BÁT NHÃ ĐĂNG LUẬN THÍCH
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Kệ bản)
Bồ tát Phân Biệt Minh giải thích
Hán dịch: Đời Đường, Đại sư Ba La Phả Mật Đa La
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Phẩm thứ 1: QUÁN VỀ DUYÊN, phần 2

Lại nữa, có Tăng khư khác nói: Nếu công năng của các quả, trong duyên là không, nên duyên không sinh quả. Nghĩa như thế, là thành đối tượng thành của Tôi. Vì sao? Vì ông cho Thể của quả không sinh khởi, đó tức gọi là thường. Ông trước lập nghĩa tức là tự phá. Luận giả nói: Lời của ông là sai trái. Tất cả thời sinh khởi thảy đều ngăn trừ, vì vật chẳng sinh cũng không nói là thường. Vì sao? Vì vật không sinh, ở trong thế đế là không muốn có. Lại có Tăng khư nói như thế này: Tuy các duyên kia không thể sinh khởi quả, nhưng do có mắt, sắc, hư không, ánh sáng cùng tác ý, các duyên có tạo tác nên thức được sinh. Do vậy, muốn khiến có sinh có tạo tác, duyên ấy tạo tác cùng sinh. Tôi nay sẽ nói. Trong đệ nhất nghĩa có thức kia sinh, là sự tạo tác của tự quả. Vì sao? Vì do có duyên. Ví như chảo nấu cơm cháo nước gạo cùng củi lửa v.v… Các duyên đủ rồi, là có thể tạo thành cơm. Do nghiệm xét này nên nghĩa của tôi lập là thành. Luận giả nói kệ:

Trong duyên không tác giả.

Giải thích: Tôi không muốn khiến trong đệ nhất nghĩa có tạo tác, có thể thành cơm chín, do vô tác, nên thí dụ không thành. Thí dụ không thành, thì ông tức có lỗi. Vì sao? Vì chủ thể thành lập pháp là không. Do thành lập là không, nên trong duyên nhất định không sinh tác dụng của thức. Hoặc có hoặc không quả đều không khởi, như phần sau sẽ ngăn trừ về tác giả không khởi, nên nghĩa của nhân không thành. Trong đệ nhất nghĩa nên nói như thế.

Lại nữa, nếu ông chấp cho: Nói chung về tác giả, tức cùng với nghĩa trái nhau. Duyên kia là có, thì cảnh giới của thế trí, là tác dụng của thức sinh, cùng với các duyên ấy, thể không lìa nhau. Luận sư Phật Hộ, trong phần Hỏi, lại có ngoại nhân tạo sự giải thích nói: Hoặc tự khởi, hoặc tha khởi, lời ấy có nghĩa gì? Nghĩa này đối với Tôi là không có công dụng gì cả. Tuy nhiên, các duyên như mắt v.v… tạo nhãn thức sinh, như các yếu tố tạo thành cơm chín. Nhưng ngoại nhân kia, tạo sự thành lập ấy, đã nói là có Thể sinh khởi. Luận sư Phật Hộ, vì ngăn trừ luận điểm ấy, đã dẫn kệ bản nói: Tác giả trong duyên không. Vì sao? Vì đã sinh chưa sinh lúc sinh, thức có tác giả, điều ấy cũng không đúng. Luận giả nói: Luận điểm kia không tương ưng. Hai lời nói trước sau của các ông chỉ có lập nghĩa. Lại có Tăng khư khác nói: Ông đem lời này đặt để cho Tôi, ngăn chận trong duyên của Tôi không có nghĩa tạo tác. Tạo tác không sinh khởi nên thí dụ không thành. Nghĩa ấy không đúng. Nay có tạo tác hiện bày, làm sao nghiệm xét nhận biết? Là có tạo tác sinh khởi tự quả của thức kia v.v… Do tạo tác ấy, như việc làm có thể thành cơm chín. Luận giả nói kệ:

Lìa duyên cũng không tạo.

Giải thích: Duyên không nên cũng không cùng với duyên hợp mà riêng có tác giả, tức đều không. Như trước, trong phần duyên có tạo tác, đã thứ lớp nói về lỗi ấy. Lại có Luận sư giải thích kệ này nói: Tự thể của thức sinh tức là tạo tác. Luận giả nói: Như kệ trước nêu: Trong duyên không có tác giả. Lìa duyên cũng không có tác giả. Nếu nói có thức kia sinh là tác giả, thì nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì như thức là không nên tác giả kia cũng không. Nếu nói không có tác giả riêng, chỉ duyên là tác giả, thì cũng không đúng. Hoặc nói duyên không, tự thể tạo tác có tự thể: Luận sư Phật Hộ nêu: Tự thể kia cũng không duyên, vì có lỗi của tạo tác. Luận giả nói: Nếu cho không duyên nhưng có được tác giả, thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì nếu không có duyên, tự nhiên có tác giả, là không có nghĩa như thế. Luận sư Phật Hộ nói: Ở trong thế đế, làm sao có các duyên của tự tha tạo tác cùng nhân đối đãi? Có tạo tác như sát-na vô gián có thể khởi thể của quả. Đó gọi là tạo tác. Như nơi vị lai muốn khởi thể của pháp do tạo tác, được sinh ở trong thế đế, chẳng phải là không có tạo tác. Không đồng với ông chấp trong duyên có tạo tác, nên lời ấy không lỗi. Luận giả nói: Ông nay không nói về nhân duyên thí dụ, chỉ có lập nghĩa cùng với lỗi của tha, nên sự giải thích ấy không thành.

