báo đã hết, nói xong thì ngồi mà hóa. Thọ tám mươi bốn tuổi, tuổi lạp sáu mươi ba.

Thiền sư Đạo Lâm Ô Sào ở Hàng Châu đây có đệ tử Đệ tử nối pháp Thiền sư Hội Thông, chùa Chiêu Hiền ở Hàng Châu.

Người ở Bổn quận, họ Ngô vốn tên Nguyên Khanh hình tướng khôi ngô tuổi nhỏ mà rất thông minh. Đời Đường Đức Tông làm Lục cung Sứ. Vương tộc đều thích. Mùa xuân thấy cung Chiêu Dương hoa nở rộ bèn đến ngắm xem rất lâu. Bỗng nghe trên hư không có tiếng nói: Tướng hư huyễn nở tàn không dừng có thể làm hại gốc lành. Sao Nhân giả lại ưa thích. Sư sực tỉnh nghĩ là tuổi trẻ sùng thiện quá lắm ắt sinh chán sợ. Vua một hôm dạo cung hỏi: Sao khanh chẳng vui? Tâu rằng: Thần từ nhỏ không ăn mặn chí muốn theo Phật. Vua nói trẫm xem khanh như Côn Trọng nhưng giàu sang muốn hơn người là không trái với khanh chỉ xuất gia thì không được. Sau đó, vua thấy dung mạo tiều tụy liền ban chiếu sai làm Vương Tân Tướng. Tâu rằng: Người này nối tiếp làm hưng thạnh Tam bảo. Vua bảo Sư rằng: Như khanh xin chọn ngày xa gần mà tâu lại. Sư rất tạ ân. Vừa được tin nhà nói mẹ bịnh bèn xin về thăm viếng. Vua ban thưởng rất hậu. Sai Hữu Ty đưa tiễn Sư. Đến nhà chưa bao lâu gặp Pháp sư Thao Quang khuyên gắng bèn gặp Ô Sào nguyện làm thí chủ cùng lập am xây chùa. Chùa thành bèn thưa rằng: Đệ tử bảy tuổi đã ăn chay, mười một tuổi thọ năm giới, nay hai mươi hai tuổi vì xuất gia mà từ quan, xin Hòa-thượng trao cho tăng tướng. Đáp rằng: Thời nay làm Tăng có người khổ nhọc làm nhiều việc lạm dụng. Sư nói: Vốn trong sáng chẳng cần mài giũa, căn bản sáng tỏ không tùy theo soi chiếu. Bảo rằng: Nếu ông thể tịnh trí diệu viên vốn tự trống vắng (không tịch thì đó là chân xuất gia rồi, cần gì phải nhờ tướng bên ngoài). Ông chính là Bồ tát Tại Gia, giới thí đều tu như bạn bè của Tạ Linh Vân kia. Sư nói đúng thế, lý tuy như thế nhưng với sự nào có ích gì. Nếu được nhiếp thọ thì thể vâng theo lời Sư dạy. Ba lần thỉnh Như thế đều không chịu ừ. Lúc đó Thao Quang bèn kiên quyết thưa Ô Sào rằng: Cung sứ chưa hề cưới cũng không nuôi thị nữ. Thiền sư nếu vẫn không thừa tiếp thì ai được độ. Ô Sào liền xuống tóc và truyền Giới cụ túc cho. Sư thường ăn chay giờ mẹo ngày đêm tinh tiến tụng kinh Đại thừa mà tu Tam-muội An Ban. Vừa cố từ tạ để đi du phương, Ô Sào lấy lông vải (thổi) mà ngộ chỉ. Lúc đó gọi là Bố mao thị giả (Thị giả lông vải). Đến khi Ô Sào qui tịch hai mươi năm thì Đường Võ Tông phá chùa, Sư cùng Tăng chúng lạy từ Linh tháp mà đi xa, không biết cuối cùng ra sao.

Thiền sư Tuệ Trung trước đây có hai đời đệ tử Đệ tử nối pháp:

– Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên Thai.

Người ở Kinh Triệu, họ Trương Tôn. Lúc nhỏ gặp Thiền sư Trung ở Ngưu Đầu mà đại ngộ huyền chỉ, sau ẩn vào ngọn phía Tây của Bạo Bố ở Thiên Thai. Trong niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường, giảng kinh dần thạnh. Lúc đầu chỉ hang núi đang ở là Phật Quật. Một hôm dạy chúng rằng: Trời đất không có vật, ta cũng không có vật, nhưng chưa từng không có vật, vậy thì bậc Thánh như bóng trăm năm như mộng, thì cái gì là sinh tử. Bậc chí nhân do đó mà riêng xét chiếu mà làm chủ muôn vật. Ta biết như thế. Các ông có biết chăng? Có vị tăng hỏi: Thế nào là mũi tên Na-la-diên? Sư nói: Là trúng đích. Bỗng một hôm bảo đệ tử rằng: Các ông nên cố gắng, ta đâu có nói gì! Hai hôm sau, giữa đêm Sư ngồi yên mà thị tịch, thọ tám mươi tuổi, tuổi lạp năm mươi tám.

Thiền sư Duy Tắc ở hang Phật Quật núi Thiên Thai đệ tử Đệ tử nối pháp Thiên Thai Sơn.

– Thiền sư Vân Cư Trí núi Thiên Thai.

