BỐN CHÚNG VÃNG SANH

Quyển 2

II. VUA QUAN VÃNG SINH

1. Vua Nước Ô Tràng

Vua nước Ô Tràng, những lúc rãnh rỗi việc triều chính, thường thích nghiên cứu Phật pháp. Vua từng nói với các vị cận thần: “Trẫm là vua của một nước, tuy hưởng phúc lạc nhưng cũng không tránh khỏi vô thường.Nghe nói cõi Tịnh độ ở Tây phương có thể an dưỡng tinh thần, trẫm phải phát nguyện sinh về nước ấy”. Từ đó, ngày đêm sáu thời, vua chuyên tâm niệm Phật. Vua cũng thường xuyên cúng Phật và thiết trai cúng dường chư tăng, đích thân vua và hoàng hậu dâng cúng thức ăn cho chư tăng. Vua làm như vậy suốt ba mươi năm mà không bỏ một ngày nào.

Khi vua bănghà, sắc mặt rất tươi tỉnh và có hóa Phật đến đón. Những điềm lành lúc ấy rất nhiều.

Ghi chú:

Vào đời mạt pháp, người không có địa vị nghe pháp mà tin nhận, hành trì thì nhiều; ngược lại, người có địa vị nghe pháp mà phát khởi lòng tin, thực hành thì rất ít. Người có địa vị cực kì tôn quý như vua chúa, quan lại nghe pháp mà phát lòng tin, thực hành lại càng ít hơn làvì sao? Vì địa vị càng cao thì tham dục càng lớn; tham dục càng lớn thì sự đắm nhiễm càng nặng. Đời nay, hiếm có người quyền cao chức lớn mà tránh được sự cám dỗ của tham vọng. Vì thế, người hưởng thụ dục lạc của hàng vua chúa mà không quên niệm Phật cầu sinh Tây phương, nếu chẳng phải nhiều đời đã gieo trồng duyên lành thì làm sao làm được như vậy! Mặc dù từ xưa đến nay, những bậc vua chúa để tâm nghiên cứu kinh điển Phật giáo rất nhiều, nhưng vì sao không thấy ghi chép lại? Bởi vì, ở đây chỉ nói về chuyện vãng sinh Tịnh độ, cho nên không ghi chép lại.

2. Tống Thế tử

Ngụy Thế tử sống vào đời Tống, cả ba cha con Thế Tử đều tu pháp môn niệm Phật, chỉ có người vợ không chịu tu. Con gái của Thế tử qua đời năm lên mười bốn tuổi. Qua đời được bảy ngày thì bỗng nhiên cô sống lại và nói với mẹ: “Con thấy trong ao bảy báu ở Tây phương đã có hoa sen của cha và hai anh em con.Sau khi cha và hai anh em con qua đời sẽ sinh vào đó.Chỉ riêng mẹ chưa có hoa sen.Vì thế con mới trở về báo cho mẹ biết, mong mẹ để ý”. Nghe con gái nói như thế, bà vô cùng cảm động, liền phát khởi lòng tin niệm Phật không từ mệt nhọc. Sau khi qua đời, bà cũng được vãng sinh Cực Lạc.

Ghi chú:

Người mẹ ban đầu thiếu duyên ở Tịnh độ, nhưng cuối cùng cũng được sinh về Cực Lạc. Như thế, vãng sinh hay không là do tin hay không tin mà thôi. Trong Kinh ghi: “Chỉ trừ những người nào không có lòng tin thì không được vãng sinh”.

3. Tham quân Lưu Di Dân

Lưu Di Dân sống vào đời Tấn, người ở Bành Thành, là hậu duệ của Sở Nguyên Vương nhà Hán. Ông mồ côi cha từ thuở nhỏ, một lòng lo phụng dưỡng mẹ, nổi tiếng là người có hiếu. Ông tự phụ cho mình tài ba nên không giao du với bọn tầm thường. Ông làm Tham quân ở phủ, chẳng được bao lâu lại vội lui về ở ẩn. Tạ An, Lưu Dụ nhiều lần tiến cử ông, nhưng ông cự tuyệt không vào triều. Vì thế, ông được vua ban tấm biển hiệu là “Di Dân”.

Sau đó, ông vào Lô Sơn tham dự đạo tràng Bạch Liên xã của ngài Tuệ Viễn. Ông trứ tác “Niệm Phật tam-muội thi” để bày tỏ lòng chí thành của mình. Nhiều lần ở trong định, ông thấy hào quang của Đức Phật chiếu xuống đất và làm cho đất có màu vàng. Mười lăm năm sau, cũng tại Lô Sơn, ông lại thấy Phật A-di-đà phóng hào quang giữa hai chặng lông mày, rồi duỗi tay xuống vỗ về ông. Lúc ấy, ông cầu nguyện: “Làm sao để được Đức Như Lai xoa đầu và lấy y trùm cho con!”. Cầu nguyện vừa dứt lời, bỗng chốc Phật duỗi tay xoa đầu và lấy y trùm lên người ông.

Vào một ngày khác, ông lại thấy mình vào ao bảy báu,[20] trong ao có hoa sen xanh, sen trắng, nước ao trong suốt. Lúc ấy, bỗng xuất hiện một người, trên đầu có vòng hào quang, giữa ngực có chữ 卍 chỉ nước trong ao và nói: “Đây là nước đủ tám công đức[21] ông có thể uống”. Di Dân liền múc uống,cảm thấynước mát và ngọt. Sau khi tỉnh dậy, ông vẫn còn nhớ rất rõ và có hương thơm lạ phát ra từ các lỗ chân lông. Ông nói với mọi người:

– Đã đến lúc tôi về Tịnh độ rồi.

Nói xong, ông đến trước tượng đốt hương, lễ Phật và khấn nguyện:

– Con nhờ Đức Thích-ca chỉ dạy, mới biết có Phật A-di-đà.Hương thơm này trước hết con dâng cúng dường Đức Thích-ca Như Lai, sau là cúng dường Phật A-di-đà và kinh Diệu pháp liên hoa, nguyện cho tất cả chúng sinh đều được sinh về Tịnh độ!

Khấn nguyện xong, ông ngồi xoay mặt về hướng tây, chắp tay qua đời. Lúc ấy, nhằm niên hiệu Nghĩa Hy thứ sáu (410)[22].

Ghi chú:

Lời tựa của kinh Quán Vô Lượng Thọ ghi: “Chính nhân của tịnh nghiệp là lấy việc hiếu dưỡng cha mẹ làm đầu”. Vì thế nên biết, người bất hiếu dù niệm Phật suốt ngày, Phật cũng không hoan nghinh. Nay Di Dân ngay từ lúc còn rất nhỏ đã biết hiếu dưỡng mẹ; chẳng những thế, ông còn trụ sâu trong thiền định và nhiều lần cảm ứng hiện điềm lành. Do đó, có thể biết ông ấy nhất định sẽ được vãng sinh vào phẩm vị cao. Người tại gia tu tịnh nghiệp phần đông đều cho ông là gương sáng của muôn đời.

4. Mậu tài[23] Trương Dã

Trương Dã sống vào đời Tấn, người ở Tầm Dương, ông thông thạo cả tiếng Trung Quốc lẫn tiếng Phạn. Ông giỏi văn chương, thi đỗ tú tài, triều đình nhiều lần mời ông vào giữ chức “Tán kị thường thị”, nhưng ông đều từ chối. Về sau, ông vào Lô Sơn tu tịnh nghiệp trong đạo tràng Bạch Liên xã của ngài Tuệ Viễn. Niên hiệu Nghĩa Hi thứ 14 (418), ông từ biệt mọi người, vào tịnh thất ngồi ngay thẳng và qua đời.

5. Học sĩ[24] Trương Kháng

Trương Kháng sống vào đời Tống, hễ làm được bất cứ việc thiện gì ông đều hồi hướng lên Đức Phật. Ông phát nguyện tụng mười vạn biến Đại bi đà-la-ni để cầu sinh Tịnh độ. Năm 60 tuổi, bị mắc bệnh nặng, nên ông nhất tâm niệm Phật. Một hôm, ông gọi người nhà đến nói: “Tây phương Tịnh độ đang ở trước nhà; Phật A-di-đà ngồi trên hoa sen, có đứa bé đứng trên đất vàng lễ Phật”. Nói xong, ông niệm Phật rồi qua đời. Đứa bé là cháu của Trương Kháng đã qua đời năm ba tuổi.

Ghi chú:

Tâm tịnh thì Tây phương hiện ra trước mắt, tâm uế thì địa ngục theo bên mình. Tâm của Trương Kháng đã hoàn toàn thanh tịnh nên thấy Phật ở trước nhà, sao lại còn nghi ngờ?

6. Tư sĩ Vương Trọng Hồi

Vương Trọng Hồi sống vào đời Tống, làm quan đến chức Tư sĩ tham quân ở Quang Châu. Một hôm, ông hỏi Vô Vi Tử Dương Kiệt: “Vì sao trong kinh dạy người cầu sinh Tịnh độ, nhưng tổ sư lại dạy tâm là Tịnh độ, không nhất định phải cầu?”.

Dương Kiệt đáp: “Ông thử tự suy nghĩ, nếu ở cõi Phật thì không có tịnh, không có uế, cần gì phải cầu sinh! Còn ngược lại, nếu chưa thoát khỏi cảnh chúng sinh, đâu thể không chí tâm niệm Phật để xa lìa cõi uế mà cầu sinh về cõi tịnh!”. Tư Sĩ vỡ lẽ, vui vẻ cáo từ.

Hai năm sau, lúc Dương Kiệt làm Thái thú ở quận Đan Dương, bỗng một hôm, ông nằm mộng thấy Tư sĩ Vương Trọng Hồi nói: “Trước kia nhờ ông chỉ bảo, nên tôi đã được vãng sinh, hôm nay đặc biệt đến tạ ơn ông”. Vài ngày sau có tin báo tang đến, nội dung nói: “Tư sĩ Vương Trọng Hồi biết trước bảy ngày nữa sẽ mạng chung nên ông từ biệt bà con họ hàng rồi qua đời”. Quả thật, đúng như những gì Dương Kiệt đã mộng thấy!

7. Huyện úy Mã Tử Vân

Mã Tử Vân sống vào đời Đường, thi đỗHiếu liêm, được tiến cử làm chức Huyện úy ở Kinh Ấp. Sau đó, ông áp tải tiền của, châu báu về kinh đô, trên đường đi gặp bão, tàu bị chìm nên ông bị bắt giam. Trong thời gian bị giam giữ, ông chuyên tâm niệm Phật. Năm năm sau, ông được trả tự do. Từ đó, ông vào chùa Nam Lăng Sơn ở ẩn. Một hôm, ông nói với mọi người: “Tôi một đời siêng năng niệm Phật, nay duyên lành ở Tây phương đã chín muồi, nhất định vãng sinh về nước An Dưỡng”.

Sáng hôm sau, ông tắm gội sạch sẽ, mặc đồ mới, ngồi ngay thẳng chắp tay niệm Phật, có hương thơm lạ phảng phất khắp phòng. Ông mỉm cười và nói: “Phật đến rước tôi”. Nói vừa dứt lời, ông qua đời.

Ghi chú:

Thân bị giam cầm, tâm chuyên niệm Phật, cuối cùng được ân xá. Cũng giống như trong phẩm Phổ môn của kinh Pháp hoa ghi: “Người bị giam cầm, xiềng xích niệm danh hiệu bồ-tát Quán Âm thì liền được thả ra”. Nay năm dục trói buộc, thế chẳng phải đang bị giam cầm sao? Niệm Phật một tiếng diệt trừ được tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp, lẽ nào đó chẳng phải là bí quyết để thoát tội sao? Người đắm đuối trong năm dục, không biết niệm Phật thì mãi mãi chịu tội không có thời hạn ân xá. Thật đáng thương xót!

8. Phó quận Cổ Thuần Nhân

Cổ Thuần Nhân sống vào đời Tống, người Hiệp Xuyên, làm quan phó quận Dĩnh Châu. Ông chuyên tâm tu tịnh nghiệp, trường trai niệm Phật. Sau đó, chỉ bị bệnh nhẹ, ông ngồi ngay thẳng xoay mặt về hướng tây mà qua đời. Lúc ông qua đời, trên đỉnh đầu có vòng tròn sáng và hương thơm lạ phảng phất khắp phòng.

9. Trợ giáo Trương Địch

Trương Địch sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, làm quan đến chức Trợ giáo. Ông thụ giới bồ-tát và cầu học pháp môn Tịnh độ với luật sư Viên Tịnh. Từ đó, ông dốc lòng niệm Phật, nguyện sinh về cõi An Dưỡng. Cứ mỗi lần niệm Phật, ông niệm thật lớn, đến khàn tiếng vẫn không thôi. Một hôm, ông thưa với luật sư Viên Tịnh: “Trong định con thấy chim tần-già trắng bay lượn trước mặt”. Ba năm sau, ông xoay mặt về hướng tây, ngồi ngay thẳng niệm Phật và qua đời.

Ghi chú:

Vì sao chỉ thấy chim tần-già mà không thấy Phật? Bởi vì, ban đầu chỉ tạm thấy thế thôi, cuối cùng rồi sẽ thấy Phật! Đó chẳng phải dần dần đi vào cảnh giới tốt đẹp hay sao?

10. Quốc học Vương Long Thư

Vương Nhật Hưu sống vào đời Tống, người ở Long Thư, ông thanh liêm, chính trực và thông hiểu kinh sử. Một hôm, ông vứt bỏ tất cả và nói: “Những gì mà tôi học đây đều không phải là pháp cứu cánh, mục đích của tôi là cầu sinh Tây phương”. Từ đó, suốt mười sáu năm liền ông siêng năng niệm Phật, ăn mặc thô sơ đạm bạc, mỗi ngày lễ Phật một nghìn lạy đến nửa đêm mới ngủ. Ông có viết Long ThưTịnh độvăn[25] để khuyên người đời niệm Phật.

Ba ngày trước khi chết, ông đi từ biệt tất cả mọi người và nói: “Chẳng còn gặp nhau nữa”. Đến kì hạn, sau khi đọc sách xong, như thường lệ ông đỉnh lễ và niệm Phật, bỗng nhiên ông niệm A-di-đà Phật thật lớn và nói: “Phật đến rước tôi”. Nói vừa dứt lời, ông đứng thẳng mà qua đời, giống như cây trồng. Người trong làng nằm mộng thấy có hai người mặc đồ xanh đến dẫn ông đi về hướng tây. Từ đó, nhà nhà đều thờ cúng ông”.

Ghi chú:

Ở Long Thư, ông khuyên mọi người phát tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương. Ông là người cương trực, thành khẩn bậc nhất, chẳng phải nói suông mà luôn làm đúng như lời nói. Đến lúc ông lâm chung có những điều kì đặc đáng làm gương sáng cho muôn đời. Than ôi! Há chẳng phải những bậc thánh nhân Tịnh độ vào chợ duỗi tay cứu người sao?

11. Tư gián Giang Công Vọng

Giang Công Vọng sống vào đời Tống, người ở Điếu Đài, làm quan đến chức Gián nghị, ông chỉ ăn rau quả và chuyên tu. Ông soạn Bồ-đề văn và Niệm Phật phương tiện văn để khuyến khích người xuất gia và tại gia tu tập.

Ông có một người con chẳng may chết sớm. Một hôm, nó hiện về báo mộng: “Đại nhân tu tập đã có kết quả, ở âm phủ có một bức hoành chữ vàng ghi rằng: Quan tri phủ Nghiêm Châu là Giang Công Vọng, giữ chức Tư gián, khát ngưỡng giáo lý khổ, không của đạo Phật, nên siêng năng tu tập, tâm không đắm nhiễm, mọi cử chỉ đều đúng với Phật pháp, nói năng như chính pháp, im lặng như chính pháp, sau khi xả báo thân, nhất định vãng sinh Tịnh độ”. Cuối niên hiệu Tuyên Hòa (1125), ông đang giữ chức quan Tham tri cho Quảng Đức quân. Một hôm, ông không bệnh, ngồi ngay thẳng xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

Ghi chú:

Có người cho rằng: “Việc đề bức hoành dưới âm phủ, e là không có thật!”. Ôi! Tượng của ngài Vĩnh Minh thường được vẽ dưới âm phủ, như vậy, chuyện vị tăng nhiễu quanh tháp kể lại là có thật, đâu riêng gì Giang Công Vọng mà nghi ngờ!

12. Đại phu Cát Phồn

Cát Phồn sống vào đời Tống, người ở Trừng Giang, lúc nhỏ đã thi đậu khoa cử, làm quan đến chức Triều tán[26]. Phàm chốn công đường hay nhà riêng, ông đều xây dựng tịnh thất, thiết trí bàn Phật. Ông thường vào thất tụng kinh, lễ Phật, cảm ứng xá-lợi từ trên không trung rơi xuống. Thường ngày, ông đem pháp tu Tịnh nghiệp khuyên khắp người xuất gia hay tại gia tu tập, mọi người tin và thực hành theo rất đông. Một hôm, có vị tăng nhập định xuất thần đến cõi Tịnh độ, thấy ông Cát Phồn ở đó.

Về sau, ông không có bệnh, ngồi xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

Ghi chú:

Những vị quan tin Phật thì rất nhiều, nhưng phần đông chỉ vì tránh sự hiềm khích của thế gian nên họ không để lộ ra bên ngoài. Trái lại, Cát Phồn thì ở chốn công đường mà vẫn không quên thiết trí tượng Phật, đó là thể hiện lòng tin chân thật với Phật pháp của Cát Phồn! Sau này, ông ta ngồi ngay thẳng mà qua đời, đây không phải là ngẫu nhiên vậy.