Lại nữa, Sư của Kinh Bộ nói: Có pháp khác khởi, như nhãn thức v.v… Vì sao? Vì do có tạo tác. Ví như chủng tử. Nhân duyên của đất nước lửa gió hòa hợp, nên có được mầm xuất hiện. Do đấy để đáp phần ông trước đã nghiệm xét, luận phá. Luận giả nói: Như kệ trước nêu: Trong duyên không có tác giả. Nghĩa này là thế nào? Nơi đệ nhất nghĩa là ngăn trừ sự sinh khởi ấy, vì sự tạo tác kia là vô thể. Chủng tử cùng duyên hòa hợp nên có tác giả, điều ấy không ứng hợp. Ông nói trong duyên nhất định có tác giả, nghĩa đó không thành, vì thí dụ không có. Ông trước đáp là không thể luận phá Tôi.

Lại nữa, có ngoại nhân nói: Như lúa gạo v.v… chân thật là có. Vì sao? Vì do tạo tác nên có. Ở trong thế đế, muốn khiến tùy thuận nơi thế đế như vậy, như chỗ mong muốn kia. Nơi đệ nhất nghĩa cũng lại như vậy. Ví như sừng thỏ. Do thí dụ thành nên nghĩa đã mong muốn được lập. Luận giả nói: Các ông an lập nghĩa tạo tác như thế, như lúa gạo v.v…, ở trong thế đế nói có tác giả, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Như kệ nói:

Hoặc có hoặc không tạo

Các duyên tạo chẳng thành.

Giải thích: Ở trong thế đế, sừng thỏ là không. Trong đệ nhất nghĩa, có cũng chẳng thành. Tạo tác cũng như thế, do vô thể. Ông nói do thí dụ thành, nên nghĩa đã mong muốn được lập, chuyển ngược hai lỗi này trở lại ở nơi ông.

Lại nữa, người của Tăng khư nói: Sừng thỏ vô Thể tức là Thể ấy. Làm sao nhận biết? Như Luận Tỳ Già La, trong môn thứ sáu, nói như vầy: Có dị biệt. Ví như hoa Ưu-bát-la xanh, so với sắc là khác. Luận giả nói: Ông nói chẳng khéo. Vì sao? Vì hoa, sắc hai thứ, thể là dị biệt. Trong đệ nhất nghĩa, điều ấy đều chẳng thành, vì không có thí dụ. Nếu ý của ông cho Tôi lập sắc v.v… là có Thể, không thể khiến ông hiểu. Như vậy, ông lập sắc v.v… là vô thể, cũng không thể khiến cho Tôi hiểu. Do đây kia đồng có lỗi, nên nay sẽ đáp ông: Nghĩa không đồng với lỗi. Vì sao? Vì pháp sinh khởi là có Thể. Như thế là đã ngăn trừ, huống chi là không sinh khởi, muốn khiến có Thể, nhưng hiện không ngăn chận. Có Thể không Thể, là ý của ông muốn hiển bày tướng khác. Tôi nay ngăn chận ông, tạo sự hiểu biết như thế này: Có Thể, không Thể là rơi vào hai biên. Tôi không đồng với ông chấp về có không, nên không rơi vào hai biên. Nghĩa này là thế nào? Ông lập có Thể, không Thể, khiến kẻ khác tin nhận. Do nghiệm xét là không Thể, nên không phải là chỗ mong muốn của Tôi. Do đó, điều ông chấp là không hợp đạo lý. Nghĩa của Tôi lập là thành. Ông nói đồng có lỗi, điều ấy lại không đúng.

Lại nữa, hoặc có các thuyết nói về sinh khởi, nên hỏi như vầy: Quả trước chưa khởi, thì các duyên kia là không tạo tác chăng? Là có tạo tác chăng? Nếu các duyên không tạo tác, không thể sinh khởi quả, làm sao gọi là không tạo tác mà sinh khởi quả? Vì công năng trong duyên là không, nên gọi là không tạo tác. Nếu công năng là không, tức không phải duyên kia có thể sinh khởi quả kia. Ví như hạt giống lúa mạch không sinh mầm lúa nếp. Điều này tức không như thế. Nếu có tác giả, thì nghiệm xét sự tạo tác có này, trong duyên là không. Do quả sinh khởi nên nói là có tạo tác. Lúc quả chưa khởi, thì không có sự tạo tác kia, do đấy nghiệm xét, nghĩa của nhân không thành.

