BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ
ĐẢNH LUÂN VƯƠNG

KINH SỐ 950

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện, Tam tạng Sa-môn Bất Không Đại Quảng Trí phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

QUYỂN THỨ NHẤT

Phẩm thứ nhất: Tựa

Ta nghe như thế nầy: một thời Đức Bạt Già Phạm ở dưới cội cây Bồ đề, cùng các chúng Đại-Bồ-tát như là: Bồ tát ma ha tát Kim Cang Tràng, Bồ tát ma ha tát Quán Tự Tại, Bồ tát ma ha tát Đắc Đại Thế, Bồ tát ma ha tát Bí mật chủ Kim Cang Thủ, Bồ tát ma ha tát Tịch Tịnh Huệ, Bồ tát ma ha tát Kim Cang Huệ, Bồ tát ma ha tát Kiên Cố Huệ, Bồ tát ma ha tát Hư Không Vô Cấu, Bồ tát ma ha tát Vô Cấu Huệ, Bồ tát ma ha tát Phổ Hiền, Bồ tát ma ha tát Vô Tận Huệ, Bồ tát ma ha tát Hư Không Khố, Bồ tát ma ha tát Siêu Tam Giới, Bồ tát ma ha tát Trì Vô Năng Thắng, Bồ tát ma ha tát Trì Thế Gian, Bồ tát ma ha tát Thiên Quán, Bồ tát ma ha tát Văn thù Sư Lợi Đồng Chơn, Bồ tát ma ha tát Nguyệt Quang Đồng Chơn, Bồ tát ma ha tát Bất Tư Nghị Huệ, Bồ tát ma ha tát Hư Không Tạng, Bồ tát ma ha tát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, Bồ tát ma ha tát Đại Đinh Tấn, Bồ tát ma ha tát Từ Thị, Bồ tát ma ha tát Bảo Kế, Bồ tát ma ha tát Bảo Thủ, Bồ tát ma ha tát Diệu Tý. Đây là các vị Bồ-tát làm Thượng thủ (đứng hầu).

Lại có các Đại bí sô chúng như là Cụ Thọ Xá Lợi Tử, Cụ Thọ Ca Diếp Ba, Cụ Thọ Na Đề Ca diếp Ba, Cụ Thọ Dà Da Diếp Ba, Cụ Thọ Mục Kiền Liên, Cụ Thọ Đại Mục Kiền Liên, Cụ Thọ Mãn Từ Tử, Cụ Thọ Nan Đà, Cụ Thọ Ô Bà Nan Đà, Cụ Thọ Hiền thiện, Cụ Thọ A Ni Luật Đà, Cụ Thọ Ca Chiên Diên tử, Cụ Thọ Câu Hy La, Cụ Thọ Kiều Phạm Ba Đề, Cụ Thọ Tôn Đà La, Cụ Thọ Đại Tôn Đà La, Cụ Thọ Tu Bồ Đề, Cụ Thọ Kiều Trần Như, Cụ Thọ Chế Để Tượng, Cụ Thọ La Hầu La, các Đại A La Hán như vậy làm Thượng thủ.

Lại có vô lượng chư Thiên và chư Thiên-tử như Đế Thích, Phạm Vương, Đại Phạm Vương, Dạ Ma Thiên, Thủy Thiên, Câu Vĩ La Thiên, Thiện Giới Thiên Tử, Tha Hóa Tự Tại Thiên, cho đến các Thiên-chúng cõi Quang Am, Tịnh Cư, các Thiên-tử có Đại Oai Đức làm Thượng thủ.

Lại có vô lượng A Tu La, vô lượng Cưa Bàn Trà, vô lượng Khẩn Na La, vô lượng La Sát Bà, vô lượng Tỳ Xá Dà, vô lượng Mẫu thiên Chúng, vô lượng Bộ Đa Chúng, Na La Diên Thiên, Y Xá Na Thiên, vô lượng Chúng Bộ Đa vây quanh. Nan Đề Tự Tại làm Thượng thủ, Đại Tự Tại Thiên làm Thượng thủ, vô lượng Hổ Quỉ Chúng vi nhiễu, Noã chỉ Nể, Tỳ nữu Thiên cùng vô lượng chúng ngược quỉ vây quanh. Như vậy, ở trong hội Trời, con Trời, A Tu La, con A Tu La, tất cả Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, ma Hầu La Dà, La Sát v.v…

Lại có các vị trì Minh thành tựu, như là Luân thành tựu, Kiếm thành tựu, Kim Cang Chùy thành tựu, Liên Hoa thành tựu, Phủ thành tựu, Như Lai Bộ Minh thành tựu, Liên Hoa Bộ Minh thành tựu, Kim Cang Bộ Minh thành tựu. Lô Đà La Thiên thành tựu, Tỳ Nữu Thiên thành tựu, Mẫu Thiên Chúng thành tựu, Ma Hầu La Dà thành tựu, Nghiệt Lộ Trà thành tựu, Long thành tựu, Noã Chỉ Nể thành tựu, Dược Xoa thành tựu, Ma Ni Bạt Noã La thành tựu, Cu Vĩ La thành tựu, Thủy Tiên thành tựu, Phạm Vượng thành tựu. Như vậy các vị Trì Minh thành tựu làm Thượng thủ cùng với trăm ngàn quyến thuộc đầy đủ.

Lại có Nhật Nguyệt Thiên Tử làm Thượng thủ, cùng với trăm ngàn quyến thuộc tinh tú đều đầy đủ.

Lại có vô lượng Như Lai tộc, Liên Hoa tộc, Kim Cang tộc, Vô Lượng Minh Vương Sử Giả và Chúng Nữ Sử Giả, Kim Cang, Tỳ Na Dạ Ca cùng khắp hết thế gian xuất thế gian chúng, tất cả núi, sông, ao, vườn, đường sá, Thần Sông, Thần Núi, Thần Cây, Thần Thành quách, Thần Thi lâm, Thần Ô sa đa ca la thần, Thần Ac mộng, Thần Địa để, Thần Cung điện, các vị như vậy làm Thượng thủ, cho đến trong ba ngàn đại thiên thế giới Thiên Long, Dạ Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Lộ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô Lạc Già các mẫu Thiên, Ngược, đại ngược Tỳ na dạ ca, ngạ quỉ, đại ngạ quĩ, Tất xá dá, Dạ xoa, La sát bà có đại oai đức, cùng với các quyến thuộc đều ở nơi đạo tràng Bồ đề. Trong năm trăm do tuần, các chúng như vậy đều do thần lực của Phật gia trì, nên không não loạn lẫn nhau.

Bấy giờ Đức Thế Tôn trụ ở nơi lầu các Như Lai Cát Tường Trang Nghiêm Ma ni Bảo tạng bảo Ngài Di Lặc là Thượng thủ các vị Bồ tát rằng: “Thiện nam tử đây là cây Bồ đề đạo tràng trang nghiêm, nơi chỗ ta ngồi hàng phục bốn ma, chứng vô thượng Phật trí. Các ông cũng nên ngồi nơi đây để được Phật trí”. Thế Tôn nói lời đó xong, lại yên lặng.

Bấy giờ Bồ tát ma ha tát Bí mật chủ Kim Cang Thủ thừa lực oai thần bổn nguyện của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy trịch vai ào bên phải quì xuống đất, chắp tay hướng về phía Phật đảnh lễ mà bạch Phật rằng: “ Bạch Thế Tôn! Con xin hỏi Thế Tôn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác các phương tiện khác tu chơn ngôn Phật đảnh. Tất cả  Như Lai đã nói chơn ngôn minh giáo gia trì tu tập mạn đà la ấn khế, an bố đàn thành tựu các sự nghiệp. Nhất tự Chuyển Luân vương Phật đảnh vào đạ tam ma địa ấn mạn đà la, thành tựu nghi tắc niệm tụng, an bố các sự nghiệp tối thắng. Pháp bí mật hoạ tượng, ngăn ma, tiêu trừ tai nạn, tăng sự lợi ích, hàng phục các pháp. Như vậy tất cả Như Lai bộ chơn thiệt, tất cả thế gian xuất thế gian chơn ngôn, vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh chơn ngôn của Bồ tát, do đây tất cả các hữu tình được an lạc, do đây Phật đảnh Luân vương nơi Diêm phù đề chúng sanh tu tất cả chơn ngôn của Như Lai làm đại Phật sự. Do đây, chúng sanh ở thế giới Diêm Phù Đề được an lạc hay được sự thành tựu sâu rộng. Tất cả Thiên, Thiên tộc, tất cả Dạ xoa, Dạ xoa tộc, tất cả Khẩn na la, tất cả Ma hô lặc dà, tất cả Long và Long tộc, tất cả thế gian xuất thế gian ấn chơn ngôn làm đại lợi ích được thành tựu, không bị xâm bức. Do an tôn vị, tất cả hữu tình do tu Phật đảnh chơn ngôn trừ tất cả khỗ não, khiến chơn ngôn mau được thành tựu. Quán tự Tại, các Đại Bồ tát chơn ngôn mau thành, tất cả Như Lai mạn đà la ấn pháp mau thành tựu. Vô lượng Như Lai đã nói chơn ngôn ấn mạn đà la thành tựu, đạo tràng thành tựu, các lý thú cú pháp yếu. Cúi xin Như Lai Ứng chánh Đẳng giác nói cho.”

Bấy giờ Thế Tôn bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Lành thay! Lành thay! Bì mật chủ! Ông vì an lạc lợi ích tất cả chúng sanh nên hỏi Như Lai các việc như thế. Kim Cang Thủ! Nay ta sẽ vì ông mà nói, chư Phật trước đã nói, chư Phật vị lai cũng sẽ nói”. Bấy giờ Thích Ca Mâu Ni dùng Phật nhãn xem khắp cả thế giới, xem xong vì các hữu tình đời vị lai, dùng bổn nguyện phước lực gia trì quán xong, bảo tất cả Bồ tát đại chúng rằng: “ Các ông nên biết Như Lai nói Luân Vương Nhất Tự vào tất cả pháp tam ma địa, làm các thần biến không thể nghĩ bàn, ở nơi tất cả thế giới làm đại Phật sự, là tối thắng nhất ở trong các tam ma địa. Tất cả các Bồ tát hoặc tác ý hoặc nhớ nghĩ niệm Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Đại Chơn Ngôn Vương và Tam Ma Địa. Chỉ trừ Bồ tát Quán Tự Tại, Bồ tát Bí Mật Chủ do Như Lai gia trì. Tức thời Thế Tôn ngồi dưới cội Bồ đề nơi đại phước sanh địa. Như Lai nhập vào Phật du hí tam ma địa, tất cả Như Lai cũng đều nhập vào tam ma địa nầy. Thế Tôn bấy giờ thương xót nhiếp thọ tất cả chúng sanh vô lượng hằng hà sa cu chi kiếp đã tích tập thí, giới, nhẫn tấn, các ba la mật, làm vô lượng các khổ hạnh. Từ tướng đại trượng phu phóng ra ánh sáng nơi man tướng bạch hào, từ nơi mi, từ nơi nhãn, từ nơi mũi, từ nơi tai, từ nơi  đầu, từ nơi cà sa, từ nơi rún, từ nơi gối, từ nơi vú, từ nơi ngực, cho đến Như Lai pháp luân ấn xứ tất cả mọi nơi, nơi chân đa ma ni bảo, Như Lai Lạc thiết đề tam muội xứ, tích trượng ấn xứ, Như Lai tâm ấn xứ, Vô năng thắng Phẫn nộ Chuyển Luân vương, nhập vào tam ma địa Vô năng thắng xứ. Như vậy tất cả Như Lai Đại từ xứ đại bi xứ, tất cả Như Lai tam ma địa xứ, tất cả Như Lai chơn ngôn xứ đều phóng ánh sáng, trong mỗi ánh sáng lại có vô lượng ánh sáng làm quyến thuộc, từ nơi đảnh Phật phóng ra trăm ngàn ánh sáng đủ các màu sắc, xanh vàng, đỏ, trắng, tím. Chiếu khắp vô lượng cõi Phật, chiếu tam thiên đại thiên thế giới này, tất cả chúng sanh nơi địa ngục, bàng sanh, tội chướng đều được tiêu trừ hết mọi khổ não, kiến lập tất cả hạnh chơn ngôn, nơi các Bồ tát làm tất cả nghĩa lợi, thành tựu các phước đức trang nghiêm. Tất cả đạo tràng được an lạc, trong chốc lát làm các việc nghĩa lợi, xong nơi tất cả thế giới của chư Phật, cung điện của ma khiến được bình an, che lấp tất cả ma quang cho đến cõi Trời Hữu Đảnh, Vô gián địa ngục v.v… chiếu đến khắp nơi, cảnh giác tất cả hữu tình, xong lại quay về xoay quanh Phật ba vòng, mỗi mỗi đều nhập vào bổn xứ.


Phẩm thứ Hai: Thị Hiện Chơn Ngôn Đại Oai Đức

Bấy giờ Như Lai Thích Ca từ tam muội ra, dùng Phật nhãn xem khắp các cõi Phật và tất cả đại hội, như Sư Tử Phấn Tấn mà bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Kim Cang Thủ! Ông hãy lắng nghe Nhất tự Phật đảnh Đại minh vương và bốn Đại Phật đảnh hào tướng v.v… làm đại lợi ích, được thành tựu minh phi, Như Lai thủ, Như Lai bát, Như Lai thần, Như Lai khẩu, pháp luân các Đại minh vương. Tất cả chúng sanh, ở nơi tất cả hữu tình cần tu hạnh. Phật đảnh chơn ngôn Bồ tát hạnh v.v… và các hữu tình Bồ tát thọ trì, bí sô, bí sô ni, ô ba sách ca, ô ba tư ca, không bị các trời làm hại, được bất thối chuyển, được an lạc, ở mọi chỗ mọi nơi các khổ não đều tiêu trừ. Tất cả đều khởi hạnh đại bi, được vào một vị, không bị lửa cháy, không bị nước trôi, không bị đao thương, không bị trúng độc, không bị rắn cắn, không có tai nạn. Tất cả Như Lai đã nói chơn ngôn Đại Minh vương Bồ tát thọ trì, các hữu tình tin trọng đại thừa do tất cả Như Lai tam ma địa mà ra. Người thọ trì đại chơn ngôn cùng các chơn ngôn minh vương, nên dùng ngưu hoàng ở trên võ cây hoa vẽ viết chơn ngôn, đem để nơi cánh tay hoặc đeo nơi cổ. Nếu quốc vương mà đeo thì không bị oán địch xâm lăng. Ngày đêm lúc ngủ lúc thức đều được an lành, các Hiền Thánh chư Thiên có oai đức thường lại ủng hộ. Như vậy các hữu tình nếu hay tinh cần tu chơn ngôn thì ở mọi nơi đều được vô ngại. Tất cả mọi người thấy đều hoan hỷ, xa lìa mọi khổ não thường được an lạc, tất cả chơn thiên cung kính cúng dường, tất cả Thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la. Khẩn na la, Ma hầu la da, Ngạ quỉ, Tất xá dá, các Tỳ na dạ ca khố điều phục, không dám gần gũi bức não, xa lìa ác thú, sợ hãi. Bí mật chủ Đại minh vương nầy, và minh phi chơn ngôn, tất cả hữu tình tu hạnh Bồ tát và tu Phật đảnh chơn ngôn thành tựu điều an lành, tai nạn tiêu trừ, ác tinh xâm nhiểu đều trừ diệt, làm các điều lợi lạc cho chúng sanh, câu triệu Thiên Long, Dạ xoa. Bí mật Chủ, ta vì người tu Phật đảnh chơn ngôn nói sơ lược, mau thảnh Tất địa, làm các sự nghiệp”. Như Lai nói như vậy xong, bảo Kim Cang Thủ: “Đây là tất cả Như Lai nói Đại chơn ngôn vương, Đại Phật đảnh, Bạch tán cái Phật đảnh, như vậy các đại Phật đảnh chơn ngôn vương nhập vào tất cả Như Lai tam ma địa, cần dõng mảnh nỗ lực đều được thành tựu Thù thắng tam ma địa, Nhất tự đảnh Luận vương Phật nhãn, Hào tướng đại từ đại bi Phật nha, cùng Vô năng thắng, Như Lai thủ, Như Lai bát, Như Lai cà sa, Như Lai tấn Sư tử hống lưu xuất. Tất cả Bồ tát cũng không phá hoại nổi, tất cả chư Phật gia trì và tùy hỉ, trí lực rộng lớn, thấy biết tất cả, làm ánh sáng soi đường chỗ tối tăm, dùng trí rộng sau xa, lìa nhơ uế, làm tất cả mọi việc kiết tường, tôn quí tối thắng. Nơi thế gian, làm tối thắng, vô hư, vô cấu, sô sở úy, các huệ trang nghiêm, làm các trí vô ngại thù thắng rộng lớn, làm thân kiên cố dõngmãnh câu toả Kim Cang, các việc oai đức ở khắp muời phương dùng phất phủi sạch ngu si tăm tối, làm các Phật trí, hộ giúp các tạng công đức của Bồ tát, hay được tất cả trí, hay khiến được thanh tịnh, vô ngại dõng mãnh oai đức, hay được các huệ điều phục cang cường chúng sanh. Khiến sanh lòng từ, hay thành tất cả Như Lai Xí thạnh tam ma địa. Đại chơn ngôn vương Nhất tự Phật đảnh Luân vương, tức nói chú rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm bộ rô úm.

Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nói chơn ngôn nầy cũng như gió lớn nơi Nam Diêm phù đề thổi tất cả cây cối lùm rừng, hoa cỏ v.v… đều chấn động. Nói một chữ Luân vương chơn ngôn, ba ngàn đại thiên thế giới sáu món chấn động, núi Tu di cũng lung lay, biển lớn sôi trào. Hằng hà sa số thế giới rung rinh, hang hóc cỏ cây lùm rừng đều rung động, tất cả cung điện không an ổn, phải qui y Phật, Thế Tôn ở trong các thế giới các hữu tình Na lạc ca đều được an lạc.

Bấy giờ lại hiện thần lực gia trì, hiện Đảnh luân Phật đảnh. Tự thân biến thành Chuyển Luân vương, các tướng công đức trang nghiêm đầy đủ bảy báu, phóng áng sáng rực rỡ, dùng vô lượng pháp trang nghiêm Luân vương Sư tử toà mà ngồi nơi đó. Các ánh sáng xoay vòng nơi thân tròn như bánh xe, không có một hữu tình nào ngó nhìn được. Bồ tát Từ Thị, các Đại Bồ tát trong chốc lát còn không nhìn được. Bấy giờ Bồ tát Quán Tự Tại, Bí mật chủ Bồ tát Kim Cang Thủ do oai lực của Phật trong sát na xỉu té xuống đất. Đại Oai đức Ma hê thủ la Thiên, Đế Thích Thiên, Tỳ noã Thiên, Dạ ma Thiên , Thủy Thiên, Cu Ma La Thiên, Tỳ Phong Thiên, Cưu bàn trà, Khẩn na la, Ma hô lạc dà, tất cả khí tượng đều rơi rớt. Tam xoa của Ma hê Thủ la, Kim Cang chùy của Đế Thích, bánh xe của Tỳ nữu Thiên, gậy của Cu ma la Thiên, quyến sách của Thủy Thiên, các khí tượng của chư Thiên có đại oai đức thảy đều rờt xuống đất, tinh khí, oai lực thần thông đều mất. Do sức gia trì của Chuyển luân Đại minh vương, tất cả Bồ tát nhớ đến Bồ đề du hí tam ma địa, tất cả Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, đều quy y Phật Thế Tôn, mặt mày tái mét, lông tóc dựng đứng, không dám nhìn ngó hình sắc Chuyển luận Vương chơn ngôn. Bấy giờ Thế Tôn ẩn Đại Luân vương hình sắc trong giây lát nói Đại minh phi, tất cả Như Lai đã nói hay ngưng tất cả các hữu tình khó điều phục, hay thành tựu tất cả Đảnh Luân vương hay ngưng tất cả tranh tụng, hay thành các Như Lai bộ mẫu chơn ngôn tất cả Bồ tát mẫu, Bồ tát Quán Tự Tại, Bí mật chủ Kim Cang Thủ làm cho được đứng dậy nói Phật nhãn chơn ngôn tất cả Phật đã nói, hay thành tựu các việc nghĩa lợi, mau chóng thành tựu Đảnh Luân vương, liền nói chún rằng:

          – Nẵng mồ tát phạ đát tha nghiệt đế biểu yết ra tì dược tam miệu tam Bồ đề tì dược. Úm rô rô tất phổ rô nhập phạ ra để sắc sá tất đề lộ tả nễ tát phạ ra tha, sa đát nễ sa phạ ha.

Nói Phật nhãn đà la ni xong, Bồ tát Quán Tự Tại, Bí mật chủ Kim Cang Thủ thảy đều đứng dậy, cho đến tất cả chư Thiên trong chúng hội mỗi mỗi đều được thần thông như củ, mỗi mỗi đều cầm khí tượng qui y Phật Thế Tôn, tâm đều vui vẽ, nhìn ngắm Như Lai thảy đều khen rằng: “ Thật là kỳ lạ” Bồ tát Quán Tự Tại, Bí mật chủ Kim Cang Thủ bạch Thích Ca Mâu Ni Ứng Chánh đẳng giác rằng: “ Thế Tôn thọ trì làm sao ? Chưa từng thấy Như Lai, trì Phật đảnh Luân vương hình quang minh, tụ như vậy làm sao ?” Phật bảo: “ Thiện nam tử! Trì Đảnh Luân vương sắc hình tam ma địa, tất cả thần thông du hí của chư Phật. Thiện nam tử, ở nơi Đại mạn đà la tập hội, các ông làm các thân biến hoá chơn ngôn, đến bất tư nghị, được đại oai đức như thế nầy. Như Lai Chuyển Luân vương sắc thân hình, Thiện nam tử! Tất cả Như Lai chơn ngôn thân. Tối thắng tam ma địa, tất cả chư Đại Bồ tát, tất cả Minh vương phi, tất cả chư Thiên đều không dám vi phạm Phật đảnh Luân vương nầy. Thiện nam tử! Nếu có người trì tụng, nơi chỗ đó cách năm trăm do tuần, tất cả thế gian xuất thế gian không lưu thông, không thành tựu. Nếu trì tụng tất cả chơn ngôn không thành tựu, không hiện oai đức, nếu niệm chơn ngôn nầy, tất cả thế gian xuất thế gian chơn ngôn đều được thành tựu, đều được ứng nghiệm, trong năm trăm do tuần tất cả Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Cu lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, Bồ tát trụ nơi chơn ngôn thân đều không thể trụ, đầu không dám đi, không được hiệu nghiệm không được Tất địa, vì sao vậy ? Vì trụ Phật đảnh Luân vương tam ma địa, không ai dám động đến được, trừ Phật nhãn chơn ngôn tam muội da. Do tụng chơn ngôn nầy 7 biến thân tức được thanh tịnh, nếu không như vậy thì không thể có oai đức được. Nếu tu chơn ngôn nầy, trước sau cần tụng Phật nhãn chơn ngôn, mười địa Bồ tát còn không dám trái huống là các chư Thiên, các loại chúng sanh nhỏ bé.

Bấy giờ Thế Tôn do oai đức Phật đảnh, muốn hiện Phật tán cái oai đức, do tất cả Phật tán cái gia trì tức trụ bạch tán cái Phật đảnh vương, thân như tán cái(lọng) che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, không sót một chúng sanh nào. Bạch tán cái hình che trên Phật đảnh Tán cái đảnh nầy, nơi đảnh của Như Lai. Bồ tát Quán Tự Tại, Bí mật chú Bồ tát Kim Cang Thủ thưa hỏi Phật rằng: “ Vì sao hình tán cái che khắp ba ngàn đại  thiên thế giới lại ở nơi trên đảnh Thế Tôn, không rõ ngằn mé, không thể xem khắp được”. Phật bảo: “ Các ông, đây là Bạch tán Cái Phật đảnh vương, vô lượng Như Lai đã nói, tất cả Như Lai vô lượng sắc bảo, âm thinh biến khắp, tất cả chân đa ma ni bảo, lưới báu hiện ra các thứ trang nghiêm các hình xem lẫn, là chư Phật Đảnh vương Tán cái làm thành tựu cho tất cả hữu tình là tất cả Phật đảnh tán cái, tên là Bạch tán Cái. Các Bồ tát có đại oai đức cũng không biết ngằn mé, cũng không thấy được ngằn mé. Thời Thích Ca Mâu Ni xem Phật đảnh Vương dùng thần thông oai lực gia trì, trụ chơn ngôn thân hình, nói chơn ngôn rằng:

          – Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm đát tha  nghiệt đổ sắc nị sa ha na phạ lộ chĩ đa mẫu lật đà. Úm ma ma ma ma hồng nặc.

Tức thời Tam thiên đại thiên thế giới thảy đều chấn động. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Bồ tát rằng: “ Các Bồ tát! Bạch tán cái Phật đảnh chơn ngôn nầy hay thành tựu tất cả chơn ngôn, hay câu triệu các Đại minh vương bất không vô ngại dõng mãnh”.

