QUYỂN THỨ TƯ

Đất Cổ Hàng chùa Vân Thê Sa Môn Chu Hoằng thuật lại.

Cảm Quả (phân ra làm hai phần)

      1. Phật hiện ngã tiền (Phật hiện trước mặt ta)
2. Ngã vãng Phật xứ (Ta sanh qua xứ phật)

PHẬT HIỆN NGÃ TIỀN

      Người kia đến khi mạng chung, Phật A Di Đà cùng các vị Thánh chúng hiện ở trước mặt.

      Sớ: “Người kia” là chỉ người tu pháp trì danh niệm Phật. Nương văn trên nói: Hễ được nhứt tâm bất loạn thời đến khi sanh mạng sắp cuối cùng, Phật ắt hiện trước mặt; do vì nhờ sức mình với sức Phật lẽ cảm ứng lẫn nhau như trong hai bộ kinh và các kinh nói.

Sao: “Sức mình” là: Phàm người khi mạng chung, lúc thân tiền hữu sắp mãn, thân hậu hữu chưa sanh thời cả đời bình sanh làm việc ác hay việc thiện, tự nhiên bây giờ nó hiện ra trước mặt, như: việc thập ác, việc ngũ nghịch thời tướng địa ngục hiện ra trước; xan tham tật đố thời tướng ngạ quỉ hiện ra trước. Nhẫn đến tu ngũ giới, thập thiện thời cảnh nhơn thiên hiện ra trước.

Nay người chuyên về niệm Phật, nhứt tâm bất loạn thời tịnh niệm thành tựu. Trong tâm thanh tịnh, lẽ nào Phật không hiện ra trước mặt ư? Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật, niệm Phật hoặc hiện đời, hoặc đời sau, quyết định thấy Phật”, chắc vậy.

“Sức Phật” là: Kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta làm Phật, trong 10 phương vô ương số thế giới các vì chư Thiên, nhơn dân, ai có phát tâm Bồ Đề tu các việc công đức, nguyện sanh về trong cõi của ta thời đến khi mạng chung, ta cùng đại chúng hiện ra trước mặt người đó để dẫn về nước”.

Trong bài văn Tam Bối Vãng Sanh, lại nói: “Người kia khi mạng sắp chết, Phật cùng các vị thánh chúng đều đến rước về”. Trong Quán Kinh, văn Cửu Phẩm, hoặc nói Phật A Di Đà đến trước người tu kia, hoặc nói đến chỗ người kia, đều là cái ý hiện ra trước mặt vậy.

Nói các kinh là: Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức nói: “Nếu có người được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ Như Lai, nhứt tâm tin muốn, người đó khi mạng chung, Phật A Di Đà cùng các vị tỳ kheo hiện ở trước người đó; ma nó chẳng dám phá hoại cái tâm chánh giác người kia”.

Lại kinh Cổ Âm Vương nói: “Trong tứ chúng (1), hoặc có người nào hay chơn chánh thọ trì danh hiệu Phật kia. Đến khi mạng chung, Phật A Di Đà liền cùng với đại chúng hiện ra ở trước mặt người đó, khiến cho người đó được thấy”. Lại Kinh Hoa Nghiêm quyển 46 nói: “Đức Như Lai có 10 món Phật Sự: 1. Nếu có chúng sanh nào chuyên tâm nhớ niệm thời Phật hiện trước mặt người đó” v.v… Chính chỗ gọi rằng: chúng sanh niệm Phật, Phật rước cả không bỏ sót một ai. Nếu y theo kinh Bát Nhã thời sức mình lại có hai nghĩa: 1. Sức mình niệm. 2. Sẵn có sức Phật tánh của mình và thêm nhờ sức của Phật nguyện rước, mới thành ba sức. “Sức sẵn có” là như chiếc thuyền. Sức niệm Phật là như buồm chèo. Sức Phật nguyện rước là như gió xuôi. Ba việc đủ trọn, ắt chóng lên bờ kia.

Sớ: “Phật và các vị thánh chúngg là: Phật gồm cả Báo thân và Hóa thân; thánh chúng gồm luôn các vị Bồ Tát, hàng Thanh Văn v.v…

Sao: “Gồm Báo thân, Hóa thân” là: Trong Quán kinh nói rõ về Phật hiện. Trước nói thân Phật cao 60 vạn ức; kế nói thân một trượng sáu; thứ nữa thì nói người sanh về phẩm hạ, vị Hóa Phật đến rước. Thế thời biết người sanh trong chín phẩm, chỗ thấy Phật chẳng đồng. Trong Nhiếp Luận cũng nói: “Bực Đăng Địa mới thấy được ông Phật Báo thân lần hồi mỗi địa càng thấy thân Phật càng nhỏ nhiệm”. Kinh đây chỉ nói Phật hiện chớ không phân ông Phật Báo thân hay ông Phật Hóa thân, do vì nói một gồm nhiều.

“Gồm các vị Bồ Tát, Thanh Văn” là như trong Quán kinh văn Thượng Phẩm Thượng Sanh, nói: “Phật cùng Quan Âm, Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm nghìn bí sô, Thinh Văn đại chúng, vô lượng các đức chúa trời hiện ra trước mặt người đó”. Nhưng cũng có người niệm Phật mà Phật không đến rước để các vị Bồ Tát đến rước đấy. Văn đây theo phần nhiều Phật rước.

Sớ: Hỏi: Cơn lâm chung Phật hiện ra trước, cũng có ma hiện chăng? Đáp: Người xưa đã nói không ma; dẫu hoặc có đó quí tại tự mình biện rành biết lấy.

Sao: “Không ma” là: Riêng tu một pháp thiền định ma ngũ ấm nó nổi lên như trong Lăng Nghiêm, trong Chỉ Quán và các kinh, luận phân biện việc ma rất rành. Kinh đây nói người niệm Phật nhờ sức oai thần của Phật, sức bản nguyện của Phật trong hào quang lớn của Phật che phủ, quyết không có việc ma nó phá. Song cũng có người nghiệp chướng đời trước sâu dày, hoặc không khéo dụng tâm để cho có ma nổi lên, chưa chắc có thể quyết định được, phải phòng biện rành biết lấy.

Như trong kinh, luận nói: “Người tu thấy Phật muốn biện bạch biết cho rành thời có hai phép như đây: 1. Thấy Phật hiện mà không hiệp với trong kinh, luận thì đó là ma sự; 2. Không hiệp với chỗ tu của mình thì đó là ma sự. Sở dĩ vì sao? Do vì với người riêng tu pháp thiền định thời gốc chỗ tu nhơn là duy nhận có tự tâm, chớ không nhận có nương nơi cảnh; cho nên ngoài tâm có Phật hiện, điều đó thôi không cần luận, do vì quả chẳng hiệp nhơn. Kinh nầy nói người niệm Phật, một đời nhớ Phật, cơn lâm chung thấy Phật, nhơn quả phù hiệp, đâu đặng cho là ma sự ư?

Nếu mà người chưa đặng rõ quyết Phật hay là ma được thì phải như hai phép trước kia để biện biệt xét biết mà thôi. Hỏi Đã nói rằng không ma thời ắt là thiệt Phật. Mà sao tôi nghe người xưa nói Phật không khứ không lai, nay vì lẽ gì có Phật hiện ở trước mặt người kia? Đáp: Với cái đạo lý cảm ứng nó liên lạc lẫn nhau, cũng chẳng ngại gì. Với lẽ không lai mà lai, không thấy mà thấy. Cho nên ngài Vĩnh Minh bảo rằng: “Như huyễn chẳng thật thời tâm và Phật đều quên; nhưng tướng huyễn chẳng không thời không hoại tâm và Phật”. Lại nói: “Ông chơn thật pháp thân vốn không sanh không diệt. Song từ nơi chơn Phật mà phát khởi ra ông Phật Hóa thân để dẫn dắt người si mê. Đây chính là công đức bản nguyện của Như Lai, khiến những chúng sanh nào có duyên kia, chuyên tâm tưởng niệm, hay ở trong tự tâm mình thấy Phật đến rước; chẳng phải chư Phật thiệt có sai vị Hóa thân đến rước”. Thế thời với thân Phật vẫn thường vắng lặng mà chúng sanh thấy có khứ, có lai như hình trong gương, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, như việc trong mộng, chẳng có chẳng không.

Lại trong kinh Pháp Hoa nói: “Do chúng sanh muốn cho được thân Phật hóa độ thời đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật ra để vì thuyết pháp cho nghe”, cũng ý đây vậy. Cho nên hễ có nước trong thời trăng tự đến, tâm thanh tịnh thời Phật tự hiện. Chỗ gọi rằng cảm ứng đạo giao, khó nghĩ, khó bàn.

Sớ: Nên biết khi lâm chung, thiết một tượng Phật và trợ niệm. Văn đây chép trong kinh Phật, phép đây truyền ra từ bên nước Tây vức; không nên nghi ngại.

Sao: Kinh Hoa Nghiêm quyển 15, lời tụng nói: “Hễ thấy có người lâm chung thì ta khuyên họ niệm Phật. Lại trương tượng Phật cho họ xem kính; khiến người đó đối với Phật rất sanh tâm qui ngưỡng theo Phật cho nên đặng thành hào quang ấy”. Lời sớ nói: “Phép bên Tây Vức có người khi muốn bỏ sanh mạng, dạy họ trở mặt về hướng Tây; ở trước để một tượng Phật đứng, tượng kia cũng trở mặt về hướng Tây. Dùng đảnh phan treo trên tay tượng, bảo người bệnh tay nắm đuôi phan, tưởng vãng sanh theo Phật, và bao nhiêu người cùng đốt hương, đánh chuông trợ niệm danh hiệu Phật. Chẳng những vong giả được sanh về trước Phật, mà cũng trọn thành thấy được Phật quang. Nếu với người xuất thần dạo đi các cõi, đi ở tự tại không ngăn ngại, đó là bực siêu phàm để ngoài lời luận. Còn hoặc người chưa được như vậy thời phải gắng gổ làm theo trên đó. Nghĩa là riêng vì trương tượng Phật để trợ việc vãng sanh; huống chi người kia nhứt tâm bất loạn, cảm Phật hiện ra trước mặt; chớ lo là ma sự mà tự sanh tâm nghi ngại không nên!

Sớ: Xứng lý thời tự tánh vọng cùng, chơn lộ là nghĩa “cơn lâm chung Phật hiện”.

Sao: Vọng tâm chưa hết thời mờ mờ mịt mịt; đó là cái nghĩa “mạng căn chưa đoạn”. Mê hoặc dứt, chấp trước không, tình lự tiêu, vọng kiến hết tỷ như người chết nhà hư, khói tắt tro bay là cái nghĩa “mạng chung” đấy. Các cái mê vọng hết rồi, không chơn còn đợi gì nữa? Bấy giờ dẫu cầu Phật đừng hiện ra trước mặt cũng không thể được vậy. Song mà lòng từ của Phật vô hạn đâu đợi cơn lâm chung mới là hiện ra trước. Thế cho nên có câu: “Luôn luôn hiện trước kẻ thời nhơn mà kẻ thời nhơn tự chẳng biết” (2).

NGÃ VÃNG PHẬT XỨ

      Người ấy khi chết tâm chẳng điên đảo liền đặng vãng sanh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà.

      Sớ: Văn trên nói chữ “lâm” đấy là mạng gần muốn thác. Văn đây nói chữ “chung thời” chính là nói cái lúc hơi ấm (3) trong mình sắp hết, thần thức đi ra. Tâm chẳng điên đảo là do vì nhứt tâm bất loạn nên chẳng điên đảo. Do vì không điên đảo nên chẳng sanh về chỗ khác. “Liền đặng” là nói sự vãng sanh rất mau chóng.

Sao: Điên đảo là do người kia khi bình nhựt thuận theo thói vọng tưởng, không tu chánh niệm, tâm nhiều tán loạn. Như văn trước đã nói: Lúc sắp bỏ hơi ấm thời một đời chỗ làm lành hay dữ; bấy giờ đều hiện ra trước mặt; tâm thần lo sợ trăn trở mò mằn co cúm. Người đáng vào trong địa ngục thời tự thấy đối với núi đao, rừng kiếm, lại xem là vườn huê kiểng (vui thích). Người đáng đọa trong loài súc sanh thời với bụng ngựa thai lừa lại nhận là nhà cửa. Dầu cho người làm lành, được sanh cõi người hay cõi trời đi nữa, nhưng cũng chưa khỏi cái khổ: ghét, thương, cha, mẹ (4); nhẫn đến bực Tiểu Thánh sơ tâm (5) còn chưa chính biết được chỗ xuất nhập (6) nên chi gọi rằng điên đảo (7). Nhơn điên đảo đấy nên phải tùy nghiệp thọ sanh trong 3 cõi, 7 thú (8).

Nay kinh nầy nói: Đã nhứt tâm bất loạn thời trong sẵn chánh niệm, ngoài cảm Phật rước; bỏ báo thân nầy liền sanh về nước kia như lời Phật dạy: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ tịnh”. Lại nói tất cả quốc độ duy có tâm tưởng kềm giữ. Trọn thành tâm tưởng thanh tịnh thời ắt đặng vãng sanh, hẳn không nghi ngờ gì nữa (không sợ sanh về chỗ khác)

. “Sanh về chỗ khác” là có ba chỗ: 1. Thế giới Ta Bà đây; 2. Cõi nước Phật khác; 3. Chỗ biên địa nước kia; nay đều lựa bỏ ra đó. Chữ “tốc” nghĩa là Mau, là không trải qua thân trung ấm, không cách ngày giờ, nên trong Quán Kinh nói: “Như trong khi đờn chỉ đã sanh về nước Cực Lạc kia rồi”.

Lại ngài Trí Giả nói: “Cơn lâm chung mà tâm vẫn ở trong định, tức là cõi tịnh độ. Khi tâm nó động niệm tức là liền sanh về cõi tịnh độ”. Chỗ nói “tâm ở trong định” là: Kinh nầy nói “tâm chẳng điên đảo” vậy. Chỗ nói “tâm nó động niệm” là sau đó nguyện được sanh về nước kia.

Sớ: Kinh Đại Bổn nói: “Thân thể của người ở bên nước Tịnh Độ, chẳng phải như thân thể của người ở cõi đời này và cũng chẳng phải như thân thể của chúng ở trên cõi trời, mà là thân thể ấy đều là những đức chứa các việc lành nên tự nhiên cảm đặng cái thân thể nhẹ nhàng, bởi hóa sanh trong hoa sen, cũng không có người nhũ dưỡng”.

Sao: “Chứa các việc lành” ấy tức là các thân thành tựu bằng đa thiện căn, đa phước đức, chẳng phải như do tâm ái dục làm nhơn, cảm quả thân bằng tứ đại làm thể; cho nên chẳng do thai ngục mà là gá chất nơi ao sen thất bảo vậy. “Cũng không có người nhũ dưỡng” ấy nghĩa là tự nhiên khôn lớn, không phải như bên đất Bắc Cu Lô Châu còn đợi để đầu ngón tay ra sữa mà làm sự nuôi nấng.

Sớ: Do chỗ “nhứt tâm bất loạn” trên thì với những người được vãng sanh kia phân ra làm cái nhơn tam bối cửu phẩm. Lại chín chắn phân tách ra cũng là vô lượng.