Lại nữa, Sư của Kinh Bộ nói: Quả ấy lúc sinh khởi, các duyên có tạo tác. Do duyên này nên hỗ tương tùy thuận gồm thâu, quả tạo lợi ích khởi, chẳng phải là nhân không thành, đáp lại chỗ nghiệm xét cũng lập. Luận giả nói: Sư Kinh Bộ của ông muốn khiến trong đệ nhất nghĩa, các duyên như lúa gạo hòa hợp tụ tập, nên quả được khởi chăng? Nếu nhất định như thế th2 các nhân duyên này, cho đến chưa có thể khởi quả, từ đấy trở về trước, những thứ lúa gạo đó vì sao không gọi là phi duyên? Không có sự việc này, là duyên như thế. Ví như cho đến chưa theo kẻ khác thọ học, vì sao không gọi là người vô trí? Nghĩa này là chẳng thành.

Hỏi: Nếu như vậy thì quả trước chưa sinh khởi, tức các duyên chẳng phải là duyên. Tôi muốn như thế, vậy nên không có lỗi.

Đáp: Ông hết sức có lỗi. Vì sao? Vì ý của ông chỉ hiểu, quả trước chưa khởi, các duyên chẳng phải là duyên, nhưng không nhận biết duyên kia, nên vì sao lúc mầm sinh khởi, thì lúa gạo kia chẳng phải là tự tánh của duyên. Vì trong đệ nhất nghĩa, hoặc một hoặc khác đều không thể nêu bày. Như lúa gạo kia, lúc ở sát-na trước. Hoặc có thuyết nói: Chẳng phải tự, chẳng phải tha, chẳng phải cả hai cùng sinh khởi thể: Đây là thành chỗ thành của Tôi. Vì sao? Vì hai pháp nhân quả không thể nói là một, khác. Tuy không thể nói, nhưng cần phải đợi duyên kia mới có thể sinh quả. Người nói như vậy, là cùng giống với trước đã phá, cho vì sao mầm sinh khởi, cho đến lúc ở sát-na trước.

Lại nữa, nói có sinh khởi, cho là trong đệ nhất nghĩa, các duyên như nhập kia có thể khởi nội nhập. Vì sao? Vì do duyên. Như mầm của lúa gạo. Nếu không thể khởi thì duyên ấy tức chẳng phải là duyên, ví như sừng thỏ. Luận giả nói: Như ông đã nói: Nơi đệ nhất nghĩa, duyên kia là có. Duyên ấy ở nơi quả là có hay là không, là có không kết hợp, đều không ứng hợp. Như kệ nói:

Chẳng định có định không

Nghĩa các duyên nên thế.

Giải thích: Duyên này chẳng phải có, như chỗ chấp kia là không hợp lý. Nay sẽ hiển bày chỉ rõ về nghĩa ấy. Kệ nói: Duyên chẳng phải có, là những gì? Chẳng phải có ấy là như hoa đốm. Những gì là đúng? Là duyên ma lâu đa kia nên có thể nhận biết. Như thế, không một vật ấy, là duyên của hoa đốm, là duyên của sừng thỏ. Giải thích chẳng phải có duyên này, là nghĩa của lời nói gì? Ở đây là nghiệm xét về duyên như lúa gạo v.v… Trong đệ nhất nghĩa không phải là tự tánh có. Vì sao? Vì quả không phải là có. Như hoa đốm không phải là có. Hư không là vô thể, mầm cây v.v… như thế là chẳng phải có, do các duyên như lúa gạo v.v… là chẳng phải có, nên như hoa nơi hư không. Hoặc có người nói: Tôi không muốn khiến vật kia có pháp khởi. Ý muốn khiến pháp có thể khởi ấy được khởi, trước là vô thể. Luận giả nói: Ông cho là duyên chẳng phải có, đấy là những gì? Như bình chén kia v.v… trước lúa chưa sinh khởi tức không thể tướng. Đã không có tự thể, thì lại có những gì là bình chén y phục kia? Các duyên như lúa gạo v.v… muốn khiến pháp có thể khởi được khởi. Như vậy tức không có một duyên, nên biết về nghĩa ấy. Do trong đệ nhất nghĩa nghiệm xét về lúa gạo v.v… không phải là các duyên như mầm. Vì sao? Vì do trước chưa khởi, không có Thể. Ví như bình chén v.v…

Lại nữa, pháp nếu đã có, duyên cũng vô dụng. Vì sao? Vì có tự thể. Như vậy, ở trong thế đế, các thứ lúa gạo kia cũng chẳng phải là các duyên như mầm v.v… Vì sao? Vì do không quán xét về sinh khởi tạo tác. Như mầm cây kia đã sinh, cùng với bình chén, y phục khác v.v…, do nghiệm xét ấy nên nghĩa của nhân chẳng thành. Người của Tăng khư nói: Thật có Thể của vật, dựa nơi duyên tạo tác xong. Hoặc lúc trong duyên trước có quả vi tế, thời gian sau đợi duyên, khiến vi tế là thô. Ông nói đã có, duyên có dụng gì? Lời ấy là không đúng.