Đã từng có vị Tăng ở viện Hoa Nghiêm là Kế Tông hỏi rằng: Thấy tánh thành Phật nghĩa ấy thế nào? Sư nói: Tánh thanh tịnh xưa nay rỗng sáng không hề lay động, chẳng thuộc có không, tịnh uế, dài ngắn, lấy bỏ, tự thể thường như thế. Thấy rõ như thế thì gọi là thấy tánh. Tánh tức Phật, Phật tức tánh, cho nên nói thấy tánh thành Phật. – Hỏi: Tánh đã thanh tịnh thì chẳng thuộc có không, vì sao lại có thấy? – Sư nói: Thấy không chỗ thấy – Hỏi: Không chỗ thấy vì sao lại có thấy? Sư nói: Chỗ thấy cũng không. – Hỏi: Như thế khi thấy là ai thấy? Sư nói: Không có người tự nhiên thấy – Hỏi: rốt ráo lý ấy ra sao? Sư nói: Ông biết chăngvọng suy nghĩ là có tức có, năng sở được gọi là mê, theo thấy mà sinh hiểu thì rơi vào sinh tử. Người thấy rõ (minh kiến) thì chẳng như thế. Suốt ngày thấy mà không hề thấy, cầu chỗ thấy thể tướng chẳng thật có năng sở đều mất thì gọi là thấy tánh. Hỏi: Tánh này ở khắp tất cả chỗ chăng? Sư nói: Không chỗ nào chẳng khắp. Hỏi: Phàm phu có chăng? Sư nói: Trước nói không chỗ nào chẳng khắp há phàm phu mà không đủ ư? – Hỏi: Vì sao chư Phật Bồ tát không bị sinh tử trói buộc, mà riêng phàm phu lại bị khổ này, thì đâu là khắp được? Sư đáp: Phàm phu ở trong tánh thanh tịnh chấp có năng sở liền rơi vào sinh tử. Còn chư Phật Đại sĩ khéo biết trong tánh thanh tịnh chẳng thuộc có không, tức năng sở chẳng lập – Hỏi: Nếu nói như thế thì có người liễu và chẳng liễu? Sư nói: Liễu còn chẳng thật có, há có người tự nhiên liễu ư? – Hỏi: Lý rốt ráo ra sao? Sư đáp: Ta nói tóm tắt, ông ở ngay niệm này trong tánh thanh tịnh không có Thánh phàm, cũng không có người liễu và người không liễu. Hai loại Phàm và Thánh đều là tên gọi, nếu theo tên mà sinh hiểu thì liền rơi vào sinh tử. Nếu biết là giả danh không thật, thì tức là không có tên gọi này. Lại bảo đây là chỗ rất rốt ráo, nếu nói ta có thể thấy liễu mà người kia không có thể thấy liễu thì là bịnh lớn, thấy có tịnh uế, phàm Thánh cũng là bịnh lớn. Nếu hiểu không có phàm Thánh thì thuộc về bác không có nhân quả. Thấy có tánh thanh tịnh để nương tựa cũng là bịnh lớn, hiểu không có chỗ nương tựa cũng là bịnh lớn. Nhưng trong tánh thanh tịnh tuy không có lay động mà lại đầy đủ các phương tiện ứng dụng bất hoại và hưng vận lòng từ bi chỗ hưng vận như thế tức hoàn toàn là tánh thanh tịnh, có thể gọi là thấy tánh thành Phật. Kế Tông vui mừng lạy tạ mà lui.

* Tổ thứ 32: ĐẠI SƯ HOẰNG NHẪN: đời thứ nhất bàng xuất đệ tử Đệ tử nối pháp.

1. Thiền sư Thần Tú Bắc Tông.

Người ở phủ Khai Phong, họ Lý. Thuở nhỏ học Nho làu thông các sách, bỗng bỏ ái đi xuất gia tìm thầy học đạo. Đến chùa Đông Sơn ở Song Phong thuộc Kỳ Châu, gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lấy ngồi thiền làm cốt yếu (sự nghiệp) bèn khen phục rằng: Đây mới thật là thầy ta. Bèn tâm thề khổ nhọc gánh nước bửa củi tự phục dịch mà cầu đạo. Hoằng Nhẫn thầm biết nên càng chú trọng dạy dỗ, bảo rằng: Ta độ nhiều người nhưng ngộ giải thì không ai bằng ông. Khi Tổ Hoằng Nhẫn đã tịch, Thần Tú bèn đến trụ núi Đương Dương ở Giang Lăng. Đường Võ Hậu nghe tiếng Sư bèn mời vào kinh, ở trong Nội đạo tràng mà cúng dường, càng đặc biệt kính lễ, cho lập chùa Độ Môn ở núi cũ mà biểu thị cho đức độ của Thần Tú. Lúc đó Vương công sĩ thứ đều bái phục. Đến lúc Đường Trung Tông lên ngôi thì càng trọng vọng Sư, Đại thần Trương Thuyết đã từng hỏi pháp yếu và xin làm đệ tử. Sư có bài kệ dạy chúng rằng:

Tất cả Phật pháp
Tự tâm vốn có
Cầu vật ngoài tâm
Bỏ cha đi hoang.

Niên hiệu Thần Long năm thứ hai, Ngài ở chùa Thiên Cung ở Đông Đô mà viên tịch. Vua ban thụy là Đại Thông Thiền sư, đầy đủ nghi lễ an táng ở Long Môn. Vua tiễn đến cầu, các Vương công sĩ thứ cùng đưa đến huyệt. Trương Thuyết và Trưng Sĩ Lô Hồng làm bia. Môn nhân là Phổ Tịch, Nghĩa Phước v.v… đều được triều đình và thôn quê kính trọng.

2. Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc.