Sao: “Tam cửu” là kinh Đại Bổn nói tam bối, kinh Thập Lục Quán nói cửu phẩm, do nhứt tâm phân ra có sự và lý. Sự lý cũng lại phân mỗi cái có Thắng và Liệt. Sau khi được vãng sanh đúng như chỗ căn bổn là cái nhơn tu đó mà chia làm phẩm vị.

“Tam bối” là như kinh Đại Bổn nói: Bực thượng bối là do những người phát tâm Bồ Đề chuyên niệm Phật A Di Đà tu các việc công đức và nguyện sanh về nước kia. Đến khi mạng gần thác, Phật và các hàng thánh chúng hiện trước mặt người đó; người đó liền ở trong ao thất bảo, hoa sen hóa sanh, trụ bực bất thối chuyển, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại. Chỗ ở thì là các cung điện bằng bảy báu ở giữa hư không, cách Phật rất gần”. Thế gọi là: người sanh bực thượng bối; phối hợp với văn trước thời bực này đặng cả sự và lý nhứt tâm.

Bực trung bối là những người không thể tu các công đức lớn mà cũng phát tâm Bồ Đề, chuyên niệm hồi hướng. Khi mạng chung sanh về cõi kia, công đức trí huệ sút hơn bực thượng bối; thế gọi là người sanh bực trung bối. Phối hợp với văn trước thời bực này vừa đặng sự nhứt tâm có dư, nhưng với lý nhứt tâm thời chưa đủ.

Sanh bực hạ bối là những người không thể làm các việc công đức, nhưng cũng phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm nhẫn đến mười niệm, được sanh về cõi kia; nhưng cung điện thì chỉ ở trên đất, lại sút hơn bực trung bối; thế gọi là người sanh bực hạ bối. Phối sánh với văn trước thời bực nầy chỉ đặng sự nhứt tâm, chớ chưa đặng lý nhứt tâm.

“Cửu phẩm” là trong Quán Kinh có nói: Với trong ba phẩm thượng, có người sanh về cõi kia liền đặng trăm nghìn pháp Đà La Ni; có người sanh về cõi kia phải trải một tiểu kiếp mới đặng bực vô sanh nhẫn, có người sanh về cõi kia, còn phải trải ba tiểu kiếp mới đặng bách pháp minh môn, trụ nơi bực Hoan Hỉ địa. So sánh với văn trước thời phẩm nầy được cả sự và lý nhứt tâm; nhưng có cao và thấp cho nên thành ba phẩm; đây đồng như bực thượng bối.

Với trong ba phẩm trung, có người sanh về nước kia liền đặng quả A La Hán; có người sanh về nước kia đến nửa kiếp mới đặng A La Hán; có người sanh về nước kia, trải một kiếp mới đặng quả A La Hán. Phối với văn trước thời ba phẩm nầy với sự nhứt tâm đầy đủ, Lý nhứt tâm còn kém thiếu, cũng có cao và thấp, nên thành ra ba phẩm. Lệ nầy đồng như bực trung bối.

Với trong ba phẩm hạ, có người sanh về nước kia, phải trải 10 tiểu kiếp mới đặng vào bực Sơ địa; có người sanh về nước kia trải đến sáu kiếp hoa sen mới nở, phát tâm vô thượng đạo; có người sanh về nước kia, 12 đại kiếp mới phát tâm bồ đề; phối với văn trước thời 3 phẩm nầy chỉ có sự mà không có lý; cũng do cao thấp nên thành ra 3 phẩm; lệ như bực hạ bối.

“Chín chắn phân ra” là như trong văn trước nói: Trong bối phẩm phân ra lại phân ra thời có trăm nghìn vạn ức vô cùng Bối và Phẩm, đều là do sự nhứt tâm và lý nhứt tâm chỗ đặng có cao và thấp mà làm ra có thứ lớp nhiều thế.

Sớ: Như trong Quán Kinh nói: “Bực thượng phẩm thượng sanh là bực người đã đặng quả vô sanh nhẫn”. Ngài Thiên Thai phán ra cho thuộc về bực Sơ Địa, mà kinh Hoa Nghiêm nói: “Với quả vô sanh nhẫn tự có bực thấp và cao”. Thời trong phẩm thượng thượng thật có nhiều phẩm; huống nữa là các phẩm trung và hạ kia!

Sao: “Thấp cao” là Kinh Hoa Nghiêm nói bực Bát Địa trong phần Tịnh Nhẫn, lời Sớ nói: “Bực Vô Sanh Nhẫn lược có hai nghĩa: 1. Ước về pháp; 2. Ước về hạnh. Ước pháp thời những cái lý vô khởi tác đều gọi là Vô Sanh; tâm huệ an trụ trong lý đó nên gọi là nhẫn. Ước hạnh thời Báo thân giới hạnh thuần thục, trí hiệp với lý, không trụ nơi vô tướng, không chấp nơi vô công, rộng rãi như hư không, lặng trang như biển đứng; tâm thức vọng hoặc, bặt hết không khởi, mới gọi là Vô Sanh”. Thuyết trước còn chung các địa, thuyết sau chỉ riêng về Bát Địa; còn bao nhiêu như trong lời tự quyển trước đã có biện.

Cho nên biết bực Vô Sanh Nhẫn tự có thấp và cao, thời trong phẩm thượng thượng từ bực Nhứt Địa nhẫn đến bực Bát Địa đã trùm nhiều phẩm. Với các phẩm kia khá biết vậy nên chín chắn phân ra cũng đến vô lượng.

Sớ: Lại tam bối cửu phẩm, hai kinh phối nhau thời mỗi thuyết có chút khác. Như ngài Phụ Chánh chỗ giải dung thông.

Sao: Trong Quán kinh lời Sớ nói: “Kinh đây nói cửu phẩm vì khiến cho biết phẩm vị có cao và có thấp, tức kinh Đại Bổn nói tam bối”.

Ngài Cô Sơn nói: “Tam bối trong Đại Bổn chỉ ngang với sáu phẩm về trước trong Quán kinh. Vì tam bối thuần nói người hành thiện, không nói đến người ác vậy”. Ngài Linh chi phân tam bối chỉ đối với ba ngành phẩm thượng; cho nên nói: “Các thuyết có khác nhau chút đỉnh”.

Ngài Thảo Am Phụ Chánh giải rằng: “Ngài Thiên Thai nói chín phẩm đồng với tam bối là so về ngôi thứ đồng nhau, chớ không phải nói bằng cách so về hạnh nhơn (cái nhơn tu). Thời ngài Cô Sơn, ngài Linh Chi đều không trái với ngài Thiên Thai. Sở dĩ vì sao? Do ngài Thiên Thai chỉ ước về ngôi thứ thời bối phẩm ngang đồng. Còn hai ngài kia chỉ ước về hạnh nhơn thời chỉ bằng ngang với phẩm trung, phẩm thượng. Ngài nào cũng đều có chỗ chứng cứ, nhưng dùng nghĩa chẳng đồng; cho nên chẳng trái vậy”. Song chắc thật mà luận thời tâm phiền não chẳng khác tâm bồ đề, trước ác nào ngại gì sau thiện, người ác đã trở thành người thiện, đâu chẳng phải đồng bực với thánh hiền? Tam bối cửu phẩm phối hiệp ngang nhau, không chi phải nghi hết.

Sớ: Lại kinh Hoa Nghiêm nói: “Người niệm Phật ‘số’ cùng ‘tâm’ bằng nhau” v.v… tức là nghĩa tam bối, cửu phẩm tùy gốc tu nhơn chẳng đồng.

Sao: “Số, tâm bằng nhau” là: Kinh Hoa Nghiêm quyển 23, ngài Ly Cấu Tràng Bồ Tát nói lời kệ rằng: “Như người tu pháp trì danh, lấy Phật làm cảnh giới, chuyên niệm mãi không thôi, thời người đó được thấy Phật. Số, cùng tâm kia bằng nhau” v.v… Giải rằng: Số cùng đồng bực với tâm nghĩa là tùy niệm tùy hiện. Tùy niệm có hai nghĩa: 1. Tùy niệm nhiều ít, Phật hiện cũng in như đó. Như niệm Phật một tiếng, có một vị hóa Phật từ trong miệng bay ra v.v… 2. Tùy niệm cạn, sâu thời Phật hiện cũng xứng đó, như cơn lâm chung thấy Phật, có thắng, có liệt v.v… Nhiều, ít, cạn, sâu, tức bối, phẩm phân biệt. “Người ấy được thấy Phật” tức là đức Phật A Di Đà hiện ở trước mặt người đó. “Chuyên niệm” là gì? Tức là nhứt tâm bất loạn.

Sớ: Lại ngài Chí Nhãn nói hai món tịnh nghiệp cũng là nghĩa tam bối, cửu phẩm.

Sao: Ngài Chí Nhãn pháp sư nói: “Một môn vãng sanh đây có hai pháp tịnh nghiệp: 1. Pháp chánh quán thầm soi trong bản tâm của mình. 2. Pháp trợ hành: làm đủ muôn việc lành. Hai việc đều đặng thời rõ thấu bốn cõi tịnh độ.

Như người chỉ làm đặng sự thiện, gần thời sanh về cõi Đồng Cư, còn xa thì làm cái nhơn cho ba cõi kia. Cho nên biết cõi Tịnh Độ chính là cảnh giới của ông Cứu Lý Bồ Tát đi lên; mà cũng là gồm chứa chúng sanh ngơ ngơ nữa (Cứu Lý: Đắc pháp niệm Phật bằng lý nhứt tâm. Ngơ ngơ: Cái nhơn còn xa).

Lại nói rằng: Bực viên cơ thể đạo (rõ đạo) là phép tịnh nghiệp tối thượng. Nếu thêm lời nguyện để dắt đường thời liền được dự hàng ưu phẩm (phẩm thượng). Còn những chúng tối dốt, chỉ niệm Phật phát nguyện thì cũng được sanh về. Xem một môn Tịnh Độ thời vị thánh nhơn không bỏ một ai cả.

Xét câu nói: “Pháp chánh quán” thời thông cả phẩm thượng, phẩm trung. Câu nói: “Pháp trợ hành” thời đồng cả phẩm trung phẩm hạ. Lại ngài pháp sư làm lời luận đây rất đúng; kẻ xem đến chớ nên khinh thường.

Sớ: Có người hỏi: Với chín phẩm mà tám phẩm dưới từ trong hoa sen hóa sanh ra do vì phẩm thứ nhứt nói kim cang đài. Nay tham hiệp theo các kinh luận thời kinh luận nào cũng vẫn nói cả chín phẩm đều thuộc về hoa sen sanh ra.

Sao: Chấp rằng tám phẩm dưới đều từ hoa sen sanh là họ căn cứ trong Quán kinh văn thượng phẩm thượng sanh nói: “Người kia tự thấy thân mình ngồi trên đài kim cang”, bởi trong đó không có hai chữ “liên hoa”, đó là phẩm thứ nhứt. Cho nên họ nói tám phẩm sau mới là từ trong hoa sen sanh ra. Song trong kinh luận đã nói đành rành, đều nói rằng người sanh Tây phương, cả chín phẩm đều từ hoa sen mà sanh ra kia mà; kêu bằng “cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu…”

Kinh Đại Bổn ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Vô ương số thế giới chư thiên nhơn dân nhẫn đến loài quyên phi xuẩn động, hễ sanh về trong cõi của ta thì đều ở giữa ao thất bảo, trong hoa sen hóa sanh”. Nói chữ Giai (đều) thời gồm cả chín phẩm nốt.

Lại nói các bực đại Bồ Tát phương khác, muốn thấy Phật A Di Đà thì ở nước kia trong ao thất bảo, hoa sen hóa sanh; nói bực Đại Bồ Tát thời ắt không phải phẩm trung, phẩm hạ.

Lại nói người đặng sanh bực thượng bối kia, khi mạng muốn thác, Phật cùng các vị Thánh Chúng đều đến rước về. Người kia liền ở trong ao thất bảo, hoa sen hóa sanh. Nói bực thượng bối tức là đối ngang với bực thượng phẩm, đều không có cái ý rằng bực tối thượng chẳng có hoa sen? Lại kinh Pháp Hoa nói: “Người nghe kinh điển này, y như lời nói trên đây mà tu hành, khi mạng chung liền sanh về Cực Lạc thế giới. Phật A Di Đà có các vị Bồ Tát vây đoanh chỗ ở; người ấy trong hoa sen sanh ra đặng bực Bồ Tát có thần thông, vô sanh pháp nhẫn”.

Xét rằng: Đặng bực vô sanh nhẫn chẳng phải bực thượng thượng phẩm chớ gì?

Lại phẩm hạnh nguyện, đức Phổ Hiền Bồ Tát dùng 10 lời đại nguyện vương để dắt về nước Cực Lạc, mà nói rằng: “Cõi Phật kia chúng hội đều thanh tịnh; ta bấy giờ ở trong liên hoa tốt nhứt sanh ra”. Xét rằng: Đức Phổ Hiền vãng sanh chẳng phải bực thượng thượng phẩm hay sao?

Lại kinh Bảo Tích nói các vị Bồ Tát ở bực thập tâm Hồi Hướng, sau đặng vào trong hoa sen hóa sanh. Xét rằng bực thập tâm Bồ Tát chẳng phải bực thượng thượng phẩm hay sao? Lấy đây nghiệm xét ắt chứng rành.

Hỏi: Quả vậy thời trong văn thượng thượng phẩm, sao lại nói kim cang đài mà chẳng nói hoa sen? Đáp: Vì rằng lối hành văn lẫn nhau có và không, chớ nên chấp nhứt. Do đâu biết thế? Bởi văn thượng phẩm trung sanh cũng nói ngồi trên cái tử kim đài đó rồi; lại cũng cho rằng từ bảy phẩm dưới mới có hoa sen sanh hay sao? Huống chi phẩm trung sắp xuống cũng chỉ nói rằng: “Người ngày khi mạng chung, ví như anh tráng sĩ trong lúc co duỗi cánh tay đã sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới”, trong văn đều thiếu hai chữ hoa sen, rồi lại cũng cho rằng: 6 phẩm dưới mới là từ trong hoa sen sanh hay sao? Xét rằng: Đã nói không hoa sen là hơn thời phẩm trung, phẩm hạ là phẩm thua kém, sao cũng chẳng có hoa sen?

Lại với cái ngành thượng của trung phẩm sắp lên riêng có nói liên hoa đài, thời cái đài đó nó đồng một loại với kim cang đài và tử kim đài chăng? Hay là nó đồng một loại với liên hoa ư? Lộn xộn không thứ lớp, tấn thối không căn cứ; thế rõ biết văn thiếu lẫn mà nghĩa ắt lẫn đủ vậy.

Theo ý hiểu của tôi (ngài Vân Thê) phẩm nào cũng đều có hoa sen tất cả, hoa nào cũng đều có đài tất cả. Nhưng mỗi đài đều chẳng đồng nhau vì có tốt, có xấu, mà cái đài bằng ngọc kim cang thì là cái đài tốt hơn hết đấy thôi.

Như ông Trần Hoài Ngọc ngân đài vừa qua, kim đài nối đến, khá chứng nghiệm vậy. Vả chăng chữ Đài có hai nghĩa: 1. Chữ đài thuộc nghĩa cơ đài, là cái đài nó ở phía dưới hoa vì nó làm cái nền; như ở đời, người ta chạm tượng Phật, dưới có làm cái bửu đài, trên đài để những cánh hoa, trên hoa để vị Phật, phải vậy. 2. Chữ đài thuộc nghĩa phòng đài; là cái đài nó ở trong hoa, vì hoa bao bọc bốn phía nên gọi là phòng. Như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa lấy hoa sen nêu 10 nghĩa Như. Đến văn “như thị báo” nói: “Ví như hột sen đều ở quanh giữa cái phòng đài”. Lại nói: “Hột nương ở trong cái đài” thì người đời thường nói tức là cái gương sen, phải vậy (Liên phòng: buồng sen, vì nhốt chứa hột sen).