13. Trung quan Lí Bỉnh

Lí Bỉnh sống vào đời Tống, làm Trung quan ở Thiệu Hưng, quản lý Viện Ngự Dược. Lúc đầu, ông học thiền với ngài Tịnh Từ Huy, có chút tỉnh ngộ. Đến già, tình cờ ông đọc được bộ Long Thư Tịnh độ văn, từ đó phát tâm hàng ngày niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Ông cùng các vị như: Các Trường Nguyên, Mỹ Điện Trường, Lâm Sư Văn v.v… khoảng vài chục người lập hội tu Tịnh độ tại chùa Truyền Pháp. Bỗng một hôm ông bệnh, nằm mộng thấy Đức Phật A-di-đà đem viên quang màu vàng ròng đội lên đầu ông. Bảy ngày sau, ông lại thấy hoa vàng khắp phòng. Rồi ông dặn dò, từ biệt người thân và ngồi ngay thẳng kết ấn mà qua đời.

14. Tuyên nghĩa Hồ Nhân

Hồ Nhân sống vào đời Tống, làm quan đến chức Tuyên nghĩa. Hằng ngày, tuy tin tưởng Phật pháp, nhưng chưa hiểu rõ về pháp môn Tịnh độ. Năm tám mươi bốn tuổi, ông bị bệnh nặng, người con đến mời thiền sư Thanh Chiếu đến chỉ dạy. Ngài Thanh Chiếu hỏi Hồ Nhân:

– Ông biết an thân lập mạng ở đâu không?

Hồ Nhân đáp:

– Tâm tịnh tức Phật độ tịnh.

Ngài Thanh Chiếu hỏi:

– Từ xưa đến nay ông có vọng tưởng nhiễm ô không?

Hồ Nhân đáp:

– Đã ở tại thế gian ai mà không có tạp niệm.

Ngài Thanh Chiếu nói:

– Như vậy thì làm sao đạt được tâm tịnh tức Phật độ tịnh?

Hồ Nhân nói:

– Niệm một câu danh hiệu Phật làm sao có thể diệt được tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp?

Ngài Thanh Chiếu nói:

– Đức Phật A-di-đà phát thệ nguyện tu hành trong vô lượng kiếp, uy đức rộng lớn, ánh sáng và thần lực không thể nghĩ bàn, do đó, niệm một câu danh hiệu Phật thì diệt được vô lượng tội, giống như ánh nắng mặt trời làm tan sương tuyết. Như thế, còn nghi ngờ nữa sao?

Hồ Nhân liền tỉnh ngộ. Trong ngày đó, ông thỉnh chư tăng đến nhà niệm Phật. Ngày hôm sau, ngài Thanh Chiếu lại đến. Ông ta hỏi: “Sao Ngài đến muộn thế?” Hai vị Đại sĩ đến từ lâu rồi.

Bấy giờ, ngài Thanh Chiếu bảo đại chúng niệm Phật lớn tiếng, Hồ Nhân chắp tay mà qua đời.

Ghi chú:

Hồ Nhân được vãng sinh là nhờ gặp ngài Thanh Chiếu. Việc người con đến mời ngài Thanh Chiếu đáng được cho là đại hiếu! Ở đời có người chấp vào sự yêu thương nhỏ nhặt mà phá trai giới của cha mẹ, thật là sai lầm vậy.

15. Đề hình Dương Vô Vi

Dương Kiệt sống vào đời Tống, người ở châu Vô Vi, hiệu Vô Vi Tử. Lúc trẻ đã thi đỗ, làm quan đến chức Thượng thư chủ khách lang coi về hình ngục ở Lưỡng Chiết. Ông rất tôn sùng Phật pháp, tỏ ngộ thiền tông. Ông nói: “Căn cơ của chúng sinh có cao thấp, chỉ có pháp môn Tịnh độ Tây phương là dễ hiểu dễ tu, chỉ cần nhất tâm quán niệm thâu nhiếp vọng tâm và nương vào nguyện lực của Phật thì nhất định sẽ vãng sinh nước An Dưỡng”. Ông từng viết bài tựa Thiên Thai thập nghi luận[27] và A-di bảo các kí, An Dưỡng tam thậptán,Tịnh độ quyết nghitập để hoằng truyền giáo quán Tây phương, dìu dắt chúng sinh đời sau. Đến lúc tuổi già, ông vẽ tôn tượng Phật A-di-đà cao một trượng sáu để quán tưởng. Đến ngày sắp mạng chung, Phật A-di-đà đến rước, ông ngồi ngay thẳng mà qua đời. Ông có nói bài tụng:

Sống cũng không có gì để lưu luyến,

Chết cũng không có gì để buông bỏ,

Chi, hồ, giả, dã trong hư không mênh mông,

Đem cái lầm đến với cái lầm Tây phương Cực Lạc.

Ghi chú:

Đọc bài tụng của Vô Vi Tử, có người cho rằng: “Vô Vi Tử tham thiền thấy được chân tính mà lại lấy cõi Tịnh độ làm chỗ quay về”. Đến ngay một lời nói “Đem cái lầm đến với cái lầm” hàm chứa không ít ý nghĩa.Than ôi! Đâu có được các bậc tài ba ở nhân gian đều đạt đến cái lầm này!

16. Quan sát Vi Văn Tấn

Vi Văn Tấn sống vào đời Tống, tính tình thanh cao, chân thật, ông lập đạo tràng Tịnh Nghiệp hóa độ mọi người. Một hôm, vào tháng 6, ông ngồi kết già xoay mặt về hướng tây, chắp tay niệm Phật mà qua đời. Lúc ông qua đời, có hương thơm lạ lan tỏa khắp nơi, mọi người đều ngửi thấy.

17. Lộ công Văn Ngạn Bác

Văn Ngạn Bác sống vào đời Tống, ông và pháp sư Tịnh Nghiêm nhóm họp mười vạn người lại lập hội Tịnh độ ở Kinh thành. Lúc sắp mạng chung, ông ngồi niệm Phật an nhiên qua đời.

18. Thị lang Mã Vu

Mã Vu sống vào đời Tống, ông nội của Mã Vu là Trung Túc công. Khi còn làm thái thú ở Hàng Châu, ông nội của Mã Vu được Từ Vân sám chủ dạy niệm Phật. Vì thế tất cả mọi người trong gia đình đều tôn sùng, kính ngưỡng Phật. Mã Vu chí tâm niệm Phật suốt hai mươi lăm năm. Đến niên hiệu Sùng Ninh (1102) bị bệnh nhẹ, ông tắm rửa thay y phục ngồi ngay thẳng và qua đời. Lúc ông qua đời có làn khí như chiếc dù màu xanh từ cửa phòng bay vào hư không và biến mất. Tất cả mọi người trong nhà đều mộng thấy ông vãng sinh thượng phẩm.

19. Thiếu sư Chung Li

Chung Li Cẩn sống vào đời Tống, khi ông còn làm quan Đề hình ở Chiết Tây, gặp được ngài Từ Vân sám chủ thì hết lòng tin về Tịnh độ. Sau đó, ông giữ chức Tri phủ ở Khai Phong, khi ra ngoài thì hết lòng tận tụy phụng sự đất nước, lúc về nhà thì không quên niệm Phật. Bỗng một hôm, ông thúc dục người nhà đỡ ông dậy, tắm rửa, thay y phục rồi ngồi ngay thẳng mà qua đời. Cả nhà thấy ông ngồi trên hoa sen xanh, thiên nhạc đón rước đưa về phương tây.

20. Thừa vụ Diêm Bang Vinh

Diêm Bang Vinh sống vào đời Tống, người ở Trì Châu, suốt hai mươi năm trì chú Vãng sinh và niệm Phật. Lúc sắp mạng chung, người trong nhà mộng thấy Đức Phật phóng quang đến rước Diêm Bang Vinh. Sáng hôm sau, thấy ông ngồi kết già quay mặt về hướng tây, bỗng đứng dậy đi vài bước rồi đứng lại mà qua đời.

21. Triều tán Vương Trung

Vương Trung sống vào đời Tống, người ở Gia Hòa, lập Bạch Liên xã ở Tây Hồ; không phân biệt hiền ngu, giàu nghèo, tăng tục, những người nguyện vãng sinh, ông đều mời tham dự Bạch Liên xã. Ông có soạn bản văn Khuyến tu lưu hành ở đời. Sau này, ông không bệnh, ngồi xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

22. Đại phu Chung Li Cảnh Dung

Chung Li Cảnh Dung sống vào đời Tống, làm quan đến chức Triều thỉnh đại phu, thường tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ, niệm Phật mãi không thôi. Khi về hưu, ông làm một am tranh bên cạnh vườn Nghi Chân Đông. Ông từng nói: “Không biết Di-đà thì Di-đà ở Tây phương bên ngoài.Biết được Di-đà thì Di-đà ở tại nhà mình”. Một hôm, ông mời vị tăng tên Diệu Ứng tụng phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện, ông đốt hương cung kính lắng nghe, hai tay kết ấn mà qua đời.

23. Quận thú Tiền Tượng Tổ

Tiền Tượng Tổ sống vào đời Tống, hiệu Chỉ Am, lúc trấn giữ ở Kim Lăng, lấy việc tu Tịnh độ làm tâm niệm. Ở quê nhà, ông từng xây dựng mười nơi tiếp đãi khách đều đặt tên Tịnh độCực Lạc, đồng thời xây liêu phòng Chỉ Am Cao Tăng để mời các vị tăng đến đàm đạo. Từ khi từ chức Tả thừa tướng trở về, ông siêng năng tu tịnh nghiệp.

Đến tháng 2 niên hiệu Gia Định thứ tư (1211), ông bị bệnh nhẹ, có viết bài kệ:

Hoa sen thơm từ cõi Phật đến

Trên đất lưu li màu trong suốt

Tâm ta thanh tịnh hơn như thế

Hôm nay xa thấy hoa sen nở.

Ba ngày sau, có vị tăng đến thăm, ông nói: “Tôi không tham sống, không sợ chết, không sinh lên trời, không sinh làm người, chỉ cầu sinh về Tịnh độ”. Nói xong, ông ngồi kết già mà qua đời. Sau đó, có người nằm mộng nghe trên không trung có tiếng nói rằng: “Tiền thừa tướng đã vãng sinh trong hoa sen ở Tây phương với danh hiệu là Bồ-tát Từ Tế”.

24. Huyện lệnh Mai Nhữ Năng

Mai Nhữ Năng sống vào đời Tống, người ở Thường Thục, làm quan đến chức Huyện lệnh, chuyên tu tịnh nghiệp. Bỗng một hôm, ông nằm mộng thấy có một vị tăng trao cho một trăm tờ giấy có viết hai chữ “nhị bát”. Ông đem việc này đến hỏi thầy Đông Linh Chiếu. Đông Linh Chiếu nói: “Nhị bát” tức là “thập lục”. Há chẳng phải ám chỉ kinh Thập lục quán ư!

Ngay lúc ấy, có một vị tì-kheo đem quyển kinh trao cho ông, rồi biến mất. Từ đó, ông siêng năng tụng kinh, niệm Phật và ông tự lấy tên là Vãng Sinh, để tỏ bày chí nguyện. Bấy giờ, trong ấp có tượng đức Phật A-di-đà cao một trượng sáu do ngài Đạo Sinh dựng đã lâu, ông cúng một vạn tiền để tô vẽ, tu sửa lại pho tượng.

Lúc ấy, trong cái ao trước chùa bỗng mọc lên hai hoa sen trắng, mỗi hoa có một trăm cánh. Mùa đông năm ấy, ông không bệnh mà qua đời.

25. Học dụ Tảm Định Quốc

Tảm Định Quốc sống vào đời Tống, hiệu Tỉnh Trai, làm quan đến chức Học dụ ở châu. Ông thường niệm Phật và đọc các kinh Tịnh độ. Mỗi tháng vào ngày mùng 3 và 8, ông nhóm họp người xuất gia và tại gia lại tụng kinh niệm Phật.

Đến niên hiệu Gia Định thứ tư (1211), ông nằm mộng thấy một đứa trẻ mặc áo xanh nói: “Đức Phật bảo tôi đến đón ông, ba ngày nữa ông sẽ vãng sinh về Tịnh độ”. Đến ngày thứ ba, ông tắm rửa thay y phục, ngồi ngay thẳng niệm Phật và qua đời.

26. Gián nghị Phùng Tế Xuyên

Phùng Tiếp sống vào đời Tống, hiệu Tế Xuyên, người ở Toại Ninh, thi đỗ Thái học ra làm quan. Ban đầu, ông học đạo ở chốn thiền lâm, đến già chuyên tu tịnh nghiệp. Ông soạn Tây phươngvăn và Di-đà sám nghi. Sau này ông làm quan đến chức Cấp sự trung thống lĩnh quân đóng bên sông Lô, tỉnh Vân Nam. Ở đó, ông tập hợp kẻ tăng người tục lập hội Hệ Niệm[28]và cuối cùng là ông làm quan Tri châu tại Cung Châu.

Về sau, ông thiết lập một cái tòa cao ở trong sảnh đường hướng về cung vua kính cẩn lễ bái. Rồi ông mặc tăng y, bước lên tòa từ tạ tất cả vị quan lại xong, đặt cây gậy ngang đầu gối mà qua đời.

Ghi chú:

Theo Truyền đăng lục[29] ghi: “Ban đầu ông tham vấn với ngài Long Môn Viễn, sau đó lại tham vấn ngài Diệu Hỉ, hai ngài ấy đều là bậc đã chứng ngộ”. Ông biết trước giờ chết nên lên tòa giã từ các quan lại và cầm cây gậy đặt ngang đầu gối mà qua đời.

Ông được tự tại, nổi tiếng, rõ ràng có bản lĩnh như các bậc đại lão của Tông môn. Nhưng vì sao đều không nói đến việc niệm Phật vãng sinh? Bởi vì các nhà trước thuật lập ra nhiều giáo nghĩa khác nhau, mỗi người lại thuộc tông môn khác nhau, vì thế, họ chỉ chú trọng đến tông môn của mình mà thôi. Như người chú trọng về pháp môn “Trực chỉ nhân tâm” thì tự nhiên họ chỉ chọn lấy pháp môn “Liễu minh tâm địa” mà lược bỏ pháp môn Tịnh độ.

Cũng giống như ngài Hoài Ngọc quyết lấy đài vàng, đến khi ngài Viên Chiếu được ghi tên trên hoa đài, nhưng những vị ấy vẫn không được ghi lại trong bộ Truyền đăng lục này. Vì những vị này chỉ chú trọng cầu sinh Tịnh độ.

Cho nên biết, người nào khi sống chuyên niệm Phật cầu sinh Tịnh độ thì khi qua đời nhất định sẽ được vãng sinh. Nhưng những người đã thấy rõ bản tâm, đạt được tự tại thì càng tự tại trong việc vãng sinh.

Giống như nói, người đã thấy được Phật A-di-đà thì còn lo gì không được khai ngộ!

Thí dụ như, nếu nói trọng về đức thì Nhan Hồi là người đứng đầu về những người có đức, nhưng lại chẳng được kể vào những người tham gia chính trị. Còn nói trọng về tài thì Nhan Hồi cũng thuộc vào hàng những người tài giỏi đủ sức phò tá cho vua, nhưng lại cũng không kể vào hàng những người có đức. Sở dĩ có sự khác biệt này cũng vì không cùng hàng ngũ vậy.

Vì thế, người tu tịnh nghiệp xin hãy giữ vững lòng tin chớ có hoang mang!

27. Thị lang Vương Mẫn Trọng

Vương Cổ sống vào đời Tống, tự là Mẫn Trọng, người ở Đông Đô, làm quan đến chức Lễ bộ thị lang. Ông là người có lòng nhân từ đôn hậu thương người thương vật. Ban đầu ông theo học thiền và thấu tỏ được yếu chỉ thiền tông. Sau đó, ông lại tỏ ngộ được sự thù thắng của pháp môn Tịnh độ. Ông soạn ra bộ Trực chỉ Tịnh độ quyếtnghi tập, 3 quyển. Thường ngày ông siêng năng niệm Phật, xâu chuỗi không khi nào rời khỏi tay; những khi đi, đứng, ngồi, nằm, ông đều lấy việc quán tưởng Tây phương Tịnh độ làm Phật sự.

Một hôm, có vị tăng xuất thần đến Tịnh độ thấy Vương Cổ và Cát Hệ cùng ở đó. Như vậy, việc vãng sinh của ông là có chứng cứ rõ ràng.

28. Tiến sĩ Ngô Tín Tẩu

Ngô Tử Tài sống vào đời Tống, tự là Tín Tẩu. Sau khi từ quan ông làm sẵn một cái quan tài, ban đêm vào nằm trong đó và bảo đồng tử gõ lên quan tài hát rằng: “Ngô Tín Tẩu! Hãy quay về! Ba cõi không an, không nên ở lâu, Tây phương Tịnh độ có đài sen. Hãy quay về!”. Rồi ông tự họa theo đồng tử. Về sau ông không bệnh mà qua đời.

29. Thiếu phó Bạch Cư Dị

Bạch Cư Dị sống vào đời Đường, làm quan đến chức Trung đại phu thái tử thiếu phó. Ông sửa nhà ông lại thành chùa lấy tên là chùa Hương Sơn; vì thế mà ông có hiệu là Hương Sơn cư sĩ. Về già, ông mắc chứng bệnh phong thấp, ông bỏ ra ba vạn tiền lương hưu của mình để vẽ toàn bộ cảnh y báo chính báo trang nghiêm ở thế giới Tây phương Cực Lạc theo sự mô tả trong kinh Vô Lượng Thọ. Người nào trông thấy cũng đều đỉnh lễ phát nguyện. Ông có làm bài kệ tán như sau:

Thế giới Cực Lạc cõi thanh tịnh

Không có đường ác và các khổ

Nguyện như thân con, người già bệnh

Cùng sinh chỗ Phật Vô Lượng Thọ.

Ghi chú:

Có người kể lại rằng: “Bấy giờ, ở núi Bồng Lai có người tên Lạc Thiên. Lạc Thiên giã từ bằng bài kệ:

Sông núi không phải ta quay về

Nếu về, ta vềtrời Đâu-suất.

Nhưng nay ta đã bỏ cõi trời Đâu-suất chỉ cầu sinh Tịnh độ Tây phương. Đâu cho rằng đãi cát tìm vàng, càng đãi thì càng tinh sao!