Người ở Chi Giang thuộc Kinh Châu, họ Vệ. Vua Tùy Văn Đế niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười bảy nắm giữ thiên hạ, riêng độ tăng ni, khen sư là cây vô danh. Sư bèn tuần du các hang núi. Trong niên hiệu Đại Nghiệp mộ người khai thông sông ngòi, người đói khát rất nhiều, Sư đi khất thực mà cứu rất đông. Vua Tùy Dạng Đế mời, Sư không đến, trốn vào núi Thái Hòa. Khi vua đến Giang Đô trong nước nhiễu nhương, bèn chống tích trượng lên chùa Hoành Nhạc tu hạnh đầu đà. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường Sư đến Huỳnh Mai yết kiến Tổ Hoằng Nhẫn nhận được tâm yếu. Niên hiệu Lân Đức năm thứ nhất bèn đến Thạch Bích ở núi Chung Nam mà ở đấy. Vua Đường Cao Tông mời Sư cũng không đến. Sư trải khắp các danh tích, đến Tùng Thiếu thì bảo rằng: Ta mất ở đây. Từ đó người tu thiền càng hội họp, có hai vị Thản Nhiên và Hoài Nhượng đến tham vấn rằng: Thế nào là ý của Tổ sư ở Tây Trúc đến? Sư đáp: Sao không hỏi ý mình? Thưa rằng: Ý mình như thế nào? Sư nói nên quán tác dụng ngầm. Hỏi: Thế nào là tác dụng ngầm? Sư nháy mắt mấy cái mà biểu thị. Nhưng sau lời nói thì biết về mà không đến nơi khác. Hoài Nhượng duyên chưa chín bèn từ giả mà đến Tào Khê. Võ Hậu mời Sư về triều đãi lễ thầy trò, cùng tôn trọng như Thiền sư Thần Tú. Võ Hậu có hỏi Sư về Giáp Tử. Sư nói không nhớ. Võ Hậu hỏi sao không nhớ. Sư đáp: Thân sinh tử như cuộc tuần hoàn, hoàn hết và không khởi thì nhớ làm gì. Huống chi tâm này rong chạy mãi không dừng, thấy bọt nước sanh diệt hẳn là luống dối. Từ sơ thức (thức đầu Tiên) cho đến tướng động, khi diệt cũng chỉ như thế, có năm tháng nào mà nhớ, Võ Hậu nghe xong gật đầu tin nhận. Đến niên hiệu Thần Long năm thứ hai, vua Đường Trung Tông ban cho y ca sa tím, Sư độ được 1 vị đệ tử, vẫn vào cung cấm được cúng dường ba năm, vua lại ban cho một ma-nạp. Sư từ giả Tung Nhạc. Năm đó ngày mồng 3 tháng 3 Sư dặn dò các đệ tử rằng: Ta chết rồi hãy mang thây ta vào rừng đợi lửa rừng thiêu đốt. Bỗng lúc đó có Vạn Hồi Công đến thăm thì tha thiết nắm tay bàn nói, người đứng hầu bên cạnh lăng nghe mà chẳng hiểu gì. Đến ngày mồng thì đóng cửa ngồi yên mà thị tịch thọ một trăm hai mươi tám tuổi (sinh năm Nhâm Dần, niên hiệu Khai Hoàng thứ hai đời Tùy, mất vào niên hiệu Cảnh Long thứ ba Đường, Kỷ Dậu, đời gọi là Lão An Quốc sư). Đệ tử vâng lời đặt thây trong rừng, quả nhiên lửa rừng tự thiêu, xá-lợi thu được tám mươi hạt, có năm hạt màu đỏ tía giữ ở trong cung. Đến niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai , đệ tử xây tháp thờ.

3. Thiền sư Đạo Minh ở Mông Sơn thuộc Viên Châu:

Người ở Phàn Dương, là con cháu của Trần Tuyên Đế, nước mất nên lưu lạc chốn dân gian vì là cháu vua nên được (xem trọng) do đó có hiệu là Tướng quân. Thuở nhỏ Sư xuất gia ở chùa Vĩnh Xương mộ đạo rất chí thiết. Bèn đến nương Pháp Hội của Ngũ Tổ mà hết lòng nghiên tầm. Lúc đầu chưa hiểu, khi nghe Tổ ngầm giáo y pháp cho Lô Hành Giả (Lục tổ Tuệ Năng) thì liền dẫn mấy mươi người đồng tâm ý đuổi theo tìm đến núi Đại Tẩu. Sư đi trước nhất, những người kia chưa đến. Lô Hành Giả thấy Sư bèn chạy đến để y bát trên tảng đá bằng, bảo rằng: Y này biểu thị cho lòng tin, lại dùng sức mà tranh giành ư? Ông cứ lấy đi. Sư bèn cầm lên, nhưng nặng như núi không thể nâng lên được, bèn do dự khiếp sợ thưa: Con đến đây cầu pháp chứ không phải cầu y, xin hành giả chỉ dạy cho con. Lục Tổ nói chính lúc không nghĩ thiện không nghĩ ác là mặt mũi xưa nay của Thượng Tọa Minh. Ngay lời nói ấy thì Sư Đại ngộ, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, khóc lạy thưa rằng: Ngoài mật ngữ mật ý trên, còn có ý chỉ nào khác chăng? Lục Tổ nói: Nay ta nói với ông thì không phải mật nữa, nếu ông chiếu soi lại lấy mình mà nhìn, thì mật liền ở bên ông. Sư nói: Con trước nay ở bên ngài Huỳnh Mai theo chúng, nhưng chưa tự xét mình mà nhìn, nay xin chỉ trao chỗ vào, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Nay hành giả tức là thầy con. Lục Tổ nói: Như thế thì ta cúng ông đồng thầy là ngài Huỳnh Mai, hãy tự khéo giữ gìn. Sư lại hỏi: Sau này con nên về đâu? Tổ nói gặp Viên thì dừng gặp Mông thì ở. Sư bèn lễ tạ, rồi đến một chân núi bảo mọi người rằng: Leo lên chót vót mà xa trông thì chồng chất không dấu vết hãy tìm đường khác cũng thế. Sư trở về, bèn một mình đến Đài Bố Thủy ở Lô Sơn, ở đó ba năm. Sau mới đến Mông Sơn ở Viên Châu mà rộng hoằng hóa. Lúc đầu tên là Tuệ Minh, vì tránh chữ Tuệ của Tổ Tuệ Năng nên gọi là Đạo Minh. Sư dặn dò các đệ tử đều đến Lãnh Nam mà tham vấn Lục Tổ.