Bấy giờ Thế Tôn muốn hiển dương Phật đảnh vương oai đức, làm các việc lợi ích cho hữu tình hay trừ các tai hoạ bức bách, hay diệt các chơn ngôn thế gian xuất thế gian, dùng chơn ngôn nầy gia trì, vô lượng Bồ tát đều khen ngợi. Vô lượng chư Phật nói Phật đảnh Vương Quang tụ lại hiện đại oai đức là Đảnh luân Phật đảnh oai đức Kim Cang Câu mà nói chú rằng:

          – Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm đát tha nghiệt đo sắc ri sa ha lộ na phạ lộ chỉ đế mẫu lật đà đế nho ra thỉ hồng nhập phạ la, nhập phạ la, đà ca đà ca, na ra na ra, vĩ na ra, vĩ na ra, sân ra sân na tần na tần na hồng hồng phấn tra phấn tra sa phạ ha.

Lúc nói chú nầy xong, Tam thiên đại thiên thế giới như chiếu đèn báu, chiếu soi khắp cả, thành một màu hoa sen, hiện khắp cả hư không, tất cả báu gom lại làm tràng báu, treo các chuông, khánh, trang nghiêm quang tụ, dùng sức biến hoá, các cửa thành các giới đạo do oai đức của Phật hiện ra che khắp hư không, không có ngằn mé, tất cả Bồ tát đều vui vẽ, tất cả đều được an lạc. Từ nơi đảnh Phật phóng ra ánh sánh, tất cả thế gian, xuất thế gian chơn ngôn, oai đức đều bị đoạn hoại, khiến các kẻ kia trì tụng không được thành tựu, vì bị Đại oai Quang tạng.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Bí Mật Chủ! Đây là tất cả Như Lai Quang Minh Chiếu Diệu Quang Tụ Phật đảnh. Do ánh sáng nầy chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến Địa ngục vô gián, trên đến Hữu đảnh, chiếu khắp các cung ma thảy đều lung lay. Kim Cang Thủ! Phật đảnh vương này hay đoạn tất cả chơn ngôn, người tu hành tu chơn ngôn tùy ý bẻ gảy tất cả thế gian xuất thế gian chơn ngôn, chỉ trừ Đảnh luân Phật đảnh, Bạch tán cái Phật đảnh, Cao Phật đảnh, Thắng Phật đảnh, Phật nhãn, Ngũ tự Như Lai tâm; ngoài ra tất cả các chơn ngôn thế gian, xuất thế gian khác đều bị đoạn hoại, bị đánh, bị phục, bị cột, bị nhiếp. Người tu hành nếu niệm đọc tụng tùy ý khiến loài quĩ mị khó điều phục bị diệt, bị đánh bỏ chạy đi các phương khác. Kim Cang Thủ! Quang tụ Phật đảnh nầy không được trì tụng không phải chỗ,  nên ở nơi có Xá lợi trì tụng, chỗ các Hiền Thánh nhiếp thọ. Vì sao? Vì oai đức quang tụ Phật đảnh, oai đức như Kim luân không khác! Nếu không như vậy tức bị thương hại, Thánh  chúng không giáng lâm, bị các ma sai tử. Cần biết nơi thanh tịnh, nơi có Xá lợi, nơi thánh nhơn đắc đạo, trước dùng tam muội da gia trì, sau dùng Kim luân tam muội da, Phật nhãn gia trì, nếu làm sai khác tức bị thương hại, dầu tu bao lâu cũng không được thành tựu Quang tụ chơn ngôn vương nầy. Nếu tu các chơn ngôn khác không được khinh mạn tụng đọc. Vì sao? Vì bị oai đức của chơn ngôn vương làm tan nát, nên biết nơi thanh tịnh, nơi bên sông, bên ao, hoặc bờ biển hoặc trên núi, hoặc hang động, nơi tháp của thánh nhơn là chỗ ban cho đại oai đức, có đại lực, đại tinh tấn, đủ niệm, đủ huệ mau đắc Tất địa, oai quang, oai đức thành tựu cùng như Luân vương chơn ngôn. Bí Mật Chủ! Minh vương nầy hay sanh các oai đức không thể nghĩ bàn là Như Lai oai, Như Lai quang, Như Lai gia trì, tất cả quang minh oai đức của chư Phật, Thân quang minh, Tánh quang minh, ban cho tất cả hữu tình được oai đức, hay sanh tánh oai quang, hay đoạn tất cả chơn ngôn hay điều phục những việc khó điều phục, hay hoại oai lực chơn ngôn kẻ khác, là đại oai đức, đại thần thông hay thành biện tất cả mọi việc”.

Bấy giờ Thế Tôn sau khi xem vô lượng pháp giới trí xong vì muốn lợi ích chúng sanh hay khiến tất cả tam ma  địa của Như Lai được lưu thông, làm tất cả lực dõng mãnh vô biên của Bồ tát, nói tất cả chư Phật gia trì, tu các chơn ngôn được an lạc, tức nói chú rằng:

          – Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm nhập phạ la nhập phạ la nễ tử dã nễ tỉ dữu na nghiệt đô sắc ni sa độ na độ na hồng.

Bấy giờ tất cả thế giới đều bị chấn động, tất cả Thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà mê muội, buồn phiền mất hết thần thông, kẻ khó điều phục bị thiêu đốt, Tỳ na dạ ca kêu lên tiếng “ ha ha”. Bấy giờ Thế Tôn bảo Bí mật chủ rằng: “ Bí mật chủ! Đây gọi là Cao Phật đảnh vương, sức tam ma địa của tất cả Như Lai, sức dõng mãnh đại tinh tấn. Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn tu tập Luân vương Phật đảnh và các tịnh tính đến chỗ đấu tranh, kiện tụng đều được thắng. Hoặc nếu có các Quốc vương tin tưởng Phật pháp dùng ngưu hoàng nơi trên vỏ cây hoa hoặc trên lụa viết chơn ngôn nầy đeo nơi cổ, đi đến chỗ oán địch, oán địch thảy đều tan tác, quân giặc tan rã. Vì sao? Do thần lực Như Lai gia trì. Hoặc nếu Ô ba sách ca, Ô ba tư ca đem để nơi đầu người đó, được oai đức, thanh tịnh kiết tường, không bị quấy nhiễu, được biện tài. Bí mật ta lược nói, nếu Bồ tát tu hành trì tụng được vô lượng lực, mạnh mẽ, được Như Lai gia trì, tất cả các ma không dám tổn hại, tất cả trời không ai bằng được, thành tựu oai lực bằng Chuyển Luân vương chơn ngôn. Vì sao? Do tất cả Như Lai gia trì thần lực, tam ma địa lực, đây gọi là Cao Phật đảnh vương”.

Bấy giờ Thế Tôn Thích Ca Như Lai hiện thần thông oai đức, vì muốn tiêu diệt các tội, phá nát các ác thú, tiêu diệt các na lạc ca, hiện hết thảy Như Lai thần thông oai Đức tích tập. Phật đảnh chơn ngôn vương nầy, tất cả chư Phật nói đã tức chú rằng:

-Na mô tam mãn đà một đà mẫm. Úm nhập phạ ra nhạ dữu sắc ni sa nhập phạ la nhập phạ la mãn đà na ma mãn đà na ma nổ rô ma nổ rô ma nổ rô ma hác ha na hồng.

Nói chơn ngôn nầy tất cả các thế giới, cõi Phật sáu món chấn động, không có một hữu tình nào bị khổ đói khát, do Phật thần lực hiện các oai đức, tất cả các khổ não đói khát nơi địa ngục đều ngưng, tất cả hữu tình đều được ăn uống, hằng hà sa số các Như Lai đều nói, vì lợi ích các hữu tình hiện đại thần thông, Kim Cang Thủ! Đây là Phật Đảng vương, nếu lưu bố đến nơi nào, tất cả các ma không dám sai tử, hà huống nếu người tu hành. Các Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn nếu hay nhớ niệm chơn ngôn như vầy, lại hay trì tụng tức được thần thông, thành tựu không thể nghĩ bàn, đủ đại tinh tấn, tất cả Chư thiên cung kính, người nầy không lâu sẽ được công đức không thể nghĩ bàn. Nếu có người thành tựu chơn ngôn nầy hoặc có người tin tưởng đại thừa, hoặc tu tập Luân vương Phật đảnh, người đó tức được thần thông tương ưng không thể nghĩ bàn, là tối thượng trong tất cả hữu tình, không bị ngu hoặc đắc Phật thần thông ngoài ý mong muốn đều được vô ngại, tất cả thần thông bình đẳng chơn như vô uý, tất cả thời đều bằng như Phật. Kim Cang Thủ nếu tu hành Phật đảnh chơn ngôn không lâu, được thành tựu thần thông tự tại, tất cả kẻ khó điều phục, tất cả hữu tình trông thấy, trong chốt lát đều bỏ chạy. Nếu tu tập chơn ngôn nầy được thành tựu cũng như Chuyển luân vương chơn ngôn không khác, nơi trong địa ngục làm các đại thần thông, vì các hữu tình trong địa ngục mà làm lợi ích, các hữu tình đó đều tiêu trừ khổ đói khát. Ta nay nói lược chút ít. Phật đảnh vương tam ma địa thần thông xí thạnh, vô lượng vô biên các công đức phứơc lợi dầu nói một kiếp cũng không hết.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo các chúng Bồ tát: “ Thiện nam tử! Các Phật đảnh Luân vương trụ nơi tất cả Như Lai tam ma địa chơn ngôn thân, trăm ngàn cu chi kiếp cũng không nói hết công đức, chỉ vì thương xót hữu tình mà nói ra chút ít. Đây là Phật đảnh vương tộc công đức không thể suy lường, dầu trăm ngàn cu chi kiếp xưng dương cũng không hết ngằn mé. Như Lai xem xét công đức của Phật đảnh Luân vương, dầu ngàn Phật trong cu chi kiếp khen ngợi cũng không hết ngằn mé. Nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn dùng đồ ăn uống, y phục, thuốc thang lại có các thứ dùng cần thiết cúng dường trăm Phật, nếu lại có người trì tụng Luân vương, phước tụ kia không bằng được, tức nói kệ rằng:

Nếu có kẻ tu hành
Tối thắng chơn ngôn vương
Tắc là thành Bồ đề
Được địa vị không nghi
Là bất sanh bất diệt
Người trì Phật đảnh nầy
Oai đức không ai bằng
Sắc lực không nghĩ bàn
Ba đời không sánh kịp
Nếu các loại chúng sanh
Kẻ thành tựu Phật đảnh
Không có ai bằng được
Dầu là Thiên Đế Thích
Các trời có oai đức
Ở trong thế giới nầy
Dục giới các đại lực
Thấy người tu Phật đảnh
Không khởi lòng kính ngưỡng
Đầu bị bể bảy phần
Như nhánh cây A Lê
Tự Tại và Đế Thích
Thuỷ Thiên, Cu ma la
Dạ xoa đại oai đức
Gặp quang đều tiều tuỵ
Ngàn ánh sáng rực rỡ
Chiếu khắp cõi chư Thiên.

Nếu có Đại trượng phu thành tựu chơn ngôn vương, hoặc đọc hoặc tụng hoặc thọ trì, cho đến chép viết quyển kinh hoặc chép trên vỏ hoa cây, hoặc đeo, hoặc dùng hương xoa, hương dẽo,  đồ nơi đất, tán hoa, đốt hương đem kinh để nơi trong đàn mà cúng dường, đọc tụng, thọ trì pháp yếu nầy vì người mà giảng nói, xem xét căn tánh chúng sanh cao thấp mà nói, cần tu hạnh Bồ tát tất được Như Lai Xí thạnh tam ma địa, bền chắc tin sâu đại thừa, kẻ được như vậy mới vì họ mà nói. Tất cả Như Lai ngôn giáo đều hiểu nên không cần lao nhọc, thường được túc mạng, không đoạ ác thú, siêu được ngàn kiếp luân hồi sanh tử, chứng vô thượng Chánh Đẳng giác, tất cả Thiên long thường ủng hộ, lời nói hoà nhã, mọi người ưa nghe, tất cả hữu tình đều ưa mến, khi bỏ thân vui vẻ không bị các ma làm phiền não. Nếu có thiện nam thiện nữ nhơn các đại hữu tình kiên cố nơi đại thừa, được mãn nguyện các nguyện, tin Như Lai tộc chơn ngôn, người nầy đầy đủ đại oai đức, hiền thánh nhiếp thọ, không qui y ai khác ngoài Phật, Bồ tát, xa lánh dường ma, các căn đầy đủ, thân sắc tươi tố, sanh nơi thanh tịnh tối thắng, nhớ được túc mạng, thân thể mạnh mẽ đầy đủ các tướng, không quá mập. Quá ốm, không tiều tuỵ, xương cốt lông móng đầy đủ đẹp đẽ, không có các bệnh; các tướng như thế nay chỉ lược nói, sanh vào các nhà có phước lớn, có oai đức. Các loại hữu tình nầy nếu được gặp Phật đảnh chơn ngôn đều được thành tựu, nên vì họ mà nói, cần phải cung kính tôn trọng mới nên trao cho, không được khinh mạn, phải cẩn thận đó. Nếu được Phật đảnh chơn ngôn tức được thành tựu, được chơn ngôn nầy, các hữu tình kiên cố bền chắc tu hành đều thành tựu. Đây là pháp yếu rất sâu xa, ở trong các thế giới khó được nghe, do sức gia trì của Như Lai mà được nghe vậy. Nếu có người được nghe qua tai một lần, nên biết đều do Chuyển Luân   vương ma tam địa gia trì, nên biết người nầy được pháp yếu tu hành của Như Lai tộc như ở trong bàn tay. Vì sao ? Đây là tất cả không thể suy lường Như Lai tam ma địa chơn ngôn Chuyển Luân vương thân mà nên, là Pháp yếu tối thắng trong tất cả các chơn ngôn, nên biết người đó thành tựu Như Lai Chơn Ngôn. Nếu các pháp yếu, Kinh quyển nầy ở nơi nào, nơi đó có vô lượng trời nguời đều nên cúng dường tức được Tam ma địa Xí thạnh pháp cú, người nầy xa lìa các tâm tăng thượng mạn.

*********

 

 

QUYỂN THỨ HAI

Phẩm thứ Ba: Thơ Tượng Nghi Quĩ

Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni dùng Phật nhãn xem khắp tất cả chúng sanh, bảo Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Vì lợi ích tất cả các hữu tình, ta nay nói nghi quĩ Đại-minh vương, tất cả chư Phật đã nói, tất cả thế gian, xuất thế gian chơn ngôn hoạ tượng. Phật đảnh Luân vương bổn thân hình trạng, hay trừ tất cả tội, khiến tất cả hữu tình được đại Niết bàn, dùng tam ma địa thù thắng biến hoá, hiện các thân sắc của Phật. Nay ta nói pháp vẽ tượng Phật đảnh Luân vương.

Người tu hành trước cần vào mạn đà la, theo thầy thọ học ấn khế nghi quĩ, vào Phật đảnh Luân vương đàn, hoặc Vô Năng Thằng Phẫn nộ đàn, hoặc Thắng Phật đảnh đàn, thấy tam muội da, thọ pháp quán đảnh được A Xà Lê ấn khả tu hành đạo vô thượng Niết bàn. Nên y theo nghi quĩ làm pháp tiên hành, pháp tiên hành làm xong, sau đó mới hoạ tượng. Khiến một đồng nữ Ba la môn, con nhà quyền quí thọ trai giới, xe dệt các sợi chỉ, y theo nghi quĩ như trong kinh đã nói, dệt thành tấm vải dài 6 khuỷu, ngang 4 khuỷu, nếu không đủ thì 5 khuỷu cũng được. Dệt xong đem ngâm nước thơm, loại bỏ các lông tóc, dùng các tháng thần thông ngày bạch nguyệt. Tìm một hoạ sĩ kính tin Tam Bảo, các căn đầy đủ, trước phải tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới, thọ  bát quan trai sau đó mới được vẽ, phải xem ngày tháng tốt lành, hoặc nơi núi non, hang động, Phật đường, tịnh thất hoặc chỗ Thánh hiền đắc đạo, xa lánh những nơi dơ uế, nước có côn trùng, mới có thể hoạ vẽ. Trước nơi giữa hoạ Phật, Thế tôn ngồi toà sư tử, toà dùng các thứ báu trang nghiêm tướng đang thuyết pháp, hào quang xoay tròn nơi  thân, từ nơi đảnh phóng ra các ánh sáng, đầy đủ các tướng Đại trượng phu, hoạ cây Bồ đề có các lá đầy đủ, như thân cây đa ma ni, nơi các nhánh treo các dãi lụa, hoặc các thứ báu như phệ lưu lỵ, hoặc treo trái, hoặc chuông khánh hoặc các thứ nơi cõi trời, hoặc mưa tuôn xuống, các thứ hoa quả, san hô lưu ly, đều vẽ ở phía trên. Trên cây Bồ đề có các loại chim cát tường đậu, hoặc các lá, mây, mưa, sấm chớp xen nhau, gọi là Bồ đề  kiếp thọ. Hoạ ở phía sau hai bên Thế tôn, bên phải là Chuyển Luân Đại vương hình như Luân Vương ngồi toà sen trắng, thế đang nhìn Phật, thân màu vàng rồng, chung quanh có hào quang đầy đủ bảy báu, chỉ có Luân bảo ( bánh xe báu của Luân vương) xung quanh có hào quang để nơi hoa sen. Sau Phật Thích Ca, tưởng đảnh Luân vương, bên trái Phật không xa vẽ Bạch tán cái Đảnh vương, hình như Đại vương thân màu vàng, ngồi trên hoa sen, tay cầm hoa sen, mắt nhìn Luân vương. Cách Bạch tán cái Phật đảnh không xa vẽ Cao Phật Đảnh Vương, hình như Đại vương ngồi trên hoa sen trắng, tay cầm Câu duyên quả, mắt ngó Luân vương. Cách Đảnh Luân vương không xa vẽ Quang Tụ Phật đảnh vương, ngồi trên hoa sen trắng, xung quanh có các hào quang, thân màu vàng, tay cầm Chơn đa na mi. Nơi dưới Quang tụ Phật đảnh vương vẽ các người trì tụng chắp tay hồ quì chiêm ngưỡng Đảnh Luân Vương. Luân vương duỗi tay làm ấn thí nguyện, nhìn người trì tụng. Gần Quang tụ đảnh vương vẽ thắng Phật đảnh, thân màu vàng, tay trái cầm bảo, tay phải thí nguyện, mắt nhìn Luân vương. Như vậy các Phật đảnh vương hình trạng đều là Đại vương, đều có hào quang quanh thân, đều ngồi toà sen trắng, thân đều màu vàng. Bên phải Phật vẽ Bồ tát Phổ Hiền tay cầm phất trắng; bên trái Phật vẽ Bồ tát Từ Thị tay cầm phất trắng, hai vị đều nhỏ hơn Phật một chút. Phía trước Phật vẽ Bồ tát Quán tự tại, Bồ tát Kim Cang Thủ  đều ngồi toà sen báu, chắp tay thế đang lễ Phật, gần Bồ tát Phổ Hiền vẽ Bồ tát Văn Thù Sư lợi, Bồ tát Vô Cấu Huệ, Bồ tát Ninh Tịnh Huệ, Bồ tát Vô Tận Huệ, Bồ tát Hư Không Tạng, Bồ tát Hư không Vô Cấu, Bồ tát Đại Huệ, trước sau như trên mà vẽ các ngài đều ngồi toà sen, chắp tay thế đang lễ Phật, thân hình yên tịnh các báu trang nghiêm, thân đều màu vàng, áo quần đều bằng các thứ lụa tốt. Cách Bồ tát Từ Thị không xa vẽ Phật Nhãn Minh phi hình như Thiên nữ, ngồi toà sen báu, thân màu vàng, các món trang nghiêm tốt đẹp, mắt nhìn xuống chúng hội, mặc áo tơ nhẹ góc áo lòi da ra ngoài, tay phải cầm Như Ý bảo, tay trái Thí Nguyện Ấn, hào quang rực rỡ quanh thân, cách Phật Nhãn tôn không xa vẽ Hào tướng tôn hình như Thiên nữ, tay phải cầm hoa sen, tay trái thí nguyện ấn, mắt nhìn Luân vương. Gần Phật Nhãn tôn nơi phía dưới vẽ Tôn Na Lị minh phi hình như Thiên nữ, trang nghiêm các món an lạc, thân màu xanh tay cầm hoa sen, ngồi trên núi báu, mắt nhìn Thế tôn. Gần Kim Cang Thủ nơi chân vẽ Quân Trà Lợi; gần Quân Trà Lợi vẽ Kim Cang Quân, Tô Ma Hô ba vị đều hình đồng tử, các món an lạc trang nghiêm nơi thân, mắt nhìn Luân vương, tư thế mạnh mẽ đáng sợ. Bên phải Bồ tát Quán Tự Tại vẽ Ha na Hật rị phạ Đại minh phi, thân như màu lửa, hình tướng Phẫn nộ, mũi cong, dùng rắn trang nghiêm làm vòng đeo nơi tay, nơi cổ, nơi đầu, tóc như hoa sen đang nhìn Luân vương. Gần đó vẽ Liên hoa Tôn na lị 4 tay, bên phải tay thứ nhất cầm quyển sách, tay thứ nhất trái cầm búa, bên trái tay thứ nhì cầm quả, tay thứ nhì bên phải thí nguyện, ngồi hoa sen. Lại gần Luân vương Phật đảnh vẽ Vô Năng Thắng Phẫn nộ vương thân màu trắng 4 mặt, 4 tay, mặt mày nhăn nhó giận dữ, dùng da cọp làm quần, mãng xà làm mâu đeo tai, Đức Xoa Ca Long Vương dây lưng, Hoa tô Chỉ Long vương làm thần tuyến, lòi áo nơi các khủyu, dùng rắn độc trang nghiêm nơi mão, thòng hai bên lửa cháy quanh thân. Tay thứ nhất bên phải cầm Kim Cang chuỳ, tay thứ hai cầm thí kỳ khắc ấn, tay thứ nhất bên trái cầm tam xoa, tay thứ nhì cầm búa, mặt chính dáng cười phát ra tiếng ha tra tra ha sa, từ nơi miệng phát ra đủ thứ lửa, mặt bên phải ngó Luân vương, mặt trái nhìn người trì tụng, mặt trên nhìn chúng hội, đứng trên toà sen báu. Vô Năng Thắng Phẫn Nộ vương y trên mà vẽ, ở dưới vị này vẽ Địa Thiên thân màu trắng, hai tay bưng bát đầy hoa, hai gối quì nơi đất. Gần Địa Thiên vẽ Ni Liên Thiền thần sông màu đen hình như Long Nữ, có bảy đầu, chắp tay lễ Phật. Gần Ni Liên thiền vẽ Phạ lị ca Đại Long vương, Mẫu Chỉ Lân Đà Long vương, hai Long Vuơng nầy từng thấy vô lượng chư Phật, có 7 đầu, chấp tay quì dưới đất. Gần Địa Thiên vẽ Bạt Nan Đà Long Vương, Vô Nhiệt Não Long vương, Sa Kiệt La Long vương cầm tràng hoa sen, cúi đầu chắp tay. Bên phải Bồ tát Đại Huệ vẽ Bạch y Quán tư Tại dùng các vòng hoa sen trang nghiêm nơi thân, dùng lụa báu quấn quanh nơi thân, tay phải cầm chân đa ma ni, tay trái thí nguyện, vị Bồ tát này là mẹ của Liên Hoa tộc, ngồi nơi toà sen. Gần Phật hào tướng vẽ Bồ tát Ma mộ Chỉ màu lửa xanh đỏ, dùng các anh lạc trang nghiêm, thân tướng minh tịnh, ngồi nơi toà sen, trụ nơi tự tánh bát nhã ba la mật đa, tay phải cầm phạm khiếp, tay trái cầm chân đa ma ni, thế ban cho. Đây là mẹ của tất cả các Phật, Bồ tát. Đại thánh Bát nhã ba la mật đa trụ ma mộ chỉ hình, vị nầy là mẹ của Kim Cang tộc làm hình đồng nữ, thân không cao quá, rất là vui vẻ. Lại vẽ các Kim Cang quyến thuộc thuộc Kim Cang Câu, Kim Cang quyền, Kim Cang bào, các vị nầy là Đại minh phi làm quyến thuộc. Ở gần phía dưới Bạch y Quán Tự Tại, vẽ Bồ tát Đa la các món trang nghiêm, mặc áo mỏng hình trung bình, tay phải cầm hoa sen xanh, tay trái thí nguyện, ngồi toà liên hoa, thân màu lục đậm. Gần Đa la tôn vẽ Tỳ Cu chi thân màu trắng có ba mắt bốn tay, bên phải tay thứ nhất cầm gậy, tay thứ nhì cầm xâu chuỗi, bên trái tay thứ nhất cầm bình, tay thứ nhì cầm hoa sen, thân đẹp đẽ, hai bên góc tượng vẽ các Thiên tử tấu âm nhạc. Ơ phía trên Phật vẽ Tịnh cư Thiên Tử nơi trong mây tung hoa cúng dường, lại y các phương vẽ Tứ Thiên vương. Đông phương vẽ Trì Quốc Thiên Vương, Nam phương Dạ ma Thiên, Tây Phương Thuỷ Thiên, Bắc phương Cu vĩ la Thiên. Bốn góc phụ: Đông bắc vẽ P xá la, Đông nam Hoả Thiên, Tây nam La sát Thiên, Tây bắc phong Thiên, y theo bổn hình mà vẽ. Gần Phẫn Nộ Vô Năng thắng ở phía dưới vẽ người trì tụng y bổn hình, quỳ gối tay bưng lư hương, nhìn ngắm Luân vương. Kim Cang Thủ! Luân vương Phật đảnh nghi quỷ vẽ tượng nầy, vô lượng chư Phật đã nói, nếu được thấy tất cả tội chướng đều tiêu trừ, nếu vẽ được đầy đủ đúng pháp, chúng sanh có duyên thấy được năm tội vô gián đều tiêu trừ, huống là các tội khác. Nếu thấy được tượng vi diệu nấy, chư Phật đã nói người nấy hiện đời chưa quả báo, tất cả các tội trong nhiều đời nhiều kiếp do thấy được tượng thẩy đều tiêu trừ. Do thấy tượng tối thắng nầy, tất cả Tất Địa đều được hiện tiền, tất cả Như Lai Đại minh chơn ngôn đều thành tựu, tuỳ ý niệm tụng mọi vieêc đều thành. Nơi các bộ chơn ngôn khó thành tựu, đối trước tượng nấy trì tụng quyết được thành tựu”.