30. Đô tổng Trương Luân

Trương Luân sống vào đời Tống, làm quan Đô tổng quản ở Chiết Giang. Đến giờ vãng sinh Tịnh độ, ông niệm Phật thật lớn. Cả nhà từ lớn đến nhỏ đều được ông chỉ dạy niệm Phật. Ông cho người đào ao trồng sen; mỗi ngày tất cả vợ con niệm Phật một vạn biến. Hoàng đế Hiếu Tông đích thân viết hai chữ “Liên Xã” ban tặng cho ông.

31. Học sĩ Tô Thức

Tô Thức sống vào đời Tống, hiệu là Đông Pha, làm quan đến chức Hàn Lâm học sĩ. Sau ngày rời kinh đô xuống phía nam, ông có vẽ một bức tượng Phật A-di-đà, đi đâu cũng đeo theo bên mình. Có người hỏi. Ông đáp: “Đây là công cứ vãng sinh Tây phương của Tô Thức! Vì mẹ tôi là Trình thị đã qua đời, nên tôi lấy cây trâm, bông tai, tiền của bà để lại nhờ họa sĩ Hồ Tích vẽ tượng Phật A-di-đà để cầu cho bà được sinh về Tịnh độ”.

Ghi chú:

Lão Tuyền, vì cầu cho vong linh mẹ, từng tạo tượng sáu vị bồ-tát ở viện Cực Lạc, vì ông ấy tìm hiểu với pháp môn rất mật thiết. Bởi vì tâm hướng về Tam bảo của Tô Thức rất chân thực. Về sau, có người khắc Tây phương công cứ, lại thêm vào những lời lẽ không trang nhã và cho rằng tự Tô Thức nói ra; đây là lời vu khống. Vì thế, những người có hiểu biết phải biết phân biệt chớ vì những chuyện ngụy tạo ấy mà bỏ luôn những việc có thật.

32. Thừa tướng Trương Vô Tận

Trương Thương Anh sống vào đời Tống, nhờ vợ là Hướng thị khuyến khích nên ông mới chú ý đến kinh điển Phật giáo. Ông có hiệu là Vô Tận cư sĩ, từng soạn Phát nguyện văn, trong đó có ghi: “Nghĩ về thế giới này, năm thứ nhơ uế làm loạn tâm, nếu không có năng lực nhận thức đúng đắn, thấy rõ nguyên nhân và không thể tỏ ngộ được tự tính duy tâm thì phải kính cẩn tuân theo lời đức Thích-ca Mâu-ni dạy, chuyên tâm niệm Phật A-di-đà, cầu Ngài dùng nguyện lực tiếp rước, khi qua đời được vãng sinh Cực Lạc,giống như thuyền xuôi theo dòng chảy chẳng tốn sức chèo mà vẫn cập bến vậy!”

Ghi chú:

Vô Tận theo học và ngộ lý Thiền với ngài Đâu-suất Duyệt, nhưng lại chuyên tâm niệm Phật cầu sinh An Dưỡng. Việc này cần phải suy xét lại cho kĩ lưỡng.

Bốn người từ ông Bạch Cư Dị cho đến ông Vô Tận này, mặc dù đều có hiện điềm vãng sinh Tây phương, nhưng chưa thấy sử sách ghi chép rõ ràng. Thế nhưng, xét nhân suy ra quả, nếu họ không sinh về Tịnh độ thì sinh về đâu?

33. Thiếu phủ Châu Cương

Vào đời Đại Minh có người tên Châu Cương, quê ở Kinh đô, sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho giáo[30]. Ông trúng tuyển kì thi hương nhưng ba lần thi chức Xuân quan đều không đỗ. Vì thế, ông chỉ nhận chức quan Nhị phủ. Sau đó, ông từ quan trở về chuyên tu Tịnh độ. Mỗi ngày niệm Phật ba vạn tiếng, ông niệm suốt mười lăm năm mà không chút ngại khó haymỏi mệt. Đến lúc sắp qua đời, ông ngồi trên giường hai tay lần chuỗi niệm Phật mãi không dứt và có hương thơm lạ phảng phất khắp phòng. Bỗng nhiên ông nói: “Đức Phật đến rồi”. Rồi ông niệm Phật liên tục và qua đời.

Tổng Luận

Tôi nghe người xưa có nói: “Hàng quan lại, học sĩ là những người thông minh, tài giỏi hơn người, phần đông họ là những vị tì-kheo tái sinh”.

Mặc dù vậy, đã có sự nghi ngờ về việc tái sinh của những vị này. Nhưng số người mê không trở lại với đạo thì rất nhiều; những người không quên nhân đời trước thì rất ít. Vì sao như vậy? Vì trong đời ác năm trược có quá nhiều điều kiện làm cho con người thoái tâm, các hiền giả cũng khó mà thoát khỏi. Chẳng hạn như, Tô Đông Pha là thân sau của Giới thiền sư. Tăng Lỗ Công là thân sau của Thanh thiền sư. Như hậu thân của Triết thiền sư là một người tham đắm giàu sang, đến nỗi phải âu sầu khổ não.

Tô Đông Pha được gần gũi Phật pháp mà Tăng Lỗ Công không bằng ông . Hậu thân của Triết thiền sư càng mê muội hơn. Vì thế, xưa nay những bậc tri thức thường khuyên mọi người bỏ năm thứ nhơ uế mà cầu sinh Tịnh độ. Vậy thì, từ Lưu Di Dân trở xuống các bậc quân tử đều được vãng sinh là không nhiều sao?

III. NHỮNG XỬ SĨ VÃNG SINH

1. Chu Tục Chi

Chu Tục Chi sống vào đời Tống, người ở Nhạn Môn, mới mười hai tuổi đã thuộc năm kinh[31], rành ngũ vĩ[32] nên có hiệu là Thập Kinh Đồng Tử. Công danh, quyền cao chức trọng ông đều chẳng màng đến, chỉ thích ở nơi thanh vắng. Ông thờ ngài Tuệ Viễn ở Lô Sơn làm thầy và tham gia vào đạo tràng Bạch Liên xã.

Khi Văn Đế lên ngôi có mời ông đến đàm đạo, thảo luận. Vua rất vui khi bàn luận với ông. Có người hỏi:

– Ông là xử sĩ, sao còn lui tới trong cung?

Ông nói:

– Người có chí theo đuổi chốn quan trường thì dù trời đất, sông nước thênh thang đối với họ cũng như gông cùm, xiềng xích.Trái lại, kẻ chẳng màng quyền lợi, công danh thì dù ở giữa triều đình hay phố chợđối với họ cũng như đang ở chốn núi non hoang vắng, u nhàn.

Vì thế, người thuở ấy gọi ông là Thông Ẩn tiên sinh. Về sau, ông đến cư trú tại Chung sơn, chuyên tâm niệm Phật. Càng về già ông càng siêng năng niệm Phật hơn. Bỗng một hôm, ông ngước mặt lên trời nói rằng: “Phật đến rước tôi!”. Nói rồi, ông chắp tay và qua đời.

Ghi chú:

Chu Tục Chi đã xem chốn triều đình, phố chợ giống như núi non, thì cũng có thể xem Ta-bà giống như Tịnh độ. Thế nhưng, ông vẫn siêng năng niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.Ông đích thực là người biết cân nhắc lợi hại.

Người xưa có câu: “Núi non, đồng bằng đều là Tây phương, ai chưa đến nhà, xin chớ hí luận”.

2. Trịnh Mục Khanh

Trịnh Mục Khanh sống vào đời Đường, người ở Vinh Dương, cả nhà đều tu niệm Phật. Khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713), ông bị bệnh nặng, có người khuyên nên ăn cá, thịt cho mau khỏe, nhưng ông kiên quyết không ăn. Biết mình không sống nữa, ông đốt hương cầu vãng sinh thì bỗng có hương thơm lạ xông lên ngào ngạt, ông an nhiên qua đời. Cậu ông là Thượng thư Tô Đĩnh nằm mộng thấy trong ao báu có hoa sen nở và thấy Trịnh Mục Khanh ngồi trên đó.

3. Trương Nguyên Tường

Trương Nguyên Tường sống vào đời Đường, thường ngày ông chuyên tâm niệm Phật mãi không dứt. Một hôm, ông vội nói với người nhà: “Đức Phật A-di-đà đang đợi, sau bữa ăn trưa xong, tôi sẽ đi với Ngài!”. Ăn trưa xong, ông đốt hương ngồi kết già xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

4. Tôn Lương

Tôn Lương sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, sống ẩn dật để xem Đại Tạng. Đặc biệt, ông rất thông thạo ý nghĩa của kinh Hoa nghiêm. Ông thụ giới bồ-tát với luật sư Đại Trí và mỗi ngày niệm Phật đến vạn tiếng. Ông niệm như vậy suốt hai mươi năm mà không lúc nào ngừng nghỉ. Bỗng một hôm, ông bảo người nhà thỉnh chư tăng đến niệm Phật để trợ giúp cho ông vãng sinh. Chư tăng đến niệm Phật chưa được bao lâu thì ông nhìn lên trời nói rằng: “Phật và bồ-tát mang hoa sen đến rồi!”. Nói dứt lời, ông nằm xuống và qua đời.

Ghi chú:

Hoa nghiêm hiệp luận ghi:

Bồ-tát cầu sinh Tịnh độ vẫn chưa thông suốt được đại đạo Nhất thừa. Thế thì, Tôn Lương đã nắm được nghĩa lý cốt tủy của kinh Hoa nghiêm, vì sao còn cầu sinh Tịnh độ?

Bởi vì, trong bộ Hoa nghiêm hiệp luận nói cốt để phá trừ chấp kiến cho hàng phàm phu chấp tướng. Đây là người mới thông hiểu Sự Tịnh độ mà chưa thấu tỏ được Lý Tịnh độ. Còn Tôn Lương thì cả Sự lẫn Lý đều đã thông suốt; nghĩa là đối với ông thế giới Hoa Tạng và Cực Lạc Tây phương chỉ có một chứ chẳng phải hai. Cho nên, Tôn Lương cầu sinh về đó là sự thật, chẳng có gì phải nghi ngờ. Những ai luận bàn về việc vãng sinh Tịnh độ phải lấy phẩm Hạnh nguyện của kinh Hoa nghiêm làm cơ sở, và dùng bộ Hiệp luận để tham khảo.

5. Nguyên Tử Bình

Nguyên Tử Bình sống vào đời Đường, ông ở trong chùa Quan Âm, Kinh Khẩu, chuyên tâm niệm Phật. Bỗng một hôm, nghe trong không trung có tiếng nhạc, ông liền ngồi xoay mặt về hướng tây và qua đời. Lúc ấy, có hương thơm lạ ngào ngạt suốt mấy ngày không hết.

6. Dữu Tiễn

Dữu Tiển sống vào đời Lương, người ở Tân Dã. Vua Lương Võ cho gọi ông vào cung làm chức Hoàng môn thị lang nhưng ông không vào. Ngày đêm sáu thời ông chuyên tâm niệm Phật. Một đêm nọ, ông thấy vị đạo nhân tự xưng là Nguyện Công, gọi Dữu Tiển là Thượng Hạnh tiên sinh và trao cho ông một nén hương rồi bỏ đi. Bốn năm sau, Nguyện Công lại đến, ông liền qua đời. Bấy giờ, trong không trung có tiếng bảo rằng: “Thượng Hạnh tiên sinh đã sinh về An Dưỡng!”.

7. Tống Mãn

Tống Mãn sống vào đời Tùy, người ở Thường Châu, ông dùng đậu để đếm số lần niệm Phật. Số đậu mà ông tích chứa được qua ngày tháng niệm Phật là ba mươi thạch[33]. Vào tháng 9, niên hiệu Khai Hoàng thứ tám (588), sau khi thiết trai cúng dường chư Tăng xong, ông ngồi ngay thẳng qua đời. Lúc ấy, mọi người thấy hoa trời rải xuống và mùi hương thơm lạ, thấy ông nương hư không bay về hướng tây.

8. Ông già Phần Dương

Ông già Phần Dương sống vào đời Đường, ông đến núi Pháp Nhẫn và ở nhờ trong một căn phòng trống, ngày đêm chuyên tâm niệm Phật. Niên hiệu Trinh Quán thứ năm (631), lúc ông sắp qua đời, có ánh sáng chiếu soi khắp nơi, ông ngồi xoay mặt về hướng tây qua đời. Có người thấy ông ngồi trên đài hoa bay đi.

9. Nguyên Tử Tài

Nguyên Tử Tài là người đời Đường, sống trong chùa Quán Âm ở Nhuận Châu, chuyên tụng kinh A-di-đà và niệm Phật. Bỗng một hôm, ông mắc bệnh nhẹ, ban đêm nghe trong không trung có hương thơm và tiếng nhạc, lại thoáng nghe như có tiếng người nói rằng: “Nhạc đơn giản đã qua, nhạc êm dịu sẽ đến, ông nên chuẩn bị đi!”. Nghe dứt lời, ông niệm Phật và qua đời. Lúc ông qua đời, có hương thơm lạ phảng phất liên tục suốt mấy ngày không dứt.

10. Ngô Tử Chương

Ngô Tử Chương sống vào đời Nguyên, người ở Tô Châu. Gia đình ông nhiều đời làm nghề thuốc. Ông cùng với anh là Tử Tài theo học với hòa thượng Vân Ốc, siêng năng niệm Phật. Cả nhà của ông rất tôn sùng Phật pháp. Đến niên hiệu Chính Gian, ông không bị bệnh, ngồi chắp tay niệm Phật và qua đời.

11. Hà Đàm Tích

Hà Đàm Tích sống vào đời Nguyên, năm lên mười tám tuổi thụ giới bồ-tát và chuyên tâm niệm Phật. Một đêm nọ, vào lúc canh tư ông nghe tiếng trống, lập tức ngồi dậy tụng kinh, niệm Phật. Có người bảo:

– Còn sớm quá!

Ông nói:

– Tôi thấy Phật đem phướn và hoa đến rước.

Nói dứt lời, ông nhắm mắt qua đời.

12. Vương Điền

Vương Điền sống vào đời Tống, hiệu là Vô Công Tẩu, người ở Tứ Minh. Dù là yếu chỉ Thiền tông hay giáo môn của Thiên Thai, ông đều thông suốt cả. Ông có soạn bộ Tịnh độtự tín lục. Những ngày cuối đời, ông chuyên tâm niệm Phật và ngồi xoay mặt về hướng tây mà qua đời. Lúc ấy, có hương thơm lạ xông lên ngào ngạt. Sau khi hỏa thiêu xong, thâu được 108 viên xá-lợi lớn như hạt đậu.

13. Phạm Nghiễm

Phạm Nghiễm sống vào đời Tống, người ở Nhân Hòa, không màng đến việc thế gian. Con của ông không gánh vác nổi chuyện gia đình, nhưng ông vẫn không quan tâm đến mà chỉ nói: “Từ nay ta chỉ là khách trong gia đình này thôi!”. Hằng ngày, ông tụng kinh Pháp hoa, niệm Phật A-di-đà không chút xao lãng. Bỗng một hôm, ông nằm mộng thấy bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà phóng ánh sáng màu vàng đến và báo ông rằng: “Sáng mai vào giờ Mão, ông sẽ mạng chung!”. Sáng hôm sau, Phật và bồ-tát đến rước, Phạm Nghiễm ngồi ngay thẳng chắp tay qua đời.

14. Lục Nguyên Đạo

Lục Nguyên Đạo sống vào đời Tống, hiệu là Tỉnh Am cư sĩ, cư ngụ tại Hoành Khê, Minh Chi. Sáng sớm thức dậy, ông đốt hương ngồi ngồi thiền, mắt không nhìn chỗ nào khác. Trước khi lễ Phật, tụng niệm ông tự đọc bài kệ:

Sáng sớm rửa tay mở kinh ra

Không cầu nhiều phúc và trừ tai

Việc đời chấm dứt không lưu luyến

Kiếp hỏa sáng soi múa một hồi.

Sau này, ông niệm Phật, tụng kinh không nhanh không chậm, âm thanh nối nhau như xâu tràng hạt, mỗi ngày tụng một biến kinh Pháp hoa và niệm danh hiệu Phật A-di-đà một vạn tiếng, một lòng cầu sinh Tây phương. Ngày mùng 6 tháng 4, ông tắm rửa, thay y phục xong liền qua đời. Hưởng thọ 85 tuổi. Khi tẩn liệm bỗng nghe có hương thơm của hoa sen xông lên ngào ngạt, mọi người đều không biết hương thơm ấy từ đâu bay lại. Lúc đến gần để đậy nắp quan tài thì biết là hương thơm từ trong miệng của ông bay ra.

15. Tôn Trung

Tôn Trung sống vào đời Tống, người ở Tứ Minh, sớm ưa thích cõi Tây phương. Ông xây một cái am ở phía đông Quận Thành để niệm Phật. Một thời gian sau, ông bị bệnh, thỉnh một trăm vị tăng đến niệm Phật liên tục; bỗng ông nhìn lên hư không chắp tay kết Song ấn, rồi an nhiên qua đời. Tất cả người trong thành đều nghe có tiếng nhạc và hương thơm lạ, dần dần bay về hướng tây rồi biến mất. Ba người con của ông bắt chước theo ông niệm Phật và cũng ngồi vãng sinh.

16. Thẩm Thuyên

Thẩm Thuyên sống vào đời Tống, nhà ở Tiền Đường, ông cùng với vợ tên Thi Thị chuyên tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Thường ngày nếu làm được việc lành gì đều hồi hướng cầu sinh Tịnh độ. Về sau, hai vợ chồng lần lượt qua đời đều cảm ứng hóa Phật cầm tích trượng[34] tiếp dẫn đi.

17. Đường Thế Lương

Đường Thế Lương sống vào đời Tống, người ở Cối Kê, giữ giới nghiêm cẩn, siêng năng niệm Phật. Về già, ông bị bệnh nhưng vẫn không dừng niệm Phật. Ông tụng kinh A-di-đà hơn mười vạn lần. Một hôm, ông nói với người trong nhà: “Phật đến rước tôi!”. Nói xong, ông lễ Phật và ngồi ngay thẳng qua đời.