* Đệ tử nối pháp Thiền sư Thần Tú Bắc Tông (Đời thứ hai của Tổ Hoằng Nhẫn)

1. Thiền sư Cự Phương ở núi Ngũ Đài.

Người ở An Lục, họ Tào. Thuở nhỏ thọ nghiệp với Thiền sư Lãng ở Viện Minh Phước. Trước giảng kinh luận, sau tham thiền. Khi tới Bắc tông, Thiền sư Tú hỏi: Chỗ mây trắng tan ra sao? Sư nói: Không hiểu. Tú lại hỏi: Đến chỗ này sau thế nào? Sư đáp: Chánh thấy một cành có năm lá. Tú làm thinh chấp nhận. – Vào thất đứng hầu đối đáp hầu như không sai lầm. Bèn tìm đến Thượng Đảng Hàn Lãnh mà ở. Được mấy năm chúng đông cả ngàn. Sau, Sư hoằng hóa ở Ngũ Đài hơn hai mươi năm sau thì nhập diệt, thọ tám mươi mốt tuổi vào ngày mồng 03 tháng 09 niên hiệu Khai Nguyên thứ 1 đời Đường. An tán toàn thân trong tháp.

2. Thiền sư Trí Phong ở núi Trung Điều thuộc Phủ Hà Trung:

Họ Ngô, trước học luận Duy Thức bị dính mắc bởi Danh Tướng, bị người hiểu gạn hỏi: Nổi giận mà bỏ giảng, đến đến núi Võ Đang, gặp Thiền sư Tú thì tâm nghi sớm loại trừ. Nghĩ nuôi mầm Thánh bèn từ giả mà đi, đến ở núi An Phong tại Bồ Tân mười năm chẳng xuống núi chỉ ăn rau cỏ uống nước suối. Thục Châu Mục Vệ Văn Thăng mời sư về thành nội, xây dựng viện Tân An Quốc mà ở. Đạo tục kéo đến không ngớt. Sứ quân hỏi rằng: Nay ta ngày sau thế nào? Sư nói: Mặt trời từ mưa ra, chiêu cây toàn không bóng. Sứ quân mới đầu không thể nào hiểu được, chắp tay vái chào mà lui, sau đó lựa chọn hiểu ra mà cảm thấy thoải mái thư thái. Sư qua lại núi Trung Điều ở hơn hai mươi năm, người được Đạo đông vô số. Sau khi Sư mất thì đệ tử xây tháp thờ ở phía Bắc thành của Châu.

3. Thiền sư Hàng Ma tạng ở Duyên Châu:

Người ở Triệu quận, họ Vương, cha là làm hào Duyện (quan chức nhỏ). Sư tuổi đã xuất gia. Lúc đó ở Thục Dã có nhiều yêu quỉ ưa mê hoặc người, Sư một mình chế phục không chút sợ sệt, nên được gọi là Hàng Ma. Liền nương Thiền sư Minh Tán ở viện Quảng Phước mà xuất gia siêng tu. Sau khi thọ pháp gặp Bắc Tông Thần Tú thạnh hành bèn thề qui y. Tú sư hỏi: Ông tên Hàng Ma ở đây không có ma núi quỉ cây thì ông lại làm ma ư? Sư nói: Có Phật thì có ma. Tú nói: Nếu ông là ma thì ở cảnh giới không nghĩ bàn. Sư nói: Là Phật cũng không sao có cảnh giới. Tú huyền ký rằng: Ông với gò Thiếu Hạo có duyên Sư bèn tìm vào núi Thái, có rất nhiều người học theo về. Một hôm sư bảo các đệ tử rằng: Ta đã già yếu, vật cuối cùng có chỗ về. Nói xong thì mất, thọ chín mươi mốt tuổi.

4. Thiền sư Đạo thọ ở Thọ Châu:

Người ở Đường Châu, họ Văn, thuở nhỏ tìm tòi kinh sách, đến năm mươi tuổi nhân gặp được vị cao tăng khuyên dạy nên thệ xuất gia, lễ Tuệ văn ở núi Minh Nguyệt thuộc bổn bộ làm thầy. Sư thẹn lớn tuổi mới cầu pháp bèn gắng chí đi khắp không đâu chẳng đến. Sau trở về Đông Lạc gặp Thiền sư Tú. Sau lời nói biết có hiểu chút ít sẽ thành pháp khí. Bèn đến núi Tam Phong ở Thọ Châu, cất am tranh mà ở. Thường có người quê mặc áo lụa trắng lời lẽ chất phác, nói chuyện kỳ lạ đùa cười và hóa hiện các hình Phật Bồ tát, La-hán Thiên Tiên v.v… hoặc phát ra ánh sáng lạ hoặc tạo tiếng vang, Sư và học trò thấy việc đều chẳng lường. Như thế mười năm thì dứt bặt không hình bóng. Sư bảo chúng rằng: Các người quê có nhiều hình sắc khéo léo mê hoặc người để làm mất cái chẳng thấy chẳng nghe của Lão Tăng chỉ có Lão Tăng chẳng thấy chẳng nghe, tài khéo ấy chẳng còn mà chẳng thấy chẳng nghe của ta thì không hết. Niên hiệu Bảo Lịch năm thứ nhất đời Đường bị bịnh mà mất, thọ chín mươi hai tuổi, tháng giêng năm sau thì xây tháp.

5. Thiền sư Toàn Thực ở núi Đô Lương Hoài Nam:

Người ở Quang Châu, họ Nhuế. Lúc đầu cất am mà ở. Thái Thú Vệ Văn Khanh mời Sư đến chùa Trường Thọ ở bổn châu mở pháp Hội nhóm họp đồ chúng. Văn Khanh hỏi: Tương lai Phật pháp hưng suy ra sao? Sư đáp: Vật chân thật không xưa không nay cũng không khuôn phép. Pháp hữu vi bốn tướng đổi dời. Pháp sẽ bị vùi lấp, ông đợi sẽ thấy. Sư chín mươi ba tuổi thì mất. Ngày mồng 0 tháng 09 năm Giáp Tý Niên hiệu Hội Xương thứ tư đời đường thì nhập tháp.

