Bất Khả Thuyết

Từ Điển Đạo Uyển

不可說; C: bùkě shuō; J: fukasetsu;

1. Nghĩa là cái “không thể nói được.” Như tất cả những Thánh nhân của
các thời đại, các nền văn hoá khác nhau, đạo Phật – nhất là Thiền tông –
nhấn mạnh rằng, các kinh nghiệm Giác ngộ (Kiến tính) vượt qua mọi ngôn
ngữ, văn tự. Người đã kiến tính tương tự một “người câm nằm chiêm bao” –
như Thiền sư Vô Môn Huệ Khai bình giảng trong Công án thứ nhất của tập
Vô môn quan – không thể trình bày giấc mộng của mình cho người khác.
Cũng vì lí do này nên các vị Thiền sư thường khuyên đệ tử không nên bám
chặt vào văn tự trong kinh sách, cho rằng, kinh sách chỉ là “ngón tay
chỉ mặt trăng”, nhưng “không phải chính là mặt trăng.”

Vì thế nên các vị Thiền sư thường sử dụng bốn câu sau để diễn tả phương
pháp tu tập của Thiền tông (theo truyền thuyết thì Bồ-đề Ðạt-ma khởi
xướng thuyết này nhưng các học giả cho rằng, sư Nam Tuyền Phổ Nguyện
chính là người sử dụng đầu tiên): “Giáo ngoại biệt truyền (j: kyōge
betsuden), bất lập văn tự (furyū monji), trực chỉ nhân tâm (jikishi
ninshin), kiến tính thành Phật (kenshō jōbutsu)”.

Cái “không thể diễn bày” của kinh nghiệm giác ngộ là lí do chính vì sao
chư vị Thiền sư thường sử dụng những dấu hiệu thân thể như vặn mũi, dựng
Phất tử… thay vì dùng lời để trả lời trong những buổi Ðộc tham, những
cuộc Vấn đáp, Pháp chiến. Tuy nhiên, Thiền chính là tông phái lưu lại
nhiều văn tự nhất trong các tông phái Phật giáo tại Trung Quốc. Ðiều đó
cho thấy rằng, cái hữu ích của văn tự không hoàn toàn bị bác bỏ; nhưng
các tác giả lại thường nhấn mạnh rằng, không một loại văn tự nào có thể
chứa đựng hoặc trình bày trọn vẹn Chân như. Chỉ người nào đã tự chứng
ngộ chân lí mới có thấu suốt được huyền nghĩa nằm trong văn tự.

2. Tự ngã chẳng đồng nhất chẳng khác biệt với ngũ uẩn.