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “ Bí mật Chủ! Ông hãy lắng nghe. Phép hoạ tượng Bạch tán cái Phật đảnh, hay thành biện tất cả sự nghiệp, lợi ích tất cả nơi luân hồi chúng sanh. Hằng hà sa cu chi Phật cũng đã nói ở trên, có thể ba khuỷu, không được dùng các keo da hoà màu sắc, hoạ sĩ phải thọ bát quan trai giới, nơi trung ương vẽ hình Phật màu vàng trắng, ngồi toà sư tử, đầy đủ hướng tốt; bên trái Phật vẽ Bồ tát Kim Cang Thủ, tay phải cầm phất trắng, tay trái cầm chuỳ Kim Cang; bên trái Kim Cang Thủ vẽ các Trời Tịnh cư mặc quấn áo trời, nơi trước Phật vẽ Phật Đảnh vương thân màu vàng, đầy đủ tướng tốt, tay cầm hoa sen. Phía dưới Phật vẽ người trì tụng tay bưng lư hương, nơi bốn bên vẽ các thứ hoa. Kim Cang Thủ! Đây là pháp hoạ tượng Bạch tán cái Phật đảnh”.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ rằng: “ Kim Cang Thủ phải lắng nghe! Cần phải chú ý, ta nay vì ông mà nói phép vẽ tượng Quang tụ Phật đảnh vương là trên hết trong các giáo pháp thế gian, xuất thế gian. Trước lấy nước hương ngâm vải, ba khuỷu hoặc một khuỷu, không được dùng keo da. Hoạ sĩ phải thọ bát quan trai giới, vẽ Phật ngồi toà sen trắng, tướng đang thuyết pháp, đủ các tướng tốt. Nơi phía trên Phật vẽ ngọn núi, phía dưới tượng vẽ ao sen, từ nơi đảnh Phật phóng ra các hào quang. Phía dưới Phật bên phải vẽ người trì tụng, hồ quì tay bưng lư hương như bổn hình. Bí mật chủ! Đây là Quang tụng Phật đảnh vương nghi quĩ, tất cả chư Phật đã nói, để điều phục tất cả hữu tình. Đây là Quang Tụ Phật đảnh vương thành tựu tất cả sự nghiệp pháp hoạ thượng tối thắng”.

Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí Mật Chủ rằng: “Nay ta sẽ nói pháp hoạ tượng của Cao Phật đảnh y như Luân vương nghi quĩ, trên vải ba hoặc một khuỷu, trừ bỏ lông tóc; hoạ sĩ thọ bát giới, sau đó mới hoạ vẽ Phật Thế tôn ngồi trên toà sen bảy báu, kết già phu đầy đủ các tướng tốt, tay phải thí nguyện, tay trái ngữa để dưới rún. Từ nơi đảnh Phật phóng ra các hào quang, hai bên góc tượng vẽ Tịnh Cư Thiên tử, bên phải vẽ người trì tụng nhìn ngắm Như Lai. Bí Mật Chủ! Đây là pháp hoạ tượng cao Phật Đảnh vương, tất cả Phật đã nói, tất cả Phật đã ngợi khen vì thương tưởng tất cả hữu tình mà nói”.

Bấy giờ Phật Thích Ca mâu Ni lại bảo Bí Mật Kim Cang Thủ rằng: “ Bí Mật chủ! Ta nay lại nói nghi quĩ hoạ tượng Thắng Phật đảnh vương, chư Phật đã ngợi khen, y Luân vương Phật đảnh nghi quĩ, dùng lụa ba hoặc một khuỷu bỏ lông tóc, hoạ sĩ vẽ thọ bát quan trai giới mà vẽ. Trước vẽ hình Phật màu vàng, ngồi toà sư tử, kết ấn thuyết pháp, đủ tướng tốt. Từ nơi đảnh Phật phóng ra các màu hào quang, dưới tượng vẽ người trì tụng y như bổn hình, hồ quì tay bưng lư hương đang nhìn ngắm Như Lai. Kim Cang Thủ! Đây là pháp vẽ tượng Thắng Phật Đảnh vương, tất cả Như Lai đã nói. Kim Cang Thủ! Như Lai và các Đại Bồ tát oai đức, các thân hình tuỳ ý mà vẽ, hoặc trên vải, trên lụa, trên giấy, trên da, trên tường cũng không có lỗi, hoặc tự vẽ, hoặc bảo người vẽ, theo bổn hình mà vẽ, hoặc vẽ hình Bồ tát hoặc vẽ chơn ngôn thánh thiện, cho đến vẽ trên trắp đựng kinh, trên vỏ cây hoa hoặc vẽ tượng Tối thắng lớn nhõ tuỳ ý, đều được không lỗi gì “. Bấy giờ Thế tôn lại nói kệ rằng:

Nếu có kẻ tu hành
Tối thắng chơn ngôn vương
Tắc là thành Bồ đề
Được địa vị không nghi
Là bất sanh bất diệt
Người trì Phật đảnh nầy
Oai đức không ai bằng
Sắc lực không nghĩ bàn
Ba đời không sánh kịp
Nếu các loại chúng sanh
Kẻ thành tựu Phật đảnh
Không có ai bằng được
Dầu là Thiên Đế Thích
Các trời có oai đức
Ở trong thế giới nầy
Dục giới các đại lực
Thấy người tu Phật đảnh
Không khởi lòng kính ngưỡng
Đầu bị bể bảy phần
Như nhánh cây A Lê
Tự Tại và Đế Thích
Thuỷ Thiên, Cu ma la
Dạ xoa đại oai đức
Gặp quang đều tiều tuỵ
Ngàn ánh sáng rực rỡ
Chiếu khắp cõi chư Thiên.
Tuỳ ý mà hoạ vẽ
Lợi ích các hữu tình
Không có sợ tội lỗi
Cho nên phải ân cần
Luôn làm việc xả thí
Nhẫn nhục và tinh tấn
Theo vậy mà tu tập
Nếu như không vẽ tượng
Giữ gìn các đại ấn
Kẻ trí khởi lòng từ
Thành tựu cần suy nghĩ
Vì nhiếp thọ hữu tình
Thường có lòng từ bi
Cùng giữ gìn tịnh giới
Thiền định với bát nhã
Được tất địa không khó
Cần trụ tâm Bồ đề
Được tối thượng thành tựu.

Bấy giờ Bí Mật chủ Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: “ Bạch Thế tôn, cúi mong Thế tôn vì người tu hành cầu thành tựu, nói sơ pháp tu tập Phật đảnh Luân vương chơn ngôn, oai đức công hạnh xí thạnh phương tiện, ở nơi Thế tôn cầu Tất địa, do trụ Như Lai Phật Đảnh vương chơn ngôn, tất cả các chơn ngôn đều mau chóng thành tựu.

Phật bảo: “ Lành thay! Lành thay Bí mật chủ! Ông hay hỏi nghĩa như vậy, ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói chư Phật làm các phương tiện, pháp cú, dà dà, đây là pháp nhãn rất vi diệu, vô lượng Phật đã tu tập, vì thành tựu các lợi ích”. Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni xem khắp đại chúng dùng tiếng Phạm âm mà nói pháp lý thú dà dà ở trong các pháp nhãn là tối thắng, kệ rằng:

Tự hành vô lượng Bồ đề
Bị trăm ngàn khổ làm bức não
Vì các hữu tình bị bức não
Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra
Nếu người chí tâm tu pháp nầy
Thành Phật được thọ trời, người cúng
Do tu một pháp thành Đại giác
Chơn ngôn oai đức mọi người khen
Người nầy không lâu chứng Bồ đề
Rộng độ vô lượng các quần sanh.
Nơi tháp lớn vắng lặng
Suối rừng và hồ ao
Đại thọ hoặc trong hang
Nơi núi nhiều hoa lá
Một mình tâm kiên cố
Tâm Bồ đề nhớ luôn
Pháp giải thoát Đại thừa
Trong sạch gắn tu hành
Giữ gìn thân, khẩu, ý
Ăn uống trong 4 cách
Hành giả cần phải biết
Chơn ngôn nầy tối tôn
Được tam ma địa minh
Sanh ra các Tất địa
Dùng chơn ngôn và minh
Tuỳ ý mà tu hành
Cần mặc hai loại áo
giữ gìn không sai xót
Tất địa được không khó
Người nấy quyết định được
Trước phải lễ chư Phật
Kẻ trí phải vững bền
Người tu hành không bạn
Vì lợi ích hữu tình
Được thành tựu không khó
Hiện sắc không nghĩ bàn
Đời này được thành tựu
Người quyết cầu Tất địa
Cần nên tạo các tháp
Cần hộ ma niệm tụng
Tức ngay nơi đời nầy
Mau chóng được thành tựu
Chín chắn suy nghĩ kỹ
Mạnh mẽ bền lòng chắc
Lợi ích tâm chơn thật
Người nầy thật đáng khen
Các căn được đầy đủ
Trí tuệ luôn sáng tỏ
Hay nhẫn nơi đói khát
Người nấy đáng nên khen
Kẻ muốn cầu thành tựu
Nếu được pháp yếu nầy
Sẽ không còn bao lâu
Được tối thượng Tất địa.

Kim Cang Thủ! Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp các hạng Ưu bà tắc, Ưu bà di ngu si bị các người xuất gia mê mờ nói làm các việc vô ích, tham đắm mùi đời không có nhàm chán, ần gũi tiểu nhân, không hiểu Như Lai tam ma địa nơi lý thú đại thừa sâu rộng, không dõng mãnh tinh tấn, các thiện xảo, luật nghi Bồ tát hạnh, không được quán đảnh, không tin Phật, Bồ tát có tam muội rộng lớn, không được thành tựu, tức sanh phỉ báng ta và các Bồ tát mà nói rằng: “ Đây la ma nói không phải Phật nói, làm nhục các Bồ tát. Nếu trụ đại thừa, Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn, người muốn cầu thành tựu chơn ngôn, làm các việc tổn hại không có ích, do nhân duyên nầy chứa nhóm vô lượng tội chướng. Do đó Kim Cang Thủ! Nếu có Thiện nam tử Thiện nữ nhơn muốn tu hạnh Bồ tát, cần sanh lòng tin trong sạch kiên cố, quyết định nơi các Bồ tát, dùng nguyện rộng lớn ngày đêm viết chép kinh điển đại thừa, thọ trì đọc tụng vì người mà giải nói”.

Lại nói kệ rằng:

Y nơi kinh quí báu
Tu hành ta  khen ngợi
Do bởi công hạnh nầy
Bổn tôn mau hiện tiền
Để được thành chơn ngôn
Tự thân phải siêng năng
Dùng thí, giới, nhẫn nhục
Và Định, trí huệ vậy
Chuyên chú quyết một lòng
Mau được thành Bổn tôn.

 

Phẩm thứ Năm: Nghi Quĩ

Bấy giờ Kim Cang Thủ lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế tôn! Người tu hành Phật đảnh chơn ngôn trụ nơi nghi quĩ thanh tịnh quán tưởng Bổn tôn như thế nào? Cúi xin Thế tôn nói cho, để mau được thành tựu các Tất địa của Phật đảnh”.

Phật bảo: “Đúng vậy Kim Cang! Ông hãy lắng nghe vì lợi ích các hữu tình mà nói, trong các pháp chơn ngôn dạy ba thời cần phải thanh tịnh như nghi quĩ, không có sai, thường quán Phật tam ma địa không có tán loạn, không tham đắm, phiền não, luôn luôn tưởng Phật, dùng tam ma địa duyên khắp các hữu tình ba thời tắm rửa sạch sẽ, y pháp sái rãi. Người trí tuệ mạnh mẽ không nên làm hại sanh mạng, mặc áo trong xong, dùng chơn ngôn mà hộ thân:

-Úm ma ma hồng nặc.

Nếu dùng đất thì không được dùng đất có trùng, dùng đất sạch sẽ có mùi thơm, không quá đen, quá vàng, quá đỏ, đây là pháp dùng đất thành tựu. Nếu làm pháp quá điều phục dùng đất đen, hoặc đỏ; nếu làm pháp tăng ích dùng đất vàng; tiêu trừ tai hoạ và các tội chứng dùng đất màu trắng, nếu cầu ra nhạ dùng đất không trắng không đen; nếu cầu pháp kính ái dùng đất vàng đỏ; như vậy kẻ trí y trên mà dung, trước dùng, chơn ngôn gia trì nơi đất.

-Úm na ra hồng.

Dùng thổ chơn ngôn nầy
Khiến các pháp thành tựu
Lại dùng hà chơn ngôn
Gia trì nơi nước sông.

-Úm nhập phạ la hồng.

Chơn ngôn gia trị nầy
Tất cả chỗ đều dùng
Chia đất thành ba đống
Để nơi chỗ thanh tịnh
Đất phải xa các chỗ
Hôi hám và nhơ bẩn
Chỗ người nữ tụ tập
Chỗ con nít giỡn chơi
Chỗ trâu bò lui tới
Chỗ mọi loài đông đảo
Nơi các chỗ như thế
Hành giả chớ tắm rửa
Nơi nước đọng, ngăn trở
Và có mùi dơ uế
Người trí cần phải xa
Nên tìm sông sạch sẽ
Nước trong trẻo mát mẽ
Không có các bùn đất
Lại ở bên bờ sông
Có các loại cây cối
Nơi đó nên tắm gội
Nước nầy đáng nên dùng
Lại các chỗ như trên
Không có các trùng loại
Có các hoa trang nghiêm
Hành giả nên tắm rửa
Sau lại dùng chơn ngôn
Gia trì nơi đất sạch.

-Úm bát lao nhập phạ la hồng.

Lại nên phải hoàn giáp
Ngón cái để nơi tâm
Chơn ngôn tụng bảy biến

* Bị giáp chơn ngôn:

-Úm nhập phạ la đế nhạ hồng.

Do dùng bị giáp minh
Người tu hành ứng dụng
Tức ở khắp cả thân
Được thành đại gia hộ.

*Bị thân giáp chơn ngôn:

– Úm nhập phạ la, bạt ra hắc ra na hồng

Gọi là thân giáp bị
Kẻ trí cần nên làm
Tưởng ấn vào trong nước
Từ trên cho đến dưới
Chướng Tỳ na dạ ca
Các ác trùng trong nước
Do sức gia trì nấy
Đều không thể làm hại.
-Úm tra hê mãn đà sa phạ ha.
Biện sự chơn ngôn nầy
Là tâm của Phật đảnh
Do nhớ niệm chơn ngôn
Các chướng ở trong nước
Nếu muốn lại phá hoại
Miệng đều bị cấm bế
Dùng để hộ nơi đất
Chia đất thành ba phần
Dùng để làm sạch sẽ
Từ chân cho đến eo
Dùng đất chà cho sạch
Hết mùi hôi bụi bặm
Chư Phật dạy sạch sẽ
Lại dùng phần thứ hai
Từ eo cho đến cổ
Thứ ba chà trên đầu
Dùng đất chà cho sạch
Đất phải không có trùng
Trước cần phải chia ba
Sau đó mới cọ rửa
Dùng biện sự chơn ngôn
Đem gia trì nơi nước
Tụng ba biến rãi đảnh
Khiến cho được sạch sẽ
Tắm gội sạch sẽ xong
Không được ngồi nói chuyện
Lại dùng Phật hào tướng
Tồi hoại Phật đảnh minh
Để gia hộ khắp cả
Dùng Phật nhãn chơn ngôn
Phổ thông cho Phật bộ
Trợ giúp các Phật đảnh
Thành tựu mạn đà la
Lại kết giới các phương
Ủng hộ nơi đồng bạn
Có thể dùng Phật đảnh
Và thành biện tất cả
Nước không trùng vẫy khắp
Tụng một biến chơn ngôn.

*Thanh tịnh chơn ngôn:

-Nam mô tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. Um thú điện nổ thủ đà nẵng da sa phạ ha.

Đây là chú tẩy sái
Dùng cho Như Lai bộ
Đến khi tụng niệm thời
Chuyên chú không tán loạn
Nên nhìn nơi trước mặt
Cách mắt khoảng ba thước
Tâm thương xót tương ưng
Và có huệ đầu đủ
Lúc khi đang niệm tụng
Nên mặc áo quần sạch
Nô cu la sô ma
Và dùng dà ma y
Kẻ trí khi niệm tụng
Đều y theo nghi quĩ
Cần tụng tịnh chơn ngôn
Và đọc biện sự minh
Gia trì nơi toà cỏ
Rồi để nơi trước Phật
Lại tụng niệm Bổn tôn
Khai thỉnh các Hiền Thánh
Chơn ngôn ấn tương ưng
Quán tưởng hình Bổn tôn
Kiết Liên hoa bộ ấn
Dùng toà mà hiến dâng
Chư Phật hộ an lành
Chân Phật sạch sẽ đẹp
Toà hoa sen Bồ tát
Là toà đáng ngợi khen
Người tu chơn ngôn nầy
Không nên ngồi sàng cao
Quán tưởng thân Bổn tôn
Cầm chuỗi mà niệm tụng

*Xuyên châu chơn ngôn:

-Úm a nạp bộ đế vi nhạ duệ Tất địa tất đà ra để sa phạ ha.

Xâu chuỗi hạt Bồ đề
Nhất định được thành tựu
Thượng, trung, hạ Tất địa
Dùng cho các chơn ngôn
Vàng bạc làm hạt châu
Dùng cho việc tăng ích
Thạnh tịnh bạt để ca
Thành tựu tất cả nghĩa
Dùng đồng tử xỏ hạt
Thảy đều y nghi quĩ
Rồi dùng tự mật ngôn
Như vậy mà gia trì

*Gia trì châu chơn ngôn:

-Nẵng mồ bà nga pha để Tất địa sa đà dã sa đà dã tất đà ra để sa phạ ha.

Nên dùng chơn ngôn nầy
Gia trì nơi xâu chuỗi
Cần tụng đủ bảy biến
Cầm nơi lòng bàn tay
Ngồi nơi toà cỏ tranh
Cầu thành mọi sự việc
Cây mật phạ cát tường
Bạch đàn với Thiên mộc
Các thứ cây như vậy
Niệm châu được tăng ích
Khi niệm tụng hộ ma
Nên dùng loại châu nầy
Lấy cây khư đà la
Và mạt độ cu na
Dùng cây nầy làm châu
Để làm pháp điều phục
Lại dùng thứ cây nầy
Làm giường nằm toà ngồi
Như không có cây nầy
Lấy lá không có trùng
Dùng trải ngồi nằm được
Lại nơi ngồi quán đảnh
Lấy tro cù ma di
Trộn nước dùng sái tịnh
Y pháp trì chơn ngôn
Nếu mà không thành tựu
Cộng thêm đảnh Luân vương
Trì tụng tức thành tựu
Đọc thêm Tâm, Tuỳ tâm
Cùng nhau mà đọc tụng
Như vậy mà không thành
Đọc thêm chú Phật nhãn
Hợp lại mà tụng đó
Thế tôn Phật nhãn minh
Tất cả Phật đã nói
Chư Phật đời trước khen
Nay ta cũng như thế
Người cầu thành Phật đảnh
Nên như vậy tụng trì
Chung nhau mà đọc tụng
Không lâu tức thành tựu
Dầu phạm tội vô gián
Không lâu cũng thành tựu
Nếu như không hoạ tượng
Vận tâm mà quán tưởng
Chư Phật đều ngợi khen
Lại kết lẽ Phật ấn.

*Quán tưởng tụng chơn ngôn:

-Nẵng mồ ra đát nẵng đát ra dạ a tả ra vĩ lệ sa phạ ha.

Lại kết Đại ấn, tưởng trên ấn có vô lượng các báu, các báu thành ra núi, trên núi tưởng bảy báu thành hoa sen hoa có trăm ngàn cánh, gương sen to lớn trên gương có lầu các, trong lầu các có Phật ngồi như chơn ngôn hình trong pháp hoạ tượng có nói. Thế tôn ngồi kiết già phu kết Ấn thuyết pháp, đầy đủ các tướng Trượng phu trang nghiêm nơi thân: xung quanh có hào quang, tất cả đều như trong pháp hoạ tượng. Lại tưởng nơi trên gác của lầu các có bánh xe có vô lượng các báu che trên, tuỳ ý tưởng lớn ra 1 do tuần,  trăm do tuần hoặc ngàn do tuần, chuyên chú quán tưởng, không được tán loạn, tâm để nơi Bổn tôn cầu giá trì, thành tựu.

Dùng Vô Cấu Hải chơn ngôn gia trì, Đại hải chơn ngôn rằng:

-Úm vĩ ma lô nại địa hồng.

Dùng Sơn chơn ngôn gia trì nơi núi, Sơn chơn ngôn:

-Úm a tả la hồng.

Dùng Liên hoa chơn ngôn gia trì hoa sen, Liên hoa chơn ngôn:

-Úm hồng ca ma la sa phạ ha.

Dùng Nhất thiết Bảo lầu Các chơn ngôn, Lầu các chơn ngôn :

-Nẵng mồ tát phạ dát tha nghiệt đa mẫm tát phạ tha khiếm ôn nhạ nghiệt đế tát phả ra nhất hàm nga nga năng kiếm sa phạ ha.

Lại thỉnh Phật Thế tôn, tụng chơn ngôn tưởng Thế tôn từ Trời Đao lợi giáng lâm đến đạo tràng, tức dâng ứ già.

Đã dùng thần thông đến,
Xin thọ con cúng dường.

Sau đó dùng Lục tự Phật đảnh kết giới phương trên, tưởng tắm rửa Như Lai, Bổn tôn và ba bộ chủ, lại hiến hương xoa, hương, hoa, y phục, ẩm thực. Nếu như không có đầy đủ các món cúng dường, trong tâm quán tưởng mà dâng hiến, như vậy nghi quĩ cúng dường đã xong. Lại sám hối, tuỳ hỷ, khuyến thỉnh, hồi hướng, phát nguyện đều nên làm, sau đó để tâm nơi chót mũi một lòng tụng niệm cho đến hết chỗ niệm tụng biến số xong, lại hiến hương hoa, hương đốt, đèn sáng, đồ ăn uống cúng dường, lại dâng ứ già lương tiển đưa Bổn tôn ra cửa phía Đông, lễ tất cả chư Phật, Bồ tát rồi đứng dậy. Ngày tu ba thời, vì người không hoạ tượng mà nói nghi quĩ nầy.