* Đệ tử nối pháp Quốc sư Tuệ An ở Tung Nhạc

1. Thiền sư Nhân Kiệm chùa Phước Tiên ở Lạc Kinh:

Từ Tung Sơn bỏ thưa hỏi đến Khoáng Giao. Lúc đó thường gọi Hòa-thượng là Đăng Đằng, trong niên hiệu Thiên Sách Vạn Tuế thời nhà Đường, Thiên Hậu ra chiếu mời vào trước điện. Sư nhìn Thiên Hậu hồi lâu rồi nói: Hiểu chăng? Hậu nói chẳng hiểu. Sư nói: Lão tăng giữ giới không nói. Nói xong thì bước ra. Hôm sau dâng khúc ca ngắn có mười chín đoạn, Thiên Hậu xem mà vui ban thưởng rất hậu, Sư đều không nhận. Lại khiến viết bài ca mà truyền khắp trong nước. Lời ca đều diễn bày chân lý để khuyên răn thời tục, chỉ có bài Liễu Nguyên Ca là thạnh hành ở đời.

2. Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Nhạc.

Không xưng tên tuổi, ngôn hạnh (lời nói và việc làm) khó lường, ẩn cư ở Tung Nhạc. Sơn Đảo có miếu rất linh, trong điện thờ chỉ có một cái bếp lò, xa gần đến cúng tế không ngớt nấu nướng giết hại sinh mạng rất nhiều. Một hôm Sư dẫn Thị Tăng đi vào miếu, lấy tích trượng đập vào bếp ba cái bảo: Ôi, Táo này, chỉ là đất sét nắn thành Thánh từ đâu đến, linh từ đâu khởi, tại sao lại hưởng vật mạng cúng của người ta. Lại đập ba cái thì bếp nghiêng rớt xuống đất. Phút chốc thì có một người mặc áo xanh đầu đội mũ bỗng lạy trước Sư. Sư hỏi: Ngươi là ai. Đáp: Con là Thần Táo trong miếu này từ lâu chịu nghiệp báo, hôm nay được Sư nói pháp vô sinh mà được thoát chỗ này sinh lên cõi trời, nên đến đây lễ tạ. Sư nói: Đó là ông vốn có tánh không phải ta nói ép. Thần Táo lạy lễ và biến mất, Thiếu tuyển thị Tăng v.v… đều hỏi Sư rằng: Chúng con là những người ở lâu bên Hòa-thượng mà chưa hề nghe Thầy khổ công dạy bảo, còn Thần Táo được ý chỉ thẳng tắt nào mà được sinh lên cõi trời. Sư nói: Ta chỉ nói ông ta là do đất sét tạo thành, ngoài ra cũng không có đạo lý nào vì ông ta. Thị Tăng đứng yên không nói, Sư hỏi hiểu chăng? Chủ sự thưa không hiểu. Sư nói: Tánh vốn có vì sao chẳng hiểu. Thị Tăng bèn đảnh lễ. Sư nói rơi xuống rơi xuống, nát ra nát ra (bể tan bể tan). Sau có Thiền sư Nghĩa Phong đem thưa với Quốc sư An, Quốc sư than rằng: Người này hiểu hết các vật đồng nhất như ta, có thể nói rằng: Trăng sáng trên không đều thấy. Khó gặp ngữ mạch ấy. Thiền sư Nghĩa Phong liền khoanh tay cúi đầu hỏi rằng: Chẳng hay ai gặp ngữ mạch khác? Quốc sư nói không biết – Lại có Tăng hỏi: Khi mọi vật vô hình thì ra sao? Sư nói: Lễ tức chỉ là ông mà không phải ta, bất lễ (chẳng lạy) chỉ có ta mà chẳng phải ông. Vị Tăng ấy bèn lễ tạ. Sư nói: Vật vốn có là vật chẳng phải vật. Do đó mà Đạo tâm chuyển được vật tức đồng Như lai. Lại có vị tăng hỏi: Thế nào là người tu hạnh lành? Sư nói: Cầm thương mặc giáp. Thế nào là người làm hạnh ác? Sư nói: Tu thiền nhập định. Tăng thưa: Con căn cơ còn cạn, thỉnh sư chỉ thẳng. Sư nói: Ông hỏi ta ác, ác chẳng từ thiện, ông hỏi ta thiện, thiện chẳng từ ác. Hồi lâu lại hỏi: Hiểu chăng? Tăng thưa: Không hiểu. Sư nói: Người ác không có niệm lành, người lành không có tâm ác. Do đó nói thiện ác như mây nổi, đều không có chỗ khởi diệt. Vị tăng ấy sau đó liền đại ngộ – Có vị tăng từ núi Ngưu Đầu đến. Sư hỏi: Ông đến từ pháp Hội nào?

Tăng đền gần chấp tay đi nhiễu quanh Sư một vòng rồi lui ra. Sư nói: Ở Hội Ngưu Đầu chẳng thể có người này. Tăng bèn trở lại chấp tay hướng bên Sư. Sư nói quả nhiên quả nhiên! Tăng liền hỏi: Sư ứng vật chẳng do thời khác là sao? Sư nói: Tranh được chẳng do khác. Tăng hỏi: Cái gì là thuận chánh về nguồn? Sư nói: Về nguồn sao thuận? Tăng nói: Không phải Hòa-thượng lầm lẫn chiêu lỗi. Sư nói: Cũng là Đạo lý chưa thấy bốn tổ, thấy rồi thì thông tương lai. Tăng liền đi nhiễu một vòng rồi lui ra. Sư nói: Đạo thuận chánh xưa nay vẫn thế. Tăng đảnh lễ – Lại Tăng thị đứng hầu lâu. Sư bảo: Tổ tổ Phật Phật chỉ nói như người. Bổn tánh bổn tâm chẳng có đạo lý khác. Hiểu lấy hiểu lấy. Tăng lễ tạ, Sư bèn lấy phất trần đánh bảo rằng: Một chỗ như thế, ngàn chỗ cũng thế. Tăng liền chấp tay đến trước Sư dạ một tiếng. Sư nói: Lại chẳng tin, lại chẳng tin. Tăng hỏi: Thế nào là kẻ Đại xiển đề? Sư nói: Tôn trọng lễ bái. Lại hỏi: Thế nào là người Đại tinh tiến? Sư nói: Hủy nhục sân giận. – Sau chẳng biết Sư mất ở đâu?