Bấy giờ, có một người tên Lợi Hành nghỉ qua đêm trong núi Đạo Vị, nằm mộng thấy ở phía tây có ánh sáng lạ và tràng phan, hoa đẹp, nhạc trời, đồng thời nghe trên không trung có tiếng bảo rằng: “Đường Thế Lương đã vãng sinh Tịnh độ!”.

18. Kế Công

Kế Công sống vào đời Tống, là một thợ rèn ở Đào Nguyên, Tứ Minh. Năm 70 tuổi thì hai mắt ông bị mờ. Bấy giờ, trong làng có ông Học dụ Tảm Định Quốc ấn tống tấm Phách khòa đồ để khuyên người niệm Phật. Lúc đầu, Kế Công nhận được một tấm, ông niệm ba mươi sáu vạn câu, khi niệm đến tấm thứ tư thì hai mắt sáng lại. Ông niệm suốt ba năm được mười bảy bản. Một hôm, ông đang niệm Phật thì đột ngột qua đời. Trải qua nửa ngày, ông sống lại và nói: “Đức Phật dạy chia sáu bản cho Học dụ Tảm Định Quốc là người đầu tiên khuyến đạo; một tấm biếu cho ông Lí Nhị là người in”. Ông dặn con đến cám ơn họ. Nói xong, ông tắm rửa, thay y phục xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

19. Trần Quân Chương

Trần Quân Chương sống vào đời Nguyên, người ở Hoàng Nham, hiền từ ít nói. Năm bốn mươi tuổi, ông cùng với Thất Diệp Thị tụng kinh Pháp hoa và chuyên tâm niệm Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông bị bệnh nặng. Một đêm, ông bảo người con tên Cảnh Tinh đỡ ngồi dậy, ông nói:

– Cha đi đây.

Người con hỏi:

– Cha đi đâu?

Ông đáp:

– Chẳng có chỗ nào để đi.

Ông lại nói: “Sau khi cha chết nên thiêu theo cách người xuất gia”. Nói xong, ông chắp tay niệm “Nam mô A-di-đà Phật” và qua đời.

20. Trương Thuyên

Trương Thuyên sống vào đời Tấn, là anh em bà con của Trương Dã. Ông có phẩm chất thanh cao, tinh thần thoát tục. Trong lúc cày bừa ông luôn mang kinh theo bên mình không tạm rời. Nhiều lần ông được mời ra làm quan nhưng đều từ chối. Ông chỉ vui với cái nghèo của mình. Về sau, ông được đề cử giữ chức Huyện lệnh huyện Tầm Dương, ông cười nói: “Người xưa chọn những nơi vắng vẻ để an thân”.Vậy, bỏ cái khí tiết của mình để nhận lãnh bổng lộc thì có gì là vinh quang?

Rồi ông vào Lô Sơn, tham gia đạo tràng Bạch Liên xã của ngài Tuệ Viễn và chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, thông hiểu rất nhiều kinh luận. Đến niên hiệu Cảnh Bình thứ nhất (423), đời Tống, ông không bệnh, nằm xoay về hướng tây niệm Phật và qua đời.

20. Khuyết Công Tắc

Khuyết Công Tắc người nước Tấn. Ông vào tu trong đạo tràng Bạch Liên xã ở Lô Sơn và qua đời ở đó. Sau đó, một người bạn của ông cư trú tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, làm lễ cúng giỗ cho ông, nửa đêm bỗng toàn bộ chính điện chùa Lâm Mộc đều biến thành màu vàng ròng và trong hư không có tiếng bảo: “Tôi là Khuyết Công Tắc. Tôi cầu sinh về Cực Lạc nay đã được vãng sinh rồi”. Nói dứt lời, ông liền biến mất.

Ghi chú:

Những người lúc lâm chung hiện điềm lành rất nhiều. Nhưng người qua đời rồi sau đó mới hiện ánh sáng màu vàng ở nơi khác; trong không trung báo mộng đã vãng sinh như trường hợp của ông Khuyết Công Tắc thì thật là hiếm có.

21. Lý Tri Dao

Lý Tri Dao sống vào đời Đường, rất giỏi về giáo lý Tịnh độ. Ông tập họp được nhiều người mở Ngũ hội niệm Phật. Sau đó, ông mắc bệnh, bỗng nói: “Phật đến rước tôi”. Rồi ông tắm rửa, thay y phục và bảo người mang lò hương ra sảnh đường để ông lễ Phật. Bỗng ông nghe trong không trung có tiếng nói: “Có người dẫn ông về Tịnh độ, người đó dắt ông đi trên cầu vàng”. Nghe xong, ông lên giường ngồi ngay thẳng và qua đời. Lúc ấy,mọi người nghe có hương thơm lạ.

22. Cao Hạo Tượng

Cao Hạo Tượng sống vào đời Lương, quê ở Đông Bình, ông đóng cửa tĩnh tọa chuyên tụng kinh Vô Lượng Thọ. Một hôm, trong khi thiền định, ông thấy thân mình ngồi trên hoa sen hồng ở trong hồ. Ban đầu chưa thấy Đức Phật, nhưng sau đó không lâu, ông thấy mình đứng trên hoa sen thành tâm lễ Phật,rồi quán tưởng Phật có ánh sáng màu vàng từ xa chiếu lại.

Vào một đêm nọ, ông thấy chúng bồ-tát đến rước và ngay lúc đó ông qua đời.

Ghi chú:

Ngày xưa có hai vị tăng quán tưởng hoa sen nở và búp, về sau cả hai đều được vãng sinh Tịnh độ. Hạo Tượng thấy mình ngồi trên hoa sen hồng, đó cũng là vì thành tâm quán tưởng nên mới được như vậy!

23. Từ Lục Công

Từ Lục Công sống vào đời Tống, người ở Gia Hưng, làm nghề nông. Hai vợ chồng ông ăn uống đạm bạc, chuyên tâm niệm Phật. Năm bốn mươi tuổi, biết trước mình sắp chết nên ông làm sẵn cái khám. Sau khi thay y phục, ông mang giày cỏ vào ngồi ngay thẳng trong khám. Bỗng chốc ông nói: “Phật đến rước tôi”. Nói dứt lời, ông qua đời.

24. Lục Tuấn

Lục Tuấn sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường. Lúc trẻ ông phục vụ cửa quan một thời gian khá lâu, sau đó ông bỏ đi và chuyên tu pháp môn Tịnh độ. Mỗi ngày ông đến trước Phật đỉnh lễ sám hối, nước mắt lăn dài trên má. Có người bạn đồng tu đến nói cho ông nghe điều kiện để được sinh về Tịnh độ. Mới nói được hơn mười câu, ông nghẹn ngào rơi lệ. Khi sắp lâm chung, ông mời luật sư Viên Tịnh đến giảng về Tây phương Tịnh độ và tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ. Khi tụng đến Thượng phẩm,[35] bỗng luật sư Viên Tịnh nói:

– Ông có thể đi được rồi đó!

Lục Tuấn nói:

– Phật và bồ-tát chưa đến, tôi phải đợi các Ngài.

Một lát sau, bỗng nhiên ông đứng dậy đi đến chiếc giường trúc, ngồi ngay thẳng xoay mặt về hướng tây và qua đời.

Ghi chú:

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Người nào nghe nói về Đức Phật A-di-đà mà cảm động rơi lệ, ấy là thiện căn đời trước của người đó đã chín muồi”. Sự rung động, nghẹn ngào rơi lệ của Lục Tuấn vốn xuất phát tự đáy lòng rồi thể hiện ra ngoài mặt mũi, chắc chắn ông sẽ được vãng sinh. Nay đâu thể cười cợt mà bàn luận về Tịnh độ.

25. Hoàng Đả Thiết

Hoàng Công sống vào đời Tống, người ở Đàm Châu, ông xuất thân từ quân ngũ. Ông sống bằng nghề thợ rèn. Trong khi trui rèn, ông luôn miệng niệm Phật không dứt. Một hôm, không bị bệnh, ông nhờ người hàng xóm viết giúp bài tụng:

Chập chập cheng cheng,

Luyện lâu thành cứng

Thái bình sắp đến

Tôi về Tây phương.

Nói vừa dứt lời, ông qua đời. Bài tụng ấy được lưu truyền khắp Hồ Nam và từ đó có rất nhiều người niệm Phật.

Ghi chú:

Hoàng Công là một trường hợp đặc biệt, không người nào có thể làm như ông. Chỉ là miệng không ngừng niệm Phật, nhưng ở đời có mấy ai chịu làm như thế, mà cứ đi tìm sự cầu kì, cao siêu. Ôi! Chẳng phảiđó là không thích cách đơn giản, lại đi tìm cách khó khăn sao?

26. Liên Hoa Thái công

Liên Hoa Thái công sống vào đời Minh, người đất Việt, cả đời sống hiền lành, chất phác, ngày đêm chuyên tâm niệm Phật không chút xao lãng. Sau khi qua đời, trên nắp quan tài bỗng mọc lên một đóa hoa sen. Bà con thân thuộc trong làng đều rất ngạc nhiên. Vì thế, ông có hiệu là Liên Hoa Thái Công.

27. Cư sĩ Hoa

Cư sĩ Hoa sống vào đời Minh, người Giang Can, tính tình nhân hậu, chất phác, thật thà và ngay thẳng. Khi còn ở tuổi trung niên, được giao làm chức Chư tử, về già ông ở một mình không màng thế sự, sáng tối chỉ chuyên tâm niệm Phật. Đến lúc sắp lâm chung, ông biết trước giờ chết, liền tắm rửa, thay đổi y phục, đến chỗ làm việc, chỉnh lại áo mão, ngồi ngay thẳng, từ biệt mọi người rồi qua đời. Trước đó, con ông đã chuẩn bị sẵn một cỗ quan tài, nhưng đến khi ông chết thì đổi lại cái khám, giống như cái khám thường dùng để tẩm liệm các sa-môn. Ngày đưa tiễn ông đi an táng, người đến xem đông nghịt, kẻ xa người gần đều ngưỡng mộ ông.

28. Cư sĩ họ Cố

Vào đời Đại Minh có người tên Cố Nguyên, quê ở Kim Lăng, tự lấy hiệu là Bảo Tràng cư sĩ. Lúc trẻ ông đã có tài thi phú, giỏi thảo thư. Đến tuổi trung niên ông một lòng chuyên tu tịnh nghiệp. Sau đó, ông bị bệnh nhẹ, liền cho mời tất cả bạn đạo tăng tục tổ chức hội “Thập niệm A-di-đà Phật” xướng niệm liên tục.

Một hôm, ông nói với mọi người:

– Tôi nhất định sẽ vãng sinh.

Mọi người hỏi:

– Vì sao ông biết chắc như vậy?

Ông nói:

– Tôi thấy Phật A-di-đà hiện thân đầy trong hư không, thấy thế giới kim sắc của Ngài và thấy Đức Phật lấy y ca-sa trùm lên người tôi. Tôi cũng thấy mình ngồi trong hoa sen.

Lúc ấy, mọi người đều nghe có hương thơm của hoa sen. Các con ông đau buồn khóc than không dứt. Cư sĩ nói: “Các người nói tôi đi đâu? Nơi nào cũng chính là nơi này. Nếu ở đây đã sáng tỏ thì bất cứ nơi nào cũng rõ ràng”.

Ông lại nói với mọi người: “Các vị đừng nói nhiều mà nhiễu loạn tâm tôi, chư Phật đã đến ở trên hư không đợi rước tôi, qua canh ba tôi sẽ đi”. Đến canh ba, ông vui vẻ mỉm cười mà qua đời. Tiên sinh Thiếu Tông Bá và Ân Thu Minh đều có ghi lại chuyện vãng sinh của ông.

Ghi chú:

Thân đã ngồi trong hoa sen thì chắc chắn sẽ vãng sinh. Nơi đâu cũng chính nơi này, đi thì thật không đi. Nếu cư sĩ Bảo Tràng vãng sinh đương nhiên không sinh vào trung phẩm và hạ phẩm.

29. Tổ Hương

Vào đời Minh có người tên Tổ Hương, quê ở Tân Dụ, Giang Tây, cư trú tại chùa Long Đàm, Sơn Đông, chuyên tu tịnh nghiệp. Bấy giờ, có cư sĩ Vương Kiệt dựng một thảo am và mời ông đến đó ở. Ở chưa được bao lâu, ông nói với Vương Kiệt:

– Vào ngày nọ tôi sẽ về nhà.

Mọi người đều nài nỉ ông ở lại.

Tổ Hương nói:

– Tôi về nhà An Dưỡng.

Đến ngày ấy, ông trải tòa ngồi xoay mặt về hướng tây mà qua đời. Thi thể ông được mọi người đặt trong khám đưa vào núi, bỗng nhiên phát ra lửa và tự thiêu cháy.

30. Quách Đại Lâm

Vào đời Đại Minh có người tên Quách Đại Lâm, quê ở Thang Âm, là người ngay thẳng, trong sạch, thanh cao, có tâm thoát tục. Về sau, ông gặp được một vị tăng dạy niệm Phật. Từ đó, ông một lòng cầu sinh Tịnh độ.

Năm ông bảy mươi sáu tuổi, một hôm ông không bệnh nhưng bỗng nhiên từ biệt các con và nói: “Giờ Ngọ ngày mai cha sẽ đi”. Ngày mai, đến giờ đã định ông ngồi ngay thẳng mà qua đời.

31. Lưu Thông Chí

Vào đời Đại Minh có người tên Lưu Thông Chí, quê ở kinh đô, siêng năng, tha thiết niệm Phật. Năm năm mươi hai tuổi, ông mắc bệnh và càng cố gắng niệm Phật nhiều hơn. Bấy giờ, có người hàng xóm tên là Lý Bạch Trai đã qua đời trước, sau đó Lưu Thông Chí mới tắt thở, từ sáng đến trưa bỗng nhiên sống lại và nói với người nhà rằng: “ Tôi vừa thấy một chiếc thuyền, người trên thuyền bảo là thuyền này đi về Tịnh độ. Trên thuyền đó chở ba mươi sáu người, Lý Bạch Trai cũng có mặt trên thuyền. Tôi cũng ở trong số ba mươi sáu người đó, nhưng do y phục của tôi chưa được sạch sẽ, lại quên mang tràng hạt, nên các người kia bảo tôi trở lại thay y phục và lấy tràng hạt. Thuyền đang cập bến chờ tôi”.

Người nhà vội vàng thay y phục và lấy tràng hạt đeo vào cổ ông, bỗng chốc ông qua đời.

32. Nho sinh Đường Thể Như

Vào đời Đại Minh có người tên Đường Diên Nhậm, quê ở Lan Khê thuộc tỉnh Chiết Giang, hiệu là Thể Như cư sĩ, bản tính hiếu thảo, thuần hậu, chất trực. Thuở nhỏ ông được vào học ở các trường và rất có tiếng tăm. Một hôm, ông nhận ra cái học thế gian cũng chỉ là vô thường. Từ đó, ông dốc lòng đến với đạo. Ông đến tham học với ngài Vân Thê và được ngài chỉ cho pháp môn Niệm Phật tam-muội. Kể từ đó, ông nỗ lực tu hành. Ông hành trì suốt mười ba năm không một ngày xao lãng và chỉ dốc lòng cầu sinh Tây phương.

Đến niên hiệu Vạn Lịch, nhằm năm Quý Mão (1603), ông ngộ diệu lý của Phật pháp. Vào một buổi sáng giữa mùa đông lúc ông 60 tuổi, bỗng ông gọi các con lại nói: “Vào ngày 11 tháng giêng, cha sẽ đi”. Trước đó mấy ngày, ông vẫn lễ Phật tụng niệm như ngày thường. Đến ngày đã định, ông rửa tay, súc miệng, chỉnh y phục, ngồi ngay thẳng, tay kết ấn, miệng niệm Phật, mỉm cười và qua đời, như nhập thiền định.

Ghi chú:

Khi Cư sĩ sắp qua đời, các người con hỏi:

– Việc đại nhân qua đời có cần báo cho ngài Vân Thê biết để ghi vào trong truyện vãng sinh không?

Cư sĩ nói:

– Nhất định phải báo cho thầy tôi biết, nhưng đừng nói quá, nên nói đúng sự thật. Thậm chí có ghi vào truyện hay không, việc ấy thầy tôi tự có ý kiến. Chứ đừng vì không được ghi vào truyện mà có thái độ giận hờn và oán hận.

Than ôi! Như thế có thể thấy được công phu hàm dưỡng của ông ấy, suốt đời tin tưởng tuyệt đối vào Tịnh độ, không chút nghi ngờ và mỉm cười mà qua đời. Như vậy chắc chắn ông sẽ vãng sinh, đâu có gì phải nghi ngờ!

33. Nho sinh Dương Gia Y

Vào đời Đại Minh có người tên Dương Gia Y, tự là Bang Hoa, quê ở Thái Hòa, là con của một gia đình danh giá. Năm mười ba tuổi, ông đã biết giữ giới không sát sinh, dù đó là chấy rận cũng không hề làm tổn thương. Năm hai mươi ba tuổi, đến Nam Ung học tập không được bao lâu sau, ông bị bệnh.

Vào ngày mùng 9 tháng 10 năm Ất Tị, niên hiệu Vạn Lịch (1605), ông qua đời. Trước khi qua đời, ông nằm mộng thấy mình đi đến địa ngục, gặp Địa Tạng đại sĩ ở điện Minh Dương. Khi tỉnh dậy, ông lo phóng sinh và mời chư tăng về nhà tụng kinh, niệm Phật.

Một hôm, ông gọi người đến và bảo: “Tôi sắp đi rồi. Hoa sen xanh đã hiện ra trước mắt tôi, lẽ nào không phải là cảnh Tịnh độ sao?”. Từ đó, ông ngày đêm niệm Phật không dứt. Một hôm, ông bảo mọi người tắt ngọn nến và nói: “Mọi người nhờ nến để thắp sáng, nhưngtôi không cần nến. Tôi thường ở trong ánh sáng”.

Có người hỏi:

– Ông thấy điều gì?