 

Phần thứ Sáu: Phân Biệt Tướng Bí Mật

Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni lại bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “Kim Cang Thủ! Ông hãy nghe. Đây là Phật đảnh Luân vương tu hành chơn ngôn thành tựu tất cả Như Lai đã nói, muốn thành tựu Phật đảnh dùng bất hoại dà đà câu (kệ). Kim Cang Thủ! Ta nay nói lược các việc thành tựu trước sau, tức nói kệ:

Nơi thánh chúng tụ tập
Chỗ đó là linh địa,
Tịnh thất và Phật đường
Nhà trống và hang hóc
Cây lớn hoặc thi lâm
Núi rừng và sơn cốc
Niệm tụng đựơc thành tựu
Tâm luôn nghĩ Bổn tôn
Không thanh tịnh khiến tịnh
Biến mọi thứ thanh tịnh
Nơi thanh tịnh thành tựu
Dùng hai loại, hai thứ
Được gọi là thành tựu
Tu tất cả Tất địa
Uống ăn có chừng mực
Không quá no quá đói
Uống ăn vừa đủ thôi
Ngon ngọt và nồng béo
Nên bỏ chớ nên tham
Các hữu tình tham lam
Vì đắm say mùi vị
Do tham niệm hộ ma
Không được sanh nhất tám
Đầu hôm cho đến khuya
Trong đêm cần yên tịnh
Ngồi nơi toà cỏ tranh
Tất cả như nghi quĩ
Chơn ngôn ấn tương ứng
Nằm ngủ như sư tử
Tư thế thật mạnh mẽ
Hướng Đông và hướng Nam
Xuôi tay mà nằm ngủ
Tức, Tăng phép hộ ma
Theo hướng Đông và Nam
Đùi trái để trên phải
Tay chân đều y vậy
Xếp chân sau đó an
Ít phần dùng trang nghiêm
Đầu hướng về phía Tây
Mặt ngó qua hướng Nam
Lại cũng cần hộ thân
Và hàng phục như nhau
Dùng củi cây bạch đàn
Kiết tường ni câu đà
Và cây Ưu đàm bát
Các thứ loại cây trên
Đây là tướng thành tựu
Chim ca lăng tần già
Uyên ương và bạch hạc
Khổng tước, các chim lành
Trong mộng nếu được thấy
Các tướng trạng như vậy
Không lâu được Tất địa
Nếu trong mộng thấy máu
Đây là tướng thành tựu
Lại như thấy trong mộng
Tràng phan xen lẫn nhau
Đèn sáng nơi lầu cao
Che chở và đi chơi
Đây là tướng thành tựu
Hoặc thấy cởi thuyển bè
Tay cầm các nhạc khí
Hay thấy tháp nhiều tầng
Đều là các mộng tốt
Là tướng sắp thành tựu
Nếu như ở trong mộng
Thấy chó, chiên đà la
Và đĩa bu quanh mình
Đều là tướng không tốt
Lừa ngựa và xe cộ
Nếu thấy và chạm xúc
Thì không được thành tựu
Như vậy các mộng tướng
Tốt và có không tốt
Đây là hai loại mộng
Cầu thành tựu nên biết
Phải làm pháp hộ  ma
Đốt cánh mễ, dầu mè
Sẽ thoát các ma chướng
Tức thấy được Bổn tôn
Lại thường được kỉnh giá
Thánh giả sẽ hiện thân
Đầu đủ nơi trước mặt
Lại thiêu đốt tô, mật
Tức thấy mọi sự thật
Bỏ ăn là sự thật
Nơi đạo là chơn thật
Nếu nghi nơi Bổn tôn
Thì nơi đêm nằm ngủ
Nguyện cầu xin hiện thân
Nếu hiện tướng trượng phu
Hoặc thấy người đàn bà
Hay sanh tâm tham đắm
Cũng đừng cho tán loạn
Khi ngủ phải gia trì
Niệm tung không suy nghĩ
Các tiền bạc của báu
Hiện tại và vị lai
Thận trọng chớ nghĩ đến
Không thành pháp niệm tụng
Nếu như tâm loạn động
Quán nghĩa lý chơn ngôn
Nơi định làm niệm tụng
Tâm nếu khởi tham nhiễm
Nên quán pháp bất tịnh
Nếu tâm khởi giận dữ
Nên dùng quán từ bi
Nếu ngu si phát sanh
Các loại trong tâm khởi
Cần phải chuyên chú tâm
Một lòng mà niệm tụng
Quán tưởng rõ Bổn tôn
Nếu chưa nhập luân đàn
Dâng các loại hương hoa
Bị các ma ăn mất
Do không đúng nghi quĩ
Và không hiểu rõ ràng
Không gần A Xà Lê
Các ma nương theo đó
Như bóng đeo theo hình
Sức niệm tụng bị mất
Các ma ăn hương hoa
Niệm tụng và hộ ma
Bổn tôn không thọ được
Đây chơn ngôn chủ tể
Thành tựu Đảnh Luân vương
Nên dùng mà giá trị
Hộ ma làm các việc
Không có các chướng ngại
Thành tựu được Luân vương
Do đây được gia hộ
Thành tựu khắp mọi nơi
Lại tụng Vô Năng Thắng
Dùng gia trì tư thân
Chơn ngôn của Bồ tát
Là quyến thuộc Luân vương
Cần dùng để gia hộ
Chơn ngôn thành tựu thời
Niệm tụng hộ ma đủ
Trước phải nên hộ thân
Nếu không làm như vậy
Tất địa tức không thành
Hư không các Dạ xoa
Quỉ thần, các la sát
Cùng nhau đến phá hoại
Khiến sanh tâm nghi ngờ
Các hoa vĩ nổ phạ
Át ca độ độ ma
Thẩy đều không nên dùng
Tất cả Phật đảnh bộ
Khen tán hoa xà đề
Sen xanh Câu vật đầu
Liên hoa duệ thể hoa
và các loại hoa khác
hương thơm và sạch sẽ
Nếu biết Phật đảnh minh
Thường nên dùng cúng dường
Nếu tu không thành tựu
Hai ba lần tác pháp
Cho đến được bảy lần
Như vậy tức được thành
Lại vào sông biển lớn
Mà làm ấn tháp pháp
Hoặc một,hai, ba, bốn,
Tuỳ sức mà làm đó
Niệm tụng và ấn pháp
Cung kính và khen ngợi
Xưng tụng các diệu điển
Số số phải đầy đủ
Tháp mãn ba lạc xoa
Các tội đời trước diệt
Dùng các hoa thật thơm
Hương đốt và hương xoa
Cúng dường Xuất đổ ba (tháp)
Trước mỗi tháp như vậy
Dùng chơn ngôn gia trì
Mỗi mỗi xuất đổ ba
Tụng ngàn tám chục biến
Nếu chơn ngôn không thành
Do tội còn chưa tiêu
Nên làm đàn một khuỷu
Một ngàn xuất đổ ba
Dầu tạo ngũ vô gián
Cũng nhất định thành tựu
Do niệm tụng tiêu tội
Huống chi nữa làm tháp
Nơi trong sông biển lớn
Hiến mười vạn liên hoa
Sau khi đầy đủ số
Mau chóng được thành tựu
Nơi sông biển lớn kia
Đâu cần phải hạn lượng
Thành tựu chậm hay mau
Đều là do nơi thân
Thành tựu được chân ngôn
Do phước hoặc vô phước
Nếu như nhiều phước đức
Không bao lâu thì sẽ
Mau chóng được Tất địa
Nên tạo xuất đổ ba
Tất địa là căn bản
Cần phải nên tinh tấn
Được thành tựu bền chắc
Chơn ngôn nơi trong kinh
Không trừ các loại độc
Nghĩa lý thấy như vậy
Cần gắng công niệm tụng
Nên vì cha, mẹ, thầy
Thọ khổ các chúng sanh
Một phần đức niệm tụng
Vì kia mà hồi hướng
Vì tiêu trừ tội chướng
Cần phải thường lạy Phật
Do lạy Phật niệm tụng
Mau chóng được thành tựu
Lễ Phật được quả báo
Phước đức thật không lường
Biết vậy nên qui mạng
Cố gắng cung kính lễ
Sau mau thành Tất địa
ở trong đời mạt pháp
Chơn ngôn không thành tựu
Do đó Thích Ca ta
Nói đệ tử oai đức
Đời sau được giải thoát
Cần xa tâm nghi ngờ
Luôn luôn phải tinh tấn
Tu trì các Tất địa
Không lâu được thành tựu
Người đầy đủ phước đức
Mau chóng được Tất địa
Phần nhiều là ít phước
Nên thành tựu chậm trễ
Nếu bi trí tương ưng
Mau được thắng Tất địa
Nếu không có lưu ly
Nên dùng pha lê đỏ
Trì Phật đảnh chơn ngôn
Được bất khả tư nghi
Nên dùng dầu thanh tịnh
Dâng hiến cho Bổn tôn
Chia ra làm ba phần
Vì thương xót hữu tình
Trước tiên lấy một phần
Để cúng dường Bổn tôn
Còn lại một phần nữa
Đem cho người qua lại
Phần cuối tự mình ăn
Phần cúng Bổn tôn xong
Nên đem ra bố thí
Nếu không có khách đến
Đem thí cho chim chóc
Các phần chia đã xong
Đem thí cho hết đã
Vì để nuôi thân mạng
Ban phát đầy đủ xong
Xây hướng Nam mà ăn
Đây là pháp điều phục
Không nên xây về Tây
Thường làm việc điều phục
Đông Bắc là Tức, Tăng
Thành tựu các Phật đảnh
Mặt nên xây về Đông
Nên khởi lòng thương xót
Ba thời nên suy nghĩ
Ở nơi biển sanh tử
Ta nay cần cứu độ
Tâm đại bi tương ưng
Xuất gia và tại gia
Cho đến các Phạm Chí
Đều phải khởi lòng từ
Niệm tụng và du hành
Cần phải luôn cẩn thận
Và phải luôn kính lễ
Các tháp miếu thờ Phật
Các chơn ngôn khó thành
Nên đọc tụng mọi lúc
Siêng tu tam ma địa
Người nầy được tự tại
Điều phục được tất cả
Thị hiện tất cả sắc
Do đó cần nên làm
Niệm tụng và hộ ma
Tắm gội và sái tịnh
Như ở trên đã nói
Sau đó lại hộ thân
Hạt cải tro kiết giới
Dùng Biện sự chơn ngôn
Hoặc dùng Tồi hoại đảnh
Gia trì dây và then
Cột đóng nơi bốn góc
Xong rồi lại cúng dường
Và ân cần mời thỉnh
Tất cả các Thánh chúng.
Lư hộ ma tụng niệm
Đem đặt ở nơi toà
Đây là nhơn thành tựu
Dùng phân trâu trộn đất
Để tô đắp Đàn tràng
Sắp đặt các cúng dường
Trước là các Như Lai
Y nghi quỉ dâng hiến
Lại bên Luân Vương Đảnh
Tuần tự mà cúng dường
Lại đến Quán Tự Tại
Cùng với các quyến thuộc
Lại đến Kim Cang Thủ
Dâng cúng như cúng Phật
Tất cả các hương hoa
Đều y theo các bộ
Hết thảy đủ ba bộ
Đều phải nên cúng dường
Do đây làm kỉnh giác
Tất cả trời hộ đời
Người ngu dầu cố nói
Mọi người tu chơn ngôn
Tất cả đều là vọng
Nếu không nói nghi quỉ
Bị đoạ vì phỉ báng
Dầu mè, hạt cải trắng
Nên dung để hộ ma
Hay thành việc kính ái
Đốt dầu mè, cánh mễ
Hay thành việc tăng ích
Độc dược, cây có độc
Trộn chung mà hộ ma
Kẻ làm hại Phật Pháp
Thảy đều bị tiêu trừ
Lấy cây Vĩ nổ phạ
Vô ưu các lá trắng
Và dung bạch sâm mộc
Hộ ma thành tăng ích
Dùng các cây như vậy
Ni câu đà, Ưu đàm
Cây a thuyết có nhựa
Các cây hoạt nhi tử
Nếu làm pháp tức tai
Thì dùng các cây nầy
Lại lấy khư đà la
Ca la ca mộc đốt
Cây ca la vỉ la
Như vậy các loại nầy
Dùng điều phục, tăng ích
Mặt xây về phương nam
Kêu tên mà thiêu đó
Ý tưởng, miệng đọc tên
Để làm pháp điều phục
Mặt xây về hướng Bắc
Ở trong câu chơn ngôn
Thêm chữ sa phạ ha
Là làm pháp tức tai
Nên tu các Phật đảnh
Ngồi xây mặt hướng Đông
Hộ ma làm tăng ích
Ngồi kiết già Tức tai
Ngồi kiết tuờng Tăng ích
Ngồi tôn cư Điều phục
Trừ hại làm Hộ ma
Gọi là pháp Điều phục
Ngăn dứt các chướng nạn
Gọi là pháp Tức tai
Cầu mọi việc tùy ý
Gọi là pháp Tăng ích
Như vậy tất cả chỗ
Suy nghĩ mà tu hành
Kẻ ganh ghét Phật Pháp
Khiến phải bị xa lìa
Đây là pháp tương tắng
Người tu hành thanh tịnh
Không để tóc, móng dài
Các chỗ ở như vậy
Không thể thành Tất điạ
Không ở nơi người nữ
Chỗ có nhiều gió độc
Các chỗ ở như vậy
Không thể cầu thành tựu
Chỗ ở nếu tốt đẹp
Niệm tụng làm hộ ma
Thánh chúng đêu vui vẽ
Do làm việc hộ ma
Thành tựu các sự nghiệp
Như vua không đủ tướng
Không thể làm vua được
Tùy theo sức mà làm
Niệm tụng và hộ ma
Kẻ hạ liệt tu hành
Quả báo cũng hạ liệt
Nếu cầu độc, đao, tượng
Không thể nào ban cho
Chỉ trừ pháp Kính Ái
Vì để hộ thân mạng
Vì để trừ phiền não
Như vậy các nhân duyên
Đều không thể cho được
Người tu hành thanh tịnh
Bị chạm xúc dơ dáy
Cần phải nên tắm rữa
Tâm tụng, kết Ấn khế
Tất cả các tham đắm
Đều dung chơn ngôn tịnh
Kẻ tại gia tu hành
Để tóc không có lỗi
Khi niệm tụng hộ ma
Nếu có chỗ nghi ngờ
Bị các việc lôi cuốn
Giờ giấc không nhất định
Khi cúng dường Thánh chúng
Trong than nhiều cáu bẩn
Trên đầu rận chí sanh
Sanh ra các tội lỗi
Không nhìn mặt trời lên
Khi nhật thực không nhìn
Không được nhìn nguyệt thực
Không kính trọng tôn sư
Lúc cúng dường Thánh chúng
Không tưởng việc an lạc
Không được sạch sẽ than
Do đó, kẻ tu hành
Phải thường ở trong định
Khi trong nước đói kém
Hoặc khi có chiến tranh
Quốc chủ không hoà thuận
Không thể cầu Tất địa
Chư Thánh đã bỏ đi
Chõ quỉ thần, Dạ xoa
Nơi Long thần não loạn
Nơi nghĩa địa xấu dơ
Nơi xe cộ đông đúc
Nơi nhiều rắn rít ở
Hoặc là chỗ hạn hán
Tụng chú và kết Ấn
Thảy đều được thanh tịnh
Các loại quĩ thần dơ
Dạ xoa, quĩ khởi thi
Và La sát thành tựu
Trên giữa nơi làm Pháp
Kẻ trí không nên nghi
Nơi suối song sạch sẽ
Tắm rữa nước Chánh pháp
Dùng huệ mà syư nghĩ
Niệm tụng đều nên làm
Đều nên ngồi kiết già
Các việc giúp lẫn nhau
Nếu khi muốn đứng dậy
Đều cần phải tắm rữa
Hoặc dung tâm trong sạch
Mọi việc thành tốt đẹp.

 

QUYỂN THỨ BA

Phần thứ Bảy : Mạt Pháp thành Tựu 

Lúc bấy giờ Thế Tôn lại vì lợi ích nói các việc thành tựu, mà nói kệ rằng:

Ở trong đời mạt thế
Hũu tình ít trí tuệ
Vì họ làm lợi ích
Thành tựu Tất địa nhỏ
Tu theo nghi tắc nầy
Quyết định được thành tựu
Không cần giờ, sao, ngày
Không lựa chỗ tốt xấu
Cần nên thỉnh Bổn tôn
Mà cầu các Tất địa
Và câu triệu các vị
Hoặc dung sáu thời phần
Như vậy mà gia trì
Lại nói tướng niệm tụng
Trong lúc trì tụng thời
Cần cầu được gia hộ
Các loại tinh khí quĩ
Ăn trộm vật thành tựu
Vào nõa chỉ nễ quĩ
Trộm vật không nghỉ bàn
Cho nên lúc trì tụng
Tất cả đều phải làm
Mất vật được trở lại
Lấy bất hoại nhiếp phạ
Tốt đẹp không nhĩ bàn
Xem xét cho thật kỹ
Mề,m mại và sạch sẽ
Trừ bỏ các gân xương
Người tu hành y pháp
Cần nên thí tám phương
Ở nơi thi đà lâm
Chỗ ở quỉ La sát
Hành giả nên nơi đó
Dùng bông luá hộ ma
Tức mau được thần nghiệm
Ngã tư, gốc cây lớn
Núi non, chỗ đáng sợ
Lớn tiếng mà kêu rằng
Thi lâm ha mãn sa
Chúng quỉ đều vui vẽ
Cầu nguyện đều ban cho
Được thành pháp ẩn thân
Đồ vật và nhãn dược
Hùng hoàng, các loại khác
Được thành tựu phật đảnh

Bấy giờ Thích Ca Mâu Ni Phật xem các hữu tình đời mạt pháp, nói Pháp thành tựu mau chóng, lại nòi kệ rằng:

Tức lấy thứ nhiếp phạ
Như trước chưa hư rã
Được thành mê đát ra
Bên biển song, cây lớn
Cầu Thi trà thành tựu
Tẩy rữa cho sạch sẽ
Dùng hương hoa nghiêm sức
Và các Chơn ngôn minh
Hoặc dung Đảnh Luân vương
Để mà gia hộ đó
Cầu được việc như vậy
Nếu không được như thế
Bị ma phá không sai
Cần phải y nghi quĩ
Tìm lấy bạn hữu tốt
Hành giả ngồi nơi tim
Kết ấn đánh nơi đầu
Miệng tụng chơn ngôn vuơng
Không kể nhiều hay ít
Xác kia tức đứng dậy
Tên gọi khởi thi pháp
Nếu vào nơi trong nước
Từ sáng cho đến tối
Kết Ấn tụng chơn ngôn
Thành an đát đà na
Nên lấy nhơn mãn sa
Để làm pháp hộ ma
Y pháp cầu thành tựu
Kẻ trí không tán loạn
Mãn sa làm đát ra
Cầu gì đều thành tựu
Chư Phật đã nói ra
Kẻ tham lam nữ sắc
Đám nhiễm các hữu tình
Giới phẩm không đầy đủ
Như vậy các chúng sanh
Quy y nơi Tam bảo
Để trừ sạch tội lỗi
Phải cần nên suy nghĩ
Tùy sức mà tu hành
Hành giả cần phải biết
Nên phát Bồ đề tâm
Luôn luôn phải tu tập
Lâu ngày sẽ thành tựu
Hành giả lại không nên
Ăn các món xanh đen
Không ham mê ăn uống
Không ngồi nằm giường cao
Không ăn món quá cứng
Cũng không nên nuốt trọng
Ăn uống lương nhiều ít
Lớn như trứng chim sẻ
Theo nghi quĩ mà ăn
Như vậy mới là đúng
Hành giả lúc đương ăn
Cần yên lặng niệm tụng
Nên dùng lời nói dâng
Hiến các đồ ăn uống
Nên ở nơi thân dâng
Mà làm pháp hộ ma
Nên dùng tâm dâng hiến
Được Tất địa thành Phật
Nếu không được như vậy
Chơn ngôn không thành tựu
Người tu hành chơn ngôn
Hiến dâng và phụng thỉnh
Đang khi tụng chơn ngôn
Không được cùng người ăn
Cho đến chí thân tộc
Cũng không được cùng ăn
Y phục và ngoạ cụ
Các đồ dùng bằng đồng
Dùng tro chùi rữa sạch
Mới dung đựng thức ăn
Nơi trong nước niệm tụng
Đều như nghi quĩ dạy
Lại không được cùng người
Cùng ở chung một chỗ
Lẫn lộn sanh các lỗi
Tham nhiễm và đam mê
Ca hát cùng khóc cười
Do đây sanh lỗi lầm
Ngày tốt nên trai giới
Cần nên chọn thời phần
Làm các pháp thành tựu
Cho mình và cho người
Phải chọn ngày, giờ, sao
Năm thánhg các thời hạn
Việc tốt xấu thành tựu
Hành giả trước sau tu
Trong ba tháng thần thông
Tu hành là tối thắng
Thành tựu Thắng Tất địa
Thành tựu pháp Phật đảnh
Tháng hai, ngày mồng tám
Ngày muời bốn, ngày rằm
Các ngày như ở trên
Cần tăng thêm cúng dường
Nhờ đồng nữ se dây ( dệt)
Đem ngâm nước thơm sạch
Giũ giới cho đầy đủ
Mà hoạ tượng Tối Thắng
Và đem bạch đàn hương
Tẩy rữa cho sạch sẽ
Không dung loại cong queo
Sau đó mới gia trì
Đúng Ngọ là giờ tốt
Giũ giới cho thanh tịnh
Cần nhờ người hoạ vẽ
Sau mới tu chơn ngôn
Ngày, sao tốt trai giới
Mới thành Tượng Tối Thắng
Đúng như ở trên nói
Vẽ Tựơng được ngợi khen
Rộng khắp như đã nói
Phật đảnh và các Tượng
Nên bỏ các long tóc
Trên lụa hoặc trên giấy
Ngồi nơi toà sư tử
Lớn nhỏ theo bổn hình
Chọn các màu sắc tột
Dùng chất dẻo thơm hoà
Thân phần đều đầy đủ
Không dùng hương động vật
Lấy nước mà sái tịnh
Biết để khỏi lỗi lầm
Kẻ trí phải nên biết
Ở ngay nơi trung ương
Phật ngồi Toà Sư tử
Đủ các tướng trang nghiêm
Oai quang chiếu rực rỡ
Từ Đảnh Phật phóng ra
Pháp Luân Đạii Ấn đó
Vẽ ở nơi trước Phật
Vẽ Phật như vậy rồi
Đều màu vàng phù đàn
Bên phải Quán tự Tại
Da cọp làm vạt áo
Lại vẽ hình Phẩn Nộ
Cầm phất và niệm châu
Trên đầu Phật Vô Lượng
Lại có ba con mắt
Mặc áo màu hoa sen
Thương xót các chúng sanh
Bên trái Kim Cang Thủ
Thân màu hoa sen xanh
Nên vẽ hình Phẩn Nộ
Cùng Phẩn Nộ quyến thuộc
Nữ Sứ giả Trì minh
Kim Cang chân nghiệt ra
Kim Cang tiêu sư tử
Kim Cang quyền sứ giả
Cam Lồ Quân trà lợi
Nên vẽ ở gần bên
Tôn giả hay điều phục
Tay cầm Phất Kim Cang
Mã Đầu Đại Minh vương
Thành tựu Ý Lạc tôn
Bạch Y, Da La Tôn
Tỳ cu chi biến chiếu
Như vậy các Thánh chúng
Cầm sen, vẽ bên trái
Tất cả đều y theo
Bổn hình mà hoạ vẽ
Tượng lớn rộng cần theo
Mạn đà la nghi quĩ
Pháp vẽ tượng ở đây
Đều là do Phật nói
Nơi chỗ Phật Thế Tôn
Hai bên nên hoạ vẽ
Vô Năng Thắng đại bi
Hào tướng và Phật Nhãn
Các hình tượng như trên
Màu vàng như mặt triờ
Đều ngồi toà hoa sen
Trụ nơi chơn ngôn thân
Đây là Tưọng vi diệu
Trong Phật Đảnh thành tựu
Theo nghi tắc nầy tu
Hoạ vẽ Tượng như thế
Hiểu rõ các pháp nghi
Thanh tịnh người hoạ sĩ
Dùng lông trâu làm bút
Lại lấy cây cát tường
Dùng làm cán bút vẽ
Y pháp hoạ Tượng đây
Phải ngồi toà cỏ tranh
Nên hoạ tượng Phật nầy
Là phổ thông các tượng
Tất cả đều thành tựu
Cho đến đời quá khứ
Là Diệu Âm đồng chơn
Oai đức không so lường
Nơi than phóng ánh sang
Cũng như đống lửa lớn
Tất cả đều ham ưa
Chiếu khắp cả ba cõi
Như vâỵ các ánh quang
Từ thân Diệu Âm phóng
Bấy giờ được ba điạ
Ngũ thông đại oai đức
Được thành gọi Bồ Tát
Làm lợi ích hữu tình
Phật Đảnh bất tư nghì
Tự thân là Như Lai
Tam ma địa hình tướng
Thị hiện ở nơi đời
Biếnhoá nơi tam giới
Tất cả Phật hình tượng
Do định hiện Luân Vương
Nói ra chú đại minh
Hữu tình được lợi lạc
Cũng như Châu Như Ý

Bấy giờ Thế Tôn bảo Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi Đồng chơn rằng:” Mạn Thù Thất Lợi! Vì lợi ích hũu tình làm các phương tiện, thiện xảo, biến hoá các loại sắc than dể điều phục: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn nhiếp thọ hữu tình mà vì họ nói Pháp, khiến được Giác ngộ”.

Thời Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chơn bạch Phật rằng:”Thế Tôn, các danh hiệu của Phật Đảnh chơn ngôn sai biệt thế nào? Thế Tôn, Phật ở trong thế giới có bao nhiêu?.

