Nguyện Thứ Nhứt : khi tôi thành Phật,
Trong nước tôi, không có ngục hình,
Hay loài ngạ quỉ, súc sanh,
Không bao giờ có sanh thành nơi đây.
Tôi nguyện không được như vầy,
Thề không thành Phật lời này không sai.

Nguyện Thứ Hai : nhân dân trong nước,
Ðều hóa sanh từ “Chín Phẩm Liên”,
Nương theo nguyện lực tinh chuyên,
Ðến khi thọ mạng, sen liền nở hoa.

Nguyện Thứ Ba : hóa ra vật thực,
Nhiều thứ ngon, khỏi phải tìm cầu,
Dùng xong, vật dụng liền thâu,
Không cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn.

Nguyện Thứ Tư : y phục mỗi ngày,
Muốn bao nhiêu : áo, mũ, dép, giầy,
Thảy đều hóa đủ trưng bày,
Khỏi mua, khỏi giặt, khỏi may cực lòng.

Nguyện Thứ Năm : thành trì bát ngát,
Nhiều lâu đài , cung điện nguy nga,
Bảy hàng cây báu đơm hoa,
Hương thơm ngào ngạt, tỏa ra nhe nhàng.

Nguyện Thứ Sáu : kính mến tương giao,
Không xan tham, giúp đỡ lẫn nhau,
Không lời qua lại trước sau,
Không ganh, không ghét, thương nhau vô vàn.

Nguyện Thứ Bảy : nhân dân trong nước,
Không có lòng uế trước, dâm ô,
Cũng không có tiếng tục thô,
Cùng là nóng giận, hồ đồ ngu si.

Nguyện Thứ Tám : chuyên trì chánh niệm,
Nhớ điều hay, điều dở bỏ đi,
Nếu ai muốn nói chuyện gì,
Người kia hiểu ý, tức thì khỏi phân.

Nguyện Thứ Chín : chỉ nghe điều thiện,
Có hơi đâu, nghĩ chuyện dông dài,
Chuyên tâm tu niệm hằng ngày,
Rồi ra nghiệp chướng dứt ngay không còn.

Nguyện Thứ Mười : biết thân này huyễn,
Thì không nên tham luyến thế gian,
Khổ thay trần thế không an,
Xin đừng tham đắm, vô vàn điêu linh.

Nguyện Mười Một : trời, người tuy khác,
Hình dung đồng một sắc vàng y,
Người người nghiêm chỉnh phương phi,
Mặt mày đẹp đẽ, không chi sánh bằng.

Nguyện Mười Hai : Thinh Văn, Duyên Giác,
Nhờ chuyên cần tu tập hành thiền,
Cho đến động vật… nhân, thiên,
Chứng quả Duyên Giác, Thinh Văn không lường.

Nguyện Mười Ba : dân số Phật Ðà,
Không còn có số tính ra cho bằng,
Nhiều như số cát sông Hằng,
Tại An Dưỡng Quốc, khó phân khó lường.

Nguyện Mười Bốn : sống đời trường thọ,
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,
Không sao tính được vận niên,
Sống lâu vô lượng, vô biên đời đời.

Nguyện Mười Lăm : hưởng lạc an nhàn,
Trọn sống đời Cực lạc, cao sang,
Như người vượt thoát trần gian,
Lậu hoặc dứt hết, Lạc bang vui vầy.

Nguyện Mười Sáu : thanh tịnh trang nghiêm,
Hẳn xa lìa vọng tưởng triền miên,
Sống đời tịch tịnh an nhiên,
Niết-bàn hiển hiện, Chân nguyên tỏ bày.

Nguyện Mười Bảy : thực hành đạo cả,
Suốt đêm ngày ròng rã độ sinh,
Thiết tha nói pháp tụng kinh,
Hoằng khai Phật đạo, công trình hơn ai.