Ông nói:

– Hoa sen nở bốn màu.

Hỏi:

– Ông có thấy Đức Phật A-di-đà không?

Đáp:

– Tôi thấy Đức Phật A-di-đà hiện thân một nghìn trượng.

Hỏi:

– Ông thấy bồ-tát Quán Thế Âm không?

Đáp:

– Bồ-tát Quán Thế Âm cũng hiện thân cao lớn bằng thân Đức Phật A-di-đà.

Hỏi:

– Ông thấy bồ-tát Thế Chí không?

Đáp:

– Không thấy.

Nói dứt lời, đột nhiên ông đứng phắt dậy niêm hương và liên tục xưng tán: “Công đức của Phật A-di-đà không thể nói, không thể nói, không thể nói! Tôi đã được sinh lên thượng phẩm rồi”. Nói xong, ông an nhiên qua đời.

Ghi chú:

Bang Hoa có chí hiếu học, từng đọc qua tất cả các loại sách. Về sau, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu kinh sách Phật. Đặc biệt, chỉ để tâm nghiên cứu pháp môn Tịnh độ của Phật giáo. Đến lúc sắp qua đời, ông nói: “Công đức của Phật A-di-đà không thể nói!”. Ông nói ba lần như vậy. Đó là ông ta thấy thật, nói thật.

Người anh kế của ông là Gia Tộ thuật lại việc vãng sinh của ông và thề rằng: “Nếu tôi nói xằng bậy sẽ bị đọa vào địa ngục Bạt thiệt”. Anh của ông cũng thấy thật, nói thật. Vậy những ai không tin về Tịnh độ hãy nên suy nghĩ lại.

34. Nho sinh Hác Hi Tải

Vào đời Đại Minh có người tên Hác Hi Tải, quê ở Tiền Đường, pháp danh Quảng Định, là người trung tín, khiêm nhường. Ở trường học, ông thường lấy đức hạnh để khuyên dạy học trò. Đến cuối đời, ông nương theo Phật, sớm tối ngồi thiền, tụng kinh không biết mệt mỏi. Tháng 2, mùa xuân năm Tân Hợi, niên hiệu Vạn Lịch (1611), ông bị bệnh. Mỗi khi ngủ dậy, ông thường nói: “Tôi nằm mộng thấy tôi vào ở trong núi cầu gặp Phật, nhưng chưa gặp được Phật mà chỉ thấy rất nhiều loại chim tụ tập”.

Nhiều ngày như vậy, đến ngày 27 vào giờ ăn cơm, ông bỗng ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ và gọi người con là Thế Hàn lại nói: “Hôm nay đặc biệt là ngày hệ trọng”. Rồi ông quay lại bảo người nhà chuẩn bị tiền bạc cho ông. Một lát sau, ông lại nói: “Trước đây ta sợ gặp quan có việc cần dùng đến tiền, nhưng nay không cần dùng nó nữa”. Đến canh ba đêm đó, ông nói: “Có hai đồng tử đến rước ta. Ta thấy Đức Phật ngồi trên đài hoa sen hiện ra trước mắt”. Nói dứt lời, ông nằm thế cát tường mà qua đời.

35. Cư sĩ Qua Quảng Thái

Vào đời Đại Minh có cư sĩ Qua Dĩ An, pháp danh Quảng Thái, quê ở Tiền Đường, bản tính hiếu thảo, hay làm thiện, tu nhân tích đức, nhưng ông làm một cách thầm lặng không muốn mọi người biết. Đến lúc tuổi già, ông dốc lòng phụng thờ Phật. Ông cùng với ngài Linh Chi và nhiều vị tăng, tục khác, mỗi năm vào hai ngày xuân xã[36] và thu xã[37] cùng nhau kết hợp niệm Phật. Ông thường tụng Hoa nghiêm và Tịnh độ ngũ kinh.

Một hôm, ông bỗng nói với mọi người: “Sắp đến ngày đi rồi, nên tôi phải chuẩn bị tư lương để về Tây phương”. Nói rồi, ông vào tịnh thất thiết lập thời khóa tụng niệm, sớm tối hành trì không dừng. Ông dự định sẽ ra đi vào ngày 21 tháng Chạp. Hai đêm trước khi ông qua đời, vợ con vây quanh nghẹn ngào, ông mỉm cười nói: “Có sinh ắt có diệt, sao lại ủ rũ như thế! Tôi mới xuất thần đến Tịnh độ, đích thân hầu hạ Đức Phật A-di-đà. Các người chớ vì chút tình cảm mà làm loạn chính niệm của tôi”. Rồi ông dặn đi dặn lại kẻ tăng, người tục niệm Phật trợ lực cho ông, đừng để xen tạp niệm.

Đến ngày giờ đã định, ông lặng lẽ ra đi.

Ghi chú:

Có vị tăng xuống âm phủ thấy Cư sĩ ngồi yên trong tịnh thất, kinh sách để đầy ghế, ngoài sân có nhiều trúc vàng, đá núi, cảnh trí đẹp vô cùng chẳng khác động tiên.

Đáng lẽ Cư sĩ phải sinh về Cực Lạc rồi, tại sao còn ở dưới âm phủ? E là thường ngày tha thiết tụng kinh, nhưng vì chí nguyện tụng kinh của ông chưa mãn, do đó, sau khi mãn nguyện sẽ vãng sinh!

36. Cư sĩ họ Đỗ

Vào đời Đại Minh có cư sĩ họ Đỗ, quê ở huyện Uyển Bình, phủ Thuận Thiên. Ông ở ẩn trong một trai đường đổ nát của chùa Thụy Quang thuộc Tây Sơn, chẳng màng đến chuyện gia đình, chuyên tâm niệm Phật suốt ba mươi năm.

Một hôm, có người cùng làng với ông tên Đồng Quảng Sách đến chỗ ông. Cư sĩ hỏi:

– Ông từ đâu đến đây?

Quảng Sách đáp:

– Từ Hàng Châu đến đây.

Cư sĩ hỏi tiếp:

– Ông là người Hàng Châu. Vậy ông có biết ngài Châu Hoằng ở chùa Vân Thê không?

Quảng Sách đáp:

– Ngài Vân Thê là thầy của tôi.

Đối đáp đến đó, cư sĩ chắp tay niệm Phật, không nói thêm lời nào. Trước khi sắp qua đời ông lễ sám suốt chín ngày liền. Khi lễ đến đoạn sám văn khẩn thiết, tự nhiên ông rơi lệ, nghẹn ngào. Từ đó, ông không ăn, chỉ uống ít nước. Đến khi lễ sám xong, ông ngồi ngay thẳng mà qua đời. Mười ngày trôi qua mà dung mạo của ông vẫn tươi tắn như lúc còn sống. Nhiều người trông thấy có mây năm màu bao quanh trên nhà ông.

37. Cư sĩ Tôn Đại Vu

Vào đời Đại Minh có người tên Tôn Thúc Tử, pháp danh Đại Vu. Từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người thông minh, lanh lợi, dũng cảm. Năm mười hai tuổi, theo cha là cư sĩ Kính Ngô đỉnh lễ bốn mươi tám lời nguyện trước tượng Đức Phật A-di-đà. Sau đó, ông vào chùa Vân Thêthụ trì năm giới. Khi trở về nhà, ông tuyệt đối không ăn những thức ăn có ngũ tân và máu thịt. Ông không giao du với ai, cũng không tụng đọc nữa, chỉ chuyên tâm niệm Phật. Vì nhất quyết lấy cho được đài vàng, nên ông siêng năng, chịu khổ không tiếc thân mạng.

Không lâu sau, ông nằm mộng thấy có hai vị tì-kheo cầm hoa sen dùng nhất tâm Tịnh độ ấn khả. Lại thấy đạo nhân[38] tụng kinh Kim cương suốt một ngày một đêm. Ông bỗng giật mình ngồi dậy và nói: “Đức Phật A-di-đà, bồ-tát Quán Thế Âm đều đến rước tôi”. Nói dứt lời, ông kết Kim cương quyền ấn, dõng dạc niệm danh hiệu Phật A-di-đà mấy tiếng rồi an nhiên qua đời.

Bấy giờ, nhằm ngày 11 tháng 11 năm Tân Hợi, niên hiệu Vạn Lịch (1611). Ông có trước tác Tịnh độ thập nhị thời ca lưu truyền ở đời.

Chuyện vãng sinh của ông được ghi lại rõ ràng, đầy đủ trong Tây sinhtruyện của Ngô Thái Sử.

Ghi chú:

Ngô Thái Sử và cư sĩ Quán Ngã đều cho rằng mộ của Đại Vu quanh năm mọc nấm linh chi. Năm ông qua đời, quả thật có loại nấm linh chi lớn bằng cái đấu, quý như vàng, như ngọc, như bánh xe màu hồng phấn.Có thể nói đó là bằng chứng của điềm lành vãng sinh. Vì thế, Tôn Thúc Tử được ghi vào trong Tây sinhtruyện. Lời nói của Trưởng giả Thái Sử là chân thật, nên tôi (Châu Hoằng) mới ghi lại đây.

38. Cư sĩ họ Ngô

Vào đời Đại Minh, có vị cư sĩ họ Ngô, quê ở Nhân Hòa, húy là Đại Ân, biệt hiệu là Ngưỡng Trúc. Ông là người hiếu thảo, thành thật, thích tu nhân tích đức, hay phóng sinh, cứu giúp, che chở những người gặp cảnh nghèo khó. Nhờ vậy mà cảm được quả báo ở trong tối thì gặp ánh sáng, thuyền ngược gió gặp nguy hiểm mà được bình an. Và từ đó, ông một lòng hướng về giáo pháp, ngày đêm siêng năng tụng kinh, niệm danh hiệu Phật A-di-đà không biết mệt mỏi.

Ngày mùng 3 tháng 5, niên hiệu Vạn Lịch thứ 40 (1612), ông từ biệt mọi người, ngồi kết già mà qua đời. Ngày ấy, trong nhà có hương thơm lạ, thần sắc của ông tươi sáng. Điềm lành vãng sinh của ông về sau được Ấn Trì Nghiêm Quân ghi lại đầy đủ trong truyện.

39. Thập Như cư sĩ

Vào đời Đại Minh có cư sĩ họ Ngô, quê ở Tân An, húy là Kế Huân, tự là Dụng Khanh, biệt hiệu là Thập Như cư sĩ. Bản tính ông ít nói, cứng rắn như thân cây, thẳng thắn như tên bắn, thích làm các việc thiện. Ông thích làm việc thiện mà không hề biết chán giống như sương rơi. Những năm cuối đời, ông để tâm nghiên cứu Phật pháp, trì chú Vãng sinh, niệm hồng danh Đức Phật A-di-đà. Mỗi ngày ông đều đặt ra thời khóa, dù nóng hay lạnh ông vẫn thực hành đầy đủ không để gián đoạn.

Có lần ông bị rơi xuống sông, nhưng có một vật gì đó đỡ chân, ông bị trôi đi mười dặm, bỗng ông nhảy vọt lên đứng trên thuyền. Bấy giờ, mọi người đều cho rằng, ông nhờ nguyện lực của Phật mới có được việc như thế. Sau đó, đột nhiên sau lưng ông mọc một cái mụn độc. Có nhiều người cũng bị mụn như vậy nhưng họ đều không chịu nổi sự đau đớn đó. Nhưng cư sĩ vẫn điềm nhiên nói cười như người không có bệnh gì. Không lâu sau, ông chính niệm qua đời.

Bấy giờ, bạn của con ông tên Dư Chương Tử là người thiện tín đã kể chuyện của ông. Vì lời nói chân thật nên tôi (Châu Hoằng) thuật lại việc của ông vãng sinh như vậy.

Tổng Luận

Có người hỏi:

– Vì sao không nghe nói Tịnh Danh và Bàng Uẩn cầu vãng sinh Tịnh độ?

Đáp:

– Ông hãy tự đánh giá, nếu thấy mình không bằng hai người đó thì cầu vãng sinh là chuyện tất nhiên, không cần phải bàn luận. Giả sử Đức Kim Túc Như Lai tái sinh cũng đâu ngại gì không gặp được Phật A-di-đà! Nếu không được như vậy thì Tịnh Danh đâu thể hầu cận Đức Phật Thích-ca, và Bàng Uẩn cũng không cần tham kiến Mã Tổ. Vả lại, chẳng phải Tịnh Danh đã nói “Tâm tịnh thì cõi nước tịnh” sao? Chẳng phải Bàng Uẩn nói “Không làm bạn với vạn pháp” sao? Một mai ông đặt chân lên tịnh địa, ông sẽ tự nghĩ không ngờ “Tự mình vốn thanh tịnh”. Rồi ông sẽ tự nghĩ “Không ngờ mình không làm bạn với vạn pháp, không ngờ Tịnh Danh và Bàng Uẩn thường ở Tịnh độ”. Đâu còn gì để nghi ngờ!

IV. TÌ-KHEO NI VÃNG SINH

1. Tì-kheo-ni Đại Minh

Tì-kheo-ni Đại Minh ở Duyên châu nghe thiền sư Đạo Xước giảng kinh Vô Lượng Thọ và được dạy cho pháp môn Niệm Phật. Trước khi niệm Phật, Ni sư luôn thay y phục sạch sẽ, và súc miệng bằng nước trầm hương. Ni sư giữ thời khóa niệm Phật trong tịnh thất suốt ba, bốn năm không gián đoạn. Hoàng hậu của Văn Đế rất kính trọng Ni sư. Khi Ni sư lâm chung, mọi người đều thấy trong thất có ánh sáng và mùi hương trầm thủy lan tỏa khắp phòng. Trong chốc lát lại có ánh sáng như đám mây lờ mờ bay về hướng tây rồi tan mất.

Ghi chú:

Thuở xưa, có vị tì-kheo ni chép kinh Pháp hoa với tâm cung kínhgiống như ni sư Đại Minh, về sau được cảm ứng điềm linh dị.Lại có hai vị tăng tụng kinh dưới âm phủ, chí thành lễ lạy cũng có cảm ứng điều kì diệu. Thế thì không có gì phải lấy làm lạ về những việc như thế này! Thời nay, có mấy ai niệm Phật được giống như tì-kheo ni Đại Minh! Giả sử, mọi người đều niệm Phật như tì-kheo ni Đại Minh, thì tôi chẳng tin một nghìn người mà không vãng sinh cả nghìn, một vạn người mà không vãng sinh cả vạn!

2. Tì-kheo-ni Tịnh Chân

Tì-kheo-ni Tịnh Chân sống vào đời Đường ở chùa Tích Thiện, Trường An, suốt đời mặc y bá nạp đi khất thực, không hề sân hận. Ni sư tinh chuyên niệm Phật và tụng kinh Kim cương đến mười tám ngàn lần.

Tháng bảy năm Hiển Khánh thứ 5 (660), Ni sư bị bệnh, bèn gọi đệ tử đến dạy rằng:

– Trong năm ngày ta được thấy Phật A-di-đà mười lần. Ta còn hai lần thấy đồng tử dạo chơi trên hoa sen báu ở thế giới Cực Lạc. Lại có Thánh tăng năm lần thụ kí ta sẽ làm Phật, và được vãng sinh phẩm thượng.

Sư ngồi kết già mà tịch. Đến sáng Ni sư tỉnh lại bảo đệ tử rằng:

– Ta được quả vị Bồ-tát, đi khắp mười phương để cúng dường chư Phật.

Ni sư nói xong liền thị tịch, ánh sáng chiếu khắp chùa.

3. Tì-kheo-ni Ngộ Tính

Tì-kheo-ni Ngộ Tính sống vào đời Đường, ở Lô Sơn chuyên tâm niệm Phật và thành khẩn cầu vãng sinh. Một hôm, bỗng nhiên nghe trong hư không có tiếng nhạc, ni sư nói với những người xung quanh:

– Tôi đã được trung phẩm thượng sinhvà thấy những người cùng siêng năng niệm Phật đều có hoa sen chờ sẵn. Vì thế mọi người phải tự nỗ lực niệm Phật.

Nói vừa dứt lời, ni sư thị tịch. Bấy giờ nhằm năm Đại Lịch thứ 24 (890).

Ghi chú:

Vì sao hai vị tì-kheo ni ấy biết chắc mình đã được sinh vào thượng phẩm và trung phẩm? Một là bên trong tự xét biết việc làm của mình sâu cạn thế nào, hai là bên ngoài xét những điềm cảm ứng hơn kém thế nào. Như thế, có thể cho là giả dối được sao?

4. Tì-kheo-ni Năng Phụng

Tì-kheo-ni Năng Phụng sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, chuyên tu tịnh nghiệp. Ni sư nhiều lần mộng thấy Phật phóng quang chiếu đến thân mình và nghe trong hư không có tiếng khuyên bảo, an ủi. Một hôm, ni sư nói với đồ chúng: “Đã đến lúc tôi vãng sinh Tịnh độ rồi”. Không lâu sau, mọi người nghe tiếng ni sư niệm Phật rất lớn, vội chạy đến xem thì thấy ni sư ngồi chắp tay xoay mặt về hướng tây thị tịch. Lúc ấy, có hương thơm lạ khắp phòng và nhạc trời nhỏ dần đi về hướng tây.

5. Tì-kheo-ni Pháp Tạng

Tì-kheo-ni Pháp Tạng sống vào đời Tống ở chùa Kiến Phúc thuộc Kim Lăng, rất siêng năng niệm Phật. Ni sư thường nói với bạn học là Vân Kính: “Tôi lập thân hành đạo, chí hướngvề Tây phương”.

Một hôm, bỗng Ni sư bị bệnh. Lúc đầu, Ni sư thấy Phật A-di-đà và các Thánh chúng đến thăm. Sau đó, mọi người đều thấy ánh sáng chiếu khắp chùa, lúc ấy Ni sư qua đời.

6. Tì-kheo-nin Pháp Thắng

Ni sư ở huyện Ngô, tinh tấn tu tập thiền định và niệm Phật. Ni sư khuyên kẻ đạo người tục đều nên tu Tịnh độ. Khi bị bệnh, Ni sư tự biết không thể qua khỏi, lại mộng thấy một vị tăng đến bảo:

– Bệnh ngươi không qua khỏi, phải chuyên niệm Phật!

