bát hàn địa ngục

Phật Quang Đại Từ Điển

(八寒地獄) Tám địa ngục lạnh. Là tám loại địa ngục lạnh lẽo băng giá. Trong các kinh luận có nhiều tên gọi và sự giải thích khác nhau. I. Cứ theo luận Câu xá quyển 11, luận Thuận chính lí quyển 31, luận Du già sư địa quyển 4, luận Đại tì bà sa quyển 172 nêu, thì tám địa ngục là: 1. Át bộ đà (Phạm:Arbuda), cũng gọi At phù đà. Dịch là phồng lên, phỏng lên. Nghĩa là chúng sinh chịu tội, vì giá buốt như cắt, nên da thịt phồng lên. 2. Ni thích bộ đà ( Phạm: Nirarbuda), cũng gọi Nê lại phù đà. Dịch là nứt nẻ. Nghĩa là chúng sinh chịu tội, vì rét buốt quá mà nốt phồng trên da thịt nứt nẻ ra. 3. Át tích tra (Phạm:Aỉaỉa), cũng gọi A tra tra. Nghĩa là chúng sinh chịu tội, vì giá rét quá đến nổi môi không cử động được, lưỡi chỉ nói được tiếng tra tra! 4. Hoắc hoắc bà (Phạm: Hahava), cũng gọi A ba ba. Nghĩa là chúng sinh chịu tội, vì rét đến cực độ, nên lưỡi cứng đơ, không cử động được, chỉ có thể phát ra tiếng ba ba như trên. 5. Hổ hổ bà (Phạm: Huhuva). Ba loại địa ngục nêu trên, đều vì giá buốt quá mà phát ra các tiếng khác lạ như thế. 6. Ôn bát la (Phạm: Utpala), dịch là hoa sen xanh. Nghĩa là chúng sinh chịu tội, vì cực rét buốt, nên da thịt nứt ra, giống như hoa sen xanh. 7. Bát đặc ma (Phạm:Padma), cũng gọi Ba đầu ma. Dịch là hoa sen hồng. Nghĩa là chúng sinh chịu tội, vì rét buốt quá nên da thịt đỏ ửng, trông như hoa sen hồng. 8. Ma ha bát đặc ma (Phạm: Mahàpadma), dịch là hoa sen hồng lớn. Nghĩa là chúng sinh chịu khổ, vì rét đến cực độ, da thịt nứt nẻ, toàn thân đỏ ửng, trông giống như một bông sen hồng lớn. II. Kinh Niết bàn (bản Bắc) quyển 11 phẩm Hiện bệnh thì nêu tám loại: A ba la, A tra tra, A la la, A bà bà, Ưu bát la, Ba đầu ma, Câu vật đầu, Phân đà lợi. Bốn loại trước biểu thị chúng sinh chịu khổ, vì rét quá khó chịu nổi mà phát ra những tiếng ú ớ; bốn loại sau dùng bốn thứ hoa sen để thí dụ tướng nứt nẻ trên thân thể của chúng sinh chịu khổ. III. Luận Đại trí độ quyển 16, Phiên dịch danh nghĩa tập quyển 7, thì nêu: At phù đà, Ni la phù đà, A la la, A bà bà, Hầu hầu (ba loại trên đều biểu thị cái giọng nói bị rét buốt), Âu ba la (có nghĩa là tường vách phía ngoài của địa ngục trông giống như hoa sen xanh), Ba đầu ma (tội nhân sinh trong hoa sen hồng để chịu khổ), Ma ha ba đầu ma. IV. Kinh Trường a hàm quyển 19 phẩm Địa ngục thì liệt kê mười tên: Hậu vân (mây dày), Vô vân (không mây), Ha ha (cười ha hả, hà hơi cho ấm), Nại hà (làm sao được), Dương minh (dê kêu), Tu càn để, Ưu bát la, Câu vật, Phân đà lợi và Bát đầu ma. Cứ theo luận Câu xá quyển 11 nói, thì vị trí của tám địa ngục lạnh này nằm ở phía dưới châu Diêm phù, bên cạnh tám địa ngục nóng. Nói về tuổi thọ của chúng sinh ở địa ngục At bộ đà, thì có hai mươi hộc hạt vừng (mè), cứ mỗi trăm năm bỏ đi một hạt, cho đến khi hết hai mươi hộc hạt vừng, thì các chúng sinh đó mới chết được. Còn số tuổi thọ của các chúng sinh ở các địa ngục lạnh, từ Thích bộ đà trở xuống, thì gấp hai mươi lần số tuổi thọ ở At bộ đà!.