Luận giả nói: Người kia nói tạo tác xong, điều ấy trước đã ngăn trừ. Lại nữa, trước tế sau thô, hoặc có chẳng phải có, như trước đã nói về lỗi, nên lời ông nói là sai trái.

Lại nữa, Sư của Kinh Bộ nói: Lý thật nơi các duyên là chẳng phải có, chẳng phải không. Nói có không thì nghĩa không ứng hợp. Điều này lại là thế nào? Nghĩa là trong đệ nhất nghĩa, quả sinh khởi hiện tiền, các duyên hòa hợp, hỗ tương gồm thâu, có thể đạt được tự thể, do có duyên. Bấy giờ quả kia không được nói không, do quả đã khởi. Không được nói có, do chưa hiện khởi. Tôi muốn như điều ấy. Do nhân duyên này nên không có lỗi như trước. Luận giả nói: Đây cũng là tự phân biệt. Chẳng phải có, chẳng phải không, nghĩa của duyên nên như thế. Có cùng chẳng phải có, hai thứ là không, đều chẳng thể nêu bày. Ví như vật khác. Hoặc có chẳng có, cả hai cùng là chẳng phải duyên. Ý của Luận giả là như thế.

Lại nữa, ở đây chỉ là có cũng chẳng phải có, đều không thể nói. Vì sao? Vì có – chẳng phải có, phi chẳng phải có, vật như thế đó là không vật. Nghĩa là nhãn thức, hoặc mầm nơi duyên kia, tức là nhãn v.v… Các chủng tử v.v… không thể nói là thật. Vì sao? Vì do các quả kia, có cùng chẳng phải có, là không thể nói. Ví như vật khác. Người của Kinh Bộ không thể tránh khỏi lỗi. Lại nữa, tự tánh của có v.v… Thể là không. Ở trong thế đế, nghĩa của sinh được thành. Lại có Ni-kiền-tử câu thuyết nói: Quả kia: cũng có, chẳng phải có, do duyên. Ý của Tôi muốn như thế. Do đó, không có lỗi lầm như trước đã nói. Luận giả nêu: Các Ni-kiền-tử kia, hai lời nói có không, là phương tiện cùng nêu bày. Đây chẳng phải là xứ an ổn, nên nghĩa lập chẳng thành.

Như vậy là đã nêu luận phá chung các duyên. Nay sẽ luận phá riêng. Ở đây, quán chung về nhân duyên. Nếu có thể sinh duyên khác thì đấy gọi là nhân. Như thế là hòa hợp tự tại, sinh pháp phát khởi, chẳng phải một có thể sinh. Lại ngăn chận khởi kia. Tôi muốn như ở đây. Tức trong thế đế kiến lập nghĩa của nhân. Trong đệ nhất nghĩa, nhân chẳng phải là nhân. Nên nói như vậy. Nếu ý của ông cho nhân này có vật hoặc không có vật cùng có – không có vật, có thể sinh khởi quả, thì nghĩa ấy không đúng. Kệ nói:

Phi có, phi phi có

Phi có, không pháp khởi.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, tướng của pháp là như thế. Vì sao nói cho là nhân có thể khởi? Nên pháp kia chẳng phải là nhân. Như vậy, pháp kia chẳng thể khởi, tức có nên không. Cũng như tự tha, trước đã nghiệm xét luận phá. Hoặc có không cùng hợp, tức có hai lỗi, do đấy thể của nhân không thành. Nếu cho pháp đã sinh khởi nên nói là nhân, thì điều ấy cũng không đúng, do các tướng như có v.v… không khởi. Ở trong thế đế, do nhân có quả, nhân cũng như thế, quả khởi nhân thành. Lại nữa, người của Tự Bộ nói: Có nhân có thể khởi các nội nhập kia. Nghĩa duyên khởi này là do Đức Như Lai nói. Như Đức Như Lai nói là không thể biến dị. Ví như Niết-bàn tịch diệt. Nhân này có thể khởi, là nghĩa Nhân duyên. Đối tượng duyên của tâm tâm số pháp là nghĩa duyên duyên. Tâm tâm số pháp kia thứ lớp diệt, trừ tâm sau cùng của A-la-hán, là nghĩa Thứ đệ duyên. Hoặc pháp này có nên pháp kia được sinh khởi, là nghĩa Tăng thượng duyên. Do Đức Phật thuyết giảng nên có Nhân duyên v.v… là duyên nơi tự thể. Ông nói không thì nhân ấy chẳng thành, nghĩa lập bị phá. Luận chủ nói: Nghĩa của ông đã lập, ở trong thế đế có thể được như vậy. Nhưng do thí dụ có lỗi, nên điều đã nói không đúng. Vì sao ông cùng lập nghĩa của nhân này, vì nơi thế đế Đức Phật đã thuyết như vậy, hay là nơi đệ nhất nghĩa Đức Phật đã nói như vậy? Nếu trong thế đế nói như vậy: Thì nghĩa của ông nêu là tự hoại. Nếu nơi đệ nhất nghĩa thuyết giảng như vậy, thì đệ nhất nghĩa kia là chẳng phải có, chẳng phải chẳng có. Chẳng phải có nên không pháp khởi. Có, chẳng phải có ấy, tự tánh cũng có chẳng phải có, duyên của quả không thể được nên nhân không thể khởi. Nếu như thế thì vì sao nhất định nói nhân kia có thể khởi? Do nghĩa này nên nhân của ông không thành, vì cùng trái nhau.