Nguyện Mười Tám : biết được kiếp trước,
Hễ vừa sanh vào cõi nước tôi,
Người người rõ chuyện xa xôi,
Trăm, ngàn, muôn kiếp qua rồi đều thông.

Nguyện Mười Chín : “cái thấy ” thông suốt,
Dân chúng tôi có thể xa trông,
Toàn thể vũ trụ mênh mông,
Rõ ràng trước mặt, đều không trở ngại.

Nguyện Hai Mươi : “cái nghe” rõ ràng,
Ở phương xa, chư Phật nói kinh,
Thảy đều nghe rõ âm thinh,
Nghìn muôn ức cõi, như hình đâu đây.

Nguyện Hăm Mốt : biết rõ tâm người,
Cách trăm ngàn thế giới xa xăm,
Chúng sanh vừa mới mống tâm,
Dân tôi đều biết, không nhầm mảy may.

Nguyện Hăm Hai : thong dong tự tại,
Những tận đâu, chẳng nại đường xa,
Chỉ trong khoảnh khắc vượt qua,
Mười phương các cõi như là dạo chơi.

Nguyện Hăm Ba : công đức vui mừng,
Khen ngợi tôi, đại chúng đồng thanh,
Phát tâm vui vẻ hiền lành,
Lâm chung sẽ được, hóa sanh sen vàng.

Nguyện Hăm Bốn : quang minh chiếu diệu,
Nơi đảnh tôi rực rỡ vô ngần,
Sáng hơn nhật nguyệt muôn lần,
Luôn luôn tỏ rạng, khó phân đêm ngày.

Nguyện Hăm Lăm : hào quang chói lọi,
Ðến tận nơi các cõi U Minh,
Chư Thiên cho đến bàng sinh,
Thấy hào quang sáng, tự mình quy y.

Nguyện Hăm Sáu : quang minh cảm hóa,
Khắp mười phương các cõi nhân dân,
Hào quang chiếu đến bản thân,
Từ hòa tâm tánh hơn dân cõi trời.

Nguyện Hăm Bảy : vãng sanh Tịnh độ,
Cho những người giữ giới, ăn chay,
Ðến những ai thiền định, đêm ngày,
Khi nào mãn báo thân nầy
Tôi và Thánh chúng đông vầy,
Phóng quang tiếp dẫn, lên ngay sen vàng.

Nguyện Hăm Tám : trời, người các cõi,
Nghe danh tôi, trần thiết huy hoàng,
Ngày đêm tưởng niệm vái van,
Người ấy sẽ được, Lạc bang sanh về.

Nguyện Hăm Chín : chúng sanh các cõi,
Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê,
Tên tôi mười niệm, không hề,
Xao lãng chánh niệm, được về Tây phương.
Trừ những kẻ tánh tình ngỗ nghịch,
Cùng những người báng Phật, Pháp, Tăng.
Ra vào tập tánh hung hăng,
Chắc đọa địa ngục, muôn năm thọ hình.

Nguyện Ba Mươi : mọi điều như ý,
Kiếp trước đây tạo nghiệp không lành,
Hôm nay, phát nguyện tu hành,
Tây Phương Cực Lạc, cầu sanh dễ dàng.

Nguyện Băm Mốt : mọi người cung kính,
Nghe tên tôi, đảnh lễ cúng dàng,
Người đó sẽ được dễ dàng,
Trời, người, kính nể, quy hàng, tán dương.

Nguyện Băm Hai : sanh làm nam giới,
Những đàn bà con gái chán đời,
Phát tâm tín niệm danh tôi,
Thân sau sẽ khỏi luân hồi nữ nhi.

Nguyện Băm Ba : chứng liền đạo quả,
Bậc “Nhất Sanh Bổ Xứ” chứng liền,
Lại còn những vị siêu nhiên,
Muốn sanh cõi khác, tôi liền giúp cho.
Giúp cho hạnh nguyện Phổ Hiền,
“Tịch Diệt”, “Phạm Hạnh” cần chuyên thi hành.
Rồi ra giáo hóa chúng sanh,
Chứng nên Phật quả, viên thành nguyền xưa.