Phật bảo:” Có Danh hiệu như là: Ca ma la ấn nại ra đế, Thương yết la, Hoại cung, , Phạm vương Tỳ nữu, Tự tại, Đại tự tại, Kiếp tì la, Bộ đơn đa, Mâu ni, Đế lị tha,Yết ra sa, Điạ, Bộ di, Trì bảo di tha di tha sa, Nhất thiết khứ, Nhất thiết khứ diện, Thấp phạ, Ninh tịnh, Niêế bàn, Kỷ hoá, Biêế hoá, Nan tồi, Thiên, A tu la, Chúa, Tôn, Chủ tế, Tối thắng, Dẫn đạo, Điều phục giả, Phước, Kiết tường, Nhất thiết nghiã thành tựu, Thế Tôn, Kiều yết la, Tát ninh, Không, Thắng nghĩa, Bất chơn, Oai xưng, Hưng giả, Bi giả, Từ giả, Tam ma địa, Huệ, Thủy thiên, Sư tử, Phong ngưu, Thiên, Long, Dạ xoa, Tiên, Đại tiên, Tác giả, Lưu xuất giả, Thế chủ, Tỳ ma chất ma la, Tam mục, Ngưu nhãn, Thanh tịnh, Oai linh, Tam ma địa, Tam ma địa xuất sanh, Tam ma địa sanh, Tài sĩ, Ra nhạ, Trượng phu sư tử, Trượng phu chuá, Thắng nghiã, Thắng nghiã thực, Đăng, Đăng bảo, Tam giơi chủ, Thế tôn, Vô chủ, Chủ, Nhãn, Thực Mộng liên hoa, Quang, Hoả, Quỉ chủ, Ly dục, Ninh tịnh dục, Viên ly dục, Viễn ly quá, Hoại quá, Tân quá, Tồi quá, Kiến quân chủ, Đại vương, Hộ thế, Trì điạ, Hê ra mạt đa, Hương tượng, Bạch liên hoa, Thuyết không, Hiện không, Hiệu bi, Hiệu đạo, Hũu, Bất hữu, Phân biệt, Vô phân biệt, Ly phân biệt, Hoại phân biệt, Thiện quốc, Cộng hứa, Da ma, Thí Tài, Phạ rô nõa, Cu vĩ la,Trì quốc, Thiện Hiện, Tô di lô, Kim cang, Như Kim cang, Thiên Diệu, Thiên Diệu thú, Dõng mãnh, Đại Dõng mãnh, Năng sanh, Đại Năng sanh, Thường, Vô Thường, Chuyển Luân vương chơn ngôn, Đại chơn ngôn, Đại Lạc, Luận sư, Đại Luận sư, Thắng, Vô Thưọng, Bạch, Thuyết bạch, Trượng phu, Thuyết Trượng phu, Sa kiệt la, Đại Sa kiệt la, Hải, Đại Hải, Ô na địa, Nguyệt, Nhật, Ra ma, Lạc khất xoa ma nõa, Tưởng, Trang nghiêm, Vân, Đại Vân, Tụ, Đại tụ, Bất tương dĩ, La hầu, Quân, Đại quân, Tích, Đại tích, Nhơn chư, Đại Nhơn chư, Thủy tạng, Đại thuỷ tạng, Long tượng, Sư tử kiêu dũng, Kỳ trì, Hi hi, Đại Hi hi, Tài, Đại Tài, Cụ Tài, Đại tài bảo, A la hán, Hại phiền não, Huyễn hoá giả, Trì huyễn hóa, Biến hoá, Tác biến hoá, Cụ nghĩa, Năng đấu chiến, Phi dị, Bất dị, Mạng phi mạng, Nan hoại, An Lạc bi chủ, Thần Thông, Cụ lực, Cụ huệ, Bất tương dĩ quang.

Mạn Thù Thất Lợi Đồng tử! Nên biết ta làm như vậy tên là Bất hoại, Bất sanh, Chơn như, Chơn tánh, Thực tế, Thực tánh, Chứng pháp, Pháp giới , Vô Nhị, Hữu Tướng, Thuận, Ý Thành.
Mạn Thù Đồng tử! Nơi cõi Ta mà biết ta là Như Lai, là Phật, Đại sư, Nhơn thiên, Nơi thế giới nầy trong các loài vì điều phục hữu tình, hoặc năm a tăng kỳ trăm ngàn kiếp làm ngu phu Thanh Văn hiện ra các tên, nên biết các danh hiệu của ta vì muốn điều phục chúng sanh thành thục vậy. Ở trong các khế kinh đã nói như vậy, trong hằng hà sa số thế giới của chư Phật dùng các danh hiệu có hữu tình được biết. Đồng tử vì tuỳ thuận hữu tình Như Lai nói pháp. Như lai không có phân biệt không có công dụng, vô lượng chơn ngôn sắc thân theo việc mà chuyển.
Bây giờ Thế Tôn dùng kệ mà bảo Mạn Thù Thất Lợi rằng:

Biết rõ ngày giờ tốt
Và các sao tốt lành
Tắm rửa mặc áo sạch
Trai giới theo nghi quĩ
Mồng tám và mười ba
Mười bốn và mười lăm
Hoặc dùng ngày mồng năm
Y nghi quĩ mà làm
Hộ ma cùng cúng dường
Cần thí ở tám phương
Trong các ngày ở trên
Cần tăng thêm đồ cúng
Chư Phật và Duyên giác
Đại oai đức Thanh Văn
Bồ tát Quán Tự Tại
Kim Cang thủ đại lực
Phải thường luôn nhớ nghĩ
Người tu hành ấn cần
Cúng dường các Thánh chúng
Bồ tát đại oai đức
Và tất cả thánh chúng
Minh Thiên đại oai Thần
Ở nơi kẻ tu hành
Tất cả đều hoan hỷ
Hành giả nơi các trời
Cúng dường không đựơc lễ
Hết thảy các chơn ngôn
Oai không nghĩ bàn
Chỗ chết chóc sanh sản
Các món ăn thừa, củ
Nữ có kinh nấu nướng
Và các nhà của khá
Như nhà Chiên đà la
Các đồ ăn qua đêm
Đã bị chua hôi thối
Như vậy các món trên
Hành giả không được ăn
Và dâng hiến Thánh chúng
Và không nên ăn muối
Các loại nhà như vậy
Không nên đến ăn uống
Không được nghĩ qua đêm
Sẽ bị hư Tất địa
Người tu hành phải tuỳ
Ba thời qui Tam Bảo
Cùng phát Tâm Bồ đề
Mà làm ba thứ tịnh
Tịnh thân và tịnh khẩu
Tịnh ý nữa là ba
Thường luôn nhớ sáu niệm
Như vậy mà tu hành
Ngày ngày thọ tám giới
Phải giữ gìn luật nghi
Phải nói như thế nầy
A xà lê nhớ nghĩ
Con đây tên và tuổi
Bắt đầu từ hôm nay
Đến khi mặt trời mọc
Nơi trong khoảng thời gian
Không giết hại sanh mạng
Không trộm cắp của người
Phạm hạnh không dâm dục
Không nói lưỡi đôi chiều
Không ca múa hát xướng
Khônng lấy hương thoa thân
Không uống rượu tán loạn
Không có ăn trái thời
Không nằm giường cao tốt
Như La hán giữ gìn
Nay con cũng theo vậy.

Bấy giờ Thế Tôn Thich Ca Mâu Ni nhìn Bồ tát Kim Cang Thủ nói:”Luân vương Phật đảnh thế gian xuất thế gian thượng thượng chơn ngôn minh giáo, ba khuỷu hoặc hai khuỷu tuỳ ý lớn nhỏ mà làm. Lấy lụa tốt bỏ các lông tóc dùng nước thơm giặt cho sạch để nơi phía Đông, chọn ngày sao tốt như đã nói ở phép hoạ tượng. Hoạ sĩ phải đầy đủ tướng và thọ bát trai giới giữ gìn 10 điều lành, dùng các loại màu sắc đẹp không được dùng keo da. Vẽ hình tượng Phật thân màu vàng, tướng đang thuyết pháp. Ngồi kiết già nơi toà sen trắng xung quanh hào quang rực rỡ, trong ánh quang có nhiều bánh xe từ nơi đảnh phóng ra. Phía sau vẽ ngọn núi, ở phía dưới vẽ người trì tụng y như bổn hình, tay bưng lư hương đang ngắm nhìn Thế Tôn. Bí mật chủ! Đây là phép hoạ tượng Luân Vương tối thắng, chư Phật đã nói, ta vì thương xót hữu tình nên mới nói ra”.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu được thấy tượng nầy
Tất cả Phật đã nói
Nói sơ tượng vi diệu
Hay tiêu các thứ tội
Tất cả các công đức
Thảy đều đến với người
Các trời rồng cúng dường
Được thấy tượng tối thắng
Là trời, người cúng dường
Hiện đời được thành tựu
Do sức của chơn ngôn
Và do được thấy tượng
Chư Phật đã nói ra
Nên hết lòng ngợi khen
Vì muốn cho thành tựu
Nhất định được Tất địa
Các công đức tăng trưởng
Do được thấy tượng nầy
Các tội đều tiêu diệt
Tượng nầy là tối thắng
Được bốn như ý túc
Công dức như biển lớn
Lại được đại trí huệ
Do tu pháp Luân Vương
Thân sạch sẽ không dơ
Trí huệ được thù thắng
Thành Phật lưỡng túc tôn
Trời người đều cúng dường
Do trì chơn ngôn nầy
Chuyển luân vua tối thắng
Kẻ nầy được thanh tịnh
Người tu chơn ngôn đây
Thân đồng với chư Phật
Công đức cũng như vậy
Thật là khó nghĩ bàn
Trời,Rồng cùng Dạ xoa
La sát các bộ đa.
Tất xá giá, Khởi thi
Các loại có oai đức
Thấy người tu Đảnh luân
Kẻ thành tựu trì minh
Tất cả đều tan tác
Đế Thích có oai đức
Nếu thấy kẻ thành tựu
Chia toà cho mà ngồi
Các trời oai đức khác
Ba cõi không thể bằng
Người thành tựu Tất địa
Nếu thấy không đứng dậy
Đầu bể làm bảy phần
Dầu trong cu chi kiếp
Thế Tôn có nói ra
Công đức cũng không hết
Đảnh luân không nghĩ bàn
Kẻ tu hành pháp đây
Được thành tựu tối thắng
Làm vua trời Đao lợi
Không có kỳ hạn chết
Có vô lượng cu chi
Chúng vi nhiễu xung quanh
Biến thân như hình Phật
Độ thoát các hữu tình
Biến thân Kim Cang Thủ
Lợi lạc các hữu tình
Hoá làm Thiên Đế Thích
Hoặc hiện thân Phạm Vương
Diều phục các hữu tình
Biến hiện làm Đế Thích
Có thần thông oai đức
Cứu bạt các khổ thú
Địa ngục, cõi Diêm Ma
Ngạ quỉ và bàng sanh
Nơi thành ấp tụ lạc
Đồng trống và núi rừng
Hoá ra các đồ dùng
Ăn, uống, nằm các thứ
Thương xót các hữu tình
Nên thảy đều ban cho
Ta lược nói Phật Đảnh
Kẻ tu hành pháp đây
Được năm món thần thông
Được thành đại Bồ đề
Trên hết trong cõi người.

 

Phẩm thứ Tám: Bí Ấn

Bấy giờ Phật Thich Ca Mâu Ni bảo tất cả các Bồ tát:T “hiện nam tử, các ông nên thọ Như Lai Xuất sanh Đại tam ma địa vô tỉ lực siêu thắng nhất thiết Như Lai, trụ chơn ngôn thân tất cả Như Lai tộc chơn thiệt đại ấn chơn ngôn, vô tỉ oai quang thần thông, Lưu xuất vô biên kỳ trì, hiện xuất oai thần, hay sanh ra các Bồ tát, hay từ Cu chi ma, nhiếp phục các Bồ tát khiến kẻ khó điều phục khởi lòng từ hay thành biện tất cả sự nghiệp. Ta nay nói đại ấn.”

Bấy giờ Kim Cang Thủ bạch Phật rằng :: “Thế Tôn xin ngài nói tuần tự các thứ lớp sanh ra đại ấn chơn ngôn vì lợi ích chúng sanh, làm cho thành tựu”

Phật bảo: “Ông nên lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói phân biệt rỏ ràng. Hai tay xoa nhau bên trong nắm lại thành quyền, thẳng hai ngón cái, đây là tất cả Như Lai tâm ấn. Ấn nầy co hai ngón cái vào lòng bàn tay, đây là Trì Liên Hoa Giả ấn Lại như trên, co ngón cái phải vào lòng bàn tay, ngón cái trái đứng thẳng, đây là trì Kim Cang giả ấn.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. A, vĩ, La, hông, khiếm.

Đây là tất cả Như lai tâm ấn chơn ngôn. Bí mật chủ! Đây là Đại cần dũng tâm chơn ngôn, tất cả Như Lai chơn thật pháp hay giải thoát Địa ngục, Bàng sanh, Dạ ma, Ác thú, Hay  khiến hữu tình làm việc Như lai, hay triệu tất cả Bồ tát. Kim Cang Thủ, ta lược nói, hay triệu Phạm Vương, Đế Thích, Dạ Ma, Thủy Thiên, Cu ma la v.v… Trụ nơi thập địa tự tại còn có thể triệu huống là các loài khác. Như trên, hai tay nắm lại thành quyền duỗi hai ngón giữa đứng thẳng dựa nhau co tiết thứ ba ở trên, co hai ngón trỏ để nơi móng hai ngón cái. Đây là Luân Vương Căn bản đại ấn, hằng hà sa số các Như Lai đã nói, chư Phật vị lai cũng nói ấn nầy, đây là Đại ấn là Đảnh Luân Vương, Phật vì lơi ích hữu tình. Kẻ trí, kẻ thành tựu, nếu kết ấn nầy các ác ma chướng đều không dám ở tại nơi đó. Bí mật chủ, Căn bản Luân Vương ấn nầy dầu tất cả Như Lai có nối hằng hà sa kiếp cũng không nói hết phước lợi, cũng không  nói hết công đức đại tràng thành tựu được. Bấy giờ Như Lai lại nói kệ rằng:

Người trí nếu thọ trì
Bồ tát đại oai đức
Cu chi các loại ma
Không dám làm hư hoại
Cho đến trăm ngàn kiếp
Không đoạ các ác thú
Nếu trì Luân Vương ấn
Và tụng chơn ngôn nầy
Do phước thọ trì đây
Như Lai đại sư  nói
Trong trăm cu chi kiếp
Không thể xưng tán hết
Nếu người trì chú đây
Giữ giới và tinh tấn
Tụ tập chơn ngôn nầy
Luân Vương sức mạnh mẽ
Người này không mất huệ
Và không mất chánh niệm
Trăm ngàn cu chi kiếp
Cũng không bao giờ quên.

Kim Cang Thủ, Đại ấn nầy có vô lượng oai đức sức không thể sánh. Như căn bản ấn, hai  ngón giữa đứng thẳng dựa nhau. Đây là Cao Đảnh vương ấn, dùng để quán đảnh trong Phật đảnh tộc.

Hai tay chắp lại bộng giữa, co hai ngón vô danh vào lòng bàn tay, mặt của hai ngón cái đè trên móng hai ngón vô danh, co hai ngón trỏ như cái vòng đầu dính nhau như hình tán cái. Đây là Bạch tán cái Phật đảnh vương ấn. Lại như trên, duỗi hai ngón trỏ, đây là Quang tụ Phật đảnh vương ấn. Lại như ấn trên, hai ngón trỏ để nội tiết thứ ba hai ngón giữa, đây là Thắng đảnh vương ấn, là Kiết Tường pháp luân đại ấn, Thập nhị hành tướng pháp luân ấn, tất cả chư Phật đã nói, hay hoại tất cả phiền nảo. Nếu thấy Ấn nầy cũng như thấy Như Lai. Ấn nầy dung hai ngón trỏ bật nơi lưng hai ngón giữa, gọi là Phiền Não Bào Ấn, còn gọi là Như Lai kiết già ấn.

Kim Cang Thủ, năm Đại ấn nầy trong Như Lai tộc là Chuyển luân Vương đại ấn: Phiền não bà pháp luân, Quang tụ Thắng đảnh, Cao đảnh, Bạch tán cái, đảnh đều là Luân Vương ấn.

Hai tay chắp lại bộng giữa, co hai ngón cái trong lòng bàn tay, đây là Như Lai tâm ấn, còn gọi là Như lai Đại dõng mảnh ấn. Kết ấn tụng chơn ngôn gia trì nơi tâm bảy biến, tất cả tội chướng các đời trước đều tiêu trừ, để ấn nơi đảnh xả, tất cả đều thành tựu. Dùng ấn gia trì nơi thân tức thành tất cả Như Lai gia trì. Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm lệ na lệ vĩ lê sa phạ ha.

Đại chơn ngôn nầy đồng Ngũ tự chơn ngôn, người tu hành dùng để hộ thân, cần nên gia trì nơi tâm hoặc dung Ngũ tự có sức oai đức mạnh mẽ.Hai tay chấp lại, bộng giữa, muời ngón xoa nhau. Đây là Nhất thiết Biện Sự Phật Đảnh Ấn. .

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm tra rô mãn đà sa phạ la.

Kim Cang Thủ! Tất cả Biện sự chơn ngôn nầy ở trong Phật đảnh là tất cả Như Lai tâm, tất cả các sự việc đều dùng.  Người tu hành thường dùng để hộ thân.

Tay phải ngón cái co nắm lại thành quyền tay trái nắm chéo áo cà sa, đây là Tích trượng ấn. Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm  độ na nhỉ đa la nõa hồng.

Đây là chú tích tượng
Chế ngự kẻ khó phục
Hộ Thân cần nên dùng
Ở nơi chỗ thành tựu
 Khi dùng tích tựu ấn
Ân, chơn ngôn tương ưng.

Trước lấy ngón tay trái để ngữa ở dưới rún, lấy tay phải để lên trên tay trái, ngón út phải và ngón cái trái chạm nhau đây là Như Lai bát ấn

Ở nơi chỗ sợ sệt
Đói khát các chướng nạn
Nên tụng chơn ngôn nầy
Các khổ đều không có.

Chơn ngôn rằng:

– Úm lô ca bá ra địa sắc sỉ đa đà ra đà ra tha ma ha nổ bà phạ một đà bạt đát ra sa phạ ha.

Bát chơn ngôn sức lớn
Là chư phật gia trì
Tất cả các chúng sanh
Do niệm trừ đói khát
Nơi đường hiểm đồng trống
Kẻ tu hành niệm đến
Thường gia trì nơi thân
Ấn, chơn ngôn tương ứng.

Hai tay xoa nhau ngữa lòng, hai ngón trỏ dựa bên thẳng, hai ngón trái vịn tiết dưới ngón trỏ để nơi mi gian, đây là Như Lai Hào tướng ấn.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tát phạ đát tha nghiệt đế ra hắc tì dược tam miệu tam một đề tì dược tôn tôn mãn đà mãn đà để sắc sá để sắc xá đà ra đã đà ra dã nể du đà nễ du độ ra noã ma ni sa phạ ha.

Đây là Hào tướng ấn
Đủ các tướng đại nhơn
Hay ban cho tất địa
Ấn có oai đức lớn
Nếu ngưòi trì ấn nầy
Hào tướng oai đức vậy
Kẻ kia hay thành tựu
Do Ấn và chơn ngôn.

Dùng ấn trên gia trì nơi cổ Tức là cảnh ấn gia trì nơi mũi tức là tỉ ấn. Như Lai tỉ.Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm rị ni hồng phấn ta phạ ha.

Gia trì ấn nơi mũi
Suốt đời mũi không bệnh
Trong trăm cu chi kiếp
Mũi thường không có bệnh.

Hai tay, chắp lại co hai ngón trỏ áp tiết trên ngón giữa. Ngón cái co vào lòng bàn tay đây là Phật nhãn ấn.

Tất cả các Phật đảnh
Nên dùng đại ấn nầy
Tối thắng diệt các tội
Quyết định được thành tựu
Tu Luân Vương Phật đảnh
Nếu thường kết ấn nấy
Thanh tịnh mà trì tụng
Không lâu được thành tựu
Tất cả pháp Phật đảnh
Chất chứa trăm kiếp phước
Nếu được ấn thế nầy
Tụng Phật nhãn chơn ngôn
Hai phước đều bằng nhau
Do Phật nhãn ấn minh
Hay thành tất cả việc.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tát phạ đát tha nghiệt đế biều ra hắc tì dược, tam miệu tam bồ đề tì dược. Úm rô rô tắt phổ rô nhập phạ la để sắt sã tất đà lô tả nể tác phạ ra tha sa đát nể sa phạ ha.

Bấy giờ Phật bảo Bồ tát Kim Cang Thủ rằng: “Kim Cang Thủ! Đây là Phật nhãn đại minh phi, ta ở nơi mười cu chi Như Lai được đà la ni lài. Kim Cang Thủ, Do niệm chú nầy tất cả Thánh, Thiên đều hiện trước mặt hành giả, tất cả chơn nhơn giáo pháp đều được thành tựu. Do tụng chơn ngôn nầy, tất cả Kim cang tộc đều thành tựu.Do đó, tu Phật đảnh chơn ngôn, trước cần trì chú nầy ba biến, hoặc bảy biến hoặc hai mốt biến. Kim Cang Thủ, Phật nhãn đại minh phi ta vì lợi ích hữu tình. Kim Cang Thủ, đà la ni đầy trước các hữu tình bạo ác nên tụng khiến họ vui vẽ. Các ác quỉ mị khó điều phục đều vui vẽ, tất cả chỗ kiện cáo, chiến đấu đều được bình yên. Bí mật chủ, Nếu tu hành Phật đảnh chơn ngôn không được thành tựu, nên dùng chơn ngôn nầy tụng chung quyết định có đại nghiệm, mau chóng thành tựu, nếu trải qua kì hạn 1,2,3,4 lần chưa được thành tựu sau đó cùng tụng chung tức mau hiệu nghiệm thành tựu, nếu không y như vậy tức bị hoại trì minh. Dùng ấn trên, hai ngón trỏ bật nơi lưng hai ngón giữa là Như Lai mi ấn, tất cả Như Lai đã nói, ta nay cũng nói.

Giả sử khất rị để ca
Và phạ tát tô Thiên
Bí mật đại oai đức
Và các thiên dục giới
Cùng các Trì lệ thiên
Như vậy các chúng trời
Nếu thấy ấn thế nầy
Sợ hãi mà bỏ chạy
Huống là các điạ cư.

Chơn ngôn rằng:

– Nam tam mãn đà một đà nẫm. Úm hật rị hồng.

Lại như Mi ấn, hai ngón cái mỡ thắng đứng như hai cái miệng cùng cách ngón giữa hai phân. Kết ấn để nơi miệng.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Chỉ rị chỉ rị

Chú nầy oai đức lắm
Mau chóng thành các việc
Thường gia trì nơi miệng
Người tu hành thành tựu
Nói ra được vô ngại
Khắp cả trong ba cõi
Lời nói của người nầy
Êm dịu và đẹp đẻ
Miệng không có tật bệnh
Vô lượng cu chi kiếp
Tự tại Tỳ nữu Thiên
Không chịu nghe sai khiến
Nhưng ở nơi người nầy
Nói ra đều vâng làm
Thiên Long, Càn đạt pha
Các loại có oai đức
Hết thảy đều thuận phục
Huống hồ các phàm ngu.

Lại gối phải sát đất, gối trái thẳng tay trái để phía sau, tay phải nắm lại để nơi tâm thẳng ngón trỏ làm kỳ khắc ấn chỉ về phía trước đây là Vô Năng Thắng đại ấn.

Hay dẹp tất cả ma
Lại hay trừ các chướng
Đại lực các tự tại
Ma chúa ở trong đời
Ba tuần có hai tên
Tên nữa Dục Tụ Tại
Oai đức nơi thế gian
Nếu muốn chướng nạn
Vô lượng tu chi ma
Cùng đến quanh ngưòi kia
Ở nơi sông Ni Liên
Vô lượng cu chi ma
Kiện ra các thứ hình
Các loại hình đáng sợ
Ta chứng vô thượng trí
Trong thế gian tối thắng
Phạm, ma và sa môn
Trong đời không thể được
Ngay nơi trong sáng sớm
Chứng được Vô thượng cú
Vì hoại các thứ ma
Hiện ra các loại hình
Bây giờ ta lại nói
Chú nầy đại oai lự
hiện ra hình Thiên nữ
Nơi trước mặt đại sư
Phá nát các ác ma
Hiện vô lượng thân hình
Do đây nói chơn ngôn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm hộ rô hộ rô chiến nõa lị ma đẵng kỳ sa phạ ha.

Lại nữa Bí mật chủ
Vô năng Thắng đại minh
Là củaĐđức Phật nói
Hành giả dùng hộ thân
Tất cả thời dều dùng
Nơi có chướng nạn lớn
Qũi mị hình ác ghê
Người thành tựu Phật đảnh
Đại lực thường gia hộ
Thường gia trì nơi thân
Sẽ được ủng hộ luôn.

Trước kiết già, ngồi ngay ngắn, tay trái ngữa để dưới rún, tay phải mở hướng ra ngoài, ngón cái đè móng ngón vô danh, ngón trỏ co ở phía sau lưng ngón giữa không cho dính nhau. Đây là Như

Lai Thước đề lị ấn.
Nếu người kết án này.
Không bị mất oai lực.
Đời nầy và đời sau
Người trí kết Ấn nầy
Sức được như Như Lai
Lại nếu tụng chơn ngôn
Chư Phật đều gia trì

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẵm. Úm vĩ nhạ duệ ma ha thước khất đề nạp đà lị hồng phấn tra vĩ nhạ dĩ nể phần tra mãn nga lê phấn ta phạ ha.

Ba thời thường nhớ niệm
Tu trì Đảnh luân vương
Mau chóng được Tất địa
Trong ba cõi không ngại.

Lại như ấn trước tay phải che trên tay trái cách nhau một phân, đây là Như Lai Tề ấn.

Sức lực của chư Phật
Nếu thường hay nhớ niệm
An chú nầy tương ưng
Ăn uống nếu không tiêu
Cần phải vào thiền định
Nếu bị bịnh nóng lạnh
Tiểu tràng và hai hông
Đầu bịnh và các bịnh
Trừ hết thảy phiền não
Thân thường không có bịnh
Thành tựu chơn ngôn rằng.

Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẵm. Úm chất trí chất trí sa phạ ha.

Đây là Như Lai Tề
Là chơn ngôn ấn khế
Hay hiện các thứ sắc
Vui vẻ làm các việc
Lại hiện các thần thông
Đủ thứ nói không hết.

 

QUYỂN THỨ TƯ

Phẩm Mật ấn ( tiếp theo)

Tay phải co ngón cái nắm lại gia trì năm chỗ. Đây là Như Lai giáp ấn.