Lại kinh Hoa Nghiêm văn Thập Địa Liên Hoa nói: “Hoa sen kia dùng ngọc lưu ly làm cọng, gỗ chiên đàn làm đài gương, ngọc mã não làm nhụy, tua vàng Diêm Phù Đàn làm lá cánh”. Thế thì đều có nói cọng sen, gương sen, nhụy sen và cánh sen. Mà kinh Niết Bàn cũng nói: “Ví như cọng, cánh, nhụy, gương hiệp làm hoa sen”; đây chỗ gọi rằng: Phòng đài đều là cái gương sen, tức là ý nghĩa rằng: ngọc báu chân thúc ca làm đài gương sen của kinh Pháp Hoa. Xem đây, thời biết trong Quán kinh về pháp quán hoa tòa, trước dạy: Phải tưởng hoa sen; kế nói lấy ngọc Thích Ca Tỳ Lăng Già làm cái đài sen. Thế là cái đài nầy nó ở trong hoa.

Lại nói mỗi mỗi sắc vàng, mỗi mỗi chỗ biến hóa; hoặc biến làm đài kim cang; hoặc biến làm lưới báu v.v… Thế thời cái đài nầy lại ở dưới hoa. Cho nên văn thượng phẩm trung sanh trước nói tử kim đài; kế nói dưới chơn cũng có hoa sen bằng thất bảo. Thế thời cái tử kim đài nầy ở dưới hoa đã rõ ràng.

Phàm hoa sen thời ắt có đài (gương), đài ắt có hoa. Nói Kim Cang đài không nói hoa, hay nói hoa không nói đài; văn trước, sau lẫn nhau bày rõ không nên chấp. Nhưng những người đặng sanh lên phẩm thượng thượng, một phen vừa gá vào hoa sen, tức thời hoa nở tức thời thấy Phật, tức thời chứng đạo. Còn các phẩm sau đó thời hoa nở lần lần muộn, thấy Phật lần lần chậm, chứng đạo lần lần cách xa. Lấy đây mà phân biệt thời biết chỉ có phẩm thượng thượng là đặc biệt riêng hơn, nhưng chẳng phải là không hoa sen, vì hễ nói đài thì đã có gồm cả hoa sen rồi. Nếu chấp rằng: Không hoa sen là hơn, có hoa sen là thua, thế là khi dễ sen vậy! Mà với hoa sen đã là khinh dễ thì sao còn cầu về nước Liên Bang? Mà trong pháp quán hoa tòa cũng nói Phật ngồi trên hoa sen thời vị Phật đó cũng là thua hèn ư? Lý đó sẽ nói làm sao cho thông?

Hỏi: Sao ngài Tứ Minh có nói rằng: “Chín phẩm nước Cực Lạc, tám phẩm từ hoa sen sanh ra” ư? Đáp: Ngài Tứ Minh chỉ nói rằng: “Tám phẩm từ hoa sen sanh, chớ ngài chưa nói không hoa sen thiệt là phẩm nào?” Do vì với phẩm trung, phẩm hạ, ngài cũng không nói hoa sen. Nếu quả phẩm thượng thượng không hoa sen thời chắc ngài cũng ắt có nói rành, chớ lẽ nào ngài chỉ mở mối đầu mà rốt cuộc rồi ngài không nói gì hết là sao vậy?

Hay là chữ Bát đó là người ta viết lầm cũng chưa biết chừng! Đâu biết chẳng phải ngài Tứ Minh nói: “Nước Cực Lạc chín phẩm từ hoa sen sanh ra” ư? Đợi bực cao minh biện lại đó.

Sớ: Hỏi: Ngoài phẩm hạ, lại có thai sanh, là thiệt có hay không? Đáp: Đó là vì nêu lên cho biết rằng: Người niệm Phật mà sức tin không kiên cố; chớ thiệt không có thai sanh.

Sao: “Không có thai sanh” đó, kinh Đại Bổn nói rằng: “Đức Phật Thích Ca bảo đức Di Lặc: ‘Nếu có chúng sanh tu các công đức, nguyện sanh về cõi kia mà không rõ trí Phật, chí ý dụ dự; đến khi mạng chung mới ăn năn lỗi mình. Vì vậy, sanh về cõi kia mới vào đến chỗ biên địa, thấy thành thất bảo, liền ở đó, trong hoa sen sanh ra, cũng có tự nhiên khoái lạc như cõi trời Đao Lợi nhưng ở trong thành đó trải qua trăm năm không đặng thấy Phật, không nghe kinh pháp, khổ là vậy đó! Nên gọi là thai sanh, chớ không phải thật có thai sanh như cõi nhơn gian nầy vậy đâu. Lại dụ như nhà vua (Sát Đế Lợi), thái tử của ngài phạm phép bị cầm trong nội cung, ở nhà bằng hoa ngọc, lầu cao điện ấm, đồ ngọc báu trang sức quí tốt rất đẹp, màn báu giường vàng, thức ăn mặc, vật xài dùng thảy đều dư giả, mà lấy dây vàng Diêm Phù buộc xiềng hai chơn, chẳng đặng thong thả; tức dụ như thai sanh vậy.

Lại nói như người đó biết gốc tội của mình, biết tự hối trách, cầu khỏi chỗ đó, tức đặng về đến chỗ Phật Vô Lượng Thọ.

Lại trong kinh Bồ Tát Xử Thai nói: “Bên Tây phương cách cõi Diêm Phù Đề đây 12 ức na do tha, có một cõi tên là Giải Mạn. Quốc độ đó toàn bằng thất bảo, sự vui cõi đó không chi bằng. Bởi móng ý muốn sanh cõi nước của Phật A Di Đà, nhưng còn bị nhiễm đắm nơi cõi đó, không thể đi tới trước đặng”, cũng là đồng loại với nghi thành và biên địa vậy.

Thế là người niệm Phật mà lòng nguyện vãng sanh không tha thiết nên mới ra nông nỗi!

Sớ: Hỏi: Đã nói rằng niệm Phật trong 7 ngày nhưng mà với người khi lâm chung chỉ có 10 tiếng niệm Phật thì trong giây phút ít quá, như thế làm sao được vãng sanh?

Đáp: Chính do vì nhứt tâm bất loạn như trong luận Trí Độ nói. Lại nhờ sức mình và sức Phật như trong kinh Na Tiên nói.

Sao: “Luận Trí Độ nói”: Chép rằng: “Khi người sắp chết, cái tâm trong giờ phút rất ít đó niệm Phật, sao cho hơn đặng trọn một đời gắng sức tu hành? Đáp: Tuy trong thời gian chốc lát, nhưng tâm lực nó mạnh mẽ, tâm rốt sau đó gọi làđại tâm”. Phải biết tâm ấy tức là nhứt tâm bất loạn.

Kinh Na Tiên nói: “Có ông vua hỏi ngài Na Tiên rằng: “Với người cả đời tạo ác khi lâm chung mới niệm Phật đặng sanh về nước Phật, ta chẳng tin lời đó?” Ngài Na Tiên đáp rằng: “Như người rinh một viên đá lớn để ở trên chiếc thuyền; nhờ thuyền đá đặng khỏi chìm. Người tuy trước ác, sau nhơn nhờ niệm Phật khỏi đọa địa ngục mà đặng vãng sanh, cũng lại như vậy”. Thế là tỏ rằng nhờ tâm lực của mình và nguyện lực Đức Phật, cả hai giúp lẫn nhau mới thành được việc.

Sớ: Hỏi: Đã nói rằng vãng sanh, người xưa lại nói: “Sanh thời quyết định sanh, đi thời thiệt không đi”, đó là có sanh không đi qua. Còn nay đây có đi qua để hóa sanh, thành ra hai nghĩa trái nhau?

Đáp: Do sanh trong tâm mình, cho nên qua bằng cách không phải như chơn bước đi qua nên gọi là “vãng sanh”. Như trong Kinh Hoa Nghiêm lời của ngài Giải Thoát Trưởng giả đã nói.

Sao: Kinh Hoa Nghiêm: “Cõi pháp giới trùng trùng, nhưng cũng không ngoài cái tâm”. Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo A Nan rằng: “Mười phương cõi hư không đều ở trong cái tâm của ngươi”. Thế nên biết sanh về nước Cực Lạc tức sanh nơi tự tâm của mình; vì tâm nó không giới hạn thì không Đông, không Tây, thế thì đi đến chỗ nào? Nghĩa là hình dung ra cái lý: Đổi uế, làm tịnh, đổi cái cũ thành cái mới, bỏ một đặng một, tuồng như có chỗ qua, kêu đó là “vãng”, đâu phải rằng từ đây đến kia, như cái tướng đi qua của trong thế gian khỏi thành này qua ấp nọ ư?

Câu “Giải Thoát” là: Kinh Hoa Nghiêm phẩm Nhập Pháp Giới, ông Giải Thoát trưởng giả nói: “Các đức Như Lai kia, chẳng đi đến cõi nầy, ta cũng chẳng đi đến cõi kia, nhưng hễ muốn nguyện thấy thế giới An Lạc Phật A Di Đà, tùy ý liền thấy”.

Đó đã nói rằng: tùy ý thời không vượt ngoài một niệm, mà đã được sanh sang nước kia. Cho nên biết rằng: Hình dung cái lý đặng sanh kia nên gọi đó là “vãng sanh”, mà thiệt ra không chỗ để qua. Với lẽ “không qua mà qua” cũng không ngại gì nói “có qua”. Xét tột mà luận: Chẳng những không qua, lại cũng không sanh. Với lẽ “không sanh mà sanh” cũng không ngại gì nói “có sanh”.

Sớ: Hỏi: Với trong Nội Viện Đâu Suất, người xưa cũng nguyện sanh về, nay sao riêng chỉ nước Cực Lạc? Đáp: Vì với nhơn tu có khó, có dễ, cảnh chứng có thắng, có liệt, và chủ có thầy có trò.

Lại hỏi: Thế giới Thắng Liên Hoa rất hơn nước Cực Lạc, sao lại không nguyện về? Đáp: Vì nước Lạc Bang ở gần không nên tìm xa.

Sao: Ý người hỏi là cho rằng: Đức Di Lặc cũng hiện tại thuyết pháp, chốn Nội Viện cũng thanh tịnh trang nghiêm, mà không cầu vãng sanh về đó là cớ làm sao? Đáp: Có ba nghĩa:

1. Vì cái nhơn tu khó dễ là: Phàm sanh nội viện phải đủ trí đức, đoạn đức (10), có hai công đức đó mới kham dự hàng thánh lưu. Ấy là khó, không bằng nước Cực Lạc: hễ người cầu vãng sanh tịnh niệm thành tựu liền đặng như nguyện, không luận còn hoặc nghiệp, phải có trí, có đoạn gì vì được đới nghiệp vãng sanh; ấy là dễ.

Xưa ngài Huyền Tráng Pháp sư nói: “Với chốn Nội Viện dễ sanh bởi cõi Đâu Suất cách cõi nhơn gian số dặm đường có thể tính được; cõi Cực Lạc cách cõi Ta Bà trải qua nhiều cõi Phật!” Ngài Tráng sư kia chỉ luận về dặm cõi, chớ không luận về cái nhơn tu; nay kinh nầy luận nhơn tu, không luận dặm cõi. Mỗi nghĩa đều có chỗ dùng riêng, song luận cho tột lẽ thì lời ngài Tráng sư là vì căn cơ một loại đương thời; còn lời của kinh nầy là cái đạo để muôn đời thường làm.

2. Cảnh có thắng và liệt là: Chốn Nội Viện không khỏi ở trong tam giớI, còn nước Cực Lạc ra khỏi ngoài tam giới. Chỗ nghi thành của nước Cực Lạc còn không có nữ nhơn, còn sanh về chốn Nội Viện rủi sanh trật ở ngoài thời bị đắm việc vui ngũ dục. Cho nên nói sanh nhằm phẩm hạ hạ là một bực chót của nước Cực Lạc còn hơn trăm lần ở chốn thiên cung.

3. Chủ, thầy trò là: Phật Di Đà là bực quả tròn muôn đức đã chứng Như Lai; đức Di Lặc là ông Bồ Tát bổ xứ còn ở bực Đẳng Giác. Kinh nói trong nước Cực Lạc kia có nhiều vị Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ thời biết rằng đức Di Lặc sánh ngang với đức Quán Âm, Thế Chí đồng hầu bên vị Đạo Sư (Di Đà) cũng như thầy trò vậy. Cho nên đặng thấy Phật Di Đà rồi tức thấy đức Di Lặc, thấy đức Di Lặc vị tất là thấy Phật Di Đà vậy. Lại bực cổ đức có nói: “Trước sanh Tây phương, sau sanh Long Hoa” cũng có lý lắm. Riêng cầu về Cực Lạc, đâu chẳng phải ư?

Với thế giới Thắng Liên Hoa đã rõ thấy trong văn Thọ Mạng trước. Nay nói kinh Hoa Nghiêm so luận các quốc độ thời kế sau cõi Ta Bà, tức gọi là nước Cực Lạc; còn xa đó lại càng xa đến trăm vạn vô số thế giới mới nói đến cõi Thắng Liên.

Thế thời cõi Cực Lạc là nước ở gần, cõi Thắng Liên là nước ở xa lắm. Dụ như nước Việt mất mùa, nước Ngô đặng mùa; cất bước là tới ngay nước Ngô, thế nhưng bỏ nước Ngô không tới mà đi mến nước quá xa cách như nước Yên, nước Tần (11) thì cũng lầm lắm đó.

Sớ: Hỏi: Tôi thấy có người một đời niệm Phật khi lâm chung chưa ắt vãng sanh, là sao vậy?

Đáp: Bởi họ chỉ một đời niệm Phật mà chưa phải là nhứt tâm niệm Phật vậy.

Sao: Những bọn lơ lơ một đời niệm Phật đó mặc dầu là không giải đãi nhưng cũng không tinh tấn nên chưa đặng nhứt tâm; thành thử không đặng sanh về. Nếu quả chơn thật dụng tâm mà chưa được thuần nhứt, tuy đời nay chưa đặng vãng sanh nhưng cũng đã trồng cái nhơn vãng sanh, sẽ qua đời sau ắt thành tựu pháp niệm Phật tam muội mà đặng vãng sanh.

Như trong kinh Phạm Võng nói: “Nay tuy chưa đắc giới mà cũng đặng thêm phần lợi ích cho sự thọ giới đời sau”. Trong Tông môn bảo rằng: “Đời sau vừa ló đầu ra chỉ nghe một phần mà biết được một nghìn phần” là nghĩa đây vậy. Dè chớ đổ rằng: Tôi thấy người kia niệm Phật luống nhọc vô ích, rồi chê lời Phật dạy cho là không đủ tin!

Sớ: Xứng lý thời tự tánh vô hình là nghĩa “bất điên đảo”; tự tánh vô cấu là nghĩa “sanh Cực Lạc Tịnh Độ”.