Nguyện Băm Bốn : nhân dân trong nước,
Muốn sanh về cõi khác độ sanh,
Nếu không như nguyện, cũng không,
Ðọa ba đường dữ, thoát vòng trầm luân.

Nguyện Băm Lăm : các hàng Bồ Tát,
Muốn cúng dường chư Phật những đâu,
Hương, hoa, anh lạc, trân châu,
Mang đi khắp cả, vừa hầu bữa ăn.

Nguyện Băm Sáu : được như ý nguyện,
Nếu ước muốn mọi vật có liền,
Ðưa đi khắp cả các miền,
Cúng dường chư Phật, về liền chưa trưa.

Nguyện Băm Bảy : thông minh trí tuệ,
Hàng Bồ Tát phúng tụng các kinh,
Liền được trí huệ thông minh,
Diễn dương Chánh Pháp, tài tình cao siêu.

Nguyện Băm Tám : biện tài vô ngại,
Chư Tôn Bồ Tát huệ sáng ngời,
Giảng kinh thuyết pháp khắp nơi,
Biện tài vô ngại, không người sánh phân.

Nguyện Băm Chín : nhân dân trong nước,
Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm,
Kim cang thần lực vô biên,
In như chư Phật, kim thân sáng ngời.

Nguyện Bốn Mươi : quốc độ trang nghiêm,
Trong cây báu, muốn xem chư Phật,
Mười phương các cõi ở xa,
Hiển hiện trước mặt như là soi gương.

Nguyện Bốn Mốt : mọi đường công đức,
Bồ Tát nào chưa được hoàn toàn,
Có thể biết được Ðạo tràng,
Bề cao cho đến bốn ngàn do tha.

Nguyện Bốn Hai : người, vật khôn lường,
Quốc độ tôi, đồ vật, chúng sinh …
Mỗi người mỗi vật tịnh minh,
Dù chứng thiên nhãn, chẳng nhìn hết đâu.

Nguyện Bốn Ba : mọi người trong nước,
Chí mong cầu nghe được Pháp, Kinh,
Tự nhiên có sẵn âm thinh,
Không cần mời thỉnh, theo tình thế gian.

Nguyện Bốn Bốn : Bồ Tát, Thinh Văn,
Trong nước tôi, trí huệ oai linh,
Trên đảnh có ánh quang minh,
Biện tài nói pháp, in hình Thế Tôn.

Nguyện Bốn Lăm : mười phương Bồ Tát,
Nghe tên tôi phát nguyện quy y,
Lại thêm thiền định hành trì,
Liền được giải thoát không gì vướng ngăn.
Nếu chí muốn cúng dường chư Phật,
Trong khoảnh khắc khắp cả các phương,
Ðường xa tuy khó đo lường,
Nương nhờ thần lực, trên đường thong dong.

Nguyện Bốn Sáu : chư Tôn Bồ Tát,
Ở phương xa, tinh tấn tu hành,
Tam muội, giải thoát chứng xong,
Thường thấy chư Phật số đông không lường.

Nguyện Bốn Bảy : dân số đông dầy,
Hàng hàng lớp lớp về đây tu hành,
Người người nguyện thỏa vô sanh,
Vào hàng Bất thối, viên thành nơi đây.

Nguyện Bốn Tám : hoàn thành Pháp Nhẫn,
Người người đều thành khẩn quy y,
Hoàn thành nguyện lớn một khi,
Nhất, nhị, tam nhẫn, hành trì luôn luôn.

Pháp Tạng phát nguyện vừa xong,
Mười phương các cõi thảy đồng hân hoan,
Hương, hoa, kỹ nhạc, lộng tàn,
Cúng dường Giáo Chủ Lạc Bang Di Ðà.