BỐN MƯƠI TÁM ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ

NGUYỆN THỨ NHỨT – khi tôi thành Phật
Trong nước tôi, không có ngục hình
hay loài ngạ quỉ, súc sanh
Không bao giờ có sanh thành nơi đây
Tôi nguyện không được như vầy
Thề không thành Phật, lời này không sai.

NGUYỆN THỨ HAI – nhân dân trong nước
Đều hóa sanh từ “Chín Phẩm Liên”
Nương theo nguyện lực tinh chuyên
Đến khi thọ mạng sen liền nở hoa.

NGUYỆN THỨ BA – hóa ra vật thực
Nhiều thứ ngon, khỏi phải tìm cầu
Dùng xong, vật dụng liền thâu
Không cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn.

NGUYỆN THỨ TƯ – y phục mỗi ngày
Muốn bao nhiêu: áo mũ dép giầy
Thảy đều hóa đủ trưng bày
Khỏi mua khỏi giặt, khỏi may cực lòng.

NGUYỆNT THỨ NĂM – thành trì bát ngát
Nhiều lâu đài, cung điện nguy nga
Bảy hàng cây báu đơm hao
Hương thơm ngào ngạt, tỏa ra nhẹ nhàng.

NGUYỆN THỨ SÁU – kính mến tương giao
Không sang tham, giúp đở lẫn nhau
Không lời qua lại trước sau
Không ganh, không ghét, thương nhau vô vàn.

NGUYỆN THỨ BẢY – nhân dân trong nước
Không có lòng uế trược, dâm ô
Cũng không có tiếng tục thô
Cùng là nóng giận, hồ đồ ngu si.

NGUYỆN THỨ TÁM – chuyên trì chánh niệm
Nhớ điều hay, điều dở bỏ đi
Nếu ai muốn nói chuyện gì
Người kia hiểu ý tức thì, khỏi phân.

NGUYỆN THỨ CHÍN – chỉ nghe điều thiện
Có hơi đâu, nghĩ chuyện dông dài
Chuyên tâm tu niệm hằng ngày
Rồi ra nghiệp chướng dứt ngay không còn.

NGUYỆN THỨ MƯỜI – biết thân này huyển
Thì không nên tham luyến thế gian
Khổ thay trần thế không an
Xin đừng tham đắm, vô vàn điêu linh.

NGUYỆN MƯỜI MỘT – trời, người tuy khác
Hình dung đồng một sắc vàng y
Người người nghiêm chỉnh phương phi
Mặt mày đẹp đẽ, không chi sánh bằng.

NGUYỆN MƯỜI HAI – Thinh Văn, Duyên Giác
Nhờ chuyên cần tu tập hành thiền
Cho đến động vật… nhân thiên
Chứng quả Duyên Giác, Thinh Văn không lường.

NGUYỆN MƯỜI BA – dân số Phật Đà
Không còn có số tính ra cho bằng
Nhiều như số cát sông Hằng
Tại An Dưỡng Quốc, khó phân khó lường.

NGUYỆN MƯỜI BỐN – sống đời trường thọ
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Không sao tính được vận niên
Sống lâu vô lượng, vô biên đời đời.

NGUYỆN MƯỜI LĂM – hưởng lạc an nhàn
Trọn sống đời Cực Lạc, cao sang
Như người vượt thoát trần gian
Lậu hoặc dứt hết, Lạc Bang vui vầy.

NGUYỆN MƯỜI SÁU – thanh tịnh trang nghiêm
Hẳn xa lìa vọng tưởng triền miên
Sống đời tịch tịnh an nhiên
Niết Bàn hiển hiện, Chân Nguyên tỏ bày.

NGIYỆN MƯỜI BẢY – thực hành Đạo Cả
Suốt đêm ngày ròng rã độ sinh
Thiết tha nói Pháp tụng kinh
Hoằng khai Phật Đạo, công trình hơn ai.