Tất cả các Phật đảnh
Ấn nầy oai đức lớn
Nếu không có giáp ấn
Tu hành không kiên cố
Như người không áo quần
Cũng như nhà không người
Như nước không có vua
Như rừng không cây cối
Như đồ ăn thiếu muối
Như ao không có nước
Phạm Chí không phệ đà
Như quân không có hướng
Cho nên người tu hành
Nếu thiếu Giáp bị ấn
Bị các ma sai sử
Tức không được thành tựu
Do kết Bị Giáp nầy
Các ma không xâm bức
Mau chóng được Tất địa.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mã đà một đà nẫm. Úm bộ nhập phạ la hồng.

Người tu hành dùng ấn
Thường gia trì nơi thân.
Cũng như vua nơi trận
Giáp bị thật  kiêu dũng
Cho nên người tu hành
Bị giáp cũng như vua
Ba thời dùng hộ thân
Hay thành tất cả việc

Lại như Giáp ấn, mở ngón giữa, đây là Như Lai đảnh kế đại ấn hay làm tất cả việc. Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà mẫu đà nẫm. A cu rô tra.

Lại như Đảnh kế ấn, ngón giữa hợp ngón trỏ đứng thẳng để nơi tai phải và trái, là Như Lai Nhỉ ấn.

Thường gia trì nơi tai
An chơn ngôn tương ưng
Người nầy tai không bệnh
Cho đến một trăm kiếp.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà mẫu đà nẫm. Hộc ca.

Nếu như kẻ tu hành
Y Luân vương nghi quĩ
Kẻ nầy được thiên nhĩ
Ngôn âm được tối thắng.

Lại tay trái như Giáp ấn, cánh tay thắng hướng nơi thân. Đây là Như Lai Nha đại ấn, để nơi miệng nơi răng.

Phật Nha đại oai đức
Ấn chơn ngôn tương ưng
Người tu hành thành tựu.

Chơn ngôn rằng:

– Úm đát tha nga đa năng sắc tra lê hồng phần sa phạ ha.

Lại như Giáp ấn, ngón giữa thẳng co cánh tay đưa xuống dưới, đây là Thọ ký ấn.

Thành biện tất cả việc
Do kết ấn nầy vậy
Các chư Phật quá khứ
Đời sau các Như Lai
Theo đây thọ ký cho
Kẻ tu hành thành tựu
Nếu hay kết Ấn nầy
Có được oai lực lớn
Chư Phật và Bồ tát
Hay lại thọ ký cho
Cho nên người tu hành
Không nên để tán loạn
Kết Thọ ký ấn nầy.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm hồng trì vam.

Được thành đại oai đức
Ác nhơn không thể hại
Đủ các việc tốt lành
Giới, nghi tắc tinh tấn
Đủ các niệm mạnh mẽ
Tất cả nơi sanh ra
Đầy đủ các giới hạnh.

Lại như Bị giáp ấn, đầu chỉ hơi co trong lòng tay, cánh tay thẳng hướng lên trên. Đây là Như Lai Bác ấn có đại oai lực:

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm bán nhạ a hê phấn tra sa phạ ha.

Lại dùng ấn trên để nơi giữa hai vú, đây là Như Lai nễ ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm chân nga chỉ lễ phát.

Tay phải ngón cái đè móng ngón giữa, vô danh ngón út, ngón trỏ đứng thẳng. Cánh tay đưa lên cao. Đây là Như Lai Phan ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà một nẫm yết tra.

Lại như Phan ấn, cánh tay hướng xuống dưới là Như Lai ngoạ ấn.

– Nẳng mồ tam mãn đà một đà nẩm a cu rô tra.

Lại như Ấn trên, cánh tay đưa ngang trước ngực là Như Lai Hành Ấn.

– Nẳng mồ tam mãn đà một đà nẩm hồng nga mộng úm.

Dùng Ấn nầy để nơi đầu là Như Lai Đầu Câu Ấn.

Úm mẫu ra đà nẳng nể sa phạ ha.

Dùng tay phải ngón cái đè móng ngón vô danh và ngón út, đứng thẳng ngón trỏ,

ngón giữa, đây là Như Lai Trường ấn.

Nẵng mồ tam mãn đà mẫu đà nẫm. Úm hồng khứ.

Dùng tay phải, ngón cái đè móng ngón trỏ và ngón út, ngón giữa, vô danh đứng thẳng, đây là Như Lai Nhãn ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm bát ra tất địa yết lô sa phạ ha.

Như Nhãn ấn, hơi co ngón giữa, ngón vô danh, đây là Như Lai Võng ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm nhập phạ lị ni sa phạ ha.

Tay phải ngón cái đè móng ngón trỏ, các ngón kia đứng hơi cong, đây là Như Lai Hoa Diệm ấn.

          – Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm hồng hồng ma ma phấn tra sa phạ ha.

Như Quang Diệm ấn, ngón giữa hơi co, ngón vô danh, ngón út như trước. Đây là Như Lai Thần ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm a a a phạ phạ hám.

Tay phải ngón cái co trong lòng bàn tay, bốn ngón kia mở ra lòng bàn tay hướng về trước. Đây là Như Lai Thiệt Tướng ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm nẳng ra ni bán nhạ hông phấn tra ta phạ ha.

Hai tay ngửa, lòng tay phải áp trên tay trái để dưới rún, đây là Như Lai Tam ma địa ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm a để xá dã vĩ yết ra mi sa phạ ha

Lại như ấn trên, để nơi tâm, đây là Quá khứ, Hiện tại, Vị Lai Kim Cang Võng Tân Ấn:

– Nẳng mồ tam mãn đà mẩu đà nẩm Hồng Nhập phạ ra Phạ nhật ra ê tra lân tổ.

Kim Cang Thủ ! Đây là Kim Cang Võng Nhất thiết Như Lai Tâm ma điạ Minh

vương không dám vuợt qua, tất cả Thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà, được địa vị Bồ tát cũng không dám vượt qua, huống nữa là các hữu tình có oai đức lớn.

Tay trái mở che nơi rún, tay phải mở giữa áp lưng tay trái, đây là Như Lai Mã âm tàng Bí ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm nổ tra nổ tra sa phổ tra sa phổ tra vĩ nại ra bá nễ bát ra mạt na thân na nễ tần na nễ hông phấn tra sa phạ ha.

Tay phải nắm lại thành quyền, dấu kín móng, chỉ có móng ngón giữa lòi ra. Đây là Như Lai Toạ Xứ ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm đàng ca lê nẵng ca lê nghiễn đà chỉ đát lô na ra ma ni đo ni sa phạ ha.

Lại như ấn trên, lòi móng ngón trỏ ra, dấu móng ngón giữa. Đây là Như Lai Tỳ ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà mẫu đà nẫm. Úm đổ tha tả sa phạ ha.

Lạ như Ấn trên, dấu móng ngón trỏ để lòi móng ngón vô danh, đây là Phật Từ Tam Địa ấn.

Hay sanh lòng đại từ
Hành giả vào định nầy
Giữ gìn cho kẻ khác
Đây Như Lai nói
Là vua của chơn ngôn
Thương xót các hữu tình
Sư tử và ác giặc
Tranh tụng chỗ bức bách
Chiến trường nơi sợ sệt
Nên tụng chơn ngôn nầy.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm ma ha mẫu để rị da vĩ ha lị nẫm một đã mẫu để xỉ nẵng ma tả minh tam mẫu đát bà ninh sa dã nẵng kê ca ra hề vĩ nghiệt ra hề chế phạ xá đốt rô nan dả bà ra nhạ dụê dã da ma ra mạt lâm bà nghiệt nẫm bà tái nễ dã ma ra phạ ha nẫm đa ra cáp chỉ ra bô đa dĩ sử dả minh vĩ niệp tát phạ ra dã  sa địa kiêm dã na ma mạt lâm tát phạ một đà nẫm ra yết đơn dã tỉ dã na ma mặt lâm tát đạt ma tả dả đế thệ nẵng tát vam ra noả minh bá bà kiếm đát nể dã tha: Cụ chưng nghi nễ cụ chưng nghi nể ương cu lị mãn cu lị ma lợi chế bà ra nẵng xá phạ lị ra khất sái ra khất sái hàm cu ma rị thất rị ma rị nĩnh sa phạ ha.

Đây là Phật từ ấn
Là chư Phật tự chứng
Nếu thường hay nhớ niệm
Để làm các việc lành
Những kẻ khó điều phục
Muốn hại làm chướng nạn
Đều trở sanh lòng bi
Do chơn ngôn oai lực.

Lại dùng ấn trên, dấu kín móng các ngón, trỏ, vô danh, ngón giữa, móng ngón út lộ ra. Đây là Như Lai Vô Cấu ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm hồng mẫu ra đà ninh hộ rô hồng phấn tra sa phạ ha.

Khi hành giả ăn uống
Dùng chú nầy gia trì
Sau đó mới được ăn
Thân sạch sức lực mạnh
Các tội đều sạch trơn
Được mọi sự không ngại
Khi đang ăn nếu có
Các chướng nạn nổi lên
Tất cả đều tiêu trừ
Do Phật Vô Cấu ấn.

Lại như ấn trên, dấu móng ngón út, móng ngón cái lộ ra, đây là Như Lai Cam Lố Ấn. Do ấn này mau được giải thoát.

– Nẵng mồ tam mãn đà một dà nẫm. Um ấn nghi nĩnh bộ da nĩnh sa phạ ha.

Hai ngón tay cái để trong lòng bàn tay nắm lại thành Quyền. Nhập hai quyền lại là Như Lai Sư Tử Hống ấn.

Tất cả mọi kỳ trì
Cầu gì đều nên làm
Do trì Đảnh luân vương
Hay thành tất cả việc.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm kiếp tì la nhạ trí ra hồng phấn tra sa phạ ha.

Hai tay chắp lại bộng giữa, phải đè trái xoa ngược, đây là Kiết tường ấn sa phạ sa để ca Như Lai. Kiết tường ấn hay thành đầy đủ tướng đại nhơn.

Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm từ.

Lại dùng như ấn trên
Mười ngón đều mở ra
Hợp ngón cái ngón út
Các ngón khác hơi co
Giống như hình hoa sen
Đây là Liên hoa ấn
Như Lai Kiết Khánh ấn
Đủ phước đức nghĩa lợi
Đầy đủ phước như  vua
Cùng hữu tình nơi đất
Thành tựu đại cát tường
Hành giả chớ nên nghi.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm tô mạt lộ hám mi ra khất sái minh sa phạ ha.

Thành tựu phước không sa
Như phước đức Đại vương.

Như ấn trên, như hoa sen chưa nở, kết ấn để nơi tâm, đây là Bát Nhã Ba La Mật ấn.

Chú nầy oai đức lớn
Là mẹ của Chư Phật
Thường luôn nói Phật đạo
Quá, hiện và vị lai
Mẹ của tất cả Phật
Ấn đủ oai lực lớn

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm du rô để sa mật rị để vĩ nhạ duệ sa phạ ha.

Kim Cang Thủ! Đây là chú Bát nhã ba la mật. Quá khứ, hiện tại, vị lai tất cả chư Phật, Bồ tát, Bích chi, Thanh văn, đều tu bát nhã ba la mật. Được thành Phật, Thế Tôn, là do tu bát nhã ba la mật, được đại bồ đề đều do tu Bát nhã ba la mật.

Lại như ấn trên, co hai ngón cái vào lòng bàn tay. Đây là Như Lai Đại Bi ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm đát lăng nghi nĩnh sa phạ ha.

Lại như ấn trên, co hai ngón cái vào lòng bàn tay dưới gốc ngón út, đây là Như Lai Tất ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm nga bộ nghi nỉnh bát ra niệp bát đa sa phạ ha.

Lại như Tất ấn, hai ngón cái dựa gốc ngón vô danh, đây là Như Lai Khoả ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm đát lê đát lệ ôn đát lê phạ nhật ra mẫu khất sử ni sa phạ ha.

Lại như Khoả ấn, hai ngón để bấm nơi gốc ngón giữa, đây là Như Lai Túc ấn.

– Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm phạ nhật ra thương cu la bộ sử đế na ra nhập phạ la hồng sa phạ ha.

Bây giờ Thế Tôn bảo Bí mật chủ Kim Cang Thủ rằng: “Kim Cang Thủ, tất cả các đại ấn nầy từ thân phần của Như Lai lưu xuất các tướng đại trượng phu trang nghiêm. Thiên nam tử, các ấn nầy tất cả Như Lai đã nói, mỗi mỗi ấn có trăm ngàn cu chi ấn quyến thuộc đều từ thân phần Như Lai Phát sanh trong đời mạt pháp, các hữu tình trí huệ kém cỏi không thể hiểu biết hết được các phước lợi, liền nói kệ rằng:

Nếu thành Minh vương nầy
Sự lợi ích mọi người
Ta nay chỉ lược nói
Các ông nên thọ trì
Và cần lưu bổ rộng
Ấn đây là đại ấn
Có oai thần rất lớn
Khiến hữu tình đời sau
Tu trì cầu việc tốt
Nếu có thiên nam nữ
Thảy hay kết ấn nầy
Gia trì ở nơi thân
Thành tựu chơn ngôn lớn
Kim luân các Phật đảnh
Sẽ được vô lượng phước
Lại được trăm ngàn việc
Các tội đều tiêu trừ
Tất cả Phật Bồ tát
Thương xót mà giúp đỡ
Thường được túc mạng trí
Các căn đều đầy đủ
Tâm luôn được tinh tấn
Tất cả các chư Phật
Thảy đều nhiếp thọ cho
Được sống lâu trăm tuổi
Xa lìa các tật bịnh
Lại khiến cho chúng sanh
Xa lìa các ác thú
Đủ trí tuệ tinh tấn
Đủ oai đức mạnh mẽ
Được sanh các thắng xứ
Đầy đủ các nghề nghiệp
Hay trừ các tật bệnh
Ta nay chỉ lược nói
Tất cả Phật gia trì
Được thành Đại trương phu
Nếu hay dung Đại Ấn
Gia trì ở nơi than
Xưng tên mà đọc tụng
Xa lìa các chướng nạn
Các tội đều tiêu trừ
Các Phật đảnh đều thành
Chứng được Như Lai thân.

Kim Cang Thủ, đây là cách thức kết ấn tướng của tất cả Như Lai tộc Chơn Thật Đại Ấn, vì lợi ích các hữu tình tu Phật đảnh bộ, ta mới nói ra.

 

Phẩm thứ chín : Chư Pháp Thành Tựu

Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni xem khắp đại chúng vì các hữu tình đời mạt pháp sau nầy, bảo Bồ tát Kim Cang Thủ rằng: “Bí mật chủ, trong đời mạt pháp sau nầy các hữu tình hay giải đãi, nơi các pháp lành không tinh tấn, tham đắm ái nhiễm không ham cầu các việc thành tựu, không phát các nguyện rộng lớn, không có thương xót đến các hữu tình. Hoặc Bà la môn sanh dòng cao quí, hoặc Sát đế lợi, các hữu tình tin tưởng và phát tâm bồ đề ham muốn tu hành hạnh chơn ngôn để làm các lợi ích. Nay ta lại nói các công đức của Phật đảnh chuyển luân vương hay tồi tất cả Thiên Long, Dạ xoa, A tu la, điều phục hữu tình hay khiến chết, khiến sống, khiến thương-ghét, đi-đến, đều cột trói, hư hoại. Tất cả chư Phật Bồ tát đều khen ngợi các thần lực oai đức, tu hành các tam ma địa không ai hơn, siêu việt tất cả ma đạo, hiện thân Phật ở trong vô lượng kiếp không thể nói hết được. Đại giáo vương nầy, nay ta chỉ nói một chút ít. Kim Cang Thủ, ông nên cố gắnhg lắng nghe. Bấy giờ Như Lai nói kệ rằng:

Ta nay lại phương tiện
Tất cả Phật đã nói
Lợi ích các hữu tình
Trong trăm ngàn vô lượng
Tất cả các Như Lai
Cũng đều nói như  vậy.

Nếu có người đọc tung Chơn ngôn vương, xa lìa các sợ sệt, nếu thường tụng trì, tất cả các ma đều xa lánh, tất cả tội, tất cả ác đã làm đều tiêu diệt. Như trên đã nói, các pháp hoạ tượng, tuỳ nơi trước tượng đã vẽ ba thời tắm rửa, ba thời thay áo quần, ba thời y theo nghi quĩ tụng đủ 25 lạc xoa biến.

Biến số đủ rồi, sau đó ngày mồng một bắt dầu ngày tụng 1080 biến cho đủ một tháng lấy tô ma na hoa làm thành xâu, dùng bột đàn hương tô mạn đà la ba khuỷ, dùng các hương xoa, hương đốt, hoa quả, đồ ăn uống, dùng bơ thắp đèn đủ 1080 cấi, ngày tỳ xá khư bạch nguyệt, ngồi Kim Cang toạ niệm tụng cho đến khi hiện 4 tướng, như là : tiếng sấm sét, trong đàn các phan hướng lay động, Phật tượng phóng hào quang, Phật tượng lay động. Được các tướng như trên, ở trong các vật thành tựu đều được thành tựu, hoặc tụng cu chi biến làm pháp tiên hành, tụng 2 cu chi biến thành đại tiên hành, 3 cu chi biến hay thành tất cả việc, 4 cu chi biến tất cả Thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma lầu la dà đều bị nhiếp phục, được đại Tất địa.
Nơi bên bờ sông hoặc nơi bờ biển, tạo Như Lai thá,p ở trước mỗi tháp dùng các hương hoa cúng dường, tụng bảy cu chi biến sau đó tháp phóng quang, được phóng quang rồi nhập vào thân hành giả, thành tựu pháp ẩn thân, trong khoảng chốc lát đi khắp các thế giới, trong các loại không ai hơn được.

Thiên đế Thích mau lại
Phạm Thiên và quyến thuộc
Và Lạc biến hoá Thiên
Cùng Tha hoá Tự tại
Tịnh Cư cứu cánh Thiên
Các vị có oai đức
Chốc lát thảy đều lại
Nơi chỗ người thành tựu
Tất cả các Thiên Long
Thảy đều bị điều phục
Trong khoảng một sát na
Mưa xuống các thứ hoa
Cho đến ngục Vô gián
Thảy đều được mát mẻ.

Người tu hành khi tháp Như Lai phóng quang thân có đại oai đức, có đại thần thông trong các thiên không ai bì kịp, than màu vàng ròng, trẻ lại như đồng tử 16 tuổi, được tất cả Như Lai nhiếp thọ, được đại trí tuệ, được Như ý thông, đi lại như gió, oai quang thắng các thiên. Nếu có người thấy được kẻ thành tựu, thảy đều bay lên hư không làm Vua các Đại Trì minh thiên, có vô lượng trăm ngàn Trì minh làm quyến thuộc, dạo khắp vô lượng thế giới, dung than quang chiếu đến tất cả người thành tựu, suy nghĩ nhớ tưởng đều được thành tựu. Đi đến chỗ Đế Thích, Đế Thích chia toà cho ngồi, được mạnh mẽ, trí tuệ oai đức không ai bằng được, dùng nhân duyên nầy được phương tiện thiện xảo của Bồ tát, điều phục các hữu tình, sống lâu vô lượng đại kiếp, được thấy vô lượng chư Phật ra đời.

Ở nơi Phật thị hiện
Được không thể nghĩ bàn
Trời người đều cúng dường
Được đại tinh tấn thân
Trí tuệ cũng như vậy
Thần thông cứu hữu tình
Tu trì Phật đảnh luân
Đọc tụng thắng chơn ngôn
Diệt trừ các tham muốn
Mau được thành Thế tôn.

Bí mật chủ, phương tiện tu hành nầy, có Như Lai tên là Bảo Hoả, Bảo tràng Như Lai, Quang minh Tự tại Vương Như Lai, như vậy trăm ngàn Như Lai đều được thành tựu. Bồ tát Quán Tự Tại, Bồ tát Bất Động, Bồ tát Bộ Siêu Việt, Bồ tát Mạn Thù Thất lợi, vô lượng các vị Bồ tát khi còn làm thân người đã được thành tựu, cầu được Bồ đề. Bí mật chủ, Như Lai lúc làm thân người tu Phật nhãn đại minh, làm các khổ hạnh khó làm cố gắng mà được thành tựu. Vì thương xót chúng sanh, Như Lai Kim Cang Tràng xuất hiện nơi đời, lúc chánh pháp diệt, lúc đại bố uý chơn ngôn vương nầy cố gắng nơi vô thượng bồ đề nhất định thành tựu.

Nay ta lại nói sơ các việc thành tựu khác, tùy ý chọn hoạ một tượng, tụng đủ mười lạc xoa, niệm tụng đủ rồi. Ngày một. một ngày một đêm không ăn, dùng bạch giới tử bỏ vô lửa tụng 1080 biến, đem tro rãi khắp mười phương tức thành Kiết giới mạn đà la. Ởtrước Tượng dâng các món ăn uống đầy đủ cúng dường, để Ngưu hoàng hoặc Hùng hoàng nơi trên lá sen, ngồi Kim cang toạ gia trì nơi thuốc niệm tụng cho đến hiện ra ba tướng. Nếu tướng nóng hiện, tất cả chúng sanh đều cung kính. Nếu tướng khói hiện, được an đạt na thành tựu; nếu ánh sáng hiện, đem bôi nơi thân, thân như mặt trời; nếu tướng như đồng tử trên đầu có loa kế màu xanh, được vô lượng Trì minh Thiên vây quanh, thành đại Trì minh Thiên, sống lâu một đại kiếp.

Tháng thần thông ngày bạch phân, ba thời tắm rửa, ba thời thay áo quần, y theo nghi quĩ, phát lộ sám hối, tùy hỉ, khuyến thỉnh, phát nguyện, hồi hướng. Mỗi thời tụng 1080 biến cho đến hết tháng một ngày một đêm không ăn lấy tất sa tì nại dược y theo phân lượng, làm bát, cà sa, tích trượng tùy ý một ngàn tám bạt đà bộ ma.Trước Tượng, cúng dường các món đầy đủ, đem vật thành tựu để trong đàn trì tụng cho đến khi phóng quang, nếu cà sa hoặc tăng già y thì mặc, nếu bát hoặc tích trượng thì cầm, tức bay lên hư không, thành Trì minh Tiên đi khắp các cõi Phật, hay làm các việc biến hoá, sống lâu một đại kiếp.

Lại tạo mười vạn tháp, lấy 1 cây kiếm mới nơi trước Tượng, tháng thần thông bạch phần, ngày tám hoặc mười bốn làm tam bà đa hộ ma, gia trì nơi kiếm, trước Tượng dâng các món cúng dường. Ngồi toà cỏ, tay phải cầm kiếm niệm tụng, cho đến khi trong hư không có tiếng bảo rằng: “Đã thành tựu”, và tượng phóng hào quang chiếu thân hành giả, tức có A tu la nữ vi nhiễu làm quyến thuộc, tức bay lên hư không làm Trì minh Tiên hay hiện các thân hình, qua lại tự tại các thế giới, được vô ngại sống lâu một đại kiếp.

Lại nơi đỉnh núi cao, an trí Phật tượng, ăn trái cây và các rễ, tụng hai mốt vạn biến. Sau lại dùng phổ sa thiết tạo bánh xe, bát, cần nhờ người có đầy đủ các căn làm, làm xong đi đến nơi có cung A tu la, trước cửa cung để Phật tượng, thiêu cây khư đà la, ngồi trên toà cỏ tranh, tay phải cầm bánh xe, lấy dầu bạch giới tử trộn cây mà đốt hộ ma mười vạn biến. Tất cả thành vách A tu la ngữa nghiêng. Lại hộ ma mười vạn biến, trong cung A tu la phát lửa. Lại hộ ma mười vạn biến, tất cả A tu la nữ đều chạy ra khỏi cung cầu hành giả. Cần làm việc gì, vào trong cung hưởng các món dục, các bạn đồng hành đều được vào. Nếu người không vào tam muội do đàn thì không được vào, sẽ bị chết, cẩn thận nhớ lấy. Vào trong cung A tu la cầu kiếm thành tựu, bát thành tựu, và các thứ thành tựu khác, được các vật này làm A tu la trì minh Thiên vương, có vô lượng A tu la nữ làm quyến thuộc, được các vua A tu la cung kính, hay biến hiện các thân A tu la, sống lâu một đại kiếp; các kẻ theo vào sống một kiếp. Kẻ thành tựu Luân Vương chơn ngôn này, bánh xe của Na la diên cũng bị tiêu hại, nếu muốn được lại cũng tùy ý. Nơi Phật Ca Diếp tên là Trì Luân Minh Vương được luân thành tựu cầm luân mà ra do nhân duyên nầy ma gọi là Trì luân Minh vương, nơi thế gian nầy sanh lòng tin sâu xa, làm Phật Ưu bà tắc ca. Bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Lại nói pháp thành tựu
Chư Phật trước đã nói
Ta nơi lúc bấy giờ
Đã từng làm như vậy
Khổ nhọc cố gắng tu
Được thành tựu vi diệu
Nay lại muốn nói ra
Ta tên là hộ ma
Làm vua trong thành tựu
Ta nhớ lại khi xưa
Vì các ngươi mà nói
Thương xót hữu tình vậy.

Lại như nghi quĩ trên, bên bờ sông lớn hoặc bờ biển tạo 1008 tháp. Trước mỗi tháp dùng hương hoa cúng dường tụng chơn ngôn 10 vạn ba ngàn biến.