Lại có người nói: Thọ ngăn chận phương tiện. Ở đây, trong Luận đã nêu rõ pháp là pháp vô tánh. Vô tánh nên cả hai củng được ngăn trừ. Hai, nghĩa là danh hiện rõ, cùng đối tượng nơi danh hiện rõ. Đối tượng nơi danh hiện rõ: Như trước đã luận phá. Danh hiện rõ, nay sẽ ngăn chận tiếp theo. Nếu nói chung về nghĩa, là chẳng phải có, chẳng phải chẳng có. Cũng phi chẳng phải có, phi chẳng phải chẳng có. Người đời đều muốn nhân có thể sinh khởi quả. Nhân ấy hoặc có chẳng phải có, có – chẳng phải có cùng hợp, quả tự tánh sinh đều không ứng hợp. Nhân nói là chuyển, nên nhận biết thể của nhân kia. Nhân như thế của nhân nên không tương ưng. Hoặc có người nói: Trong đệ nhất nghĩa, có các thể khởi. Vì sao? Vì có nhân. Như trước đã nêu phá, nên nhân kia không thành.

Lại nữa, có Luận sư khác nói: Hoặc có, hoặc chẳng phải có, hoặc có không cùng hợp, tự thể không sinh khởi nên chẳng phải là tướng của nhân, tức nghĩa của nhân chẳng thành. Giải thích như thế, nghĩa ấy không đúng.

Lại nữa, nay sẽ quán xét nghĩa của duyên duyên kia. Như duyên duyên ấy, cũng không như nhớ tưởng phân biệt. Kệ nêu:

Đức Bà-già-bà nói

Pháp chân thật không duyên

Thể pháp ấy như thế

Xứ nào có duyên duyên.

Giải thích: Nhãn thức kia v.v… chẳng gọi là duyên. Vì sao? Vì không có duyên duyên, nên chỉ là phân biệt hư vọng của tự tâm. Trong đệ nhất nghĩa đã ngăn chận pháp kia khởi. Lúc pháp kia sắp khởi, cũng chẳng phải là có thể duyên. Vì sao? Vì do sắp khởi. Ví như sắc pháp. Do nghĩa này, nên duyên duyên là vô thể. Chỉ ở nơi thế đế kiến lập tự tướng của mắt v.v… để giữ lấy, gọi đó là pháp. Như thức nhân nơi ánh sáng, sau đấy được khởi, nên gọi là duyên duyên, không như tài sản cùng chủ kết hợp. Nếu như thế thì pháp không có chủ thể duyên. Nơi đệ nhất nghĩa, thức của chủ thể duyên không thành. Như chỗ phân biệt, chủ thể duyên là không nên đối tượng duyên cũng không, do đối tượng duyên không có vật. Nghĩa ấy là như thế, ví như kẻ tạo ngũ nghịch, trọn không thấy đế. Do đấy, nhân kia chẳng thành, cũng cùng với nghĩa của duyên trái nhau. Lại có người khác nói: Nếu thuộc về sắc ấm, thì sắc không thể duyên, nghĩa ấy là tương ưng. Luận sư của các Bộ cũng nói như vầy: Những gì là pháp không đối tượng duyên? Nghĩa là sắc cùng Niết-bàn. Nếu ý của ông cho tâm tâm số pháp không có đối tượng duyên, thì chỗ mong muốn trước của ông tức là tự phá. Những gì là pháp có đối tượng duyên? Nghĩa là tâm và tâm số pháp. Luận giả nói: Lời của ông là bất thiện. Dụ của Tôi đã lập, nay lại làm sáng rõ. Ngoại nhân nói: Tâm tâm số pháp nhất định là có đối tượng duyên, chẳng phải như sắc được tạo, không có thí dụ. Lại nữa, đối tượng được giữ lấy, là đối tượng duyên. Luận giả nói: Như kẻ kia phân biệt về tâm tâm số pháp, có đối tượng được giữ lấy, sau sẽ lại luận phá. Như đạo lý của đệ nhất nghĩa đã nói, Tôi không muốn khiến thức có chủ thể duyên. Như Đức Phật đã thuyết giảng: Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát Dũng Mãnh nên hành như thế. Sắc chẳng phải là đối tượng duyên. Vì sao? Vì tất cả pháp là không có đối tượng duyên, không có một chút pháp nào có thể giữ lấy. Pháp kia nếu có thể giữ lấy thì đấy tức là đối tượng duyên. Như vậy, này Dũng Mãnh! Chẳng phải sắc hành sắc, cho đến chẳng phải thức hành thức. Này Bồ-tát Dũng Mãnh! Tất cả pháp chẳng hành, nên chẳng phải là sắc thấy, cũng chẳng phải là thức thấy, cho đến chẳng phải là thức nhận biết, cũng chẳng phải có thể thấy. Nếu sắc đến thức không phải là biết, không phải là thấy, thì đó gọi là Bát nhã Ba-la-mật. Quán về đối tượng duyên xong.