3. Thiền sư Nguyên Khuê ở Tung Nhạc:

Người ở Y Khuyết, họ Lý, xuất gia từ nhỏ. Niên hiệu Vịnh Thuần năm thứ hai đời Đường, Sư thọ giới cụ túc ở chùa Lệ Nhàn cư. Học tập Tỳ ni không mệt mỏi. Sau yết kiến An Quốc sư dùng chân tông ấn khả mà đốn ngộ huyền chỉ, liền chọn am tranh ở núi Bàng Ổ. Một hôm có Dị nhân đội mão mặc áo kép quần cụt đi đến. Người theo sau rất đông, dáng nhẹ nhàng thong dong đến ra mắt Đại sư. Sư thấy hình dáng kỳ vĩ phi thường bèn bảo rằng: Mau đến đây nhân giả. Bèn hàm hồ mà đến nói sư đâu biết ta? Sư nói: Ta xem chư Phật và chúng sinh bình đẳng ta nhìn qua há phân biệt ư? Ông ấy bảo ta là thần núi này, có thể khiến người sống chết, Sư sao có thể nhìn qua ta. Sư nói: Ta vốn chẳng sinh, ông đâu thể chết. Ta thấy thân cùng không như nhau, thấy ông cùng ta như nhau. Ông có thể phá hoại không và ông ư? Nếu có thể phá hoại không và ông thì ta không sinh không diệt. Ông còn chẳng thể như thế thì sao có thể làm ta sống chết. Thần cúi đầu thưa: Tôi cũng thông minh chánh trực như các thần khác, đâu biết Sư có trí tuệ biện luận rộng lớn? Nguyện xin trao cho chánh giới để khiến tôi vượt (thoát) đời. Sư nói: Ông đã xin giới tức là đã thọ giới rồi. Vì sao ? vì ngoài giới không có giới thì là giới nào? Thần nói lý này tôi nghe mịt mù. Chỉ cầu giới của Sư, tôi xin làm đệ tử. Sư liền bày chỗ ngồi cầm lò hương ngay nơi bàn mà bảo rằng: Ta trao cho ông năm giới, nếu giữ được thì nói được nếu không giữ được thì nói không. Thần nói xin vâng lời. Sư nói: Ông chẳng dâm được không? Thưa: Cũng có cưới vợ. Sư bảo: Không phải nói cái đó, mà là không có giăng lưới dục. Thần nói: Giữ được. Sư nói: Ông chẳng trộm cắp được chăng? Thần đáp: Tôi có thiếu gì mà phải trộm cắp. Sư nói: Không phải vậy, mà là thiết đã thì phước nhiều còn không cùng thì Họa thiện

Thần nói: Được. Sư hỏi: Ông không sát sinh được chăng? Thần nói: Thật nằm quyền hành làm sao chẳng giết? Sư nói: Không phải vậy, mà có lạm quyền sai lầm nghi lộn, Thần nói được. Sư hỏi ông không nói dối được chăng? Thần nói: Tôi ngay thẳng đâu có dối? Sư nói không phải thế, mà trước sau chẳng họp lòng trời Thần nói được. Sư hỏi ông không bị hư bại vì rượu được chăng? Thần đáp được. Sư nói: Như thế đó là giới Phật – Lại nói vì có tâm vâng trì giữ gìn mà không có tâm câu chấp (chấp chặt), vì có tâm vì vật mà không có tâm tưởng thân mình. Nếu làm được như thế thì trước trời đất sinh ra mà không là Tinh, sau trời đất chết đi mà không là già, suốt ngày biến hóa mà chẳng là động rốt ráo vắng lặng mà chẳng thôi dứt. Ngộ đây thì tuy có cưới cũng không lỗi về vợ tuy có hưởng cũng không phải là lấy, tuy bính mà không phải là quyền. Tuy làm mà không phải cố, tuy say mà không tối tăm. Nếu vô tâm với muôn vật thì la dục chẳng phải là dâm phước dâm họa thiện chẳng phải là trộm. Lạm lầm nghi lộn chẳng phải là sát, trước sau trái trời mà không phải là dối, hôn hoang điên đảo không phải là say, đó gọi là vô tâm, vô tâm thì không giới, không giới thì không tâm, không Phật không chúng sinh, không ông và không tôi, không ông thì cái gì là giới. Thần đáp: Tôi thần thông thua Phật. Ông thần thông năm câu được, năm câu không được. Phật thì bảy câu được ba câu không được, Thần sửng sốt tránh chiếu quì xuống thưa rằng: Con xin được nghe. Sư nói: Ông có thể lệ Thượng Đế đi hướng Đông mà chiếu bảy sao hướng Tây chăng? Đáp: Không được. Sư nói: Ông có thể cướp Địa kỳ dung năm nhạc mà kết bốn biển chăng? Đáp: Không được. Sư nói đó là năm câu không được. Còn Phật được không tất cả tướng thành trí muôn pháp mà chẳng thể dứt diệt định nghiệp Phật có thể biết tánh quần hữu thấy rõ việc ức kiếp mà không thể hóa đạo người không duyên, Phật có thể độ vô lượng hữu tình mà không thể độ hết thế giới chúng sinh, đó là ba thứ không được. Định nghiệp cũng chẳng ràng buộc lâu, kẻ vô duyên cũng chỉ một hạn kỳ, thế giới chúng sinh vốn không thêm bớt. Lại không một người có thể chủ có pháp. Có pháp không chủ, gọi là không pháp, không pháp không chủ gọi là không tâm. Như ta hiểu phát cũng không có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông hiểu tất cả pháp nhĩ. Thần nói: Thật là cạn cợt tối tăm chưa nghe Nghĩa không. Sư đã trao giới cho con con xin vâng giữ. Nay xin báo, Từ Đức công hiệu tài năng của tôi. Sư nói: Ta quán thân không vật, quán pháp vô thường thẹn là lại có muốn gì. Thần nói: Sư sẽ khiến tôi làm việc thế gian, mở mang tiểu thần công cho con khiến đã phát tâm, mới phát tâm, chưa phát tâm, chẳng tin tâm sẽ tin tâm, năm hạng người ấy thấy dấu thần của con. Biết có Phật có thần có làm được và không làm được, có tự nhiên, có không phải tự nhiên. Sư nói: Không phải thế, không phải thế. Thần nói: Phật cũng khiến thần hộ pháp. Sao Sư lại phản Phật? Xin tùy ý dạy bảo. Sư bất đắc dĩ nói rằng: Vùng núi ở Đông Nham trơ trọi không có cây cối, còn vùng núi phía Bắc thì dẫy đầy. Ông có thể dời cây ở núi Bắc về núi Đông được chăng? Thần nói: Con xin vâng lời. Nhưng giữa đêm khuya sẽ có tiếng động ồn ào xin Sư chớ sợ. Rồi đảnh lễ mà lui. Sư đưa ra cửa và nhìn theo thì thấy rõ ràng oai vệ của 1 vị vua bỗng ẩn vào mây khói trên trời mà biến mất. Đêm ấy quả nhiên có sấm chớp gió bão dữ dội, nhà cửa cây cối lay động chim chóc kêu thảng thốt, Sư bảo chúng chớ sợ, Thần giao ước với ta. Đến sáng thì cây phía Bắc đã đầy khắp phía Đông sum suê thẳng hàng. Sư bảo môn đồ sau khi ta mất rồi chớ nói cho ai biết, nếu nói thật thì người cho ta yêu mị. Niên hiệu Khai Nguyên năm thứ tư là năm Bính Thìn Sư dặn dò môn nhân rằng: Trước ta ở núi phía Đông chùa. Ta mất rồi thì đặt hài cốt ta ở đấy. Nói xong thì an nhiên mà hóa. Thọ bảy mươi ba tuổi, đệ tử xây tháp thờ.