Nếu tạo các tháp nầy
Được các tiếng tốt lành
Phổ sa thiết làm luân
Nhờ thợ tạo cho đủ
Sạch đẹp và không dơ
Sáu căn đều đầy đủ
Đem để trong ngũ tịnh
Tam ba đa hộ ma
Tháng thần thông bạch phần
Đồng bàn giữ giới đủ
Y như pháp tu kiếm
Cho đến phát khói, lửa
Được thành tựu trì minh
Đầy đủ các trang nghiêm
Qua lại được tự tại
Oai đức đủ thần thông
Đồng bạn đại trượng phu
Trải qua các thế giới
Sống lâu thọ một kiếp
Làm thầy của mọi người.

Lại nói pháp thành tựu lớn. Trước cần làm pháp Tiên hành đầy đủ, sau đó ở bên bờ sông lớn hoặc bên bờ biển an Phật tượng, trước Tượng tụng một cu chi biến, sau lại tạo 10 vạn 6 ngàn tháp tức được thành tựu, lại nói kệ rằng:

Không chọn ngày và sao
Cũng không cần trai giới
Dùng nhiếp phạ chưa hư
Thành tựu mê đát ra
Tẩy tịnh và nghiêm sức
Ao mão và quần sạch
Y phép cầu Tất địa
Nhiếp phạ kia đứng dậy
Y nghi quĩ đừng sợ
Đồng bạn cũng y vậy
Hỏi việc tốt không tốt
Thuốc trường sanh thuỷ ngân
Giàu có pháp ẩn hình
Và mọi thứ phương tiện
Hỏi gì đều nói rõ
Niệm tụng đủ công đức
Luân Vương Đại lực minh
Đều vâng theo sai khiến
Ban cho các Tất địa
Làm theo ý mong muốn
Được các tất địa rồi
Thường theo ở hai bên
Đi đâu cũng vô ngại
Hoặc ở nơi miệng kia
Bỏ vào bột sắt mịn
Kẻ kia tức lè lưỡi
Như là hoa sen xanh
Dùng dao bén cắt lấy
Kẻ tu hành cầm lấy
Được thành kiếm trì minh
Thân như mặt trời mọc
Bay lên đảnh tu di
Đồng bạn cũng giống nhau
Chư Thiên đều sợ sệt
Tâm ngã mạn không còn
Vây quanh làm quyến thuộc
Đế Thích chia nửa tòa
Thân có oai đức lớn
Sáu mươi ngàn cu chi
Theo làm kẻ quyến thuộc
Làm chúa của chúng sanh
Sức lực rất mạnh mẽ
Oai đức rực rỡ khắp
Quyến thuộc rất đông vầy
Tất cả các mọi loài
Thiên tử có oai đức
Đi đâu thường đi theo
Oai lực như là Vua
Đi khắp ngàn cõi nuớc
Dùng sức thông thông lớn
Chấn động núi Tu di
Và cu chi các núi
Cùng ngàn Diêm bộ châu
Lay động trăm cung trời
Tất cả khiến lung lay
Hào quang chiếu khắp nơi
Cho đến các địa ngục
Dùng sức đại thần thông
Ban cho đồ ăn uống
Lại cho trí vi diệu
Oai đức như vua trời
Thân đầy đủ tướng tốt
Thiên nữ thường vây quanh
Thân oai đức vi diệu
Thân như màu sen xanh
Chốc lát đi khắp nơi
Vô lượng các thế giới
Sống lâu một ngàn kiếp
Được cúng dường chư Phật
Kiếp hoả không thể đốt
Cùng các đại quyến thuộc
Đi qua thế giới khác
Như vậy tất cả thứ
Dùng công đức trang nghiêm
Sẽ được thành Bồ tát
Cứu tế các hữu tình
Và người trì tụng cầu
Cố gắng mà niệm tụng
Cần nên tạo các tháp
Mười vạn sáu ngàn cái
Như Như Lai phân lượng
Nơi trong miệng nhiếp phạ
Bỏ vào bột sắt mịn
Liên tục mà niệm tụng
Tức nơi trên lưỡi kia
Hiên Chơn đa ma ni
Rực rỡ các công đức
Ân cần cầu gia hộ
Tức tay cầm bảo kia
Do được món báu nầy
Tức thành bảo trì minh
Tự tại làm vua lớn
Chấp kiếm Trì minh tiên
Luôn luôn theo ủng hộ
Lại ở nơi trong miệng
Sữa mè trộn vời bơ
Sẽ đứng dậy mửa ra
Hành giả nên hứng lấy
Đem đựng trong các món
Bằng ngói, đồng, bạc đẳng
Tụng trì mà giữ gìn
Cùng đồng bạn uống lấy
Tức được oai đức lớn
Sống lâu một đại kiếp
Được thành Trì minh Tiên
Hoặc lấy tay đè miệng
Cố gắng mà niệm tụng
Trong miệng nhỏ cục hương
Hành giả liền cầm lấy
Như trước cầu thành tựu
Hoặc hiện ra tướng nóng
Cầm lấy đi khắp nơi
Hữu tình và vô tình
Tất cả đều thương kính
Thành tựu không nghi ngờ
Hoặc là từ nơi miệng
Được ánh lửa hiện ra
Kiến kẻ tu hành kia
Được làm quyền trì minh
Lại nói thành tựu lớn
Đến bên bờ ao sen
Làm tiên hành pháp xong
An Phật t ượng nơi tường
Hành giả không tán loạn
Vì phước lớn mà tu
Tâm phải thường xả bỏ
Hoa sen hoà bơ mật
Giã nhỏ trộn đề hồ
Hộ ma năm lạc xoa
Mắt tượng tức mở ra
Tức biết được thành tựu
Được làm chủ một ấp
Xa lìa tất cả việc
Hộ ma mười vạn biến
Được làm người phước lớn
Hộ ma hai mươi vạn
Được làm vua một nước
Nơi chánh pháp độ người
Ham ưa việc bố thí
Gắng công mà tụng trì
Đại oai đức Luân vương
Cho thành tựu mọi việc
Nhất định không có nghi
Ta nay chỉ lược nói
Thành tựu pháp Luân Vương
Xưa ta đã thành tựu
Tất cả các Phật tử
Như Văn Thù Sư Lợi
Đắc Đại Thế Bồ tát
Hư Không Khố Bồ tát
Thảy đều trì chú nầy
Được xa lìa sanh tử
Được gặp các bạn lành
Được nhiều thứ thành tựu
Trong đây nói như vậy
Phật Đảnh Thắng chơn ngôn
Không ai vượt qua được
Trước nói pháp thành tựu
Trên hết trong các kinh
Cùng các thứ ấn khế
Dâng hiến lên Thế Tôn
Vì muốn thành chơn ngôn
Ấn nầy là trên hết
Oai đức sức lực lớn
Đã nói pháp thành tựu
Khó có đại kỳ trì
Đầy đủ mười tự tại
Mười lực như đã nói
Nếu người được tương ưng
Đế Thích còn hoại được
Huống hồ các loại khác
Nếu kẻ khó điều phục
Nên làm các loại pháp
Như vậy đủ mọi loài
Như Lai cho thành tựu
Dùng nghi quĩ kinh nầy
Tu tập cầu Tất địa
Không được cũng phải được
Huống nữa cầu thành tựu
Trong giáo vương kinh nầy
Nhiếp hết thảy các pháp
Pháp nhãn của chư Phật
Pháp đây rất thù thắng.

Bấy giờ Như Lai Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni xem khắp đại chúng, dùng kệ bảo Bồ tát Kim Cang Thủ rằng:

Phật Tiên Bảo kế trước đã nói
Nơi Khế kinh nầy để cảnh giác
Na la,Di lâu, Nhiếp phạ ra
Đống nga, Ma đăng già các chú
Cảnh giời nhỏ nhoi không sanh được
Không phải chánh pháp tam muội da
Ta vì nhiễm y mà nói ra
Những kẻ mê muội thiếu trí tuệ
Cùng tham sân si tất cả loại
Ở nơi chơn ngôn và giáo pháp
Tà kiến không bằng các hữu tình
Thế gian, xuất thế các hạng người
Nhiều phần trong đời còn ham muốn
Tiền bạc danh vọng các lý luận
Mạt pháp chướng nạn đạo khó thành
Nên phải tương ưng tam muội da
Cố gắng tu tập cầu Tất địa
Dầu ở trong mộng cũng không còn
Phải hiểu chơn ngôn Tam muội da
Pháp mạn đà la và nghi tắc
Sau lại luật nghi của chơn ngôn
Thân, khẩu, ý cần phải tương ưng
Nói ra pháp bí mật chơn ngôn
Cho kẻ du dà tu quán hạnh
Ở nơi Phật đảnh thường tu tập
Các pháp thành tựu trong chơn ngôn
Ở khắp mọi nơi và mọi chốn
Cùng các thứ luận vàn tốt xấu
Pháp vua, luật nước cùng hoạ vẽ
Thuốc thang, nghề nghiệp, đủ các thứ
Tất cả như trên Thế Tôn nói
Là để điều phục các hữu tình
Chư Phật trong đây đều nói vậy
Tất địa ba thứ cần phân biệt
Đời sau tin chắc pháp chơn ngôn
Thấy được nghi quĩ và ấn khế
Chỗ nơi tất cả khỏi ganh ghét
Chơn ngôn câu nghĩa thảy đều không
Ganh ghét phải chiêu nhiều chướng nạn
Nếu nơi văn tự, tâm do dự
Nơi pháp chơn ngôn nhiều phân biệt
Nếu ở chơn ngôn nhiều suy xét
Không được truyền cho ác luật nghi
Hạng chiên đà la không được nói
Vì những hạng nầy không thành tựu
Không được trao truyền cho kẻ ác
Vì không thành tựu lại hại thân
Các loại như trên phải cẩn thận
Tham đắm sân, si cũng chẵng thành
Dẫu có cố gắng cũng không thành
Dẫu muốn bao nhiêu cũng không được
Thế nào thành tựu cứu hữu tình
Ở nơi thanh tịnh và non núi
Năm trần lẫn lộn cũng khó thành
Khi đang niệm tụng tâm tán loạn
Những kẻ như vậy cũng không thành
Vì vậy nên cần chiết phục tâm
Ba thứ phỉ báng Như Lai nói
Đời sau cầu pháp các hữu tình
Người nầy nơi pháp hiểu tương ưng
Kẻ ở nơi tâm còn huỷ báng
Trong đời như vậy nói làm chi
Tự tánh xưa nay không có đến
Tự tánh nếu thành vua chơn ngôn
Tất cả thảy đều đầy đủ cả
Vì thế trong đời có hai luận
Tinh tấn và cầu có phước nhơn
Vì vậy không nên sanh phỉ báng
Có và không mọi người đều nghỉ
Như Lai nói ra các nghi quĩ
Nơi đời thương xót các hữu tình
Vô trí ngu si nhiều tội lỗi
Tu hành chỉ được Hạ Tất điạ
Tất cả các trời nên cúng dường
Không được lễ lạy, ta đã dạy
Và cũng không sanh lòng hủy bang
Và cũng không sanh lòng nghi ngờ
Trong vô lượng kiếp nói không hết
Chơn ngôn các hạnh là trên hết
Ta nói ba bộ trước tới sau
Trong đây có rất nhiều cách tu
Nên đúng sau trước mà tu hành
Chuyển luân vương giáo pháp ở đây.

 

Phẩm Thứ Mười : Thế Thành Tựu

Bấy giờ Như Lai Thích Ca Mâu Ni nhập vào tất cả chơn ngôn giáo chiếu diệu bất tư nghị cảnh giới Phật du hí thần thông tam ma địa, do nhập vào tam ma địa nầy hằng hà sa số thế giới chư Phật, Bồ tát cũng đều tam ma địa nầy. Bấy giờ Kim Cang Thủ thấy Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập vào tam ma địa, nhiễu Phật bảy vòng nơi trước Phật cầm chày Kim Cang, nhìn Phật chăm chú. Bấy giờ Thế Tôn từ tam ma địa mà ra, cùng tất cả chư Phật cũng đều ra khỏi định. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra khỏi định xong bảo Kim Cang Thủ bí mật chủ rằng: ” Bí mật chủ, ông hãy nghe đây. Giáo pháp lớn nầy tất cả Như Lai đã nói, năm Phật đảnh vương hay làm các việc kỳ trì vi diệu, đây chỉ nói sơ lược. Nếu có người muốn tu hành chơn ngôn thành tựu, trước sau cần phải y pháp mới được. Nầy Kim Cang Thủ! Trước nơi Nhất thế Phật đảnh vương phổ thông chơn ngôn, chương cú tối thắng tam ma địa chơn ngôn, thân phụng thỉnh.

Chơn ngôn rằng:

– Nẵng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa dã ế hê hế bà nga vản đạt ma ra nhạ bát ra để lệ ma ma ra già hiến đà sáp bà độ bà mạt lân tả hàm giả tì ra khất sái bát ra để hạ đa ma ra bà ra khất ra ma dã sa bà ha.

Đây là chơn ngôn phụng thỉnh phổ thông, nơi ứ già nên gỏ hoa màu trắng mà nghinh thỉnh.

Hương chơn ngôn:

 – Nẵng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa y hàm hiến diễm phổ sáp cam độ cam mạt lâm nễ bán dả bát ra để xa ha ra ha ra tát phạ một đà địa sắt sĩ để đạt ma ra nhạ bát ra để hạ đa dả sa phạ ha.

Nghinh thỉnh Hoả thiên chơn ngôn.

– Nẵng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa dã ê hê hế nho ma lị nĩnh ngân nẵng duệ sa bà ha.

Khi Phụng tống Hoả thiê, them câu: tha hê tha hê.

Biện Sự chơn ngôn

Nẳng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa dã. Úm tra rô mãn đà sa phạ ha.

Chơn ngôn nầy khi làm các sự việc nên dùng hộ than. Đây là Đại chơn ngôn làm đại nghĩa lợi, cũng gọi là Nhất thiết Phật đảnh tâm chơn ngôn.

Tồi hoại chơn ngôn:

– Nẵng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa dã. Úm vi chỉ ra độ nẵng độ nẵng.

Đây là Tồi hoại Đại minh vương Phật đảnh chơn ngôn, dùng trừ tất cả Tỳ na dạ ca, nếu bị chúng não loạn, dùng chơn ngôn gia trì nơi nước đem quán đảnh, cũng dùng hộ thân kiết giới, tất cả mọi việc cũng dùng.

Tồi hủy Phật đảnh chơn ngôn:

– Nẵng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa dã tát phạ vĩ diên nẵng vĩ trì vãm, sa nẵng ca ra dã tra rô tra dã sa phạ ha.

Dùng chơn ngôn nầy điều phục kẻ ác, hộ giúp đồng bạn gìn giữ các phương hướng. Các đại chơn ngôn trên nơi Luân Vương mạn đà la làm tất cả sự nghiệp, có đại oai đức. Hành giả trước phải suy nghĩ thế nầy: Ta muốn thanh tịnh, nơi niệm tụng nầy dùng bạch giới tử trộn tro hộ ma, dùng Tồi hủy Phật đảnh gia trì 108 biến hoặc dùng Biện Sự Phật đảnh chơn ngôn gia trì, đem tro đó rãi chung quanh tức thành thanh tịnh. Dùng bát đựng đầy nước, dùng chơn ngôn gia trì 108 biến rãi tán bốn phương hoặc dùng Tự Tâm chơn ngôn gia trì, nơi đó tức thành chỗ nhiếp thọ. Dùng Tồi hoại chơn ngôn gia trì bốn cái then bằng cây khư đà ra, đóng bốn góc tịnh thất tức thành Kết Giới mạn đà la.

Vô Năng Thắng Phật đảnh chơn ngôn:

– Nẵng mồ bà nga phạ đổ sắc ni sa dã tát phạ dát ra bà ra nễ ra dã. Úm xa ma dã xa ma dã hiến đễ nan để đạt ma ra nhạ bà xử đế ma ha vĩ nễ dã tát phạ ra tha sa đà nĩnh sa phạ ha.

          Dùng Hiền bình đựng đầy nước thơm gia trì 108 biến, dung Tự Hoán đảnh xa lià tất cả  chướng nạn Tỳ na dạ ca.

Đây là Vô Năng Thắng
Phật đảnh đại chơn ngôn
Hay đứt các chướng ngại
Thường dùng làm tức tai
Còn dùng trừ ác mộng.

Ta nay nói pháp tu hành công đức phổ thông một chút ít. Nếu chỉ nhớ niệm được hộ trì tự thân, đọc ba biến kết đảnh kế (búi tóc) dùng tro hoặc bạch giới tử gia trì bảy biến để nơi đầu được đại gia hộ, gia trì nơi dây 21 biến gút 21 nút cột nơi cánh tay tất cả tai hoạ, bệnh nóng lạnh đều tiêu trừ. Nếu tu sa ma tha tụng 108 biến nơi đó được ủng hộ tuỳ ý làm buôn bán với ma ha mãn sa.

Lại dùng bơ hộ ma tất cả chỗ đều tiêu trừ các tai hoạ. Muốn lấy phục tàng, dùng dùng bơ hộ ma 108 biến, tất cả chướng nạn đều xa lìa, hay hộ đồng bạn. Dùng bạch giới tử hộ ma 108 biến, tất cả chướng nạn điều tiêu trừ. Nếu biết chỗ có phục tàng, dùng sữa hộ ma 108 biến tuỳ ý lấy dùng không có chướng nạn. Lại nơi cung A tu la, tụng 30 vạn biến, tất cả cung điện đều bị phá nát, hoặc dùng bạch giới tử hoà muối, rô địa la tụng 1008 biến ngày 3 thời, qua 21 ngày trong cung đều bị lửa cháy. A tu la nữ bị đốt chạy ra khỏi cung, thỉnh hành giả vào trong thọ ra sa dược, trường sanh dược và các vật thành tựu hoặc kết Luân vương đảnh ấn, đánh nơi trước kẻ kia, tức té nhào xuống đất.

Lại ăn rau uống sữa tụng 30 vạn biến, được trường sanh dược, ngày nguyệt thực không được nhìn mặt trăng, gia trì nơi sữa 108 biến, xong rồi ba ngày ba đêm không ăn, thiêu dầu mè, bơ, lạc, mật, đốt a thấp phạ tha mộc hộ ma, từ sáng sớm bắt đầu cho đến tối, tức được làm vua.

Lại nơi đảnh núi, tạo tháp duyên sanh pháp thân, hoặc tháp xá lợi, trước tháp dung 100.000 hoa sen, mỗi hoa tụng 1 biến dâng cúng tháp tức được ma ha mãn sa lị chủ, nếu không thành tựu cũng được làm ấp chủ, thành chủ.

Lại dùng hoa sen trộn bạch đàn hương, đi vào sông lớn đến rún , mỗi biến gia trì nơi hoa mà cúng quăng vào nước cho đủ 100.000 số tức được phục tàng, nếu đem bố thí dùng mãi không hết.

Lại muốn thành tựu pháp kính ái, bạch giới tử hoà dầu mè ba thời hộ ma, mãn bảy ngày tức được vua chúa kính ái.

Muốn Bà la môn kính ái, dùng hoa trắng hộ ma, Sát lợi dùng hoa đỏ, Tỳ xá hoa vàng, Thủ đà hoa đen, muốn phụ nhơn, dầu mè đồng nữ.

Lấy yết ra vỉ, ra vị la hoa, ba thời hộ ma, mãn bảy ngày tất cả mọi người kính ái.

Dùng đường hào vĩ sa, lá khổ luyện hộ ma tức xua đuổi oan gia.

Dùng giới tử hộ ma tối thiết đốt rô.

Dùng tro thi lâm hộ ma khiến chết.

Dùng dầu giới tử hộ ma được Bộ đa quỉ kính ái.

Dùng uất kim hộ ma, Tì xá thi kính ái.

Kết tụng chơn ngôn thêm chữ: phạt trừ quỉ mị.

Lại đốt lá đổ la tư, quỉ mị hiện ra nói chuyện..

Tụng chơn ngôn thêm chữ “nhược“, khiến bị trúng độc mê man cũng trừ lành.

Tụng chơn ngôn thêm chữ “nặc“, độc không lưu hành.

Tụng chơn ngôn thêm chữ “mộ“, cấm độc rắn.

Dùng củi thi ma xá na vẽ đàn tròn, kêu rắn độc và quỉ mị lại cột trói.

Thêm chữ “ma” hay cấm khẩu.

Thêm chữ “tức” cột các sao ác.

Thêm chữ Tra bẻ gãy răng bén, thêm tốc tự khiến hại thân thể, thêm để sắt sa đế sát sá hay trói quỉ mị, thêm yết tra yết tra tức trói, thêm lạc khất sa lạc khất sa tức được hộ trì, thêm mãn đà mãn đà hoặc thâu đà thâu đà tức cấm hầu. Ngày nguyệt thực hoặc nhật thực, dùng lông công trước Phật tượng cúng dường, tụng chơn ngôn gia trì lông công cho đến hết nhật nguyệt thực. Cầm lông công nơi tay lay động hay hiện các việc hiễn hoá khiến kẻ bị độc sống lại, hay thành tất cả mọi việcùng muối và dầu mè hộ ma khiến oan gia bị quỉ bệnh và bị rét.

Dùng phân trâu làm hình kẻ kia, dùng dao chặt từng đoạn tức tùy ý họ bị đau nơi chặt, khiến chết.

Lại đốt các thứ cây, hoa, quả, nhựa cây khiến cầu tài bảo đều được.

Lại dùng dầu mè hộ ma, được tất cả tài bảo.

Thiêu cốt lụ thảo, được sống lâu.

Hộ ma cánh mể được con.

Thiêu mật được mọi người kính ái.

Thiêu bơ được oai đức.

Thiêu sữa được tức tai.

Thiêu lạc được tăng ích.

Trong bảy ngày, ngày ba thời dùng tất cả vật hoà bơ hộ ma, được đạt Tất địa.

Ta nay lại nói pháp thành tựu lớn như pháp Tiên hành pháp. Nơi đảnh núi trước Tháp xá lợi tụng 30 vạn biến, sau đó trước Tháp xá lợi dùng bông lúa mật, lạc, bơ hộ ma 1008 biến thành pháp Tiên hành. Pháp nầy thông dụng để cầu các pháp thành tựu.

Vào trong rừng sâu, không ăn tụng trăm ngàn biến, biến số đủ rồi cột búi tóc tức được ẩn hình, mở ra tức hiện.

Lại ở nơi đảnh núi, ngó mặt trời ăn rau uống sữa, tụng 10 vạn biến đủ số tức được ẩn hình.

Lại dùng tay trái nắm lại tụng 10 vạn biến tức được an đát đà na.

Ngày nhật thực dùng kiếp ba la, dùng tóc ma nổ sa làm bút dã ma nổ sa chỉ mà thiêu xông kiếp ba la, lấy khói đó gia trì điểm nơi mắt, tức được an đát đà na.

Lại lấy ma nổ sa tâm hoà ngưu hoàng làm viên, dùng ba thứ kim bao lại hắc nguyệt, bạch phần gia trì niệm tụng, thuốc phát ra tiếng, đem ngậm vô miệng được an đát đà na.

Dùng ngưu hoàng gia trì bôi thân được thành tựu trì minh, lại được tối thượng thành tựu.

Lại ngày nhật nguyệt dùng bơ, ngưu hoàng bỏ trong đồ bằng đồng mà niệm tụng cho đến khi hiện 3 tướng: nóng được văn trì bất vong; khói được an giác đà na; lửa được bay lên hư không. Như vậy, Hùng hoàng, Ngưu hoàng, Hoàng đơn và các thứ khác đều có 3 tướng thành tựu.

Dùng tô lạc đơn nhả na, 1 ngàn ba bà đa hộ ma, ngày hắc, bạch nguyệt cầu thành tựu, nếu phát khói được an đát đà na.

Lại dùng kiếm, bánh xe, tượng, gậy, da lừa đem các vật thành tựu đều tam bà đa hộ ma, y theo phép hoạ tượng ở trước, nếu không có tượng hoặc trước tháp xá lợi xa lánh các việc vô ích nơi núi sông thanh tịnh cần tu ba món thành tựu, ở trong các sự thành tựu, đây là tối thắng.

Lại dùng  nhiếp pha chưa hư rã, tắm rữa sạch sẽ nghiêm sức đầy đủ, dùng then khư đà la ma đóng giăng dây. Tháng hai, ngày hắc bạch chọn ngày tốt cùng đồng bạn hộ thân ngồi nơi ngực nhiếp phạ trong miệng mê đát ra đổ dầu mè sữa, chuyên chú niệm tụng mê đát ra, đứng dậy mà ói ra, dùng đồ bằng đồng hứng lấy mà uống tức được thành tựu.

Lại dùng bột vàng đổ vào miệng mê đát ra tức mửa ra các món vật, tức được Trì minh Tiên; nếu dùng bột sắt đổ vào miệng tức được kiếm.

Nếu dùng bạch giới  tử bỏ vào miệng tức được các món trang nghiêm, nếu đổ dầu mè vào trong miệng tức mửa ra trắp kinh, chơn ngôn, được thành Trì minh, bay trong hư không.