Sao: Đức Lục Tổ nói: “Ta có một vật không đầu, không đuôi, không bề lưng, không phía mặt”; thế thì dù tìm cái tướng ngay của nó còn không thể được, toan lấy cái gì là xiên là lộn ngược mà hòng kêu là “điên đảo” ư?

Bát Nhã Tâm kinh nói: “Đấy là cái tướng chơn không của các pháp vì nó bất cấu, bất tịnh”, thế thì tìm cái tướng tịnh của nó còn không thể được, toan chỉ chỗ nào để gọi là cõi Ta Bà ư?

Vậy nay nói chỗ “không điên đảo” đó là toàn thân đã ngồi liên đài nước Cực Lạc. Còn nếu một niệm điên đảo vừa sanh tức thời đã ở ngay quốc độ Ta Bà! Rõ là tâm tịnh độ tịnh; vì tức tâm tức độ, tức độ tức tâm thì Tây phương cách đây chẳng xa.

Kết Khuyên

Nầy Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi ích ấy nên nói lời khuyên bảo nấy. Nếu có chúng sanh nghe lời đây rồi nên phải phát nguyện sanh về cõi nước kia.

Sớ: “Ích lợi ấy” là chỉ văn trước “thấy Phật đặng vãng sanh”. “Lời đây” là: Thấy lợi lớn nầy nên nói lời nhứt tâm trì danh đây vậy. Người không nguyện sanh về thời riêng phụ lời Phật. Đây là lớp khuyên thứ hai.

Sao: Lời mà không lợi ích, Phật Ngài không nói. Nay pháp trì danh liền đặng vãng sanh đối với chúng sanh có lợi ích lớn nên Phật ngài nói vậy. Bởi vì đã đặng vãng sanh đó gọi là tự lợi. Sanh về nước kia rồi, nghe pháp đắc đạo, trở lại cõi Ta Bà có thể rộng ra độ nhiều chúng sanh; đó gọi là lợi tha.

Đủ hai việc lợi trên, cho nên nói là “lợi lớn”. Lớp khuyên thứ hai là: ban đầu nói chúng sanh nghe ấy chỉ là đặng nghe nước kia trang nghiêm tốt đẹp nên khởi tâm nguyện muốn, mà chưa biết làm như thế nào để đặng sanh đó (là lớp khuyên thứ nhứt).

Nay Phật mới chỉ ra cái nguyên do rằng nhứt tâm trì danh thời được Phật đến tiếp dẫn, liền đặng sanh nước kia thời nguyện lại càng thâm, chí lại càng thiết; cho nên nói lớp khuyên thứ hai.

Sớ: Lại nữa nói việc lợi là: rõ lại với việc hại bởi không nguyện vãng sanh là chỉ chỗ để ưa và nhàm vậy.

Sao: Cõi nầy tu hành trải nhiều kiếp thăng trầm mà chưa chắc đặng giải thoát, nay dùng pháp xưng danh niệm Phật chắc được vãng sanh liền lên bực bất thối; so chỗ lợi chỗ hại rõ như xem chỉ bàn tay. Lợi tức là các việc vui, hại tức là các việc khổ, nên phải có ưa và nhàm.

Sớ: Lại chữ “ngã thuyết” (ta nói) chính là rõ về phần giáo có nói rằng không ai hỏi Phật mà ngài tự nói vậy, nên gọi bằng “vô vấn tự thuyết”.

Sao: Phật thấy lợi ích lớn ấy kíp vì chỉ bày; thế mà còn e các chúng sanh chậm chạp, mất nhờ chỗ lợi; cho nên ngài không đợi ai thỉnh vấn vậy.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh cụ túc là nghĩa “lợi ích”.

Sao: Thử xem tự tánh thiếu thốn sự gì? Trên thể Linh Tri (Phật tánh) Phật Di Đà cùng các thánh chúng cả ngày hiện trước; trong cõi thường Tịch Quang (pháp giới tánh), nước Cực Lạc, cõi Tịnh bang không giờ phút nào chẳng vãng sanh.

Ngặt vì Phật thấy lợi ấy, chúng sanh như đui. Phật nói lợi ấy, chúng sanh như điếc. Tuy đã nhọcnNgài mỏi miệng cạn lời, nhưng cần phải chính ta một phen tự thấy mới được.

C. GIAO DẪN PHẬT NGÔN LINH ĐOẠN NGHI HOẶC
(Phân làm 2 phần)

1. Minh Phật Đồng Tán: Dẫn các đức Phật đồng khen.
2. Thích Kinh Ưng Tán: Giải kinh nầy nên khen ngợi.

Minh Phật Đồng Tán (phân ra làm hai phần)

1. Bổn Phật Tán: Phật Thích Ca khen.
2. Tha Phật Tán: Các Phật đồng khen.

Bổn Phật Tán

Nầy Xá Lợi Phất! Như ta nay đây tán thán cái lợi ích là công đức bằng số bất khả tư nghì của Phật A Di Đà.

Sớ: Nói văn trên chẳng những chỉ mình ta thấy lợi ấy và nói lời nầy, mà cả đến 10 phương các đức Phật cũng đồng thấy lợi ấy và nói lời này nữa.

Chữ TÁN là ngợi khen tột bực; chữ THÁN là quá cảm động phải thán phục!

Câu “bất khả tư nghì” là trước kia nói ta thấy lợi ấy, nay đây lại cực lực nói cái lợi ấy nữa là không phải nói cái lợi tầm thường đâu. Văn nghĩa gấp ba lần chuyển lên: 1. Chẳng phải vô ích nên nói là lợi. 2. Chẳng những cái lợi về phước, về sự; cho nên nói cái lợi công đức. 3. Chẳng những cái lợi chỉ là công đức mà thôi, cho nên nói cái lợi công đức mà bất khả tư nghì nữa.

Do vì thế nên đức Phật Ngài phải cực lực tán thán, chứ không phải một sự ngẫu nhiên.

Sao: “Xưng tán” là tỏ bày khen ngợi công đức quảng đại của Phật kia để cho người ta biết mà qui tín; hầu đặng phần tiếp độ.

Cảm Thán là quá cảm khích phải than thở, vì nói pháp nầy cõi Nhơn Thiên ít có nên nhiều kiếp khó gặp, là để khiến người vừa thương lẫn mừng. Hỷ là mừng rằng nay mình đặng nghe. Bi là tủi rằng mình nghe đây rất muộn vậy!

Câu “bất khả tư nghì” là nguyên tên kinh nầy, nghĩa nó đã thấy trong lời tựa văn trước. Kinh tên “bất khả tư nghì” là chính rằng đức Phật A Di Đà có đại công đức chẳng khá nghĩ bàn đó vậy.

“Văn có ba lần chuyển” là: Trong việc lợi gồm nhiều bực dần dần sâu rộng: 1. Cái lợi phước sự là: Tu về phước sự tướng, là vì cái nhơn trong thế gian nên kêu là lợi nhỏ. 2. Cái lợi công đức là vì cái nhơn xuất thế gian nên kêu là lợi lớn. 3. Công đức chẳng nghĩ bàn là vì cái nhơn bực thượng thượng xuất thế gian nên kêu là công đức lớn hơn trong các công đức lớn.

Số là công đức tuy hơn phước đức và sự tướng, nhưng ở trong đấy lại còn phân ra có hơn có kém: Có thứ công đức còn khá nghĩ bàn, có thứ công đức chẳng khá nghĩ bàn. Nay pháp trì danh đây là công đức chẳng khá nghĩ bàn vậy, cho nên trong lợi lớn lại nói là lợi lớn hơn!

Sớ: Với câu “bất khả tư nghì” như trong kinh Thanh Vương nói: “Thế giới nước An Dưỡng kia, phàm những gì của Phật pháp đều chẳng khá nghĩ bàn, với pháp thần thông hiển hiện biến hóa chẳng khá nghĩ bàn. Nếu ai có thể tin nhận được sự như vậy thì người ấy chẳng khá nghĩ bàn; với chỗ đặng nghiệp báo tốt cũng chẳng khá nghĩ bàn”.

Lại nữa với tất cả bốn món y báo, chánh báo, nhơn và quả cũng đều chẳng khá nghĩ bàn: Không thể lấy trí thức để suy nghĩ và không thể dùng lời lẽ để bàn nói cho tường tất được!!!

Sao: Với công đức ấy phân làm bốn món: 1. Công đức thí pháp rộng lớn, nghĩa là đối với thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, ngôi Tam Bảo vô lượng, 37 phẩm và các pháp môn khác nữa đều bất khả tư nghì. 2. Công đức thần thông biến hóa khắp cùng, nghĩa là đối với nước, chim, cây, rừng đều nói pháp nhiệm mầu; món ăn, thức mặc, đến cả việc thọ dụng đều tự nhiên sẵn có, chúng sanh đều đủ tướng hảo, đều đủ thần thông biến hóa, cũng đều bất khả tư nghì. 3. Công đức tín thọ do căn lành đời trước, nghĩa là đối với pháp “nan tín” đây, những người mà hay tín thọ được là người đó đời trước đã có tu căn lành nhẫn đến vô lượng, với người cũng bất khả tư nghì. 4. Công đức quả báo khó hơn nghĩa làđối với hễ niệm Phật được nhứt tâm liền đặng vãng sanh, liền đặng vào ngay hội Thượng Thiện, chứng liền bực bất thối chuyển, rốt ráo thành quả Phật, đều vượt khỏi thường tình; cho nên đều nói công đức chẳng khá nghĩ bàn. Như Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Nghĩa kinh nầy chẳng khá nghĩ bàn, đặng quả báo cũng chẳng khá nghĩ bàn”, thật thế.

Câu “Y, Chánh, Nhơn, Quả”: Chữ Y nghĩa là cõi Đồng Cư tức là cõi Tịch Quang; chữ Chánh là Ứng thân tức là Pháp thân; chữ Nhơn là bảy ngày niệm Phật thành công; chữ Quả là một phen sanh về, đặng bực bất thối chuyển, lại cũng vượt khỏi thường tình; cho nên đều nói “chẳng khá nghĩ bàn”.

Thuở xưa ngài Anh Pháp sư ở đất Đông Độ giảng kinh Hoa Nghiêm đã 40 lượt, nhơn khi vào trong Tịnh Nghiệp Đạo Tràng của ngài Xước thiền sư, thâm nhập được pháp môn tam muội; sư than rằng: “Giận mình nhiều năm luống tìm văn sớ nhọc thân tâm vậy, nào dè pháp niệm Phật nầy nhiệm mầu chẳng khá nghĩ bàn!”

Sớ: Xứng lý thời tự tánh nó lìa hẳn hai cái tướng: tâm và ngôn, là nghĩa “công đức chẳng khá nghĩ bàn”.

Sao: Luận Khởi Tín nói tâm (tánh) nầy từ xưa đến nay mãi đến bao giờ cũng vẫn ly tướng tâm duyên, ly tướng ngôn thuyết. Thế cho nên hễ vừa manh tâm niệm là lầm, móng ý tưởng là sai, chấp câu văn là mê, theo lời nói là mất; thế thì phải như thế nào? Mà dù cho ngoài ngậm miệng, trong tắt máy suy nghĩ cũng là y nhiên bị lạc về tánh vô ký: Là không nhớ không quên. Do đây mới biết công đức kia là chẳng khá nghĩ bàn.

Tha Phật Tán (phân ra làm sáu phần)

1. Đông Phương
2. Nam Phương
3. Tây Phương
4. Bắc Phương
5. Hạ Phương
6. Thượng Phương

ĐÔNG PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)

1. Liệt danh hiển quảng: Kể tên rõ rộng nhiều.
2. Hiện tướng biểu chơn: Bày tướng lưỡi chắc thật.
3. Phát ngôn khuyến tín: Thốt lời để Khuyến tín.

LIỆT DANH HIỂN QUẢNG

Phương Đông cũng có các đức: A Sơ Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật v.v… như vậy các vị Phật nhiều bằng số hằng sa.

Sớ: Dẫn lời khen của các đức Phật thời người ta thấy rằng: Đối với pháp môn Tịnh Độ đây chính là một thành pháp rất hiệu lực vì được hàng nghìn vị Phật, vô lượng các vị Phật khác đều riêng miệng, chung lời cùng nhau để khen ngợi nên người ta phải tin chắc chớ không còn nghi gì nữa. Bản dịch của nhà Đường có đủ 10 phương, nay thiếu bốn góc là bớt văn.

Trước dẫn phương Đông đó là theo phương phép thông thường, mà cũng là lấy phương Đông để nêu trí huệ.

Sao: “Mười phương” là: ngài Tráng Sư dịch có bốn góc, thời thành 10 phương. Nay chỉ nói 6 phương là do phương chánh nó gồm phương góc (phụ) nên nói “bớt văn”.

Nói “theo phương pháp thông thường” là: Trong các kinh phàm chỗ nói 10 phương thường trước nói phương Đông làm đầu vì phương Đông theo bốn mùa thì nó thuộc về mùa Xuân, vạn vật sanh trưởng nên có nghĩa như trí huệ tiến triển. Bởi trí là như đấng tiên đạo (ông dắt đường) sáng suốt, pháp sanh ra vạn pháp thật dụng; cho nên bắt đầu nói phương Đông, tức như ý nghĩa rằng: ông Xá Lợi Phất, đức Văn Thù làm bực dẫn đạo trong chúng (làm đầu trong chúng).

Sớ: Nói lên 6 phương đó là vì đức Phật Thích Ca ở phương giữa (trung ương).

Sao: Đã nói có 6 phương là: trên, dưới và bốn phía mà sao lại không nói đến trung ương? Số là đức Thích Ca ở thế giới Ta Bà, lấy chỗ bản sở ngài ở làm trung ương. Đối với chính giữa thì phía trước, phía sau, bên tả, bên hữu, cõi trên, cõi dưới thành 6 phương.

Sớ: Phật A Sơ Bệ dịch là Bất Động vì pháp thân Phật bất động; có một thuyết khác nói: “Vì chẳng bị hai bên nó làm lay động nên nói bất động”.

Sao: Nghĩa Pháp thân là bất sanh, bất diệt, vô khứ vô lai; với bực Diệu Giác (quả Phật) cũng không thêm; với kẻ vô minh (chúng sanh) cũng chẳng giảm vì lặng lẽ thường còn, như như bất động.

“Hai bên” là bên có, bên không vậy. Với có, nó không thể làm cho ta đắm mắc vào các cái tướng có; với không, nó chẳng thể làm cho ta phải dính vướng cái không. Nghĩa là không chấp đoạn, không chấp thường vì hai bên đều bất động, bởi lẽ tuyệt đối.

Hỏi: Phương Đông thuộc mùa Xuân sanh trưởng muôn vật. Đối với quẻ là quẻ Chấn mà quẻ Chấn là động vậy. Chớ sao nói đức Phật kia hiệu là Bất Động?

Đáp: Do lẽ tức động mà tức tịnh đó mới có được cái diệu dụng sanh trưởng vạn vật bằng cách biến hóa vô cùng, nhưng mà cái bản thể vẫn thường vắng lặng. Vì vắng lặng nên nói là Bất Động. Kinh Hoa Nghiêm lấy phương Đông tiêu biểu cho trí bất động cũng là chính ý đây vậy.

Sớ: Phật Tu Di Tướng là vì tướng của Phật tốt đẹp vô cùng như núi Tu Di.

Sao: Tu Di dịch Diệu Cao. Núi nầy do các ngọc báu dựng thành nên gọi là Diệu, là tốt quí nhứt. Vượt khỏi các núi nên nói là Cao, là trên cả.