Ni sư lại còn thấy có hai vị tăng mặc áo bày vai, cầm hoa đứng trước giường. Ni sư nói:

– Có ánh sáng chiếu khắp thân ta

Nói xong Ni sư liền thị tịch.

Tổng luận

Phật vì Ma-ha-ba-xà-ba-đề[39] mà cho nữ giới xuất gia, nhưng cũng than rằng chính pháp vì thế mà bị suy giảm. Giả sử, người nữ xuất gia mà ai cũng đều được như năm người vừa kể trên thì chính pháp sẽ không rạng rỡ hơn sao? Nhưng thực tế thì không được như vậy! Thế nên, lời Phật huyền kí quả là chẳng sai! Ôi! Nam giới chân chính xuất gia từ xưa đến nay còn không được thành tựu nhiều, huống gì nữ giới. Riêng tôi cảm nhận việc này như vậy!

V. PHỤ NỮ VÃNG SINH

1. Tùy Hoàng hậu

Hoàng hậu của Tùy Văn đế mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mặc dù ở trongcung vua nhưng rất nhàm chán thân phận phụ nữ. Bà ngày đêm siêng năng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Hoàng hậu qua đời vào ngày Giáp Tý, tháng tám. Bấy giờ, ở phía bắc cung Vĩnh An,từ trên không trung có nhiều loại âm nhạc tự nhiên trỗi vang và có hương thơm lạ ngào ngạt khắp phòng. Thấy vậy, vua mới hỏi ngài Xà-đề-tư-na:

– Đây là điềm lành gì?

Ngài Xà-đề-tư-na đáp:

– Tịnh độ có Phật hiệu là A-di-đà.Hành nghiệp của hoàng hậu cao quý nên được sinh về cõi nước của Đức Phật ấy, vì thế mới hiện điềm lành này.

Ghi chú:

Từ bỏ sự sung sướng, sự yêu thương quý chuộng trong chốn cung cấm mà tha thiết cầu sinh Tịnh độ; xưa có hoàng hậu Vi-đề-hi, nay có hoàng hậu của Văn đế.

2. Bà họ Diêu

Bà Diêu sống vào đời Đường, được bà Phạm Hạnh khuyến khích niệm Phật nên khi lâm chung thấy Phật và bồ-tát đến rước đi. Khi Phật đến rước,bà thưa với Phật: “Con chưa từ biệt bà Phạm Hạnh, xin Phật hãy trụ trong hư không đợi con giây lát”. Bỗng chốc, bà Phạm Hạnh đến, bà Diêu từ biệt và đứng thẳng qua đời.

Ghi chú:

Đến lúc lâm chung mà còn nhớ từ biệt bà họ Phạm là không quên gốc gác, Phật trụ trong hư không để đợi bà Diêu là thường tùy thuận chúng sinh. Đứng thẳng qua đời cũng là một hiện tượng lạ vậy!

3. Vợ của Ôn Tĩnh Văn

Vợ của Ôn Tĩnh Văn sống vào đời Đường, người ở Tinh Châu, bà bị bệnh nằm liệt giường đã lâu. Tĩnh Văn khuyên bà niệm Phật. Trải qua một năm, bỗng bà thấy được cõi Tịnh độ. Bà nói với chồng: “Tôi đã thấy Phật, tháng sau tôi sẽ đi”. Và bà dặn cha mẹ mình: “Nay con được theo Phật vãng sinh, cha mẹ phải phát nguyện chuyên tâm niệm Phật, ngày sau sẽ gặp nhau ở Tây phương”. Nói vừa dứt lời thì bà qua đời.

4. Bà Hồ Trường

Bà Hồ Trường sống vào đời Tống, họ Lý, quê ở Thượng Ngu. Sau khi chồng qua đời, ngày đêm bà to tiếng niệm Phật và tụng kinh A-di-đà, khoảng hơn mười năm. Một hôm, bà thấy có vị tăng được chelọng lụa đào đến nói với bà: “Mười lăm ngày nữa, vào giờ Tí bà sẽ vãng sinh”.

Bà Trường hỏi:

– Sư là ai?

Vị tăng nói:

– Ta là người mà bà niệm đó!

Bà Trường liền đi thăm và từ biệt tất cả người thân. Đến kì hạn, tự nhiên có hương thơm lạ và ánh sáng chiếu đến, bà Trường ngồi ngay thẳng mà qua đời. Thi thể của bà được giữ lại bảy ngày mới hỏa táng. Sau khi hỏa táng, người ta nhặt được răng trắng như bạch ngọc, lưỡi như sen hồng, tròng mắt tròn như quả nho, tất cả đều rất rắn chắc không hư hoại và thu được xá-lợi nhiều vô số kể. Ngày hôm sau, chỗ thiêu thi thể của bà bỗng mọc lên một đóa hoa giống như hoa bạch anh túc.

Ghi chú:

Các căn không hư hoại, xá-lợi nhiều vô số. Người đời thường chê trách thân thể ngũ lậu của người nữ, phải chăng không thể có những điều ấy sao?

5. Bà họ Trịnh

Bà họ Trịnh sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, hằng ngày tụng kinh Quán Âm và niệm Phật không ngớt. Sau đó, bà mắc bệnh nặng nên bảo người nhà tắm giúp. Sau khi tắm xong, bà ngồi xoay mặt về hướng tây và hỏi người nhà: “Mọi người có nghe tiếng khánh không? Các vị Thánh ở Tịnh độ vừa mới đến”. Rồi bà chắp tay, vẻ vui mừng nói tiếp: “Phật và bồ-tát đến; bồ-tát Quán Âm tay cầm đài vàng, Đức Như Lai đưa tôi lên ngồi trên tòa”. Nói dứt lời, bà nhẹ nhàng ra đi.

6. Bà lão họ Trần

Bà lão họ Trần sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, theo luật sư Linh Chi cầu thụ bồ-tát giới[40]. Bà chuyên tâm niệm Phật và mỗi ngày lễ Phật cả nghìn lạy. Từng có xá-lợi rơi xuống nơi bàn tụng kinh của bà. Khi sắp qua đời, bà thấy Đức Phật đến rước. Bà quay sang nói với người bên cạnh chưa được nửa câu thì đã an nhiên qua đời.

7. Bà họ Hoàng

Bà họ Hoàng sống vào đời Tống, người ở Tứ Minh, chồng chết khi bà còn trẻ. Sau khi an táng chồng xong, bà trở về nhà cha mình ở và chuyên tu tịnh nghiệp. Khi sắp qua đời, bà thấy Đức Phật đến rước. Lúc ấy, bà kết ấn và đi kinh hành, bỗng dưng đứng thẳng mà qua đời. Người nhà sàng lấy một ít tro ở trên đất để kiểm nghiệm nơi bà vãng sinh thì thấy trong đống tro mọc lên một hoa sen.

Ghi chú:

Lấy tro cốt của bà để chứng minh cho những việc chưa rõ ràng. Chỉ mình bà thấy Phật đến rước. Kết ấn và đứng chết thì chắc chắn được sinh vào trong hoa sen.

8. Phu Nhân họ Vương

Phu nhân của Kinh Vương họ Vương, sống vào đời Tống, chuyên tu tịnh nghiệp, sớm hôm tha thiết, chí thành niệm Phật. Những người hầu hạ bà phần nhiều đều bắt chước bà niệm Phật. Chỉ có một nàng hầu lười biếng, ngạo mạn không chịu niệm Phật nên bị phu nhân quở trách. Nàng ta cũng biết lỗi ăn năn sám hối và siêng năng niệm Phật. Một hôm, nàng ta không bệnh nhưng đột nhiên qua đời.

Sau khi qua đời, nàng báo mộng với một người hầu khác: “Nhờ phu nhân chỉ bảo, nay tôi đã được sinh về An Dưỡng!”. Sáng ra, người hầu kia kể lại chuyện nằm mộng cho phu nhân nghe, nhưng phu nhân không tin. Bỗng chốc phu nhân cũng nằm mộng thấy mình cùng với nàng hầu ấy dạo chơi trong ao báu, thấy một chiếc thiên y thêu hoa tung bay, trên đó có viết chữ: “Dương Kiệt mặc áo quan ngồi trên một hoa sen”. Một hàng chữ nữa: “Mã Vu lại thấy đài vàng chiếu sáng rực rỡ”. Người hầu chỉ và nói: “Phu nhân sẽ sinh về nơi này”. Phu nhân mộng thấy như vậy nên càng siêng năng tu tập niệm Phật hơn. Năm 81 tuổi, nhằm ngày Khánh đản, bà thắp đèn, đốt hương, đứng nhìn tượng bồ-tát Quán Thế Âm. Mọi người làm nghi thức dâng lễ mừng thọ xong, bà an nhiên đứng mà qua đời.

Ghi chú:

Biên tập đến đây đã biết được người nữ đứng qua đời gồm có ba vị, đài vàng chiếu sáng rực rỡ cũng được sinh lên thượng phẩm. Ai nói phụ nữ khuê các không được vãng sinh?

9. Phu Nhân họ Phùng

Phu nhân họ Phùng sống vào đời Tống, ở quận Quảng Bình. Lúc nhỏ, thân nhiều bệnh tật, được thiền sư Từ Thụ Thâm dạy cho cách trì trai giới[41] và niệm Phật,bà tin sâu và nỗ lực thực hành suốt mười năm không chút lười biếng. Một hôm, bỗng bà chán cõi đời này. Có người thấy lạ, mới hỏi bà. Bà nói: “Tôi vốn ở cảnh giới thanh tịnh, nhưng vì thất niệm nên mới sinh xuống cõi này. Nay duyên trần đã hết, tôi sẽ vãng sinh Tây phương. Đâu có gì lạ!”.

Đến ngày mạng chung, bà tắt thở được một lúc rồi sống lại và nói với người trong nhà: “Tôi đã sinh về Tịnh độ, thấy cảnh giới của Đức Phật giống như trong kinh Hoa nghiêm và kinh Thập lục quán đã nói”. Nói xong, một hồi lâu bà mới qua đời. Ba ngày sau, thân thể bà vẫn hồng hào giống như đang còn sống, có hương thơm lạ lan tỏa ngào ngạt.

10. Cô gái họ Vương

Vào đời Tống, ở Cát An có cô gái họ Vương, mỗi ngày tụng các kinh A-di-đà, Kim cương, Quán Âm và chuyên tâm niệm Phật.

Khi mẹ cô qua đời, mặc dù đã tẩn liệm rồi, nhưng máu huyết vẫn chảy ra. Vì cứu độ mẹ, cô phát nguyện: “Nếu con có tâm hiếu thì nguyện cho những chất ô uế kia không còn chảy nữa!”. Cô vừa nói dứt lời thì máu liền ngưng chảy. Sau này, cha của cô lấy thêm vợ kế, họ cùng nhau tu tịnh nghiệp. Sau đó, cô bị bệnh, gia đình thỉnh tăng đến nói pháp quán Tịnh độ. Nghe xong, cô tắm rửa sạch sẽ, nằm thế cát tường và đưa tay nắm lá phan trên tay bồ-tát Quán Âm, rồi an nhiên qua đời. Người mẹ kế sàng tro cốt ở trên đất để chứng nghiệm chỗ cô vãng sinh thì thấy trong đóng tro ấy có mấy hoa sen mọc lên.

11. Bà họ Chu

Bà Chu Thị Diệu Thông sống vào đời Tống, là con gái của Chu Nguyên Khanh. Do xúc động với điềm lành của người mẹ ngồi trên đài hoa vãng sinh nên bà chuyên tâm niệm Phật, cầu sinh An Dưỡng. Lúc bị bệnh, bà thỉnh tăng hành trì pháp sám hối. Bà tự thấy mình mặc y phục mới, sạch đẹp, ở trên lầu cao lễ Phật, niệm Phật và nói với người nhà: “Mọi người phải siêng năng tu Tịnh nghiệp, ta ở Tây phương đợi các ngươi”. Nói xong, bà nằm nghiêng bên phải, xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

12. Bà Chu Hạnh

Bà Chu Hạnh sống vào đời Tống, người ở châu Thái Bình. Lúc còn trẻ, bà chuyên tâm niệm Phật không chút xao lãng. Một đêm nọ, bà quì niệm Phật, rồi an nhiên qua đời. Mọi người xung quanh thấy mấy vị tăng dẫn bà bay lên hư không đi về hướng tây.

13. Nghi nhân[42] họ Lục

Nghi nhân họ Lục sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, vợ của quan Triều thỉnh Vương Dư. Bà thường tụng kinh Pháp hoa, hết lòng cầu sinh Tịnh độ, mỗi ngày lễ Phật sám hối một hội và niệm Phật một vạn tiếng, suốt ba mươi năm. Một hôm, nhân lúc bệnh nhẹ, bà bỗng nghe tiếng trống trời vang lên, bà giật mình, liền ngồi ngay thẳng xoay mặt về hướng tây, hai tay kết ấn mà qua đời.

Ghi chú:

Kết ấn mà qua đời, không riêng gì chư tăng mới có, mà ở người nữ cũng thường thấy. Đó là điềm lành của những người tâm không tán loạn, thân không phóng túng. Ôi! Người nữ nào có thể bắt chước vị này, mỗi ngày chí thành lễ Phật sám hối một hội và niệm Phật một vạn tiếng, suốt ba mươi năm, tâm không thay đổi, thì tôi tin chắc rằng, người ấy nhất định sẽ vãng sinh Tịnh độ.

14. Bà họ Cung

Bà họ Cung sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, suốt ngày niệm Phật và tụng kinh A-di-đà. Sau này bị bệnh, bà thỉnh luật sư Hanh đến khai thị. Luật sư khai thị chưa xong thì bà ngồi ngay thẳng mà qua đời. Bấy giờ, có người tớ già họ Vu cũng niệm Phật mãi không ngớt. Một hôm, bà nằm mộng thấy bà họ Cung đến nói: “Tôi đã vãng sinh Tịnh độ, bảy ngày nữa bà sẽ vãng sinh”. Quả nhiên, đúng bảy ngày sau bà họ Vu qua đời.

15. Bà họ Châu

Bà họ Châu sống vào đời Tống, người ở Tráp Xuyên, niệm Phật suốt ba mươi năm. Sau này, bà bỗng nhịn ăn bốn mươi ngày, chỉ uống nước niệm Phật. Một hôm, bà nằm mộng thấy ba vị tăng đều cầm hoa sen và nói: “Lúc trước tôi vì bà mà trồng hoa này, nay bà sẽ được vãng sinh”. Khi thức dậy, bà thỉnh chư tăng đến trợ niệm và bà ngồi ngay thẳng mà qua đời.

16. Bà họ Hạng

Bà họ Hạng tên Diệu Trí sống vào đời Tống, người ở huyện Ngân. Chồng bà chết sớm, có hai đứa con gái, bà đều cho xuất gia. Bà siêng năng niệm Phật. Một hôm, bà chợt nói: “Tôi muốn ngồi qua đời, đừng làm quan tài cho tôi”. Con gái nói: “Đức Phật dùng quan tài ai nói gì đâu”. Người mẹ tỏ ra vui vẻ. Trong chốc lát có hương thơm khắp phòng, bà ngồi kết ấn mỉm cười mà qua đời.

17. Thiếu nữ họ Bùi

Thiếu nữ họ Bùi sống vào đời Tống, người ở Phần Dương, chuyên tâm niệm Phật. Đến ngày sắp mạng chung, cô đốt hương và nói: “Đức Phật mang đài sen đến rước tôi, tôi sẽ vãng sinh”. Cô vừa nói dứt lời, liền có hoa trời rải xuống, cô ngồi an nhiên qua đời.

18. Bà họ Thẩm

Bà họ Thẩm sống vào đời Tống, người ở Từ Khê, lúc nhỏ ăn đã chay niệm Phật. Sau đó, bà về làm dâu nhà họ Chương nhưng một lòng không thay đổi, và bà đã từng phát gạo và áo quần để giúp người đói rét. Sau này bị bệnh nhẹ, bà nỗ lực niệm Phật, bỗng thấy Đức Phật, bồ-tát, chư thiên và Thánh chúng hiện ra trước mắt, lại có một nghìn ngọn đèn thắp sáng nối liền nhau như hình cầu vồng. Hôm đó, bà nằm thế cát tường mà qua đời.

19. Bà họ Tôn

Bà họ Tôn sống vào đời Tống, người ở Tứ Minh, góa chồng sớm.Bà chuyên tâm niệm Phật suốt ba mươi năm không chút xao lãng. Một hôm bị bệnh nhẹ, bà nằm mộng thấy tám vị tăng đi nhiễu quanh phòng lễ sám, tự thấy mình mặc áo lụa đi theo các vị tăng ấy. Khi thức dậy, bà tắm rửa, thay y phục sạch sẽ, thỉnh chư tăng đến hành trì pháp sám hối. Bà ở trước đại chúng, ngồi ngay thẳng tụng kinh A-di-đà đến câu “nhất tâm bất loạn”, tay trái kết ấn mà qua đời. Mọi người xa gần đều nghe trên hư không có tiếng nhạc.

20. Bà họ Lâu

Lâu Thị Tuệ Tĩnh sống vào đời Tống. Bà là vợ của Tự bạc Chu Nguyên Khanh và từng xem qua bộ Truyền đăng lục, tâm địa thấu suốt nên hết lòng nương theo pháp môn Tịnh nghiệp làm chỗ chân tu, niệm Phật mãi không dứt.Đến lúc tuổi già bị bệnh, bà bỗng thấy một đài sen màu tía, hóa Phật vô số và nghe mùi hương lạ thơm khắp phòng. Bấy giờ, bà bảo người trong nhà hãy gấp rút niệm Phật, trong chốc lát thì bà qua đời.