NGUYỆN MƯỜI TÁM – biết được kiếp trước
Hễ vừa sanh vào cõi nước tôi
Người người rõ chuyện xa xôi
Trăm, ngàn, muôn kiếp qua rồi đều thông.

NGUYỆN MƯỜI CHÍN – “cái thấy” thông suốt
Dân chúng tôi có thể xa trông
Toàn thể vũ trụ mênh mông
Rõ ràng trước mặt, đều không trở ngại.

NGUYỆN HAI MƯƠI – “cái nghe” rõ ràng
Ở phương xa, chư Phật nói kinh
Thảy đều nghe rõ âm thinh
Nghìn muôn ức cõi, như hình đâu đây.

NGUYỆN HĂM MỐT – biết rõ tâm người
Cách trăm ngàn thế giới xa xăm
Chúng sanh vừa mới mống tâm
Dân tôi đều biết, không nhầm mãy may.

NGUYỆN HĂM HAI – thong dong tự tại
Những tận đâu, chẳng nại đường xa
Chỉ trong khoảng khắc vượt qua
Mười phương các cõi như là dạo chơi.

NGUYỆN HĂM BA – công đức vui mừng
Khen ngợi tôi, đại chúng đồng thanh
Phát tâm vui vẻ hiền lành
Lâm chung sẽ được hóa sanh Sen Vàng.

NGUYỆN HĂM BỐN – quang minh chiếu dịu
Nơi đảnh tôi rực rỡ vô ngần
Sáng hơn nhật nguyệt muôn lần
Luôn luôn tỏ rạng, khó phân đêm ngày.

NGUYỆN HĂM LĂM – hào quang chói lọi
Đến tận nơi các cõi U Minh
Chư Thiên cho đến bàng sinh
Thấy hào quang sáng, tự mình quy y.

NGUYỆN HĂM SÁU – quang minh cảm hóa
Khắp mười phương các cõi nhân dân
Hào quang chiếu đến bản thân
Từ hào tâm tánh hơn dân cõi trời.

NGUYỆN HĂM BẢY – vãng sanh Tịnh Độ
Cho những người giữ giới, ăn chay
Đến những ai thiền định đêm ngày
Khi nào mãn báo thân này
Tôi và Thánh chúng đông dầy
Phóng quang tiếp dẫn, lên ngay sen vàng.

NGUYỆN HĂM TÁM – trời, người các cõi
Nghe danh tôi, trần thiết huy hoàng
Ngày đêm tưởng niệm vái van
Người ấy sẽ được, Lạc Bang sanh về.

NGUYỆN HĂM CHÍN – chúng sanh các cõi
Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê
Tên tôi mười niệm, không hề
Xao lãng chánh niệm, được về Tây Phương
Trừ những kẽ tánh tình ngỗ nghịch
Cùng những người báng Phật, Pháp, Tăng
Ra vào tập tánh hung hăng
Chắc đọa địa ngục, muôn năm thọ hình.

NGUYỆN BA MƯƠI – mọi điều như ý
Kiếp trước đây tạo nghiệp không lành
Hôm nay, phát nguyện tu hành
Tây Phương Cực Lạc, cầu sanh dễ dàng.

NGUYỆN BĂM MỐT – mọi người cung kính
Nghe tên tôi, đảnh lễ cúng đàn
Người đó sẽ được dễ dàng
Trời, người, kính nể, quy hàng, tán dương.

NGUYỆN BĂM HAI – sanh làm nam giới
Những đàn bà con gái chán đời
Phát tâm tín niệm danh tôi
Thân sau sẽ khỏi luân hồi nữ nhi.

NGUYỆN BĂM BA – chứng liền Đạo Quả
Bậc “Nhất Sanh Bổ Xứ” chứng liền
Lại còn những vị siêu nhiên
Muốn sanh cõi khác tôi liền giúp cho.
Giúp cho hạnh nguyện Phổ Hiền,
“Tịch Diệt”, “Phạm Hạnh” cần chuyên thi hành
Rồi ra giáo hóa chúng sanh
Chứng nên Phật quả, viên thành nguyền xưa.