* Đệ tử nối pháp Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn (Đời thứ ba của Tổ Hoằng Nhẫn).

1. Thiền sư Duy Chánh ở núi Chung Nam.

Người ở Bình Nguyên, họ Chu, thọ nghiệp với Pháp sư Thuyên Trừng ở chùa Diên Hòa thuộc bổn châu. Đắc pháp với Thiền sư Phổ Tịch ở Tung Sơn. Đã được quyết liễu chân thuyên bèn vào núi Thái Nhất. Người đến học đầy nhà. Trong niên hiệu Đại Hòa đời Đường, vua Văn Tông thích ăn con hàu, các quan lại ở dọc bờ sông biển đều đem dâng. Một hôm trong bữa ăn thì có con hàu không hả miệng. Vua cho là điềm lạ bèn đốt hương khấn vái, bỗng biến thành hình Bồ tát phạm tướng đầy đủ, liền lấy hộp vàng và đàn hương đựng lại bọc gấm bên ngoài mà tặng chùa Hưng Thiện khiến Tăng chúng chiêm lễ. Nhân hỏi các quan thần đấy là điềm gì? Có người tâu trong núi Thái nhất có Thiền sư Duy Chánh, hiểu sâu Phật pháp đọc rộng các sách. Vua bèn mời vào hỏi việc ấy. Sư tâu: Thần nghe vật chẳng ứng suông, đây xin bệ hạ hãy tín tâm. Bởi kinh có nói đáng dùng thân này mà độ thì hiện thân này nói pháp. Vua hỏi thân Bồ tát đã hiện mà chưa nghe nói Pháp sư hỏi: Bệ hạ thấy đây là thường hay phi thường, tin hay không tin. Vua nói việc rất hiếm lạ, trẫm rất tin. Sư tâu: Bệ hạ đã nghe nói pháp rồi. Lúc đó vua rất vui mừng được điều chưa từng có, ra chiếu khiến các chùa viện trong nước đều lập tượng Quán Âm. Để đáp tạ điều lành khác lạ, bèn giữ Sư ở lại trong nội Đạo Tràng. Nhiều lần Sư giả từ về núi, vua lại ra chiếu mời vua ở chùa Thánh Thọ. Đến khi Đường Võ Tông lên ngôi thì Sư bỗng vào núi Chung Nam mà ẩn. Có người hỏi lý do. Sư nói: Ta tránh oán cừu. Sau mất tại nhà trong núi thọ tám mươi bảy tuổi. Khi trà-tỳ thu được bốn mươi chín hạt xá-lợi, vào ngày mồng 0 tháng 09 niên hiệu Hội Xương năm thứ ba đưa vào tháp kính thờ.

* Đệ tử nối pháp Thiền sư Vô Tướng ở Ích Châu (Đời thứ tư của Tổ Hoằng Nhẫn).