Lại nữa, như ông phân biệt về Thứ đệ duyên: thì đây hợp với quán đế, tướng ấy như thế nào? Trong đệ nhất nghĩa, hết thảy loại cùng tất cả pháp kia đều ngăn chận, không sinh khởi. Do duyên ấy nên như kệ nói:

Các pháp không khởi diệt

Nghĩa này tức không đúng

Pháp diệt tức phi duyên

Cùng những gì Thứ đệ?

Giải thích: Nghĩa này là thế nào? Do không sinh khởi, như đầu thứ hai. Không thể nói là diệt. Vì vậy, trong đệ nhất nghĩa, Thứ đệ duyên, ở đây là không tương ưng. Như thế là nghĩa kia chẳng thành, do trái nhau. Thuận theo pháp ấy để nêu bày, nếu ông muốn được tâm tâm số pháp của thứ đệ diệt ấy là Thứ đệ duyên: Thì nghĩa đó chẳng đúng. Vì sao? Vì thể ấy đã diệt. Như thức từ lâu đã diệt, cũng như sắc pháp, do chẳng phải duyên. Ở đây, sắp sửa khởi tâm tâm số pháp, nhưng vật kia diệt thì pháp nào làm duyên? Do chẳng phải duyên này, nên pháp kia diệt, cùng pháp sắp khởi, không thể tùy thuận gồm thâu. Ý ấy là như thế. Chẳng phải là Thứ đệ duyên, cũng chẳng phải là duyên chung. Hoặc có tâm như thế sinh khởi do nhân duyên hiện có quyết định, mỗi mỗi đều tự tại, cùng với xứ của thể sắp khởi. Lúc duyên sắp diệt, vì tạo lợi ích, nên sát-na quá khứ còn lại kia, do không gián đoạn nên Thứ đệ duyên thành. Vì thế không có lỗi. Nghĩa ấy là không đúng, do chẳng phải là xứ vô trụ của sắc pháp. Sáu thức thứ lớp diệt, đây gọi là ý. Ý diệt như thế là Thứ đệ duyên, tức không tránh khỏi lỗi. Nếu ý của ông cho pháp kia sắp diệt là Thứ đệ duyên, thì ông lập duyên ấy chỉ có nơi ngôn ngữ. Vì sao? Vì do pháp ấy là đồng thời, chẳng phải là Thứ đệ duyên.

Lại nữa, pháp diệt tức không phải duyên cùng những gì là thứ lớp? Có giải thích khác nói: Đây cùng với âm thanh và quả chưa sinh khởi. Nên nhận biết như thế. Nghĩa ấy là thế nào? Pháp kia diệt chưa khởi, chủng tử – mầm, cả hai đều là vô thể, cùng là không nhân. Chủng tử cùng mầm diệt khởi, là cả hai cùng rơi vào trong lỗi ấy. Luận giả nói: Người kia lập nghĩa này, gọi là diệt. Nhân nơi diệt vô thể cùng không trụ, nên khởi tạo tác, khởi phân biệt. Do không nhân nên diệt, khởi hai thứ cùng mắc lỗi như vậy. Nói như thế là không đúng. Do không có lỗi nên đối tượng thành, chủ thể thành, nghĩa của lời nói hiển bày. Vì điên đảo nên mắc phải lỗi lầm gì? Nay sẽ lập xét. Diệt kia chẳng phải là duyên. Vì sao? Vì do nhân là có. Ví như tâm tâm số pháp chưa diệt. Lại không nhân sinh khởi. Do nhân là có, nên nói hai lời ấy là không tương ưng. Nghĩa này là thế nào? Lời nói trước, là nghĩa của nhân chẳng thành. Lời nói sau, tự nghĩa trái nhau. Cho tất cả pháp sinh khởi là ngăn chận, nên kệ này cũng ngăn chận. Thứ đệ duyên là mắc phải hai lỗi như thế, tức lỗi nghĩa của nhân chẳng thành và lỗi tự nghĩa trái nhau. Như vậy là phân biệt về Thứ đệ duyên xong.

Lại nữa, Tăng thượng duyên: Tướng ấy như thế nào? Nếu có pháp này thì pháp kia được sinh khởi, gọi là Tăng thượng duyên. Nghĩa theo ông là như thế. Nay trong đệ nhất nghĩa, pháp của duyên không khởi, khiến tha hiểu rõ các pháp như huyễn, tự thể vốn không, chẳng thể thủ đắc. Như kệ nói:

Các pháp không tự Thể

Tự tướng chẳng phải có.