Tướng hảo của Phật do tu được trăm phước kết thành, không phước nào chẳng cụ túc; thế gọi đó là Diệu (sang đẹp nhất). Tướng hảo của người, của trời và bực nhị thừa, với các vị Bồ Tát cũng đều không bì kịp; thế gọi là Cao.

Sớ: Thế nào gọi là Phật Đại Tu Di? Vì đức của Phật cao rộng, dụ như núi Tu Di lớn. Có một thuyết khác nói: Danh của Phật lớn hơn núi Tu Di, vì tinh thần cao cả như trong kinh Duy Ma đã nói.

Sao: Núi Tu Di cao rộng vượt khỏi 7 lớp núi vàng (núi thất kim). Do đối núi thất kim, gọi đó là lớn. Đức của Phật cao rộng, không chi sánh bằng, dụ như núi Tu Di lớn vậy. “Danh Phật” là: Kinh Duy Ma nói: “Danh của Phật đồn khắp cao xa, vượt khỏi núi Tu Di”, nghĩa là lớn hơn núi Tu Di kia vậy. Bởi núi kia dù quí báu nhưng chỉ bằng vật chất vô tri vô giác.

Sớ: Phật Tu Di Quang là hào quang của Phật rộng phóng ra chiếu khắp hơn hết, cũng như núi Tu Di vì ánh sáng phủ hết các núi vậy.

Sao: “Hào quang sáng” có hai nghĩa: 1. Núi Tu Di do các ngọc báu kết tinh làm thành. Thể chất của ngọc báu nó chói ra ánh sáng, cũng như thân Phật tâm rất thanh tịnh thời trí giác sáng suốt phóng ra. 2. Núi Tu Di thể nó lớn thì tia sáng nó cũng lớn; cũng như Phật có trí lớn thì hào quang sáng vô lượng vậy.

Sớ: Phật Diệu Âm là tiếng pháp tròn trịa nhiệm mầu vì Ngài thuyết pháp thích hợp cả các căn cơ.

Sao: “Tiếng pháp tròn mầu” là như kinh Duy Ma nói: “Đức Phật dùng một tiếng diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại, mỗi trình độ đều nghe hiểu được cả”. Lại nói: “Đối với tiếng của chúng nhơn, tiếng của Phật là nhiệm mầu đệ nhứt, vì là có cái tướng hảo phạm âm”.

Sớ: “Như vậy hết thảy” là: Nhiều quá không thể nói kể cho hết nên chỉ kể nói năm vị Phật, còn thì dùng nghĩa chữ “đẳng” là tất cả hay “vân vân..” để bao gồm đó. VớI Hằng hà cũng nói Căng Già hà. Chữ “sa” là hột cát; để dụ số nhiều Phật kia.

Sao: Hằng hà là một con sông tại bên nước Tây Vức (Ấn Độ) bên ao Vô Nhiệt. Trên đảnh núi Hương Sơn có ao Vô Nhiệt Não, phát nguyên chạy ra bốn con sông. Sông Hằng nầy ở về phía Nam, rộng bốn mươi dặm; cát trôi theo dòng nước rất là nhỏ. Phật thuyết pháp ở gần con sông kia nên phàm nói số nhiều thường lấy số cát kia để ví dụ.

Nay nói bên phương đông có rất nhiều vị Phật như số cát rất nhiều trong sông Hằng kia. Nếu cứ theo kinh Pháp Hoa về lời dụ một mảy bụi làm một kiếp thì số cát sông Hằng ấy cũng là rất ít. Nay ví số cát sông Hằng để tỏ ý thật là vô tận, cho nên kinh Đại Bổn nói: “Vô lượng vô số, bất khả tư nghì, vô hữu đẳng đẳng, cả vô biên thế giới sở hữu chư Phật Như Lai đều đồng khâm khen Phật A Di Đà sở hữu công đức” thời số cát sông Hằng kia chưa đủ dùng để dụ cho hết đó vậy.

Sớ: Với các danh Phật trên đó, ngài Linh Chi nói: “Giữa các nhà Tổ xưa nay, có vị truyền nhau không giải; cũng có ngài thích nghĩa như thế này; hoặc vì lấy cái nhơn hoặc vì lấy cái quả, hoặc dùng về Tánh, hoặc dùng về Tướng, hoặc thủ theo tâm từ, bi, trí, đức, hạnh và nguyện v.v… của chư Phật để giải thích ra mỗi danh nghĩa thì cũng không ngại gì”.

Sao: “Không giải” là vì bởi Phật đủ muôn đức tánh, không thể lấy một cái danh đức mà giải nói cho rõ hết những đức tánh ấy, còn dịch giải thì cái tên Phật quá dài vì nhiều chữ. “Cũng có giải” là vì bởi Phật đức dung thông vô tận nên cũng có thể lấy một đức mà gồm thông muôn đức; thế thì riêng kể một đức tức đủ các đức rồi.

Cho nên hễ nói nguồn nhơn thì đã gồm biển quả; nói quả thời suốt thấu đến nhơn; vì không lẽ có trí mà chẳng có bi; có bi mà chẳng có trí. Không có hạnh nào chẳng do nguyện khởi; không có nguyện nào phi hạnh mà thành. Như vua Nghiêu có nhơn, vua Thuấn có hiếu, vua Võ có kiệm, vua Thang có khoan, nghĩa là cũng có lẫn nhau đều đủ hết cả.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh có trí huệ chẳng khá cùng tận là nghĩa phương Đông có Hằng sa Phật.

Sao: Với phương Đông nghĩa thấy giải văn trước. Vật có hình tướng thời có cùng tận, chớ trí huệ thời không tột hết vì bản thể nó là vô tướng. Tìm trí huệ bên ngoài có thể hết, tìm trí huệ trong tự tánh không thể hết được.

Nói “cát sông Hằng” đó cũng chỉ là dụ được phần ít đấy thôi. Sở dĩ chúng nhơn đem hết cả tâm lực tư duy, cùng nhau để so lường cũng chẳng xét lường được trí của Phật.

HIỆN TƯỚNG BIỂU CHƠN

Mỗi vị Phật đều ở nước mình hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

Sớ: Chữ “kỳ quốc” là nước bản sở của mỗi Phật tự ở. “Các ư kỳ quốc” là thấy mỗi vị Phật, Phật nào cũng đều vậy cả. Bên tả, bên hữu là bề rộng. Tiền hậu là bề dài. Cõi Tam Thiên Đại Thiên rõ như trong luận Cu Xá nói. “Khắp trùm cõi Tam Thiên” là cực lực nói bề rộng dài của tướng lưỡi của chư Phật.

Do vì đức Phật đã nhiều kiếp tu khẩu nghiệp được thanh tịnh. Nếu muốn rõ nguyên do đấy, thì xem trong kinh Hoa Nghiêm đã có nói.

Nói đoạn văn đây là để rõ rằng với lời Phật là ắt đáng tin, khiến đoạn hết tâm nghi.

Sao: Luận Cu Xá bài tụng nói: “Kể từ bốn đại châu, mặt nhựt, mặt nguyệt, núi Tô Mê Lô, cõi trời Lục Dục tột đến cõi trời Phạm thiên cộng là một thế giới. Lại đủ một nghìn lần như vậy gọi là một cõi Tiểu Thiên. Lại đủ một nghìn lần cõi Tiểu Thiên như vậy mới gọi là một cõi Trung Thiên. Lại một nghìn lần cõi Trung Thiên như vậy mới gọi là một cõi Đại Thiên”. Cả cõi Đại Thiên ấy đều chung một số kiếp thành, trụ, hoại, không.

Nay giải nghĩa bốn châu lớn, hai vừng nhựt luân, nguyệt luân, một núi Tu di, từ dưới Địa ngục, đến cõi trời Lục dục; từ cõi trời Lục dục đến cõi trời Phạm thiên, ngang từ trời Sắc giới đây, gọi là một thế giới. Như thế; đếm làm một, đếm đến một ngàn gọi là một cõi Tiểu Thiên. Lại lấy cõi Tiểu Thiên làm con số một, cũng như đếm là một, như thế đếm đến số nghìn kêu là một cõi Trung Thiên.

Lại lấy cõi Trung Thiên đếm làm con số một, cứ như thế mỗi mỗi đếm chồng chất cho đến số nghìn, kêu là một cõi Đại Thiên. Do gấp ba lần nói số nghìn, cho nên nói Tam Thiên Đại Thiên; kỳ thật một Đại Thiên mà thôi. Một thế giới Đại Thiên, tức trong kinh nói một cõi của một vị Phật giáo hóa chúng sanh.

Phật A Súc Bệ nhẫn đến hằng sa các đức Phật kia, mỗi vị làm chủ trong một cõi đại thiên thế giới ấy.

Nay nói các vị Phật, mỗi ngài đều ở trong cõi nước của mình phát ra tướng lưỡi rộng dài phủ trùm trong cõi ấy không chỗ nào mà chẳng khắp.

“Khẩu nghiệp nhiều kiếp thanh tịnh” là: Với điều nói năng thì không dùng lời nói vọng ngữ, lời nói thêu dệt, lời nói hung dữ, và lời nói hai lưỡI, thường dùng lời chơn thật, lời ngay thẳng, lời nhu nhuyễn và lời hòa hiệp. Mà nói nhiều kiếp đấy là: Trong kinh nói lưỡi của phàm phu có dài quá lắm là chỉ tới chót mũi, là nêu cái tướng ba đời không nói vọng; còn Phật là vô lượng kiếp lại đây từng không nói vọng, đã từ lâu đời chứa nhiều công đức của lời chơn thật nên mới cảm được cái tướng lưỡi dài tốt như vậy.

Muốn rõ nguyên do đấy thì kinh Hoa Nghiêm phẩm Ly Thế Gian nói: Vị Bồ Tát có 10 thứ lưỡi, chỗ gọi rằng: Lưỡi mở bày diễn nói cả hạnh nghiệp của vô tận chúng sanh; lưỡi mở bày diễn nói cả pháp môn nhiều đến vô cùng tận; lưỡi khen ngợi các đức Phật đều có công đức nhiều đến số vô tận nhẫn đến lưỡi nói pháp để ngăn dẹp tất cả các loại ma, chúng ngoại đạo, dứt hết sanh tử, phiền não khiến chúng sanh đến cõi Niết Bàn; ấy là 10 thứ lưỡi. Vị Bồ Tát thành tựu 10 pháp nầy mới được tướng lưỡi vô thượng của Như Lai, phủ khắp các cõi nước. Cho nên nói rõ nguyên do Phật được tướng lưỡi như thế thì chẳng những chỉ một nhơn.

Câu “ắt đặng tin” ấy là tướng lưỡi của phàm phu không hơn ba tấc. Người xưa nói: “Khua ba tấc lưỡi thời chê, khen, yểm, khoe theo ý riêng của mình, chưa đáng tin nổi”. Còn Phật đủ tướng lưỡi rộng dài như thế đâu có dối ư? Nay đây với lời của 6 phương Phật khen ngợi Phật A Di Đà còn nghi không tin thời không có lẽ đó. Nếu không tin là người không có duyên với Phật!

Sớ: Lại nữa Bồ Tát trong ngôi Thập Hạnh còn có tướng lưỡi rộng dài đã hơn với lượng trùm đại thiên thế giới đây; nay cũng sơ lược mà nói thế thôi.

Sao: Tướng lưỡi của Bồ Tát là: Kinh Hoa Nghiêm nói bực Thập Hạnh Bồ Tát thành tựu 10 món vô tận tạng nên khi Bồ Tát thuyết pháp dùng tướng lưỡi rộng dài nói ra tiếng tăm nhiệm mầu khắp đầy 10 phương tất cả thế giới.

Nói “10 phương tất cả” thời chẳng những một thế giới đại thiên mà thôi. Bồ Tát còn thế huống chi đức Như Lai!

Văn đây chỉ nói “đều ở trong bổn quốc của mỗi đức Phật” cho nên nói rằng là sơ lược. Thật ra thì Phật khen cõi tịnh độ mà khắp cả 10 phương tất cả thế giới không vị nào mà chẳng khen.

Sớ: Ngài Từ Ân nói: “Tướng lưỡi của Phật chứng việc nhỏ thời lưỡi nó phủ cả cái mặt cho đến mé tóc”; nay nói phủ cả đại thiên thế giới là chứng sự lớn, tức là “đại sự nhơn duyên”.

Lại nói: “Bồ Tát đặng tướng lưỡi phủ cả mặt, cho nên Bồ Tát chỉ nói một lời không hai vì đều là lời chơn thật” thời biết tướng lưỡi phủ mặt đã không nói vọng, huống lưỡi phủ khắp cõi Đại Thiên ư?

Sao: Tướng lưỡi lớn nhỏ là do Phật chứng đặng cái pháp sắc thân tam muội, sáu căn đều được tự tại, giải thoát giữa cảnh sắc 6 trần nên chứng việc nhỏ, chứng việc lớn, đều theo ý ngài biểu hiện ra. Nói “việc lớn” ấy là kinh Pháp Hoa nói: “Phật vì một việc nhơn duyên lớn nên mới xuất hiện ra đời, dạy bảo chúng sanh đều được vào bực Phật”. Nay sáu phương chư Phật khen cõi Tịnh Độ bằng cách hiện tướng lưỡi như thế đấy thời biết pháp môn Tịnh Độ việc lớn đồng với kinh Pháp Hoa. Nếu không phải việc lớn thì theo lối thường người ta nói: “Cắt cổ gà đâu phải dùng đến con dao giết trâu” (12).

Lại câu “Bồ Tát lưỡi phủ cả mặt” đấy là nói bực thua, sánh đó để biết bực hơn, là một biện chứng pháp triệt để để khuyên người tin chắc.

Sớ: Lại với 10 phương đấy là nói theo bề ngang; bằng luận theo bề dọc thì thông đồng đến 3 đời, không vị Phật nào mà chẳng khen ngợi.

Sao: Lấy 10 phương để so 3 đời, thời trước từ Phật Ca Diếp nhẫn đến quá khứ không lường các vị Phật; với sau, từ Phật Di Lặc nhẫn đến đời vị lai không lường các vị Phật, ắt cũng vẫn hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp 3 đời vậy. Các vị Phật tướng đã đồng thời tâm cũng đồng, trí cũng đồng và nguyện cũng đồng. Đã sáu phương Phật đều khen ngợi kinh nầy thời biết ba đời các vị Phật cũng ắt khen ngợi kinh này như sáu phương Phật kia vậy.

Chính chỗ gọi rằng nói và khen không hở dứt đối với kinh nầy phải vậy.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh khắp pháp giới là nghĩa “tướng lưỡi rộng dài”.

Sao: Bực cổ đức nói: “Tiếng nước suối tức là tướng lưỡi rộng dài”. Thế thời với tướng lưỡi rộng dài ấy, chẳng những chỉ các vị Phật có thôi mà tất cả chúng sanh cũng đều có, tức là muôn hình vạn tướng cũng đều có cả; cho nên nói loài hữu tình cùng vô tình cũng chung thành một cái lưỡi. Lưỡi tức là cả pháp giới; cả pháp giới tức là một cái lưỡi. Nếu nói “phủ khắp” đã thành hai cái!

PHÁT NGÔN KHUYẾN TÍN

Nói lời thành thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy”.