21. Bà họ Tần

Tần Thị Tịnh Kiên sống vào đời Tống, nhà ở Tùng Giang, nhàm chán thân nữ, nên tuy ở chung với chồng nhưng bà siêng năng giữ trai giới. Bà thường xem các bộ kinh như: Hoa nghiêm, Pháp hoa, Kim quang minh[43], Bát-nhã, không để thời gian luống qua vô ích. Bà ngày đêm hành trì Di-đà sám, lễ Phật một nghìn lạy, trải qua một thời gian lâu thì có ánh sáng chiếu vào nhà. Bấy giờ, bà an nhiên ngồi xoay mặt về hướng tây mà qua đời.

22. Bà họ Chung

Bà họ Chung sống vào đời Tống, người ở Gia Hòa, thường tụng kinh A-di-đà và niệm Phật suốt hai mươi năm liền. Một hôm, bà nói với đứa con: “Ta thấy vô số hoa sen trắng lớn và các bậc Thánh đứng ở trên đó”. Nói xong, bà ngồi ngay thẳng mà qua đời.

23. Thiếu nữ họ Tôn

Thiếu nữ họ Tôn sống vào đời Tống, người ở Tiền Đường, thường niệm Phật và trì chú. Nhân lúc bị bệnh, cô thỉnh luật sư Thanh Chiếu đến và nói: “Con bệnh đã lâu, nhàm chán cõi đời này, muốn cầu vãng sinh.Xin luật sư giảng cho con nghe về nhân duyên Tịnh độ”. Cô nghe giảng xong, lòng rất vui mừng. Tối đến, cô nằm mộng thấy luật sư bưng chén thuốc cho cô uống, mồ hôi tuôn ra, cô cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng.

Ba ngày sau, cô nói với người chăm sóc: “Tôn giả Ca-diếp đến đây, ngồi trên một tòa sen vàng”. Nói vừa dứt lời, cô nhắm mắt kết ấn mà qua đời.

24. Thiếu nữ họ Lương

Thiếu nữ họ Lương sống vào đời Tống, người ở Phần Dương, hai mắt đều bị mù. Một hôm, cô gặp vị sa-môn khuyên niệm Phật. Cô niệm Phật như vậy suốt ba năm thì hai mắt sáng ra. Một hôm, cô bỗng thấy Đức Phật và bồ-tát cầm tràng phan, bảo cái đến rước. Hôm ấy cô mạng chung.

25. Bà họ Hoàng

Bà họ Hoàng sống vào đời Tống, người ở Hồ Sơn, thường trì kinh Kim cương, Pháp hoa và chuyên tâm niệm Phật. Một hôm, bà bị bệnh lị, chỉ uống nước không ăn gì. Bấy giờ, có vị tăng tu tập ở thất gần đó nằm mộng thấy bà đến nói: “Con sắp vãng sinh Tây phương”. Hai ngày sau, bà ngồi ngay thẳng xoay mặt về phía tây niệm Phật và qua đời. Lúc ấy, mọi người đều thấy có đám mây hồng phủ trên nhà của bà.

26. Bà họ Trần

Bà họ Trần sống vào đời Tống, quê ở Quảng Bình, cắt tóc giống người xuất gia, ngày đêm chuyên tâm niệm Phật, được mọi người gọi là Đạo Giả. Sau này, trong lúc bệnh tật, bà mời rất đông kẻ tăng người tục đến nhà niệm Phật. Trải qua hai ngày, bà bỗng chắp tay an nhiên mà qua đời.

27. Bà họ Thôi

Bà Thôi làm nhũ mẫu cho nhà họ Lương vào đời Tống, quê ở Đông Bình, Truy Châu. Bà ăn chay trường, nhưng rất ngu muội, không thể cùng bạn bè tranh luận hơn thua. Người chủ là phu nhân Triều chuyên tâm học thiền, nhưng bà Thôi ngày đêm hầu cạnh phu nhân âm thầm chí thành niệm danh hiệu Phật A-di-đà không chút xao lãng. Bà không cầm tràng hạt nên không biết niệm mấy nghìn tiếng. Năm 72 tuổi, bị bệnh thổ tả nằm mãi trên giường, nhưng bà vẫn siêng năng niệm Phật hơn. Lúc rảnh rỗi, bà bỗng ngâm kệ:

Tây phương một lối thích tu hành

Trên không bít lối, dưới phẳng bằng

Lúc đi không cần mang giày vớ

Từng bước hoa sen tự đỡ chân.

Miệng bà cứ nghêu ngao mãi như thế. Có người hỏi:

– Đó là lời của ai?

Bà đáp:

– Của tôi.

Người kia hỏi:

– Lúc nào bà đi?

Bà đáp:

– Đến giờ Thân tôi đi.

Quả nhiên, đến giờ Thân bà qua đời. Lễ hỏa thiêu của bà được cử hành như pháp của các vị tăng. Lúc hỏa thiêu xong, lưỡi bà vẫn còn nguyên vẹn và có hình giống như hoa sen.

28. Thiếu nữ họ Ngô

Thiếu nữ họ Ngô sống vào đời Tống, là một Huyện quân[44]. Cô giữ trai giới nghiêm cẩn và có người hầu cận cũng rất siêng năng niệm Phật. Một hôm, cô bỗng thấy hoa sen vàng nâng bàn chân ba vị Thánh Tây phương, vài ngày sau thì thấy đầu gối, vài ngày sau nữa thấy thân và vài ngày sau nữa mới thấy mặt mũi của ba vị Thánh, ở giữa là Đức Phật A-di-đà, hai bên là bồ-tát Quán Âm và Thế Chí; lại thấy cõi nước, đền điện, phòng ốc rõ ràng như đường chỉ trong lòng bàn tay. Những cảnh tượng ấy hiện rõ ràng trước mắt suốt ba năm. Sau này, bỗng bà bị bệnh, tự nói mình được vãng sinh và qua đời.

Ghi chú:

Thiếu nữ họ Ngô lúc nào cũng thấy Phật, việc ấy có không? Nếu căn cứ vào sức tu tập tinh tiến, xét theo lí thì đương nhiên có việc này. Nhưng giữa ma và Phật phải phân biệt rõ ràng, tà và chính phải rạch ròi. Người nữ gặp việc này phải nhanh chóng đến hỏi các bậc cao minh.

29. Bà họTrịnh

Trịnh Thị Tịnh An sống vào đời Nguyên, quê ở Tiền Đường, chuyêntâm niệm Phật suốt ngày không chút xao lãng. Lúc bị bệnh, bà nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: “Đã đến lúc bà phải ra đi, không được chậm trễ”. Bà lại thấy thân Đức Phật màu vàng, liền phấn chấn hẳn lên, ngồi ngay thẳng xoay mặt về hướng tây, gọi người con gái xuất gia của bà đến tụng kinh A-di-đà. Bấy giờ, bà an nhiên qua đời. Con gái của bà nằm mộng thấy mẹ đến nói: “Mẹ đã sinh về Tịnh độ, con phải nghe lời các bậc tu hành”.

30. Bà họ Chu

Bà họ Chu sống vào đời Nguyên, người ở chợ Bảo Tràng, huyện Ngân, chuyên tâm tu Tịnh độ. Vào đầu năm bà giữ im lặng, không nói lời nào, ngày đêm thường ngồi, kéo dài đến trọn một tháng mới thôi.Vào tháng sáu của mùa hạ thì ban phát nước trà, trải qua một thời gian dài không ngừng nghỉ. Một hôm, bà nằm mộng thấy có lá sen lớn che kín cả chợ, tự thấy mình cầm tràng hạt đi kinh hành niệm Phật trên lá sen. Sau này, bà bị bệnh nhẹ, ban đêm có người hàng xóm thấy tràng phan, bảo cái bay vào trong nhà bà. Đến lúc trời vừa sáng, bà ngồi chắp tay niệm Phật mà qua đời.

31. Bà họ Tiết

Vào thời Đại Minh có bà họ Tiết, là con gái của nhà thế tộc ở Vũ Đường. Khi sinh bà, mẹ bà nằm mộng thấy sao Trường Canh chui vào bụng. Về sau, bà về làm dâu ở nhà họ Chu, sinh được năm người con thì chồng qua đời. Bà ở vậy thủ tiết nuôi con và hằng ngày thờ cúng Quan Âm đại sĩ. Một hôm, bà đốt hương cúng dường, khói hương quyện tỏa thành hình hoa sen. Mọi người đều lấy làm lạ. Từ đó, bà chuyên tâm niệm Phật và bố thí không biết mệt mỏi. Bà niệm Phật suốt mười lăm năm không bỏ ngày nào.

Tháng năm, niên hiệu Vạn Lịch, nhằm năm Đinh Hợi (1575), bà mắc bệnh. Thầy thuốc bảo đem cháo sữa đến nhưng bà nhất định không dùng. Bà dứt hẳn cơm nước lẫn thuốc thang từ đó. Đến ngày mùng 6 tháng 9, bà cho mời chư tăng đến nhà cử hành lễ sám. Bà lại nói: “Bốn ngày nữa, việc của tôi sẽ hoàn tất”. Nói rồi, bà hướng về tượng Đức Phật A-di-đà ngày đêm chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài. Đồng thời, bà căn dặn các con trai phụ giúp bà và cấm tuyệt đối không cho phụ nữ vào phòng. Bấy giờ, đúng vào ngày mùng 9 tháng 9, bà lấy nước hương vẩy lên y phục sạch và cái ghế ngồi để tịnh hóa. Sáng sớm hôm sau, bà lấy nước rửa tay, tụng Cam lộ chân ngôn, mặc áo sạch sẽ, đội mũ Chí công, quỳ mãi trước tượng Phật A-di-đà và niệm danh hiệu của Ngài. Rồi bà đốt hương đọc bài kệ xưng tán Phật, xướng Tam quy y, lạy ba lạy, lần chuỗi niệm Phật 108 lần. Đến giờ Ngọ, bà ngồi ngay thẳng kết ấn qua đời. Bà chết mà thần khí vẫn tươi tỉnh, so với khi còn sống thì rạng rỡ hơn nhiều.

Lúc ấy, những người đứng bên cạnh đều nghe có hương thơm của hoa sen ngào ngạt khắp phòng. Các con trai bà theo như lời dặn đưa thi thể mẹ họ vào khám. Ngày đưa đám bà có mấy nghìn người đến xem, ai nấy đều vui vẻ đỉnh lễ. Điềm lành vãng sinh của bà ở các bản truyện khác đều có ghi lại.

Ghi chú:

Người mẹ trước khi chết đã dặn các con chuẩn bị cái khám, không cần quan tài, không rước sát thần, không đốt giấy tiền vàng bạc, không giết muông sinh để cúng tế. Các con bà đều nghe theo không dám làm trái.

Tôi (Châu Hoằng) nghe: Thuở xưa có một người ngồi chết, đứa con sợ trái với danh giáo nên mới kéo chân người cha duỗi ra, bất thình lình người cha lấy tay đánh người con. Người con sợ quá nói rằng: “Con giúp cha ngồi chết”. Nay chúng ta xem các con bà Chu làm như thế nào! Trước khi người mẹ trút hơi thở cuối cùng, bà đợi tôi đến truyền giới nhưng tôi đến trễ. Người mẹ nói: “Thời giờ đã đến mẹ không đợi nữa”. Nói dứt lời, bà nhắm mắt qua đời. Nhiều người cho rằng bà vì hận mà chết. Họ đâu biết rằng, tuy tôi chưa xuống thuyền nhưng đã làm pháp yết-ma[45] rồi. Ôi! Các bậc thiện nhân đều ở chung một chỗ. Mẹ con bà Chu há chẳng phải cũng giống như vậy sao!

32. Phụ nữ họ Hứa

Vào thời Đại Minh có một thiếu phụ họ Hứa, quê ở quận Hàng Châu. Bà là người hiền lành, chất phác, suốt ngày chỉ biết niệm Phật. Khi sắp qua đời, bà gọi người nhà đến và từ biệt họ. Sau đó, bà mặc y phục sạch đẹp, ngồi ngay thẳng, tay cầm thiên mục bạch hoa tự cài lên đầu mình rồi an nhiên qua đời.

33. Bà lão họ Vu

Vào đời Đại Minh có bà lão họ Vu, là mẹ của Vu Quí ở thôn Châu Thiệu, Xương Bình, Bắc Kinh.Bà đã niệm Phật trong một thời gian rất lâu. Một hôm, bà giặt y phục sạch sẽvà nói với con rằng: “Mẹ sắp sinh về Tịnh độ rồi”. Người con không tin. Đến kì hạn, bà lấy cái ghế đặt giữa sân và ngồi trên ghế mà qua đời. Lúc ấy, có hương thơm lạ, thiên nhạc, người trong làng đều nghe biết.

34. Bà họ Phương

Vào đời Đại Minh có bà họ Phương, là vợ của ông Chư sinh[47] Ngô Ứng Đạo. Năm ba mươi tuổi, chồng bà qua đời. Từ đó, bà một lòng theo đạo Phật và chuyên tu cầu sinh Tịnh độ. Bấy giờ, có một bà lão cũng trì trai, giữ giới theo hầu bà suốt hai mươi năm.

Đến niên hiệu Vạn Lịch, nhằm năm Ất Dậu (1585), lúc ấy bà Phương tròn năm mươi tuổi. Bà mắc bệnh nhẹ nên cho gọi bà lão đến bên cạnh niệm Phật mãi không dứt, không nói một lời và không làm chuyện gì khác. Một ngày trước khi qua đời, bà tắm rửa sạch sẽ, thay y phục. Sáng sớm hôm sau, bà đốt hương lễ Phật, rồi trở lại ngồi trên giường và qua đời.

Ông Tử Dụng Tiên đỗ tiến sĩ chưa từng nói dối với ai, đã thuật lại cho tôi (sư Châu Hoằng) nghe đầy đủ việc này.

35. Bà Trương

Vào đời Đại Minh có bà họ Đào, là vợ kế của cư sĩ Trương Thủ Ước ở Trường Thủy. Sở dĩ ông Trương tin và phụng thờ Phật là do bà khuyến khích cảm hóa. Hàng ngày bà Trương tụng kinh không gián đoạn. Một hôm, nhân ông Trương đến Phổ Đà sơn đỉnh lễ bồ-tát Quán Thế Âm, bà Trương ở nhà nói với hai người con: “Hằng ngày mẹ tham cứu hai câu ‘Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật’ nay mới tỏ ngộ. Ngày mùng 4 mẹ sẽ đi”. Đến kì hạn đã định, bà ngồi ngay thẳng mà qua đời.

Ngày hôm sau, ông Trương trở về, tẩm liệm bà. Một lát sau, trên nắp quan tài bỗng xuất hiện năm đóa sen xanh. Ông ấy vô cùng ngạc nhiên, lấy làm hổ thẹn và tự trách rằng: “Mình sống chung với nhau mà tôi chẳng hề biết đạo hạnh của bà như thế”. Mọi người gần xa đều thấy biết việc này, không ai không khen ngợi, ngưỡng mộ.

36. Mẹ của Tôn Danh

Vào đời Đại Minh có mẹ của Trung quan Tôn Danh suốt đời trì trai, giữ giới và chuyên tâm niệm Phật. Đến lúc tuổi già, bà mắc bệnh nhẹ, tự biết giờ đi đã đến. Bà nói với người con: “Mẹ muốn ngồi chết”. Con bà khóc than xin bà đừng đi nhưng không được. Bà bảo làm sẵn cho bà một cái khám, đến giờ bà vào khám ngồi ngay thẳng mà qua đời.

36. Bà họ Chu

Vào đời Đại Minh có bà họ Chu, quê ở Gia Định, Ngô Quận, là vợ của cư sĩ Trần Tuấn Xuyên. Bà vốn là người có tính hiền từ, hiếu thảo, một lòng hướng về Tam bảo.

Năm bà81 tuổi, con bà cầu học với ngài Vân Thê trở về và chỉ bà phương pháp niệm Phật vãng sinh. Từ đó, bà dành hết tâm tư chuyên tu tịnh nghiệp. Niệm Phật được hai năm, bỗng nhiên bà bị bệnh. Ba ngày trước khi qua đời, trước phòng của bà tự nhiên có người gọi tên bà ba lần thật lớn. Lúc ấy, bà nói: “Có hai người mặc y phục màu xanh ở đây”. Vì bệnh lâu ngày nên sức khỏe bà rất yếu, vậy mà bỗng nhiên bà bật dậy ngồi ngay thẳng.

Các con khuyên bà nên nằm nghỉ. Bà liền nằm xuống theo thế cát tường và qua đời. Các con rước thi thể bà đặt nằm ngửa giữa nhà, thì tự nhiên thi thể tự xoay về hướng tây. Bấy giờ, mọi người đều rất ngạc nhiên, họ cho rằng, vì sự siêng năng, chí thành tu tập của bà nên cảm ứng như vậy.

Ghi chú:

Hác Hi và bà họ Chu đều có điềm lành thấy đồng tử mặc y phục màu xanh, tức sẽ sinh lên cõi trời hoặc sinh vào cõi người. Sau đó không lâu, một là thấy Phật ngồi trên đài sen, hai là không quên xoay về hướng tây, thì sẽ sinh về Tịnh độ. Nếu như hai tướng ấy đều hiện cùng một lúc thì hoặc là chưa xác định được sinh về đâu, hoặc không được vãng sinh, hoặc thời gian vãng sinh còn xa.

37. Bà họ Từ

Vào đời Đại Minh có người đàn bà họ Từ, quê ở Gia Định làm dâu họ Lục, chồng mất sớm, ở góa, chuyên tu tịnh nghiệp. Ngày trước chồng bà bỏ ra nghìn lượng vàng cho vay, sau khi ông ấy qua đời, bà đốt hết giấy tờ, cũng không lấy lại vàng. Ngoài ra, bà còn đem tất cả đồ trang sức của mình cho hết mọi người. Bà thường đến trước Phật lễ lạy, tụng niệm không dứt.