Lại dùng đè nơi miệng mê đát ra, niệm tụng gia trì cho đến ba tướng hiện động đậy, cầu gì đều nói, lại cho thuốc trường sanh. Đứng dậy tức làm sứ giả, hành giả muốn đi đến đâu, ngồi trên vai trời tùy ý mà đến, được thành Trì minh Tiên.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ Bí mật chủ rằng:

Bí mật chủ lắng nghe
Ta nay nói chút ít
Thông dụng cho tất cả
Thành tựu Pháp Phật đảnh
Tu ít được lợi nhiều
Chư Phật cũng đểu nói
Trong đây nói thế nầy
Yết nễ ca la hoa
Cùng tua nhị hoa sen
Tô rô đơn nhạ na
Dùng tam kim bọc lại
Viên các thuốc thành hoàn
Lựa chọn ngày nguyệt thực
Được ba món thành tựu
Nóng, khói, lửa trước sau
Nóng, mọi người kính ái
Khói được phép ẩn hình
Lửa bay lên hư không
Được thành đại Trì minh
Như sấm phát ra tiếng
Phướn, hoa lay động vậy
Là biệt tướng thành tựu
Tượng của Phật lung lay
Nếu thấy tướng không tốt
Không nên cầu thành tựu
Dâng hương hoa các thứ
Biến số cần nên làm
Pháp hộ ma tức tai
Cho đến bảy ngày đêm
Mới được cầu thắng pháp
Nên tạo tháp nhiều tầng
Thêm phước cầu thành tựu
Con vật và các tiếng
Nên biết thành, không thành
Sau đó cầu thành tựu
Niệm tụng số đầy đủ
Quy mạng được quả báo
Ban phước cho hữu tình
Chơn ngôn được thành tựu
Kẻ phàm phu ít phước
Trong đời có rất nhiều
Cần phải tu phước đức
Thành Phật, bi làm gốc
Lợi ích cho thế gian
Nên nói pháp chơn ngôn
Đế Thích các vua trời
Các vị có oai đức
Khi trì tụng chơn ngôn
Kẻ ở nơi cung vua
Do tin được ứng nghiệm.
Kẻ thành tựu được hộ
Đầ đủ món trang nghiêm
Kẻ thanh tịnh tu hành
Càng không nên nhiều chuyện
Do đây tâm tán loạn
Chả khác chi người đời
Thiếu huệ không phương tiện
Cho nên khi thành đạo
Các duyên không hoà hợp
Các thuốc và thuỷ ngân
Do làm sai không thành
Ba món rất vi tế
Uổng công không được gì
Nếu muốn lấy phục tàng
Tất có vua sợ sệt
Xem tướng tất sanh nghi
Sanh ra các do dự
Y thuật được thêm lớn
Do được thuốc trường sanh
Do trì chơn ngôn vậy
Tất cả đều có được
Sống lâu và quả báo
Như trên các món nghề
Rất nhiều không kể hết
Ở đây không nói hết
Không được phước tối thắng
Lại cũng không có phước
Là do tâm chấp trước
Chơn ngôn là trên hết
Tức được tăng phước đức
Quả Bồ đề tối thắng
Nghe nhớ mà tu hành
Được quả vị cao quí
Nơi đó các Thánh hiền
Vẫn thường luôn tới lui
Là vì kẻ tu hành
Đáng được xưng, khen, ngợi
Thành tựu quả thù thắng
Ta nay chút ít phần
Nói ra cho người biết
Còn nhiều nói không hết.

 

QUYỂN THỨ NĂM

Phẩm Mười Một: Vô Năng Thắng Gia Trì

Bấy giờ Thế Tôn xem xét Kim Cang Thủ Bí mật chủ, lại dùng kệ mà bảo rằng:

Đời vị lại sau nầy
Hữu tình ít tinh tấn
Ngã mạn, nóng giận ngu
Không chán nhàm tục lụy
Không y theo nghi quĩ
Tu tập hạnh chơn ngôn
Người trì tụng như vậy
Hộ ma để gia trì
Các ma luôn não loạn
Nên không thể nghĩ suy
Dùng minh giúp thành tựu
Hư uổng các công lao
Nên suy nghĩ thế này
Phàm phu nói như vậy
Vì muốn trừ các chướng
Cùng trừ các loại ma
Ta nói chú đại minh
Trước các Phật đã nói
Lợi ích các hữu tình
Là Vô năng Thắng minh
Nếu người thường nhớ niệm
Tuỳ thời mà sử dụng
Bị các loại ma chướng
Thảy đều tiêu diệt sạch
Tức nói câu chơn ngôn
Bấy giờ Kim Cang Thủ
Bí Mật chủ Dạ xoa
Sanh lòng rất vui vẻ
Đảnh lễ nơi Thế Tôn
Trí Đại giác trang nghiêm
Đây là Vô Năng Thắng
Là chú, con xin nghe.

Bấy giờ Thế Tôn tức nói Đại Vô Năng Thắng đà ra ni:

– Nẵng mồ ra đát nẵng đát ra dạ dã. Nẵng mồ tát phạ một đà mạo địa tát đát phệ tỳ dược, đát nễ dã tha: Nễ nỉnh nễ nĩnh nễ nẵng phạ lệ đát dả nẵng phạ lệ đát dã nghiệt đa sa ha nhạ đế tát phạ một đà nĩnh lệ vĩ đế a mục phộc a bát ra để hạ để a bà ra nễ đế vĩ ra nghi vĩ đa nga bà duệ vĩ ma lô nhỉ nại ra sa ra phệ bà phạ đế duệ ca mi lệ na dĩ đế nô ra, địa nga mê tát đinh dã nĩnh ra cu lê ma ra phạ ra vĩ na thiết ninh xá chỉ dã mẫu ninh tát đế nhạ sa phạ lệ nẵng vĩ rị duệ noã lạc khất sái, lạc khất sái ma ma tát bà lị phạ vãm, tát phạ đa tát phạ ca vam ra nhạ chủ rô na ca xứ lị dã thiết nĩnh vĩ quật tăng ha nhị dã khất ra sa lị tát lệ bạt nhi phạ sam đạt phạ nẵng nga dược khất sái la sát bà nhi để lị tì xá tả bộ đa a bát sa ma ra bố đạn nẵng, yết tra bố đan nẵng ca khu lặc da ổ sa đa ra ca mê đát ra khất rị đinh dã yết ma noã mãn đát ra dữu nga tổ lặc noã, dữu nga noã chỉ nễ dữu ô tổ ha ra tát phạ sa dã nạp sắt chú bát nại ra mạn bát tát phệ bạt dã tế biều. Nẵng mồ tuý đô đế bà nga phạ để ô nại ra tỉ nhĩ noã nễ lị nễ lị ra đát na cu ra sa ma thất rị đế nhị rị nhị rị a ca xá đà đô xử tả lệ xí rị xí rị tát phạ đát tha nghiệt đa rị dã thất ra ca lăng ca ra bộ để ni vĩ niệp vĩ dả rị dả bà ra hám ma đát tha nghiệt đa nỗ nghiệt đế vĩ thấp phạ tấn để dã phạ ra bà ra bà ra khất ra mê nẵng mồ bà nga phạ để bà ra nhỉ đế lạc khất sái lạc khất sái ma ma tát phạ nạp sắt chú bát nại ra phệ bà dã tế tì dược sa phạ ha.

Nói đà na ni nầy
Thế gian thảy đều nghe
Là Đại Vô Năng Thắng
Hay hoại tất cả ma
Hay tăng thêm sức mạnh
Trụ nơi tam muội hình
Tên là Vô Năng Thắng
Nói tâm đại minh đây
Sức thật là oai mãnh
Không khác gì chú trên.

Tâm minh Thế Tôn nói:

– Nẵng mồ tát đa nẫm tam miệu tam một đà cu tri nẫm tát thất ra phạ ca tăng già nẫm tát phạ mê ra bà dã đế đa nẫm vĩ bà thi nẵng tát đế hạ sa lặc dạ tả thỉ xí nẵng tát đát dã vĩ thấp phạ bộ bát ra chỉ nương dả chễ vảm khất đạt cu tôn na phạ lệ nẵng tả yết nặc ca mâu ni thỉ khất sái dã ca xá bà tả phệ noả ra tì cá chỉ dã tăng ha tả nhị lị nhị duệ noã tắc phạ sa để bà phạ đổ ma ma tát phạ tát đát phạ nan dã tát phạ bà dữu bát nại ra phệ tì dược đát nễ dã tha, nhạ duệ vĩ nhạ duệ nhạ diễn để vĩ nhạ diễn để a nhi đàn nhạ duệ nhạ diễn đế a nễ đế a bà ra nễ đế ma ra chỉ nương bát ra mạt na nĩnh duệ sa phạ ha.

Nói tâm chơn ngôn nầy
Là Ứng Chánh Đẳng Giác
Và bảy Phật Thế Tôn
Xưng tán các công đức
Nên nói ra đại minh
Lợi ích kẻ tu hành
Khắp tất cả thế giới
Sáu món điều chấn động
Tất cả cung điện ma
Cũng thảy đều chấn động.

Kim Cang Thủ, chơn ngôn chương cú nầy hết thảy chư Phật đều nói vì lợi ích chúng sanh. Bí mật chủ, nếu trì tụng nếu trì tụng Luân Vương Chơn ngôn hoặc các chơn ngôn khác, dung chơn ngôn nầy gia trì kết dây hoặc kết góc áo cà sa, hoặc kết búi tóc hoặc viết trên vỏ cây hoa đeo nơi cổ, cánh tay người đó mau được thành thựu. Bổn tôn mau hiện trước mặt, hoặc tụng đọc hoặc suy nghỉ. Kim Cang Thủ ! Ta không thấy các chúng ma, sa môn, bà la môn, nếu có chơn ngôn nầy gia hộ, hoặc uế, hoặc tịnh hoặc người, phi nhơn, hoặc con của ma, hoặc Tất xá dá, hoặc Tì na dạ ca, hoặc Dạ xoa, hoặc Cưu bàn trà hoặc La sát, các loại hữu tình khác lại làm chướng nạn. Nên nghĩ thế nầy: Đây là A tra ca phạ để cung không được vào, nếu có vi phạm chú và người tu hành tức là bị phạm vào Kim Cang tộc tự chủng tộc, thân tộc bằng hữu, không tha cho kẻ đó. Kim Cang Thủ! Chú nầy có oai lực lớn ở trong các sự nghiệp điều được ủng hộ. Ứng Cúng Chánh Biến Tri đã ấn khả, tất cả Bồ tát ấn khả.

 

Phẩm mười hai: Chúng học

Bấy giờ Thế Tôn biết hết thảy thế giới rồi, trừ hết thảy các chướng, lại bảo Bồ tát Kim Cang Thủ rằng: “Kim Cang Thủ, nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, muốn tu tập Phật đảnh bất tư nghị ấn tam ma địa, đều phải giữ gìn các luật nghi của mỗi giới. Nhu vậy, người tu hành trước cần phải nhập mạn đà la, thọ tam qui y, phát tâm Bồ đề, thành tựu mười nghiệp lành, cần phải giữ gìn cho kỹ, gần gũi phụng sự thiện tri thức, thường tu sáu niệm, quán pháp giới tự tánh như hư không, cần nhập vào Bát nhã ba la mật đa cảnh giới. Nơi các quán hạnh luôn luôn chăm chú không tán loạn, làm theo các hạnh chư Phật và Bồ tát đã làm, ở nơi vắng vẻ, không tiếc thân mạng, ba thời luôn luôn đầy đủ thọ tam qui, phát tâm Bồ đề, gìn giữ luật nghi, nghe được pháp Phật thâm diệu cần nhớ tu hành, theo 4 pháp nhiếp. Nơi trước Tháp Như Lai tạo mạn đà la, nơi chơn ngôn nghi quĩ thường luôn tinh tấn, giữ gìn thân khẩu ý luôn luôn thanh tịnh, không tham, không mạn, không nhiều lời, không tạp loạn, nơi các hữu tình khởi lòng thương yêu cung kính, hiều rõ mật ý của Như Lai. Ta nay nói sơ kẻ tu hành phải luôn luôn dõng mãnh, tinh tấn, nếu muốn tu Phật đảnh chơn ngôn hoặc các chơn ngôn khác đều y như trên đã nói, các công đức thảy đều thành tựu. Như trong kinh Phương Quảng đã nói các hạnh chơn ngôn cần nên theo đó tu tập, phải trụ nơi Bồ tát luật nghi để tự hộ trì”. Lại bảo Kim Cang Thủ: ” Y như hành chơn ngôn Phật đảnh tu hành được thành tựu, thân như mặt trời mọc, vàng ròng, anh lạc vòng xuyến đều là màu vàng Diêm phù đàn, các món trang nghiêm nơi thân đầy đủ, thân mặc áo trời, các tướng tốt đầy đủ, thân có trăm ngàn ánh sang như mặt trời hơn cả các thứ than.

Lại nữa Kim Cang thủ ! Thành tựu Trì minh Tiên, tất cả chúng sanh thấy đều vui vẻ, cũng như cây Như ý hay mãn tất cả các việc mong cầu. Lại nữa thành tựu Luân Vương Phật Đảnh Bồ tát ở nơi địa ngục mưa các thứ ăn uống ở cõi trời, lai hay ban cho các thứ chúng sanh cần sung, tất cả mong cầu đều được đầy đủ. Ta lược nói các kẻ kia có đại oai đức, kẻ thành tựu Đảnh luân vương chơn ngôn hay thảnh tất cả việc ưa muốn, tâm vừa khởi lên tức được đầy đủ. Lại thành Luân vương, đủ mười địa Bồ tát còn không dám trái mạng. Kim Cang Thủ! Nhất tự luân vương chơn ngôn là vua trong các chơn ngôn, chúa của các chơn ngôn lớn, nếu hay tu hành diệt trừ tất cả chướng nạn, diệt trừ các nghiệp đoạ vào nẻo ác, thành được chơn ngôn nầy tất cả thần thông đều được đầy đủ, chỉ trong nháy mắt lên đến Sắc Cứu cánh Thiên, tất cả chư Phật, Bồ tát, Thanh văn vui vẻ khen ngợi, đủ các hạnh Bồ tát, qua lại tự tại nơi các thế giới nơi các hữu tình tùy theo loại dùng các âm thanh mà nói pháp, dầu chỉ lược nói sự thành tựu các việc tối thắng rộng lớn vô lượng vô biên thế giới hữu tình cũng không thể hết. Bấy giờ Như Lai lại nói kệ rằng:

Tự tánh tất cả thảy đều không
Như vật báu tự chiếu ánh sáng
Như hoa sen xanh nở nơi ao
Siêu vượt khỏi bùn đủ các sắc
Kẻ kia siêu hơn chú thế gian
Chơn ngôn Tỳ nữu không bằng được.

Bấy giờ Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bí mật chủ, lại nói kệ rằng:

Lược nói pháp phổ thông
Bí mật kẻ dưới đất
Trước làm pháp tiên hành
Đây là việc tối thắng
Địa phương nói ba loại
Tỳ thấp và càn diệm
Đều dùng nơi cao ráo
Nơi các chỗ trời ở
Đây là đất tối thắng
Phương giữa nói ba loại
Kẻ trí nên quán xét
Tịnh không tịnh hai thứ
Thiên diệu có ba loại
Trong mỗi mỗi loại nầy
Mỗi loai lại chia ba
Suối, ao, biển, núi non
Được tối thắng thành tựu
Đủ đức tịnh không tịnh
Gọi là trung thành tựu
Nếu là đất thi lâm
Là chỗ không thanh tịnh
Pháp nầy ở mọi nơi
Thành tựu có ba loại
Ác vương, giặc, đói kém
Chổ nầy không nên ở
Hành giả có chướng nạn
Đất nầy chẳng nên ở
Mưa, nóng, lạnh quá nhiều
Nơi đây cũng nên xa
Ba thời nên niệm tụng
Nuôi dưỡng tâm ý vậy
Cần giữ đủ ba thời.

 

Phẩm Mười Ba : Hộ Ma

Lại bảo Kim Cang Thủ
Xa lìa pháp bí mật
Không thể nào thành tựu
Ở trong kinh giáo nầy
Vì thành tựu mà nói
Lư hộ ma bí mật
Cần phải kín đáo làm
Tức tai có ba loại
Một chỗ không nên làm
Nếu một chỗ hộ ma
Lư hộ ma cần phải
Nếu làm lư điều phục
Không nên làm tức tai
Như trong đồ có độc
Đựng sữa tất bị hư
Xem xét kỹ ba loại
Mà nói ba thứ lư
Các pháp khác cũng nói
Lư cần phải phân biệt
Theo đó mà nên dùng
Không nên có sai phạm
Nên dùng cốt lụ thảo
Và dùng với váng sữa
Ưu đàm và thiên mộc
Và các cây có nhựa
Lại dùng uất kim hương
Ba thời mà hộ ma
Vì muốn làm tức tai.
Được các việc lợi lạc
Nếu là các thứ thuốc
Nên dùng dầu mè đen
Trộn mật mà thiêu đó
Lấy bà la xa mộc
Lại dung bạch giới tử,
Hộ ma mà khen ngợi
Nơi trong ba loại pháp
Đều dùng bơ hộ ma.

Bấy giờ Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Thích Ca Mâu Ni bảo Kim Cang Thủ bí mật chủ rằng nơi trong pháp giáo vương tu hành vì lợi ích hữu tình vậy. Lại nói kệ rằng:

Ta nói chơn ngôn nầy
Đủ các thứ oai đức
Tu tập Phật đảnh vương
Và các chú chơn ngôn
Vô lượng đại kỳ trì
Và Phật nhãn các minh
Thành tựu các nghĩa lợi
Cùng với các ấn khế
Ta nói ở trước rồi
Phổ thông vua chơn ngôn
Vì người cầu thành tựu
Hộ các loại quả báu
Ta lại nói ấn khế
Vì muốn được thành tựu
Phổ thông Phật đảnh ấn.

Hai tay xoa nhau bên trong nắm lại thành quyền, hai ngón giữa dính đầu co tiết trên. Phổ thông Nhất thiết Phật đảnh ấn hay thành các việc nghĩa lợi.

Do được thấy ấn nầy
Cũng như được thấy Phật
Dạ xoa khó điều phục
 Rồng các chúng tu la
Tất cả loài la sát
Do ấn oai đức nầy
Hết thảy đều bỏ chạy
Đây là đại chơn ngôn
Hết thảy Phật đảnh tâm

– Nam mô tam mãn đà một đà nẫm. Ú tra rô mãn đà sa phạ ha.

Lại nói kệ rằng:

Nếu được thấy ấn nầy
Tức hay được an lạc
Hàng vua chúa người đời
Do đây được lợi ích
Nếu muốn cầu lợi ích
Quyết định đều phải được
Nếu được ấn khế nầy
Các khổ đều tiêu trừ.

Do Nhất thế Phật đảnh căn bản ấn nầy làm tất cả các sự nghiệp, người tu hành hộ được các căn.

Dùng căn bản ấn ngón giữa đưa qua lại tức là Nghinh thỉnh ấn, tất cả như nói ở trước mỗi mỗi đều có chơn ngôn. Kết căn bản ấn biến hết khắp chỗ hương hoa, hương đốt, hoa, đèn, đồ ăn uống đều dùng ấn nầy.

Lại dùng ấn trên, hai ngón giữa làm như cái vòng, dây là Thỉnh Hoả Thiên ấn, chơn ngôn ở trước nếu phụng tống Hoả thiên dùng ấn hướng ra ngoài mà bật, tức là phụng tống Hoả Thiên ấn. Lại như Biện sự Phật đảnh ấn, co ngón giữa bên phải tiết trên vịn tiết trên nơi mặt ngón giữa trái, đây là Tồi hoại Phật đảnh.

Hay làm việc kỳ trì
Hay làm tất cả việc
Hộ thân và kết giới
Tất cả thảy đều dùng.

Lại như Phổ thông ấn, ngón giữa phải co nơi tiết thứ ba để vào văn tiết thứ nhất ngón giữa trái.

Hay tịnh nơi chỗ ở
Dùng Tồi huỷ đảnh nầy
Nếu muốn cầu thành tựu
Kết Ấn hộ chỗ ở
Dời ngón trái như trên
Dùng Ấn để hộ xứ
Đây là Phật đảnh tâm
Lại dung Tồi hủy đảnh
Để mà tự quán đảnh
Ấn đây thường nên dùng
Nếu người được ấn đây
Dùng để tịnh nơi thất
Hoặc những khi tắm rửa
Cũng phải cần nên dùng
Sẽ không bị các chướng
Do tụng chơn ngôn đây
Trước sau mà dùng đó
Bổn bộ tam muội da
Đều dùng ấn như vậy
Kẻ tu tập chơn ngôn
Sẽ không bị ma chướng
Nơi Phật đảnh giáo nầy
Phật đã dạy như vậy.

Như trên hai ngón giữa để nơi lưng bàn tay như cái vòng.

Đây là Vô Năng Thắng
Hay diệt hết thảy tội
Như đã nói ở trên
Hay trừ các ác mộng
Hay thành việc kiết tường
Nên dùng đại ấn nầy
Lúc đi đứng nằm ngồi
Tự thân đều dùng đó
Hay trừ mọi thứ chướng
Nay ta chỉ lược nói
Nói rộng thật khôn lường
Ta nói lược nơi đây
Người tu tập Phật đảnh
Cùng Phật nhãn chơn ngôn
Cùng chung cầu Tất địa
Tất cả ở trong hội
Ta nói như ở trên
Tu các chơn ngôn được giải thoát
Tất cả Như Lai và Bồ Tát
Được mọi an vui và nghĩa lợi
Gia tăng tinh tấn và sức lực
Hữu tình cần cố nên tu tập
Phải trừ tất cả các nghi ngờ
Do đó cho nên Kim Cang Thủ
Lắng nghe ta sẽ vì ngươi nói
Ta đã nói lược nghĩa tương ưng
Đây là pháp bí mật chơn ngôn
Ba thời hộ ma dùng Thiên Mộc
Dầu mè cùng bơ sữa đem hoà
Đọc tụng hoan hỷ chơn ngôn vương
Nên nói thành tựu chơn ngôn chủ
Thành tựu niệm tụng và hộ ma
Ba loại ta nay sẽ nói ra
Trong đây nhất nhất phải y theo
Niệm tụng tu hành có ba loại,
Thân,khẩu và ý nói trước sau
Dùng để đạt được các mong cầu
Lại nói ba loại cần nên biết
Trên trời qua lại và dưới đất
Vì người thành tựu cho ba loại
Vì tu ba thứ và ba loại
Thành tựu các món như tiền tài
Nên mới cố công mà niệm tụng
Tuỳ theo tất địa mà dõng mảnh
Vì cầu tất cả được thành tựu
Phải nên y pháp tạo các pháp
Chánh kiến, đại bi cầu giải thoát
Người này thành tựu chẳng khó gì
Hiện đời được mọi sự an lạc
Đời sau nhất định được giải thoát
Xưa nay đã lắm người thành tựu
Do tu Phật đảnh đại kỳ trì
Ta cũng từng tu Phật đảnh vương

Bấy giơ Thế Tôn Thích ca Như Lai dùng Phật nhãn xem vô lượng vô viên thế giới, lại dùng kệ mà bảo Kim Cang Thủ rằng:

Các pháp đã nói xong
Luật nghi cùng nghi quĩ
Năng tác và sở tác
Ơ nơi giáo pháp nầy
Cần nên phải tu hành
Đây là Thánh Cam lộ
Quân Tra lợi minh vương
Dùng cho cả ba bộ
Ta nói pháp nghi quĩ
Nên theo đây tụ tập
Do sức của chơn ngôn
Tất cả chướng tiêu diệt
Minh Vương kinh có nói
Khế ấn Phẫn nộ vương
Trong đó các nghi quĩ
Đều y trong đây dùng
Không nên ăn uống tạp
Củ cải và nấm cây
Không dùng dầu xoa thân
Cũng không được ăn dầu
Cũng các món bất tịnh
Trong kinh đều cấm ăn
Người muốn cầu Tất địa
Cần trước nên tịnh thân
Dùng Vô Năng thắng minh
Và phải dùng ngũ tịnh
Ở trong mỗi nửa tháng
Như các kinh đã nói
Thảy đều phải tu hành
Nơi đây ta lược nói
Trong các kinh có dạy
Đây không phải nói rộng
Tất cả các Như Lai
Nói chơn ngôn pháp tánh
Chư Phật và Bồ Tát
Đã tu và đã nói
trụ nơi chơn ngôn hình
Du hành các thế gian
Nói rộng các nghĩa lợi
Vì những kẻ ít huệ
Nói ra các công đức
Ta nay nói chút ít
Để ngợi khen đó thôi
Dầu trăm ngàn kiếp hết
Công đức của Luân vương
Kỳ trì các pháp tánh
Công đức không nghĩ bàn
Không sở đắc, không tận
Nếu được giáo vương nầy
Người đó bằng Như Lai
Và bằng các Bồ Tát
Thiên, tu la kính lễ
Tâm không có thối chuyển
Thường được việc như trên
Đời trước đã tu tập,
Bồ đề làm tư lương
Do đây bí mật chủ,
Có sức đại oai thần
Được thân thường thanh tịnh
Gặp được giáo vương nầy
Tức là được tất cả
Chứng quả Lưỡng túc tôn.

Phật nói kinh này xong, Kim Cang bí thủ mật chủ cùng các Đại Bồ Tát, Tỳ Kheo, Thế gian, Thiên Long, Dạ xoa, Càn thát bà v.v… nghe Phật nói đều vui vẻ tin chịu vâng làm.

BỒ ĐỀ TRƯỜNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ
ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH
QUYỂN THỨ NĂM

Thích Quảng Trí dịch ra Việt – Mùa hạ Bính Tý 1996.