Giải thích: Do nghĩa này nên tự trong Đại thừa, chẳng phải riêng nơi đệ nhất nghĩa đế các pháp không sinh khởi. Ở trong thế đế, nhân có quả khởi cũng không thể thủ đắc. Kệ nêu:

Đây có pháp kia khởi

Nghĩa này tức không đúng.

Giải thích: Do nghĩa ấy nên nhân kia có lỗi lầm, ông không thể lìa bỏ. Lại nữa, trí không phân biệt của Đức Phật – Thế Tôn là thiện xảo an lập, giáo hóa những người nơi thế gian không tin pháp thâm diệu, vì an ủi họ, nên đã dùng vô số lời tán dương các công đức thù thắng của Niết-bàn tịch diệt, là pháp của thế đế, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Do trong đệ nhất nghĩa, tự thể của Niết-bàn kia là không. Ví như vô thể, nên nhân chẳng thành. Hoặc có người muốn khiến, ở trong thế đế, các pháp có Thể, ví như Niết-bàn tịch diệt. Những thứ ấy, như phần Thí dụ ở trước đã nói về lỗi lầm. Nêu các thứ lỗi, họa của vô thường, là chê trách pháp hữu vi, không khiến ưa thích chấp trước, là để khuyến dụ các chúng sinh kia, vì nói về công đức tịch diệt của Niết-bàn. Là thuộc về thế đế, nên nói Niết-bàn là hữu thể. Nơi đệ nhất nghĩa đế, Niết-bàn kia thật sự là vô thể. Ý của ông đã muốn, về nghĩa là chẳng thành. Các duyên như vậy là đã ngăn trừ xong.

Lại có ngoại nhân nói: Trong đệ nhất nghĩa, có duyên có thể khởi các nội nhập như mắt v.v… Vì sao? Vì quả ấy có thể khởi, như mầm v.v… của lúa thóc. Nếu là không, thì quả không được khởi. Ví như lông rùa không thể làm y phục. Luận giả nói: Ông cho là có, tức trong mỗi mỗi duyên, có tự thể của quả, vì các duyên hòa hợp nên có tự thể của quả, hay là trong mỗi mỗi duyên không hòa hợp thì cũng không có? Nên hỏi như thế. Ngoại nhân nói: Ông vì sao nêu câu hỏi ấy? Luận giả nói: Nếu là có, thì như trước đã ngăn trừ. Quả nếu là có, thì duyên còn có dụng gì. Nếu là không, cũng như trước đã ngăn trừ. Quả nếu là không, thì duyên lại có dụng gì? Như kệ nói:

Chẳng một, một hòa hợp

Trong các duyên có quả

Như thế tức phi duyên

Làm sao quả được khởi.

Giải thích: Trong đệ nhất nghĩa, quả như thế như thế là không sinh khởi. Nơi các duyên là không. Nghĩa này là như vậy. Như trong bùn đất không có lạc, không thể sinh tô lạc, do chẳng phải là nhân.

Nếu trong lúa thóc không có Thể của mầm kia, như thế là được sinh. Ở trong phần thế đế, trí tuệ của phàm phu đồng hành thấy biết. Muốn khiến trong đệ nhất nghĩa có các nội nhập như mắt kia v.v… sinh. Nghĩa ấy không đúng. Như kệ nói:

Nếu quả trong duyên không

Quả kia từ duyên khởi

Trong phi duyên cũng không

Vì sao quả chẳng khởi.

Giải thích: Kẻ kia nói như thế, là lỗi lầm sinh. Như trong phi duyên không có quả. Trong các duyên cũng không. Ví như âm thanh kia, tạo tác nên là vô thường, có chỗ thực hiện gì? Bình chén là tạo tác, nhưng chẳng phải là vô thường, như trước đã nói. Âm thanh là vô thường. Vì sao? Vì do tạo tác. Ví như bình chén. Nghĩa ấy nên nhận biết. Nếu do phương tiện này, trong đệ nhất nghĩa, mầm v.v… hiện không, nhưng từ hạt thóc v.v… sinh, thì mầm v.v… kia, nghĩa không ứng hợp. Vì sao? Vì do quả. Ví như lạc (sữa). Thế nên chẳng phải có, do không thoát khỏi lỗi như trước đã nêu.

Lại có người cho: Trong đệ nhất nghĩa có ngã của nội nhập kia. Như vậy là thọ nhận duyên chuyển khác. Như đất bùn làm bình chén. Luận giả nói kệ:

Duyên cùng tự tánh quả.

Giải thích: Đây cho là duyên kia chuyển khác. Kệ nói:

Các duyên không tự Thể.

Giải thích: Đây cho là duyên không có tự tánh. Nghĩa của kệ là như thế. Ví như sống trở lại, chuyển làm tâm Bà-la-môn. Tự thể của duyên kia là không thể thủ đắc. Như trước đã nói. Kệ nêu:

Nếu duyên không tự Thể

Làm sao chuyển thành quả.