Sớ: “Nói lời thành thật” là cái lời đáng tin, do nơi đầu của tướng lưỡi rộng dài ấy nói ra lời thành thật. Nghĩa là đối với kinh Xưng Tán Bất khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này, các ông nên tin chắc, chớ đem lòng nghi ngờ. Nghĩa chữ “tin” giải rõ ở văn sau.

Sao: “Lời đáng nên tin” là: Do lời thành thời chắc thiệt không dối thiệt thời chín xét không sai; chỗ gọi rằng như con sư tử hống, lời nói vô úy, nghìn vị thánh ra đời không thể đổi, muôn đời giữ đó làm khuôn mẫu.

Câu Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức, luôn sau 16 chữ là nguyên tên kinh này vậy. Bản dịch nhà Đường chỉ nói: Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh là muốn bớt văn cho dễ. Do vì câu Bất Khả Tư Nghì Công Đức nó bị gồm trong hai chữ Tịnh Độ. Bốn chữ “Bất Khả Tư Nghì” đây, với văn trên kia là nghĩa khen Phật, với văn đây lại là nghĩa khen kinh; nghĩa kia với đây như một nên không giải lại nữa.

Thế nào là “hộ niệm”? Vì những người niệm Phật, nhờ sức Phật bảo hộ khiến kia được an ổn, không các việc chướng nạn. Tâm Phật nhớ tưởng khiến người kia tinh tấn mãi, không hề lui sụt vậy.

Trong Quán Kinh nói với chúng sanh niệm Phật, ngài thâu rước không bỏ. Kinh lại nói: “Những người niệm Phật được Phật A Di Đà thường ở trước đầu người kia”. Lại trong 10 món lợi ích nói: “Những người niệm Phật, Phật A Di Đà thường phóng hào quang sáng để tiếp rước người đó”.

Đây thì đức Bổn Sư hộ niệm mà mười phương các đức Phật kia cũng đồng hộ niệm người đấy; phải biết người xưa niệm Phật thời được Phật hộ niệm cho; cảm ứng tự nhiên chẳng khá dối vậy.

Sớ: Lại bực Bát Địa Bồ Tát mới nhờ Phật hộ niệm; cho nên biết người vãng sanh địa vị chẳng phải thấp hèn.

Sao: “Bực Bát Địa được Phật hộ” là: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bực Bát Địa Bồ Tát thường được đức Như Lai ngài hộ niệm”; nay kinh này nói: “Người niệm Phật được Phật hộ niệm”. Thế là chóng lên Bực Bát Địa, cho nên nói “chẳng phải hèn thấp”.

Sớ: Các đức Phật dạy bảo chúng sanh, xưa có hai thuyết: 1. Chuyển dẫn; 2. Đồng thời. Nay gồm dùng cả hai thuyết.

Sao: “Chuyển dẫn” là: Ông Từ Ân nói: Với lời nói của chư Phật ở 6 phương rao bảo trong các nước của các Phật, đức Thích Ca lại đem lời ấy về thuật lại để chứng lời nói của ngài.

Ông Linh Chi nói: “Khi đức Thích Ca nói Kinh nầy, sáu phương các đức Phật cũng đồng thời khen ngợi”.

“Nay gồm dùng đó” là: Pháp môn quảng đại rất thiết yếu nầy các đức Phật khi bình thời ắt đã thường khen, mà chính khi đức Phật Thích Ca đang nói kinh nầy thì đồng thời 10 phương các đức Phật đều khen, cũng không ngại gì?

Càng rõ kinh này chính là pháp môn Phổ Nhãn (khắp soi)! Cùng cả pháp giới; một đức Phật nói, tức tất cả các đức Phật đồng nói.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh không biến đổi là nghĩa “thành thật”; tự tánh không ly là nghĩa “hộ niệm”.

Sao: Lời nói thuần là chơn, tuyệt hẳn vọng, dù muôn kiếp vẫn như vậy.

Nói rằng thành thật chi nữa chẳng hơn nơi đây; tức nay đây một phen ngó, một phen nghe, một khi nói, một khi làm, không một cái nào mà không thành thật. Suốt xưa, suốt nay thường hộ, thường niệm, đi đứng, ngồi, nằm chẳng lìa cái ấy (tự tánh), đâu đặng với lời thành thật của Phật mà không tin. Với Phật hộ ta mà ta riêng bỏ? Ôi! Tại sao mình gạt mình, mình dối mình, mình tự trốn, mình tự đi!?

NAM PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)

1. Liệt danh hiển quảng.
2. Hiện tướng biểu chơn.
3. Pháp ngôn khuyến tín.

LIỆT DANH HIỂN QUẢNG

Này Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam có các đức Nhựt Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Như vậy cả thảy các vị Phật nhiều bằng số Hằng hà sa.

Sớ: Phật Nhựt Nguyệt Đăng là vì trí lớn vô cùng tận.

Sao: “Trí lớn vô cùng tận” là kia như ánh của mặt nhựt chiếu ban ngày, mặt nguyệt chiếu ban đêm, ánh của đèn chiếu vào những chỗ mà nhựt nguyệt chiếu không tới, kế truyền sáng khắp, đều vô cùng tận. Trí lớn của Phật: ngang thời suốt 10 phương, dọc thấu ba đời, cũng như ánh sáng của nhựt nguyệt thế đấy.

Lại ánh sáng mặt nhựt phá chỗ tối tăm có nghĩa Bát Nhã, gọi là Nhứt Thế Trí. Mặt nguyệt do ánh mát mẻ chiếu ban đêm có nghĩa giải thoát, gọi là Đạo Chủng Trí. Ánh đèn tiếp nối để bổ khuyết cho nhựt nguyệt, chiếu suốt cả ngày đêm không mắc hai bên như ngày và đêm chẳng hạn. Đây là nghĩa đế Trung Đạo đệ nhứt, có nghĩa Pháp thân gọi là Nhứt Thế Chủng Trí. Vì ánh huệ sáng suốt.

Sớ: Phật Danh Văn Quang là được tiếng khen khắp đồn, như ánh sáng chiếu xa.

Sao: Đức Phật lớn, tiếng rất to, cho nên có danh khen đồn khắp cả 10 phương vô lượng thế giới như ánh sáng mặt nhựt chiếu không chỗ nào chẳng khắp.

Sớ: Phật Đại Diệm Kiên là: Chữ Kiên nghĩa hai vai, tiêu biểu hai trí; chữ Diệm là hực hỡ dụ hai trí chiếu sáng.

Sao: “Hai trí” là: Quyền trí để chiếu về sự tướng; Thật trí chiếu tâm. Lý, sự lý rõ ràng, đều chiếu phá không mê muội, dụ như hai cái vai phát ra ánh sáng. Lại hai trí nầy, gánh vác tất cả Phật pháp; cho nên có nghĩa là hai vai.

Sớ: Phật Tu Di Đăng là dùng núi Tu Di làm đèn để chiếu cả 4 châu thiên hạ; hào quang của Phật rộng lớn cao chiếu cũng như thế.

Sao: “Núi Tu Di làm đèn” là như nói: “Dùng núi Tu Di làm bút, dùng núi Tu di làm dùi” v.v… là để nói cái lượng của đèn rất rộng và rất lớn.

Núi Tu Di ở giữa, hào quang chiếu khắp bốn châu; Phật dùng trí lớn trung đạo mà chiếu các chúng sanh như ánh đèn khổng lồ là đèn Tu Di (Tu Di là núi chúa vì lớn nhứt thế giới vậy). Song kinh Duy Ma nói: “Có đức Tu Di Đăng Vương Phật, thân cao tám vạn bốn nghìn do tuần”; nhưng xét cõi nước của Ngài là ở về phương Đông cách đây ngoài 36 hằng hà sa thế giới. Mà nay Phật Tu Di Đăng nầy ở về phương Nam là do vì các Phật trùng tên với nhau rất nhiều vậy.

Sớ: Phật Vô Lượng Tinh Tấn là: chữ “tinh tấn” giải thấy trong khoa tự phần trước, nhưng khoa kia nói: “Thường tinh tấn”, còn văn đây nói: “Vô lượng tinh tấn”.

Sao: “Vô lượng” có hai nghĩa: 1. Thời vô lượng: tức là nghĩa thường; 2. Sự vô lượng là: Tự lợi lợi tha; vì trí và hạnh vô biên cớ vậy.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh sáng suốt bất khả tận là nghĩa “nam phương có Hằng sa Phật”.

Sao: Nam phương thuộc cung Ly, mà Ly là Bính Đinh hỏa. Hỏa thời trong tối ngoài sáng;, ấy là tịch mà thường chiếu. Tánh chơn tri bất muội, sự sáng suốt nào cùng. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Quang Minh Giác nói: “Hào quang đức Như Lai soi sáng vượt khỏi một thế giới, 10 phương thế giới nhẫn đến bất khả thuyết thế giới”. Đấy là hào quang trong tâm của mình giác chiếu tất cả, chẳng do tự ngoài mà đặng. Cho nên nói: “Ta thấy đức Đăng Minh Phật, hào quang tốt của ngài xưa cũng như thế”.

HIỆN TƯỚNG BIỂU CHƠN

Các vị Phật, vị nào ở nước nấy đều phóng ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp cả cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

PHÁT NGÔN KHUYẾN TÍN

Nói lời thành thật rằng: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

TÂY PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)

1. Liệt Danh Hiển Quảng.
2. Hiện Tướng Biểu Chơn.
3. Phát Ngôn Khuyến tín.

LIỆT DANH HIỂN QUẢNG

Này Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có các đức: Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật, như vậy cả thảy Hằng hà sa số các vị Phật.

Sớ: Phật Vô Lượng Thọ đây nhơn đồng một danh hiệu với đức Bổn Phật (Di Đà), xưa có hai thuyết cũng đều có lý.

Sao: “Hai thuyết” là: Ông Linh Chi nói: “Các vị phật đồng danh nhiều lắm, quyết chẳng phải một vị Phật do ngài Pháp Tạng tu thành. Bởi vì đức Bổn Phật đây không lẽ tự khen mình”. Ông Từ Ân nói: “Dù cho tự khen mình, lý cũng không hại, là do vì dẫn dắt chúng sanh khiến cho nó sanh tâm thích đẹp”. Nay dùng cả hai thuyết nghĩa là: Cứ trong kinh Đại Bổn qua khỏi vô biên cõi Phật, có nhiều vị Phật đồng một danh với đức Phật Thích Ca Mâu Ni không thể kể xiết.

Lại thầy đức Quan Thế Âm cũng là Quan Âm Như Lai v.v…

Thế thời biết danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ đâu những một vị Phật A Di Đà mà thôi, mà còn có cả trăm cả nghìn hằng vạn hằng ức không thể cùng tột các vị Phật đồng danh hiệu nữa kia kìa.

Nếu cứ bên phần sự của Phật; đâu đặng lấy việc phàm thường so sánh đó thì chi cho khỏi khen mình chê người, phạm 10 tội trọng trong Bồ Tát giới ư? Kinh Pháp Hoa Phật nói: “Ta là vị Pháp vương… đối trong các pháp đều được rảnh rang, dọc ngang, cho, lấy, quyền, thiệt đều bày. Nếu có lợi ích cho chúng sanh thì làm sao lại chẳng được!” Như câu “trên trời dưới trời, duy một mình ta độc tôn”; khá đặng nói rằng: ngài tự khen mình chăng?

Một thuyết trước vì e người không biết các vị Phật số nhiều như bụi trần mà câu chấp một bên như lối thành kiến! Một thuyết sau vì sợ người chấp chỗ không nên khen mình mà mờ ám pháp thần thông diệu dụng của Phật nên hai thuyết đều phải lý, vốn không ngại.

Sớ: Phật Vô Lượng Tướng là vì tướng hảo vô cùng tận.

Sao: “Tướng hảo” là: Hoặc 32 tướng hoặc tám vạn bốn ngàn tướng (84000), hoặc vi trần tướng. Phước đức vô lượng thời tướng hảo cũng vô lượng vậy. Xưa ngài Chí Công hiện tướng Quan Âm có 11 mặt, ông Tăng Do là một nhà họa sĩ khéo nhứt đương thời còn không thể giở ngòi bút vẽ đặng, huống là tướng hảo của Phật ư?

Sớ: Phật Vô Lượng Tràng là vì công đức cao vọi, dụ đó như cây tràng phan tột chỗ cao vọi kia, nên gọi là “vô lượng”. Lại nghĩa vô lượng là rộng nhiều.

Sao: Chữ “tràng” là cây phướn thuộc về cái phan, lại nói: thuộc về cây cờ. Sách San Định Ký nói tràng có bảy nghĩa, tóm lại còn năm: 1. Nghĩa cao vọi: Ví dụ vị Phật là ngôi rất tôn trọng. 2. Nghĩa kiến lập: Ví dụ đức Phật dùng lòng bi, trí, kiến lập cho chúng sanh với quả Bồ Đề. 3. Nghĩa qui hướng: Ví dụ đức Phật là chỗ tôn ngưỡng của tất cả chúng sanh. 4. Nghĩa bẻ dẹp: Vì hàng phục tất cả ma quân. 5. Nghĩa hết sợ: Như trời Đế Thích bảo các vị Thiên chúng rằng: “Các ngươi lúc đánh nhau cùng Tu La, nếu có hãi sợ thì nên niệm tràng thất bảo của ta thời cái điều sợ kia liền diệt”; dụ đức Phật được pháp vô sở úy: Nếu chúng sanh niệm phật liền khỏi sự sợ sệt. Với trong năm nghĩa, nay chỉ lấy một nghĩa “cao vọi” tức gồm hết các nghĩa kia vậy.

“Rộng nhiều” là: Cái tràng kia nhiều đến vô lượng. Như kinh nói “tràng phan, bảo cái khắp đầy chốn hư không”, Phật lập vô lượng nghĩa mầu chỉ bày cho chúng sanh, cũng lại như vậy.

Sớ: Phật Đại Quang là vì hào quang sáng chói rộng khắp.

Sao: Hào quang là chỗ diệu dụng của đức Phật biến hóa dạy người. Các người trời thân cũng có hào quang, không cần ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt. Nhị thừa là bực quả nhỏ và nhơn địa của Bồ Tát cũng đều có hào quang sáng, nhưng sánh với hào quang của phật thời nhỏ hơn vì hào quang của Phật ánh sáng che phủ tất cả nên nói là “đại quang” vậy.

Sớ: Phật Đại Minh là vì nói đức Phật dùng đại trí phá hết những phiền não mê hoặc.

Sao: “Phá hết những phiền não mê hoặc” là Phật dùng Nhứt Thế Trí phá hết kiến hoặc, tư hoặc. Dùng đạo chủng trí phá hết trần sa hoặc; dùng nhứt thế chủng trí phá hết vô minh hoặc, cũng như mặt trời sáng giữa hư không, không chỗ nào chẳng chiếu; rứa là đại minh vậy.

Tuy Phật trước tựa hồ như giác tha, còn đức Phật đây in tuồng chỉ tự giác; nhưng với mỗi ngài chỉ nói một đức, chứ nói nghĩa thật lẫn đủ như trong lời tổng thuyết văn trước đã biên rành.

Sớ: Phật Bảo Tướng là vì tướng tốt lạ lùng như ngọc báu quí trọng.