Bỗng một đêm, bà gọi người hầu lại và bảo: “Ngươi nhìn xem hướng đông có phát ánh sáng không? Đã đến lúc ta vãng sinh rồi, các người hãy trợ niệm cho ta”. Nói xong, bà chắp tay dõng dạc niệm Phật và qua đời.
Tổng Luận

Cõi nước Cực Lạc thật không có người nữ. Người nữ đã được vãng sinh về đó nhất định đều có hình tướng như nam giới. Nay có người vẽ bức tranh Cửu phẩm[46] ở Tây phương trong đó có hình tướng người nữ, như vậy là sai lầm. Ấy chỉ là căn cứ vào cái nhân xưa còn lại mà vẽ thành bức tranh có đủ các loài đồng sinh mà thôi, chứ ở trong cảnh giới thanh tịnh tìm hình bóng người nam còn không có, huống chi người nữ!

Tuy nhiên, người nữ lại có ba khuyết điểm. Thứ nhất, hiếu với cha mẹ chồng không bằng hiếu với cha mẹ mình. Thứ hai, đối xử với người ở không như đối xử với con cháu mình. Thứ ba, biết bố thí nhưng không biết ngăn chặn cái tâm tham của mình.Biết mến mộ thân nam nhưng không biết chừa bỏ cái tính nết đàn bà của mình.Chỉ biết hăng hái vào chùa phụng sự sa-môn nhưng không biết tìm lại chính mình. Biết rõ ba điều này, mặc dù chưa ra khỏi cõi Ta-bà nhưng chắc chắn được làm tì-kheo,vì sao lại lo không vãng sinh Tịnh độ?

VI. NGƯỜI ÁC VÃNG SINH

1. Trương Thiện Hòa

Vào đời Đường có người tên Trương Thiện Hòa làm nghề mổ trâu. Đến lúc sắp qua đời, ông thấy một bầy trâu nói tiếng người đến đòi mạng. Lúc ấy, ông vô cùng sợ hãi, vội gọi vợ lại và bảo: “Bà mau đi thỉnh chư tăng đến làm lễ sám hối cho tôi”.

Chư tăng đến nhà nói với ông:

– Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Người nào khi sắp lâm chung thấy tướng ác hiện ra mà chí tâm niệm Phật thì liền được vãng sinh”.

Thiện Hòa nói:

– Cảnh địa ngục hiện ra rất nguy cấp, không còn kịp lấy lư hương nữa!

Nói rồi tay phải ông cầm lửa, tay trái cầm hương đốt, ngồi xoay mặt về hướng tây chuyên tâm, tha thiết niệm Phật. Niệm chưa được mười tiếng, ông tự nói: “Phật đến rước tôi!” Nói dứt lời, ông trút hơi thở cuối cùng.

Ghi chú:

Trong lúc thấy cảnh địa ngục hiện ra trước mắt, dùng tay làm lư hương; ấy là vì gặp tình thế quá bức bách nên lòng mới thành khẩn, ý mới tinh chuyên cũng không có niệm thứ hai vậy. Dù nói chỉ cần mười niệm nhưng vẫn hơn những người ròng rã niệm Phật cả trăm nghìn vạn ức niệm mà không nhất tâm. Những người như vậy nhất định sẽ vãng sinh.Theo lí thì thật đúng như thế. Có người nghi ngờ ông là bồ-tát thị hiện nên mới làm được như thế. Nhưng sự thật hoàn toàn không phải như vậy!

2. Trương Chung Quỳ

Vào đời Đường có người tên Trương Chung Quỳ, làm nghề giết gà. Lúc ông bệnh nặng thấy một người mặc áo lụa đào xua bầy gà đến mổ ông, máu chảy đầy mặt, đau đớn không sao chịu nổi.

Bấy giờ, có vị tì-kheo đến nhà bài trí tượng Phật và bảo ông niệm Phật. Bỗng chốc, có hương thơm phảng phất khắp phòng và ông nhẹ nhàng qua đời.

3. Hùng Tuấn

Vào đời Đường có người tên Hùng Tuấn, quê ở Thành Đô, ông can đảm, dũng cảm hơn người, nhưng không giữ giới luật. Ông từng bỏ đạo đểgia nhập quân đội. Sau khi xuất ngũ, ông trở lại làm tăng. Một hôm, ông đọc kinh, thấy trong kinh ghi: “Niệm một tiếng danh hiệu Phật thì diệt được tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp”. Đọc đến đó, ông vô cùng mừng rỡ và thốt lên rằng: “Có điều này để ta nương nhờ rồi!”.

Từ đó, tuy vẫn làm ác nhưng ông thường niệm Phật không dứt. Đến tháng 2 năm Đinh Mùi, ông đột ngột qua đời. Nhưng trải qua một đêm ông bỗng sống lại và kể rằng:

– Tôi đã xuống âm phủ, gặp Diêm vương. Diêm vương nói: ‘Ta bắt lầm ngươi. Thường ngày ngươi niệm Phật nhưng vốn không có lòng tin sâu sắc. Nay ta tha cho ngươi trở lại nhân gian, nhưng phải siêng năng niệm Phật hơn’.

Nhiều người chứng kiến việc như vậy, họ cho rằng ông ta lọt lưới địa ngục. Sau đó, ông vào núi, trì trai, giữ giới và niệm Phật suốt bốn năm. Đến tháng 3 năm Đinh Hợi, khi chư tăng đều có mặt, ông nói:

– Đến giờ tôi phải đi rồi. Các ngài trở vào thành nếu gặp người thân của tôi thì báo cho họ biết là Hùng Tuấn nhờ niệm Phật nên được vãng sinh Tịnh độ rồi, chớ cho rằng tôi là người lọt lưới địa ngục.

Nói rồi, ông ngồi ngay thẳng mà qua đời.

Ghi chú:

Đồ dơ và sạch không thể đựng chung trong một cái bát, thì làm sao có trường hợp người vừa làm ác vừa niệm Phật mà được vãng sinh! Ôi! Xét lại câu nói: “Có điều này để ta nương nhờ rồi”, trong ấy nói, niệm một tiếng danh hiệu Phật thì diệt được vô lượng tội. Bởi vì lòng tin đã ăn sâu vào xương tủy thì chỉ một niệm mà sức nặng đến vạn cân, cho nên đến khi lâm chung chuyển nghiệp được vãng sinh. Như vậy, sao lại nghi ngờ?

4. Duy Cung

Vào đời Đường, có vị tăng tên Duy Cung sống ở chùa Pháp Tính. Ông ta tính tình ngang ngược, xem thường người trên, hiếp đápkẻ dưới, kết bạn với kẻ thiếu tư cách,bọn cờ bạc, rượu chè thường tụ tập trước cổng chùa. Những lúc rảnh rỗi ông lại niệm Phật.

Bấy giờ, trong chùa có vị tì-kheo tên Linh Khuy thường giúp đỡ cho bọn người xấu này. Người dân trong làng nói:

Linh Khuy làm ác,

Duy Cung theo gót,

Ngàn tầng địa ngục,

Cùng vào không chán.

Duy Cung nghe vậy liền nói với họ:

– Tuy tôi gây nhiều tội nghiệp không có chỗ trốn thoát, nhưng Đức Phật A-di-đà ở cõi Tịnh độ thương tôi mắc phải lỗi lầm mà cứu ra khỏi cảnh lầm than.Lẽ nào tôi lại bị rơi vào đường ác sao?

Đến niên hiệu Càn Ninh thứ hai (895), Duy Cung mắc bệnh nặng. Linh Khuy đến thăm, từ ngoài đi vào thấy đoàn nhạc công tuổi trẻ, mặc y phục rất đẹp. Linh Khuy hỏi:

– Các vị từ đâu đến?

Họ đáp:

– Từ Tây phương đến rước Duy Cung thượng nhân.

Bấy giờ, một vị trong số những người ấy lấy trong bụng ra một cái bình bằng vàng.Trong bình có hoa sen còn búp nhỏ như nắm tay, bỗng chốc nó nở xòe ra lớn dần như cái mâm,tỏa rực ánh sáng. Những người ấy chạy nhanh về hướng chùa và đột nhiên biến mất. Khi Linh Khuy về đến chùa thì nghe trong chùa có tiếng chuông và Duy Cung đã qua đời.

4. Oánh Kha

Vào đời Tống có người tên Oánh Kha, xuất gia học đạo ở Dao Sơn, Tráp Xuyên, nhưng lại tha hồ ăn uống rượu thịt. Bỗng một hôm, ông sực nhớ phạm hạnh của mình không vẹn toàn, sợ bị đọa lạc luân hồi sinh tử. Ông bảo những người ở chung đọc cuốn Tịnh độvãng sinh truyện do thiền sư Giới Châu biên soạn cho ông nghe. Đọc truyện nào ông cũng đều gật đầu đồng ý. Sau đó, trong phòng của mình, ông đặt một cái ghế xoay về hướng tây rồi tuyệt thực và ngồi niệm Phật suốt ba ngày. Một đêm, ông nằm mộng thấy Phật đến nói:

– Ông còn sống được mười năm nữa, phải nên siêng năng niệm Phật.

Oánh Kha thưa:

– Dù cho con sống thêm một trăm năm thì cũng sống trong cõi Diêm-phù nhơ uế này, mà ở cõi này dễ mất chính mạng. Con chỉ nguyện sớm được sinh về An Dưỡng để hầu hạ các bậc Thánh.

Phật nói:

-Nếu chí nguyện của ông đã như vậy thì ba ngày sau Ta sẽ đến rước ông.

Kỳ hạn ba ngày đã đến, ông tập hợp mọi người tụng kinh A-di-đà và nói: “Phật và đại chúng đều đã đến”. Nói dứt lời, ông lặng lẽ qua đời.

5. Trọng Minh

Vào đời Tống có người tên Trọng Minh, cư ngụ tại chùa Báo Ân thuộc Sơn Âm, thường phá giới, phạm trai. Một thời gian sau, ông mắc bệnh và gọi người bạn đồng học tên là Đạo Ninh lại và nói:

– Nay tâm thức tôi rối loạn, có thuốc gì chữa trị được không?

Đạo Ninh nói:

– Ông nên quán tưởng hơi thở niệm Phật.

Trọng Minh làm theo y như lời Đạo Ninh chỉ, được bảy ngày thì sức lực đã cạn kiệt. Đạo Ninh lại bảo, ông hãy quán tưởng hình tượng Phật như ở trước mặt. Ông quán tưởng được một hồi lâu, bỗng thấy hai vị bồ-tát, kế đến thấy Đức Phật, rồi ông nhắm mắt qua đời.

6. Ngô Quỳnh

Vào đời Tống có người tên Ngô Quỳnh, quê ở Lâm An. Ban đầu ông xuất gia làm tăng, nhưng sau đó lại hoàn tục. Ông kết hôn hai lần và sinh được hai người con. Ông làm nghề bán rượu thịt, không việc gì không làm. Ông thường đứng bếp, hay giết gà, vịt v.v…, nhưng mỗi khi cầm dao lên ông đều xướng: “A-di-đà Phật! Ngươi hãy thoát khỏi thân này đi!”. Ông vừa xưng niệm danh hiệu Phật vừa xuống dao.

Mỗi khi cắt thịt, miệng ông luôn niệm Phật không dứt. Về sau, trên mắt ông nổi hai khối u như hai quả trứng gà và nó lớn rất nhanh, thật dễ sợ. Ông cất một cái thảo am rồi ở cách li với vợ con. Từ đó, ông lo niệm Phật, lễ sámkhông kể ngày đêm.

Đến niên hiệu Thiệu Hưng thứ 23 (1153), ông nói với mọi người rằng: “Ngày mai vào giờ Tuất tôi sẽ đi”. Nghe vậy, mọi người đều cười nhạo ông. Đến chiều tối, ông đem cái áo vải thô đổi lấy rượu uống. Uống xong, ông viết bài kệ:

Như rượu, đều không

Hỏi gì Thiền tông

Hôm nay, trân trọng!

Gió mát trăng trong.

Viết rồi, ông ngồi ngay thẳng chắp tay niệm Phật và bỗng la to: “Đức Phật đến!”, rồi ông qua đời.

7. Kim Thích

Vào đời Tống có người tên Kim Thích, quê ở Cối Kê, làm nghề đánh cá. Một hôm, bỗng nhiên ông tỉnh ngộ, giữ giới rất nghiêm cẩn, mỗi ngày niệm Phật cả vạn tiếng, trải qua một thời gian lâu mà không hề xao lãng. Sau đó, ông không có bệnh nhưng nói với người nhà: “Phật A-di-đà và hai vị bồ-tát đều đã đến rước tôi. Tôi đi về Tịnh độ đây”. Nói xong, ông đốt hương, ngồi ngay thẳng và qua đời. Người trong làng nghe có hương thơm lạ và tiếng nhạc trời kéo dài suốt ngày mà vẫn không tan.

Ghi chú:

Việc của Kim Thích so với hai ông Thiện Hòa, Chung Quỳ hoàn toàn khác. Hai người kia lúc sống tạo nghiệp, đến khi sắp qua đời mới chân thành hối cải. Còn Kim Thích biết sửa đổi lỗi lầm trước và trải qua một thời gian lâu tu tập các nghiệp thiện, cho nên phẩm vị vãng sinh chắc chắn phải hơn hai người kia.

Tổng luận

Biển khổ mênh mông, quay đầu là bờ; nhà tối nhiều năm chỉ cần một ngọn đuốc là sáng. Chắc chắncõi Tịnh độ không bỏ rơi người ác. Tuy nhiên, phải nên tỉnh ngộ, bỏ ác làm lành, mà thống thiết tự trách mình và trừng phạt lấy mình,hoàn toàn không nên ỷ lại đới nghiệp vãng sinh mà cứ an tâm làm ác để rồi trông mong vào sự may mắn.

Người làm ác ngày xưa lấy đây làm thuốc, người làm ác đời nay bám vào đây nên thành bệnh. Vì thế nên nói, người làm ác ngày xưa tuy gọi là người ác nhưng thực chất là người thiện,còn người làm ác đời nay gọi là người ác thì đúng là người ác. Ôi! Thật đáng buồn thay!

VII. SÚC SINH VÃNG SINH.

1. Rồng con

Kinh Bồ-tát xử thai[48] ghi:

Có một con rồng nói với kim sí điểu[49] rằng: “Từ khi tôi mang thân rồng tới nay chưa từng sát sinh, cũng không quấy nhiễu các loài ở dưới nước, sau khi qua đời, chắc chắn sẽ sinh về cõi nước của Phật A-di-đà”.

Ghi chú:

Có lòng từ không giết hại sinh mạng ấy là tịnh nghiệp chính nhân. Rồng làm theo lời Phật dạy chắc chắn được vãng sinh.

2. Chim két

Vào niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường (785-?), có người họ Bùi ở Hà Đông nuôi một con chim két.Nó niệm Phật liên tục, quá giờ Ngọ thì không ăn. Lúc sắp chết, nó niệm Phật mười tiếng rồi tắt thở. Sau khi đốt xác nó người ta nhặt được hơn mười viên xá-lợi, sáng chói mắt. Bấy giờ, có vị tăng tên Tuệ Quán dùng gạch nung xây tháp thờ xá-lợiđể tuyên dương sự kì lạ ấy. Quan đầu tỉnh Thành Đô tên Vi Cao làm bài kí sự, có câu: “Thấy rõ được cái tướng không ở nơi vô niệm, thì sau khi chết mới có thể để lại xá-lợi”.

3. Chim sáo

Vào đời Tống có Quán Công ở chùa Chính Đẳng, Hoàng Nham nuôi một con chim sáo biết nói tiếng người, niệm Phật không dứt. Một hôm, nó đứng chết. Khiđào huyệt chôn nó ngay nơi ấy, Quán Công bỗng thấy trên chót lưỡi nó mọc ra một đóa hoa sen màu tía. Luật sư Linh Chi từng làm bài tán ca ngợi nó: “Bị nhốt và chết đứng trong lồng là chuyện bình thường, mọc ra hoa sen tía trên đầu lưỡi mới là chuyện kì lạ”.

4. Chim sáo

Có người ở Đàm Châu nuôi một con chim sáo.Nó thường niệm Phật. Sau khi nó chết, ông ta dùng quan tài chôn cất đàng hoàng. Bỗng nhiên nơi chôn nó mọc lên một đóa hoa sen. Và chính ông ứng khẩu làm bài tụng khen ngợi:

Có con chim linh hiệu Bát Ca

Nghe lời tăng dạy niệm Di-đà

Chết rồi chôn cất, hoa sen hiện

Người chẳng hồi tâm, biết thế nào?

Ghi chú:

Chim két, chim sáo được người dạy niệm Phật nên vãng sinh, ấy là chuyện bình thường thôi.Nhưng sao ngày nay chẳng nghe nói súc sinh được vãng sinh nữa?

Ôi! Ví như người đời đều nghe lời chỉ dạy về niệm Phật, nhưng có người chuyên tâm niệm Phật, có người niệm Phật hời hợt. Vì thế, người niệm Phật thì nhiều mà người được vãng sinh rất ít. Cũng vậy, trường hợp chim két, chim sáo kia được vãng sinh có gì không hợp lý?

Tổng luận

Có người cho rằng: “Con người khôn lanh, loài vật ngu xuẩn, vì sao chim là loại súc sinh mà được vãng sinh?”. Là vì họ không biết tất cả các loài hữu tình đều có tính giác của Phật, nhưng vì sự mê mờ có dày, có mỏng nên mới có sự phân biệt người và súc sinh. Chứ chẳng phải giữa khôn lanh và ngu xuẩn có sự chênh lệch nhau. Chẳng hạn như: “Chim trĩ nhờ nghe kinh Pháp hoa mà sinh lại đời làm Tăng. Con trâu thấy được thân tướng đức Phật nên sau khi chết được sinh lên cõi trời”. Những chuyện này được ghi lại rõ ràng trong các truyện. Huống gì chúng sinh trong ba đường, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đềucó thể sinh về cõi nước của Đức Phật A-di-đà.Đây vốn là bổn nguyện của tì-kheo Pháp Tạng.

Nhưng khổ nỗi, con người thấy súc sinh được vãng sinh vẫn cứ điềm nhiên không thức tỉnh, đành lòng sống trong cảnh năm trược, giam hãm trong luân hồi. Một hơi thở ra không trở lại thì thay hình đổi dạng trong đường súc sinh, vậy mà không tự biếtvì sao phải như thế?

Quyển hai hết.

Pages: 1 2 3