1. Thiền sư Vô Trụ ở chùa Bảo Đường thuộc Ích Châu.

Lúc đầu đắc pháp với Thiền sư Vô Tướng, bèn đến ở Bạch Nhai tại Nam Dương chuyên việc yên tịnh trải qua nhiều năm, người Học đến thỉnh Sư không ngớt. Từ đó bèn dạy răn, tuy rộng diễn giảng ngôn giáo nhưng chỉ lấy Vô Niệm làm tông. Đường Tướng quốc là Đổ Hồng ra cai trị nghe tiếng Sư bèn đến chiêm lễ. Tháng 9 Niên hiệu Đại Lịch năm thứ nhất, sai sứ đến núi mời Sư về. Lúc đó Tiết Độ Sứ Thôi Ninh cũng khiến các Tăng đồ ở các chùa từ xa đến đón rước. Ngày mồng 1 tháng 10 thì đến chùa Không Tuệ. Bấy giờ Tướng quốc Đỗ Công cùng các tướng soái và các vị Tam học Thạc Đức (các bậc cao đức có đủ ba học câu hội về chùa đảnh lễ xong, công hỏi có nghe Sư trước ở đây rồi sau đi về đâu. Đáp rằng: Vô trụ tỏi tánh thích nơi thôn dã có nhiều sông núi, từ Hạ Lan Ngũ Đài đi khắp các thắng cảnh, từng theo thầy ở Đại từ ở quý Phong giảng tối thượng thừa, liền từ xa tìm đến quy y, không xứng đáng dự vào pháp tịch. Sau đến ở núi Trì Bạch được nhiều năm. Nay được Tướng Công mời chẳng dám không theo. Tướng Công nói: Đệ tử có nghe Hòa-thượng Kim có nói không nhớ, không niệm, chớ vọng ba câu pháp môn phải chăng? Sư đáp: Đúng. Công nói: Ba câu ấy là một hay là ba. Sư nói không nhớ là giới không niệm là định, chớ vọng là tuệ. một tâm không sinh đủ giới định tuệ, không phải một không phải ba Công nói: Câu sau chữ chớ vọng có phải là từ tâm mà quên chăng? Sư đáp; từ con gái thì đúng hơn Công nói: Có chứng cứ gì. Đáp: Kinh Pháp Cú nói: Nếu khởi tâm tinh tiến là vọng, không phải tinh tiến, nếu tâm thường chẳng vọng là tinh tiến không bờ bến. Công nghe mà nghi tình rửa sạch. Lại hỏi: Sư lại dùng ba câu ấy mà dạy người chăng? Đáp:

Với người sơ tâm mới học thì phải khiến dứt niệm lắng dừng sáng thức, nước trong thì ảnh hiện, ngộ niệm vô thể thì vắng lặng hiện tiền, ngay cả vô niệm cũng chẳng lập. Lúc đó cây trước sân có quạ kêu. Công hỏi: Sư có nghe chăng? Sư nói: Có nghe. Quạ bay đi, lại hỏi Sư có nghe chăng? Sư nói: Có nghe. Công nói: Quạ bay đi rồi không còn tiếng sao nói là nghe. Sư bèn bảo khắp đại chúng: Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó nghe, tất cả hãy lắng nghe kỹ. Nghe và không nghe chẳng liên quan gì đến tánh nghe. Xưa nay không sinh đâu từng có diệt. Khi có tiếng là thanh trần tự sinh, khi không tiếng là thanh trần tự diệt mà tánh nghe này không theo tiếng mà sinh ra cũng không theo tiếng mà diệt mất. Ngộ tánh nghe này thì không bị thanh trần chuyển. Phải biết nghe không sinh diệt, nghe không tới lui. Tướng Công cùng các liêu thuộc và đại chúng đảnh lễ. – Lại hỏi: Thế nào là Đệ nhất nghĩa, đệ nhất là từ thứ lớp nào mà vào? Sư nói: Đệ nhất nghĩa không có thứ lớp, cũng không có ra vào. Thế đế thì tất cả là có, còn Đệ nhất nghĩa thì (tất cả là) không, các pháp đều là tánh vô tánh nên nói là Đệ nhất nghĩa Phật nói: Pháp có gọi là Tục đế, tánh không là Đệ nhất nghĩa. Công nói: Như lời Sư chỉ dạy thật chẳng thể nghĩ bàn. Công lại nói: Đệ tử tánh thức cạn cợt yếu kém. Nhân xưa rảnh rỗi con có soạn chương sớ khởi tín luận 2 quyển có thể được gọi là Phật pháp chăng? Sư đáp: Soạn chương sớ đều dùng để biết tâm suy lường phân biệt hữu vi có làm có tạo mà khởi tâm động niệm có thể tạo thành. Y theo luận văn có nói phải biết tất cả pháp từ xưa nay lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tự lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có đổi khác. Chỉ có một tâm cho nên gọi là chân như. Nay Tướng Công chấp dính vào tướng nói năng, tướng danh từ, tướng tâm duyên, đã chấp chặt các thứ tướng ấy thì làm sao gọi là Phật pháp. Tướng Công đảnh lễ thưa rằng: Đệ tử có hỏi các Đại đức cung phụng đều khen đệ tử là chẳng thể nghĩ bàn. Phải biết đó đều chỉ theo tình người. Nay Sư từ lý mà giải thích họp pháp tâm địa thật là chân lý chẳng thể nghĩ bàn. – Công lại hỏi: Thế nào là chẳng sinh, thế nào là chẳng diệt, thế nào là được giải thoát. Sư nói: Thấy cảnh mà tâm không khởi là chẳng sinh, chẳng sinh thì chẳng diệt. Đã không có sinh diệt thì không bị tiền trần trói buộc, ngay đó giải thoát. Không sinh gọi là không niệm, không niệm thì không diệt, không niệm thì không buộc ràng, không niệm thì không thoát. Tóm lại thì biết tâm tức lìa niệm, thấy tánh tức giải thoát. Lìa ngoài biết tâm thấy tánh mà có pháp môn chứng vô thượng Bồ đề, thì không có việc đó. Công hỏi: Sao gọi là biết tâm thấy tánh? Sư nói: Tất cả người học đạo theo niệm mà trôi nổi bởi vì không biết chân tâm, chân tâm là niệm sinh cũng chẳng thuận theo sinh, niệm diệt thì cũng chẳng nương vào vắng lặng, chẳng đến chẳng đi, chẳng định chẳng loạn, không lấy không bỏ, không chìm không nổi, vô vi vô tướng sống động lao nhao bình thường tự tại, tâm thể này rốt ráo chẳng thật có, không thể thấy biết thì, gặp đâu cũng đều như, đều là thấy tánh. Công và Đại chúng đảnh lễ vui mừng khen ngợi mà lui ra. Sau Sư ở chùa Bảo Đường mà thị tịch.