Sao: “Tướng tốt như ngọc báu” là vì Phật có vô lượng tướng tốt, nay chỉ nói một hai tướng mà thôi. Với tướng con mắt như trong kinh nói: “Phật có tám vạn bốn nghìn con mắt báu thanh tịnh”. Với tướng bạch hào như trong kinh nói: “Lông tướng bạch hào như ống lưu ly”. Với tướng trước ngực như trong kinh nói: “Sắc vàng tử kim”. Tướng nhục kế như trong kinh nói “ngọc Chân thúc Ca”; đó là chỗ gọi rằng: bảo tướng vậy.

Sớ: Phật Tịnh Quang là vì đức Phật thanh tịnh phát ra hào quang sáng, lại vì hào quang kia thanh tịnh nên gọi là Tịnh Quang.

Sao: “Thanh tịnh phát ra hào quang” là: Nếu trí có nhiễm thời không thể phát ra hào quang nhiệm mầu.

Nay nói đức của Phật thanh tịnh nên mới phóng ra hào quang sáng lớn. Ví như cái thể gương thanh tịnh, nó hay soi các hình tượng.

Hào quang thanh tịnh kia. Vì như lửa đốt ngoài đồng nội cũng có hào quang sáng, nhưng sánh với mặt trời, mặt trăng chẳng gọi là tịnh vậy.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh thanh tịnh bất khả tận là nghĩa Tây phương có Hằng sa Phật.

Sao: Nghĩa Tây phương đã thấy giải văn trước. Bởi do tự thể của chơn như nó lặng như hư không, tuyệt điểm thuần thanh, đâu từng có bờ mé, nhưng mảy niệm trần thoạt khởi, Phật diệt độ đã nhiều đời. Tâm trần vừa dứt, cổ Phật liền hiện (Phật tánh bày ra).

HIỆN TƯỚNG BIỂU CHƠN

Các vị Phật vị nào ở trước ấy đồng hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

PHÁT NGÔN KHUYẾN TÍN

Nói lời thành thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy”.

BẮC PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)

1. Liệt Danh Hiển Quảng
2. Hiện Tướng Biểu Chơn
3. Phát Ngôn Khuyến Tín.

LIỆT DANH HIỂN QUẢNG

Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bắc phương có các đức: Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật, như vậy hết thảy hằng hà sa số các vị Phật.

Sớ: Phật Diệm Kiên đã thấy giải ở văn trước.

Sao: Văn trước có chữ Đại, nhưng nghĩa không hơn kém.

Sớ: Phật Tối Thắng Âm là vì tiếng đức Phật rất lớn tất cả các tiếng tăm, không tiếng nào bì kịp.

Sao: Phật có tám thứ tiếng: 1. Tiếng cực hảo. 2. Tiếng nhu nhuyễn; nhẫn đến tiếng thứ 8. Tiếng không dứt. Nay cứ theo tiếng cực hảo để giải cái nghĩa tối thắng cũng có thể gồm đủ 8 thứ tiếng, cho nên kêu là Tối Thắng Âm. Thế là tất cả tiếng cõi nhơn thiên, tiếng Thanh Văn, tiếng Bồ Tát, không tiếng nào có thể bì kịp vậy.

Sớ: Phật Nan Trở là vì đức của Phật bền chắc không thể phá hoại.

Sao: Chữ Trở là tên con sông và một nghĩa nữa là hoại. Vì Phật chứng pháp thân, đã đặng thể kim cang bất hoại, không còn các cái dư hoặc là trần sa hoặc, vô minh hoặc nên dù phiền não nhẩy tràn, cũng không thể phá hoại; cho nên gọi Nan Trở. Người xưa nói: “Nước Ngô thành ao kia ư?” Cũng như nói không thể thành ao vậy. Lại nghĩa chữ Trở thông dụng với chữ Trở là ngăn dứt.

Sớ: Phật Nhựt Sanh là hào quang khi hiện ra, cũng như mặt trời mới vừa mọc, là nói gồm hai việc lợi.

Sao: “Hai việc lợi” là: 1. Tự lợi: Nghĩa là tánh bản giác Phật của chúng sanh vùi lấp trong tánh vô minh, cũng như giữa đêm khuya, ánh sáng mặt trời không hiện. Chừng phá vọng hoặc bày trí chơn thời tánh Thỉ Giác Phật mới tỏ chiếu, ví như mặt trời mọc phương Đông vậy.

2. Lợi tha: Kinh Hoa Nghiêm quyển 23 nói: Ví như ông Nhựt Thiên Tử (cũng là mặt trời mà nói bằng tên khác) chẳng vì cớ thằng mù không thấy mà ẩn không hiện (mọc); chẳng vì cớ thành Càn Thát Bà áng, tay thần A Tu La che, cây Diêm Phù Đề che khuất, cùng là gộp cao, hang thẳm, bụi mù, khói mây v.v… các vật phủ che ẩn mà không hiện; chẳng vì cớ thời tiết đổi dời ẩn mà không hiện”.

Dụ như Phật mới thành ngôi chánh giác thuyết pháp lợi đời, hào quang trí tuệ khắp soi cũng như mặt trời mọc phương Đông vậy.

Sớ: Phật Võng Minh là vì trí như lưới báu khắp soi tất cả chúng sanh.

Sao: Chữ Võng tức là cái lưới nghìn hột châu của trời Phạm Thiên. Ánh tia của ngàn hột châu đều chiếu nhau, sáng lạng rỗng suốt như trí của Phật phủ khắp cả chúng sanh, không chỗ nào mà chẳng chiếu. Lại mỗi pháp môn lẫn nhau dung suốt vì giác ngộ cho kẻ quần mê.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh hàm nhiếp bất khả tận, là nghĩa: “Bắc phương có hằng sa các vị Phật”.

Sao: Bắc phương (Nhâm Quí thủy) thuộc về mùa Đông. Đông là chủ về việc thâu chứa, Đông là mùa rốt sau của vạn vật trưởng thành mà cũng là đầu tiên của vạn vật sanh thành vậy. Thế nay trăm nghìn pháp môn cũng đồng về trong vuông tấc (tự tánh); không ngằn đức dụng đều ở trong nguồn tâm.

Tìm đó thời không tướng không hình, buông đó cũng vô cùng vô tận. Xưa nay sẵn đủ, chẳng cần tìm đâu. Thế cho nên trong tâm của chúng sanh, tức là Như Lai tạng tánh.

HIỆN TƯỚNG BIỂU CHƠN

Các vị Phật, ngài nào tự ở nước nấy, hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cả cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

PHÁT NGÔN KHUYẾN TÍN

Nói lời thành thật: “Các ông và chúng sanh, phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

HẠ PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)

1. Liệt Danh Hiển Quảng
2. Hiện Tướng Biểu Chơn
3. Phát Ngôn khuyến Tín

LIỆT DANH HIỂN QUẢNG

Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Hạ phương có các đức: Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như vậy hết thảy Hằng hà sa số các vị Phật.

Sớ: Sư Tử Phật là dụ như con sư tử dẹp các thú vậy.

Sao: Sư tử có hai nghĩa: 1. Sư tử là chúa trong các loài thú dạo đi không sợ; dụ như đức Phật là bực độc tôn trong 6 cõi phàm, 4 cõi Thánh, ra vào trong ba cõi tự tại không ngăn ngại. 2. Sư tử rống lên một tiếng thời trăm thú đều ghê sợ; dụ như Phật thuyết pháp thời chúng thiên ma, bọn ngoại đạo thảy đều tín phục.

Lại Phật không có năm món sợ và đủ bốn món vô úy đều là nghĩa “sư tử”.

Sớ: Danh Văn Phật giải nghĩa đồng như trước.

Sao: Văn trước Danh Văn Quang, văn đây thiếu chữ Quang. Bởi do Danh Văn là Đức, Quang là dụ. Tuy Phật đây không dụ như kia, nhưng mà không khác với đức của Phật kia.

Sớ: Danh Quang Phật là cái danh của Phật như mặt nhựt sáng, không chỗ nào mà chẳng khắp, cũng có thể xưng luôn; do vì cái danh tỏ rạng thời ánh sáng chói xa.

Sao: Nghĩa chữ Quang đồng như văn trước. “Danh tỏ rạng” là như Phật A Di Đà cái danh khen đồn khắp 10 phương 3 đời, không đời nào chẳng chiêm bái và tưởng niệm.

“Ánh sáng chói xa” là như Phật A Di Đà hào quang khắp soi 10 phương 3 đời, không chỗ nào ngăn che được.

Sớ: Đạt Ma dịch là Pháp, cũng gồm hai lợi.

Sao: Chữ Pháp là nghĩa phép tắc, giữ gìn. Dùng phép tắc giữ gìn đức của mình; dùng phép tắc giữ gìn thân chúng sanh, đều chứng đặng pháp thân.

Sớ: Pháp Tràng là vì chữ Pháp là phép tắc, dụ như cái tràng (cây cờ nêu cao).

Sao: “Phép tắc như tràng” là: Phật pháp cao vọi, người trời thấy đó tôn trọng; tà ngoại trông đó kính phục, thời rõ như văn trước nghĩa Vô Lượng Tràng.

Sớ: Trì Pháp là có hai nghĩa. 1. Giữ nghĩa trung đạo gọi là trì. 2. Giữ gìn pháp niệm cũng gọi là trì.

Sao: “Giữ trung đạo” là không sa về bên có, chẳng mắc về bên không, vì khéo giữ pháp mầu của trung đạo.

“Giữ gìn” là vì giữ phép mầu đây, khắp truyền ba đời không cho dứt mất.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh lượng đó càng sâu không thể tột; ấy là nghĩa “Hạ phương có hằng hà sa các vị Phật”.

Sao: Với việc lấy bình bát, đức Văn Thù thòng cánh tay bên hữu đưa xa xuống khỏi cõi Hạ phương bốn mươi hai hằng hà sa thế giới; nay kinh này lại nói: “Khỏi cõi Hạ phương bất khả thuyết Hằng hà sa thế giới”. Mà tìm trong tự tánh ví như cầm sào thọc biển, muốn tột đáy kia rốt cuộc không thể được.

HIỆN TƯỚNG BIỂU CHƠN

Các vị Phật, ngài nào ở nước nấy hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cả cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

PHÁT NGÔN KHUYẾN TÍN

Nói lời thành thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

THƯỢNG PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)

1. Liệt Danh Hiển Quảng.x 2. Hiện Tướng Biểu Chơn.x 3. Pháp Ngôn Khuyến Tín.

LIỆT DANH HIỂN QUẢNG

Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Thượng phương có đức Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật; Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, như vậy hết thảy Hằng hà sa số chư Phật.

Sớ: Phạm Âm Phật là vì tiếng của Phật thanh tịnh không tạp nhiễm.

Sao: “Không tạp nhiễm” là: Như Phật Ngài thuyết pháp cho các thừa kia (tam thừa) đều còn là tạp nhiễm vì pháp chưa được cứu cánh thanh tịnh. Nay Phật chỉ dùng một pháp Nhứt Thừa dạy bảo các chúng sanh, gọi bằng thuần nhứt bất tạp, hoàn toàn cái thể thật tướng thanh bạch phạm hạnh; cho nên nói là Phạm Âm Phật (Phạm Âm: tiếng trong sạch).

Sớ: Tú Vương Phật là: Một nghĩa rằng: mặt trăng là Tú Vương (sao chúa), một nghĩa nữa chính là ngôi sao lớn nhứt giữa các ngôi sao; ví như ngôi sao Bắc thần; hai nghĩa đều đặng.

Sao: Mặt trăng là ngôi sao chúa, chỗ gọi rằng: Muôn ngôi sao chung sáng, chẳng bằng một ánh chiếu của mặt trăng mà trăng thời phi đồng loại với sao. Dụ rằng Phật là bực đại giác mà giác thời chẳng phải đồng loại với mê vì hơn tất cả các loài bởi mọi loài còn mê, cho đến các thánh, Bồ Tát cũng chưa cứu cánh giác!

“Chính là ngôi sao chúa giữa các ngôi sao” là sách Luận Ngữ nói: “Ví như ngôi sao Bắc thần ở tại chỗ nào thời các ngôi sao kia đến chầu theo đó”. Rằng dù Bắc Thần cũng loài sao nhưng siêu hơn đồng loại để dụ rằng: Phật tức cũng chúng sanh mà sáng suốt cao thâm hơn chúng sanh, lại làm chỗ để cho chúng sanh qui y vì lẽ được giác ngộ giải thoát.

“Hai nghĩa đều đặng” là: 1. Do ngôi sao với mặt trăng đối nhau, vì ánh sáng hơn nên xưng là vương (chúa). 2. Chính trong các ngôi sao, riêng một ngôi sao này (Bắc Thần) là hơn hết nên xưng là Vương (sao chúa).

Nay nói: Phật ở trong dị loại thì tự tại hơn cũng như làm chúa trong dị loại vì đã giác ngộ hơn mọi loài; Phật ở trong đồng loại và các Thánh đã giác ngộ cũng làm pháp vương như chúa trong đồng loại vì vô thượng cứu cánh giác. Cho nên hai nghĩa đều dùng đặng là như thế.

Sớ: Hương Thượng Phật: Vì Phật là bực thánh sư giữa các hàng thánh như thứ hương thơm nhứt giữa các loại hương thơm, vì trên hết cả không bực nào sánh kịp.

Sao: “Hương bực nhứt trong các loại hương” là như hương chiên đàn; hương nầy nặng chừng sáu thù (14) giá đáng bằng ba nghìn đại thiên thế giới.

Lại nói: Hương nầy một phen đốt lên, ngoài 40 dặm không người nào chẳng nghe mùi thơm của nó; ấy là hương rất trên hết vậy.

Đức Phật chứng đặng hương ngũ phần Pháp thân. Hương nầy khắp xông tới vô lượng thế giới; tất cả hương của trời, người, thần A Tu La, kẻ ngoại đạo, bực nhị thừa không thể bì kịp nên nói là Hương Thượng Phật.

Sớ: Hương Quang Phật là: Hương kia phát ánh sáng như đoạn và trí hai đức vậy.

Sao: Đoạn Đức là: Mùi hương thơm có thể trừ được mùi hôi hám, có nghĩa diệt uế; các mùi hôi sạch hết, gọi đó là “hương”. Trí Đức là ánh sáng hay phá được các tối, có nghĩa trí huệ; tỏ sáng rộng soi, gọi đó là “quang”.

Lại mùi hương thường chỉ thơm nội lỗ mũi thôi: trong hương phát ra ánh sáng thơm tới con mắt nữa. Dụ như hàng Thanh Văn chỉ hay diệt được điều ác; có thể mà không dụng; Phật diệt được tất cả ác nên hay đủ tất cả việc lành. Đoạn và Trí đều cụ túc như hương đă thơm mà lại phát ra ánh sáng nữa vậy.

Sớ: Đại Diệm Kiên Phật là giải nghĩa đồng như văn trước.

Sao: Tên Diệm Kiên Phật thường có nêu ra. Chính do vì đức Phật nầy đồng danh trùng hiệu tới vô lượng vô biên.

Sớ: Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật là vì nhơn tu đủ nhiều hạnh tốt như hoa đẹp để kết quả làm trang nghiêm Pháp thân thanh tịnh.

Sao: “Muôn hạnh trang nghiêm” là: bực nhị thừa tuy chứng đặng pháp thân, nhưng nếu không tu muôn hạnh, gọi là pháp thân suông (15); còn Phật xưng là bực nhứt thế chủng trí là đã cần tu pháp Tứ Đẳng, pháp Lục Độ, món món hạnh môn, không môn nào chẳng nhóm đủ; chứa công dồn đức để giúp rõ pháp thân như muôn món quí báu để trang nghiêm sắc thân. Do vì pháp thân sẵn đủ hằng sa tánh lành đức tốt.