NGUYỆN BĂM BỐN – nhân dân trong nước
Muốn sanh về cõi khác độ sanh
Nếu không như nguyện, cũng không
Đọa ba đường dữ, thoát vòng trầm luân.

NGUYỆN BĂM LĂM – các hàng Bồ Tát
Muốn cúng dường chư Phật những đâu
Hương, hoa, anh lạc, trân châu
Mang đi khắp cả, vừa hầu bửa ăn.

NGUYỆN BĂM SÁU – được như ý nguyện
Nếu ước muốn mọi vật có liền
Đưa đi khắp cả các miền
Cúng dường chư Phật, về liền chưa trưa.

NGUYỆN BĂM BẢY – thông minh trí huệ
Hàng Bồ Tát phúng tụng các kinh
Liền được trí huệ thông minh
Diễn dương Chánh Pháp, tài tình cao siêu.

NGUYỆN BĂM TÁM – biện tài vô ngại
Chư Tôn Bồ Tát huệ sáng ngời
Giảng kinh thuyết Pháp khắp nơi
Biện tài vô ngại, không người sánh phân.

NGUYỆN BĂM CHÍN – nhân dân trong nước
Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm
Kim cang thần lực vô biên
In như chư Phật, kim thân sáng ngời.

NGUYỆN BỐN MƯƠI – quốc độ trang nghiêm
Trong cây báu, muốn xem chư Phật
Mười phương các cõi ở xa
Hiện hiện trước mặt như là soi gương.

NGUYỆN BỐN MỐT – mọi đường công đức
Bồ tát nào chưa được hoàn toàn
Có thể biết được Đạo Tràng
Bề cao cho đến bốn ngàn do tha.

NGUYỆN BỐN HAI – người, vật khôn lường
Quốc độ tôi, đồ vật chúng sinh…
Mỗi người, mỗi vật tịnh minh
Dù chứng thiên nhãn, chẳng nhìn hết đâu.

NGUYỆN BỚN BA – mọi người trong nước
Chí mong cầu nghe được Pháp, Kinh
Tự nhiên có sẳn âm thinh
Không cần mời thỉnh, theo tình thế gian.

NGUYỆN BỐN BỐN – Bồ Tát, Thinh Văn
Trong nước tôi, trí huệ oai linh
Trên đảnh có ánh quang minh
Biện tài nói Pháp, in hình Thế Tôn.

NGUYỆN BỐN LĂM – mười phương bồ tát
Nghe tên tôi phát nguyện quy y
Lại thêm thiền định hành trình
Liền được giải thoát không gì vướng ngăn.
Nếu chí muốn cúng dường chư Phật
Trong khoảnh khắc khắp cả mười phương
Đường xa tuy khó đo lường
Nương nhờ thần lực, trên đường thong dong.

NGUYỆN BỐN SÁU – Chư Tôn Bồ Tát
Ở phương xa tinh tấn tu hành
Tam muội, giải thoát chúng xong
Thường thấy chư Phật số đông không lường.

NGUYỆN BỐN BẢY – dân số đông dầy
Hàng hàng lớp lớp về đây tu hành
Người người nguyện thỏa vô sanh
Vào hàng Bất Thối, viên thành nơi đây.

NGUYỆN BỐN TÁM – hoàn thành Pháp Nhẫn
Người người đều thành khẩn quy y
Hoàn thành nguyện lớn một khi
Nhất, nhị, tam nhẫn hành trì luôn luôn.
Pháp Tạng phát nguyện vừa xong
Mười phương các cõi thảy đồng hân hoan
Hương, hoa, kỹ nhạc, lộng tàn
Cúng dường Giáo Chủ Lạc Bang Di Đà.