Giải thích: Đây là nêu rõ, trong đệ nhất nghĩa, duyên không chuyển biến, vì thể của quả kia. Nghĩa của kệ là như thế. Ví như Đề-bà-đạt-đa, là đồng tử phạm hạnh. Vì sao Da-nhã-đạt-đa là đứa bé kia? Lại như Huyễn chủ hóa làm cục bùn. Vì tự thể kia là không, có thể sinh ra bình chén v.v… Như pháp kia chuyển biến, ở trong thế đế, Nhất thiết trí đều không thể tin. Thế nên phi duyên chuyển biến làm quả. Như vậy là thí dụ vô thể, pháp của đối tượng thành, chủ thể thành là không. Nghĩa của nhân như trước là không thành, cũng có lỗi là trái nhau. Ngoại nhân nói: Nếu tự thể của duyên không chuyển làm quả, thì thể của duyên có thể là không, nhưng quả thì không mất, do pháp kia không ngăn trừ tự thể của quả. Như nghĩa của Tôi lập, trong đệ nhất nghĩa có các nội nhập. Vì sao? Vì do quả. Ví như mầm v.v… Luận giả nói kệ:

Chẳng không duyên có quả.

Giải thích: Không duyên chuyển biến nhưng có quả: Là ở trong thế đế, cũng không thể tin, huống hồ là ở trong đệ nhất nghĩa đế kia, mà có thể tin chăng? Nghĩa này không thành.

Người ngoài nói: Nếu trong đệ nhất nghĩa, thể của duyên là không, nhưng phi duyên kia tự thể là chẳng không, tức phi duyên này là điều Tôi mong muốn. Do đấy, nghĩa của phi duyên là thành. Luận giả nêu: Chỉ ngăn chận thể của duyên thì không có phi duyên. Há dùng phi duyên để khiến ông hiểu chăng?

Lại nữa, mở ra hợp lại, kệ nói:

Sao có duyên, phi duyên.

Giải thích: Các duyên, phi duyên, tự thể là chẳng có. nghĩa của kệ là như thế.

Lại nữa, Tôi trước đã ngăn trừ có cùng chẳng phải có, đều không có quả sinh khởi. Do nghĩa ấy, nên quả không có tự thể. Quả đã không có Thể, thì duyên tức phi duyên. Xứ nào có Thể của duyên kia có thể đạt được? Nghĩa của lời nói như thế, vốn là không thật có, chỉ là âm thanh của tâm ấy cùng với nhân khởi, nói quả không có tự tánh, do thể của duyên là không.

Lại nữa, từ trước đến giờ là ngoại nhân đã nói về bốn thứ duyên khởi, là Nhân duyên, Duyên duyên, Thứ đệ duyên và Tăng thượng duyên, tự thể có sai biệt. Ngăn trừ chỗ lập ấy, để nêu rõ về nghĩa không khởi. Thế nên, phẩm này quán các duyên khởi, nghĩa không khởi thành. Như trong các kinh Đại thừa đã nói. Kệ nêu:

Nếu các duyên khởi, chúng không khởi

Tự Thể khởi ấy không thủ đắc

Nếu duyên tự tại nói không kia

Hiểu không, gọi là chẳng phóng dật.

Nếu người biết không một vật khởi

Cũng lại biết không một vật diệt

Chúng chẳng có nên cũng chẳng không

Thấy thế gian kia đều vắng lặng.

Xưa nay tịch tĩnh không các khởi

Tự tánh như thế đã Niết-bàn

Hay làm nương dựa chuyển pháp luân

Thuyết các pháp không, khai thị chúng.

Có không chẳng khởi cùng cũng không

Chẳng phải có – không, xứ không khởi

Nhân duyên thế gian đều như vậy

Chỉ do phàm phu vọng phân biệt

Pháp thường không khởi là Như Lai

Tất cả pháp kia như Thiện Thệ.

Lại nữa, như trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật nói: Này Vănthù-sư-lợi nên nhận biết như thế! Tất cả pháp kia không sinh (khởi) không diệt, gọi là Như Lai. Lại như trong Kinh Phạm Vương Vấn nêu rõ: Tất cả ái của xứ kia diệt hết nên gọi là không khởi. Xứ ấy nếu không khởi tức là Bồ-đề. Thế gian điên đảo, hư vọng dấy khởi, còn trong đệ nhất nghĩa thì Phật không xuất thế, cũng không Niết-bàn. Từ xưa đến nay không có khởi diệt.

Lại như kệ của Kinh Phạm Vương Vấn, nói:

Đã hiểu rõ các ấm

Không sinh cũng không diệt

Tuy hành nơi thế gian

Pháp thế gian không nhiễm.

Các Kinh như thế, ở đây nên nói rộng.

Đã giải thích xong Phẩm Quán Về Duyên.

HẾT – QUYỂN 2