Sớ: Ta La Thọ Vương Phật là: Ta La dịch là Kiên Cố, cũng dịch Tối Thắng. Vì đức của Phật không dời đổi, là bực độc tôn giữa ba cõi dụ như cây thọ vương (16) vậy.

Sao: “Kiên cố” là cây này gặp năm lạnh không úa tàn, búa rìu không hại nổi, có nghĩa “kiên cố”. Như Phật chứng Pháp thân: tâm mê hoặc không thể lay, hoàn cảnh không thể động.

Tối Thắng là cây này cao lớn, tất cả rừng cây không thể sánh kịp. Như Phật vượt khỏi ngoài 3 cõi, là bực độc tôn giữa các thánh. Đủ hai đức này (tối thắng và kiên cố) gọi là cây thọ vương vậy.

Sớ: Bảo Hoa Đức Phật là vì đức của Phật như hoa báu.

Sao: Văn trước nói Nghiêm Thân Phật vì chữ Nghiêm có nghĩa của Nhơn hoa.Văn đây nói Bảo Hoa Phật, ý lấy hoa đẹp dụ đức tốt, nghĩa là: Phật đủ muôn đức, quí trọng xinh tốt, cũng như hoa đẹp rất quí báu vậy.

Một thuyết khác nói: Phật có bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đức chơn Thường như hoa bằng chất báu vì không tàn rụng.

Đức chơn Lạc như hoa rất quí báu vì đẹp ý người.

Đức chơn Ngã như hoa báu vì không đối đãi với hoa ngoài.

Đức chơn Tịnh như hoa báu vì thể nó ngời sạch, giàu có muôn đức, quí trọng xinh tốt. Khá so đó để biết vậy.

Sớ: Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật là vì đối tất cả nghĩa của các pháp, không nghĩa nào mà Phật chẳng biết.

Sao: “Tất cả” là pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Các pháp vô lượng thời nghĩa cũng vô lượng. Có người biết nghĩa gần mà không biết nghĩa xa; có người biết nghĩa lệch mà không biết nghĩa tròn; có người biết nghĩa chung mà không biết nghĩa riêng; có người biết nghĩa thiệt mà không biết nghĩa quyền. Còn Phật thì không có nghĩa nào mà ngài chẳng thấy, chẳng biết.

Như ông thái tử Tất Đạt Đa tên là Nhứt Thế Nghĩa Thành (17), tức là ý đây vậy.

Sớ: Như Tu Di Sơn Phật là vì núi Tu Di là chúa các núi. Đức của Phật vượt hẳn lên trên các thánh tam thừa như núi Tu Di kia.

Sao: Văn trước nói: Phật Tu Di Tướng, quyết chỉ về tướng hảo; văn đây không chỉ tướng là vì chuyên theo đức mà nói. Hiệp lại cả muôn đức để tổ thành như núi Tu Di kết tinh bằng các thứ báu hiệp thành nên gọi là “Diệu”. Phật ở trong thiên hạ mà tự tại độc lập như núi Tu Di cao lên trên hết, gọi là “Cao”. Núi Tu Di là chúa trong các núi, cũng như đức Như Lai là pháp vương trong ba cõi; nghĩa ấy cũng đồng như một.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh ngước đó càng cao, chẳng khá tột, là nghĩa “Thượng phương có hằng sa các vị Phật”.

Sao: Đối với cái đạo của Khổng Phu Tử, thầy Nhan Uyên tán thán rằng: “Ngước đó càng cao”, nay muốn dùng để dụ: Cái tâm linh vượt khỏi, thể bặt vướng vin; ngước đó càng gần, cao đó càng lắm.

Ngày xưa ông Tịnh Danh qua khỏi thế giới Thượng phương cách với Ta Bà 42 hằng sa thế giới để lấy cơm thơm (đem về làm Phật sự). Nay kinh nầy nói: lại còn qua khỏi thế giới Thượng phương bất khả thuyết hằng sa thế giới mà tìm nơi tự tánh. Ví như nối tre thọc trời, muốn tột trên đảnh kia rốt cuộc chẳng thể được.

HIỆN TƯỚNG BIỂU CHƠN

Các vị Phật, ngài nào ở nước nấy hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cả cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới.

PHÁT NGÔN KHUYẾN TÍN

Nói lời thành thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.

Sớ: Nhẫn trên 6 phương Phật mà sở dĩ tán thán và hộ niệm đó cũng là do vì sức bản nguyện Phật A Di Đà.

Sao: “Bản nguyện” là: Kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, danh đồn khắp cả mười phương vô ương số thế giới, các Phật mỗi ngày đều ở trong đại chúng khen công đức ta với cùng cõi nước” v.v… Nên nay Ngài thành Phật được y như lời sở nguyện kia.

Sớ: Có người chấp kinh Lăng Nghiêm nói: “Pháp Nhĩ Căn của đức Quán Âm hợp với giáo thể phương nầy, còn pháp niệm Phật của đức Thế Chí chẳng dự vào bực Viên Thông. Vì sao ngày nay khắp xa gần đều dạy pháp niệm Phật?” Do đấy mà nghi, chính bởi không hiểu 6 phương Phật đồng khen pháp môn niệm Phật.

Sao: Người nghi cho rằng: Pháp môn niệm Phật đã chẳng hợp với cơ người phương nầy, lại chẳng dự vào hội chọn lựa Viên Thông, đã ở cõi nầy hà tất niệm Phật làm chi? Nay xem 6 phương các đức Phật đều khen kinh nầy; còn pháp niệm Phật thời hợp cả các căn cơ trong 10 phương thế giới vậy. Kinh Đại Bổn nói: “Mười phương chúng sanh, hễ xưng danh hiệu ta, ắt sanh về nước ta”, phải vậy.

Pháp Nhĩ Căn là riêng hợp với trình độ nhơn loại mà thôi, còn pháp niệm Phật thời đều hợp cơ cả 6 đường chúng sanh.

Kinh Đại Bổn nói: “Địa ngục, quỉ, súc sinh cũng sanh về trong cõi của ta”, thật thế. Thế thời pháp Nhĩ Cãn chẳng gồm pháp niệm Phật mà pháp niệm Phật hay gồm pháp Nhĩ Căn. Cho nên pháp Nhĩ Căn đây chỉ phương nầy một đức Thích Ca Như Lai khen mà thôi; còn pháp niệm Phật kia cả 10 phương hằng sa các đức Như Lai đều khen ngợi. Nay theo lời khen phần nhiều cớ vậy.

Và nay khắp cả trong thiên hạ kẻ tăng, người tục, kẻ nam, người nữ, tự nhiên niệm Phật như văn trước đã nói; thế thời pháp niệm Phật hợp cơ rất nhiều, lại còn nghi chi nữa?

Thử lập lời dụ: Như trong nước ta đây có trăm nghìn ấp mà kẻ sĩ tử ở trong đó phân nhau để tập học ngũ kinh. Hoặc có một ấp kẻ sĩ phần nhiều tập học kinh Thi, hoặc có một ấp kẻ sĩ phần nhiều học kinh Lễ nhưng mà hiệp hội các kinh (ngũ kinh) so chung cả nước thời sự tập học nhiều hơn hết là không chi hơn kinh Dịch.

Nay pháp Nhĩ Căn đây ví như kinh Thi, kinh Lễ, còn pháp niệm Phật đây ví như Châu Dịch vậy.

Sớ: Hỏi: Đã sáu phương các đức Phật đồng khâm khen cõi Tây phương. Vì lẽ gì đức Lục Tổ chẳng tùy theo các đức Phật để khâm khen; trái lại tuồng như chê rằng không có; các cớ ấy tại đâu?

Đáp: Đây có 4 ý: 1. Vì chỗ lập môn chẳng đồng. 2. Vì tuồng như chê, nhưng thiệt ra là khen. 3. Chẳng vì kẻ sơ cơ. 4. Vì người biên chép có sai lầm.

Sao: Trong Lục Tổ Đàn kinh nói: “Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh phương Tây; người phương Tây tạo tội niệm Phật cầu sanh về nước nào?” Lại nói: “Người ngu nguyện Đông, nguyện Tây”, người đời sau chấp theo đây rồi sanh nghi ngờ Lục Tổ nói không có cõi Tây Phương, cho nên làm lời biện đây:

1. Câu ban đầu “vì chỗ lập môn chẳng đồng” lại có hai nghĩa: Một là: Vả cứ sự, lý hai môn, lời đức Lục tổ nói là môn dùng lý đoạt sự, nghĩa là chỉ dùng lý tánh; còn về môn dùng sự đoạt lý thì thời trong các pháp môn Phật sự, không bỏ một pháp nào. Vì chỉ dùng sự là hơn lý thì đâu đặng bác bỏ đi mà cho rằng không có cõi Tịnh Độ.

Hai là đời Tấn, đời Tống sắp về sau, người tu Phật đều đua nhau lấy việc Thiền định quán tưởng làm cao thượng hơn làm cho ý “trực chỉ đơn truyền” gần đến mờ lấp. Bây giờ tổ Đạt Ma mới xướng ra cái lý đoạt sự ấy, các Tổ kế tiếp chấn hưng thêm, chỉ muốn đạo lý ấy (trực chỉ thiền) phóng đại quang minh ra mà đạo lý ấy không phân biệt có Phật có chúng sanh gì cả, nghĩa là chỉ một lý tánh mà thôi. Nay pháp môn Tây phương đây chính là vì mở bày cho chúng sanh thú hướng về Phật. Đạo lý ấy tâm và cảnh đều tịch tịnh. Nay pháp môn Tây phương đây chính là vì lấy nước Phật làm cảnh, phát tâm cầu sanh. Thế tuy lý không hai nẻo nhưng các môn đình thi thiết chẳng đồng. Vì theo thời, theo cơ, phép nó sẽ phải vậy.

Giả sử mới vừa mở pháp Trực Chỉ lại tiếp khen pháp Tây phương, thời ý Trực Chỉ rốt cuộc không do đâu tỏ đặng. Cho nên, biết rằng: đức Lục Tổ bên Thiền tông cùng với các Tổ bên pháp môn Tịnh Độ dù rằng lập môn có khác; chớ nếu đổi lại thì cũng đồng nhau, gọi bằng “dịch địa giai nhiên” (18).

2. “Tuồng như chê, thiệt ra khen”: Đức Lục Tổ ngài nói cái thuyết Đông, Tây chỉ là để khuyên người cốt yếu phải thiệt tâm làm lành là hơn, đừng nguyện suông vô ích, chớ nào ngài nói không Tây phương?

Dụ như: Đức Khổng Tử sanh ở nước Đông Lỗ. Người nước Tề làm ác, trong đó có kẻ ngưỡng mộ đức Khổng Tử nên kẻ ấy cầu tản cư qua nước Lỗ. Còn như người nước Lỗ làm ác trong đó có kẻ mộ đức Khổng Tử thì cầu tản cư qua nước nào?

Số là nói: “Hễ làm lành là thiệt học với đức Khổng Tử”, chớ nào từng nói không nước Đông Lỗ?

Lời đức Lục Tổ nói đó, lý đó chính như trong kinh nầy nói: “Ắt dùng đa thiện căn mới đặng sanh về nước kia”, thế thời đâu đặng nói rằng ngài chê!

3. “Chẳng vì kẻ sơ cơ” là đức Lục Tổ ngài nói: “Giới, Định, Huệ của Ta chỉ tiếp người bực tối thượng thừa”, mà nay kẻ sơ tâm hạ phàm chỉ tự hào có chút mảy thế trí (trí thế gian) đã coi rẻ pháp Tây phương, quấy bàn lý Bát Nhã chẳng những vô ích mà lại hại thêm.

Cho nên quyển Pháp Bửu Đàn Kinh, dè chớ đưa cho kẻ sơ cơ xem đọc. Nếu trao cho người không phải căn trí Đại Thừa thời họ liền lạc vào loài cuồng ma, thiệt đáng thương tiếc!

4. “Biên chép có sai lầm” là: Trong Đàn kinh lại nói Tây phương cách đây 10 muôn 8 nghìn dặm; thiệt là nhận lầm lấy cõi Ngũ Thiên Trúc đồng cho là nước Cực Lạc vậy.

Ngũ Thiên Trúc với nước Chấn Đán (Tàu) đồng là cõi Ta Bà uế độ, nào cần phân biệt nguyện Đông nguyện Tây. Mà nước Cực Lạc tự cách xa Ta Bà đây đến 10 muôn ức cõi Phật.

Số là với bổn Đàn kinh đều là người hậu học biên chép, đâu giữ khỏi sai lầm. Chẳng thế thời Tổ ngài mượn cõi Tây Vức để dụ cõi Tây phương kia vậy thôi. Người xưa nói: “Tận tín thơ, bất như vô thơ” là ý đây vậy. (Mỗi việc gì cũng đều tin theo sách cả thì đừng có sách còn hơn, là cái bệnh cũng như đây vậy).

Huống chi với cõi Tây Phương, nghìn Phật đồng khen. Nay lại nghi lời nghìn Phật mà tin lời của một vị Tổ! Ôi! Với lời Phật còn không đủ tin, huống nữa là lời của Tổ ư?

Vậy ai là người minh trí, hãy vì người đời giải quyết giùm tâm nghi để cho họ phát khởi tâm chánh tín. Nơi nơi chỗ chỗ tùy ở đến đâu cũng rộng ra khen ngợi khắp truyền tới đó; tức là thay thế cho các đức Phật ra tướng lưỡi rộng dài, tức là trả ơn sâu cho Phật. Bằng ai trái cãi lời Phật, cố làm lời ma thuyết thời mắc tội ngay, đâu thể nói cho hết!

Nay dùng một lời dụ cho rõ: Như ở đây có người, mỗi ngày nói ra một vạn lời để chê bai một vạn vị Phật; như thế chứa đủ một nghìn năm, người ấy tội nghiệp thiệt vô lượng vô biên. Lại có người nói ra một lời ác bác rằng không cõi Tịnh Độ, cản trở người niệm Phật, người đây tội nghiệp quá hơn người trước gấp trăm, gấp nghìn, hàng vạn phần hơn nhẫn đến không còn số tính. Vì sao thế? Bởi vi trần chư Phật đều tán thán cõi Tây Phương, chỉ muốn cho mỗi người đều thành Phật. Nay riêng một mình người ấy sanh tâm phỉ báng, tức là phỉ báng tất cả vi trần các đức Như Lai, hãm hại cho tất cả chúng sanh thường chìm trong bể khổ chẳng đặng thành Phật. Cho nên mắc tội mới nặng như thế! Rất phải cẩn thận lời nói cho lắm!

Sớ: Xứng lý thời tự tánh khắp soi là nghĩa “6 phương Phật đồng khen”.

Sao: Ánh linh thiêng tự sáng, xa tuyệt chính giữa và hai bên, Phật chiếu không riêng, nào phân đây đó; cho nên đặng một không ngại với nhiều, chủ bạn lẫn thành không ngại thời ngàn sai tuy cách mà chẳng khác nhau, lẫn thành thời muôn pháp chẳng hẹn mà tự hợp hội. Thế thời 6 phương chẳng lìa nơi gang tấc (tâm niệm); các Đức Phật đều hiện trong đầu mảy lông. Thế thời, nay kinh nầy đây sẽ ở chỗ nào?