bát nhã bồ tát

Phật Quang Đại Từ Điển

(般若菩薩) Phạm: Prajĩà-pàramità. Gọi đủ là Bát nhã ba la mật đa Bồ tát. I. Bát nhã bồ tát. Dịch ý là dùng trí tuệ vượt sang bờ bên kia. Là tên gọi chung các bậc thánh loại này. Kinh Đà la ni tập quyển 8 (Đại 18, 852 hạ) nói: Phật, Bát nhã, Bồ tát hoặc Kim cương, tùy nơi ý muốn mà làm pháp hội. II. Bát nhã bồ tát. Một trong mười Bồ tát Ba la mật, là quyến thuộc của Quan âm nghìn tay. Ngồi ở chính giữa viện Trì minh trong Hiện đồ Thai tạng giới mạn đồ la Mật giáo, hoặc được đặt ở mé nam trong viện Hư không tạng. Bồ tát Kim cương ba la mật đa trong kinh Nhân vương bát nhã là cùng một thể với vị tôn này. Mật hiệu là Đại Tuệ Kim Cương, là vị tôn trong viện Trì minh của Thai tạng giới mạn đồ la. Hình tượng vị này là ba mắt sáu tay, đầu đội mũ báu, mình màu da người, mặc áo giáp. Khuỷu tay trái thứ nhất co lại, cầm Phạm khiếp để ngang ngực; bàn tay thứ hai ngửa lên đặt ở dưới rốn, ngón áp út của tay thứ ba co lại, bốn ngón còn lại thì duỗi thẳng. Ngón trỏ của tay phải thứ nhất co lại, bốn ngón kia dựng thẳng, tay thứ hai thõng xuống đặt trên đầu gối, duỗi năm ngón và mở ra, làm ấn ban nguyện ước; cánh tay thứ ba co lại, bàn tay dựng lên, ngón áp út co lại, bốn ngón kia duỗi thẳng, ngồi trên hoa sen đỏ. Vị tôn trong viện Hư không tạng trên Hiện đồ mạn đồ la, thì bàn tay trái dựng thẳng, hai ngón trỏ, giữa co lại, tay phải cầm gươm, đầu gối phải hơi dựng đứng, ngồi trên hoa sen đỏ. [X. Nhân vương kinh nghi quĩ; Bí tạng kí Q.cuối].