BẢO TẠNG THIÊN NỮ ĐÀ LA NI PHÁP

Hán dịch: Mất tên người dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Bấy giờ Tam Thập Tam Thiên chủ, Ma Hê Thủ La Thiên Vương (Maheśvaradeva-rāja), cùng với các chúng Thiên Nữ (Deva-kānya) khen ngợi Bảo Tạng Thiên Vương tên là: Tra La Khư (?Tāraka) có uy đức lớn, sắc đẹp, sức lực không thể sánh, hay ở thế gian làm các việc thù thắng như lay trời, động đất, nghiêng núi, lấp biển,binh qua, ý chí thắng lợi mà thành. Tiền của, tơ luạ, vàng bạc tích chứa như núi cao là chỗ thọ dụng của thế gian.

Liền nói Chú là:

“Án tra la khư tra la khư tỳ đa la nễ sa phộc ha”

*)OṂ_ DARAGA DARAGA VIDARADI SVĀHĀ.

(? OṂ_ TĀRAKA TĀRAKA VIDARADI SVĀHĀ)

Nếu muốn thọ trì Pháp này. Trước tiên vẽ một hình Thiên Nữ. Pháp NÊ ĐÀN thì 7 ngày trước ngày mồng 5 tháng 5 ăn loại cháo hiếm có, trường trai, ý muốn đến nơi nào thì nên tĩnh khiết.

Phàm hành Pháp này thì chẳng kêu gọi mà Thiên Nữ tự đến, xong nên chí thành lưu giữ tư tưởng và biểu hiện ra bên ngoài. Pháp này ắt nên ở đêm mồng 5 tháng 5 thọ trì liền thành tựu quả.

Đêm ngày 5 tháng 5 tập trung tư tưởng, gìn giữ suy nghĩ, luôn luôn tụng Chú 1008 biến, chẳng được gấp gáp cho đến canh ba thì Tâm liền hôn ám giống như ngủ. Thiên Nữ sai các Thị nữ đến khiến cho cùng thử chơi đùa, ắt đừng nói chuyện. Đến lần thứ hai thì vị Thiên Nữ Tra La Khư ấy tự đến tương kiến. Người tác pháp ấy chẳng được đứng lên mà qùy dài chắp tay đỉnh lễ hai lạy.

Thiên Nữ ấy liền hỏi:”Ngươi cần điều gì ? “

Người tác pháp đó tùy miệng đáp: cầu xin hảo lạc, trường sinh bất tử, thông linh, tình cảm thuộc vạn sự của thế gian, suốt đời phụng sự Thiên Nữ, ý sinh muốn làm vợ chồng.

Thiên Nữ nghe xong, rất là hoan hỷ. Ngay đêm đó liền cùng giao hợp, các nguyện như ý.

Nếu muốn làm chị em thì sự việc ắt phải rõ ràng, đừng sinh hồ nghi.

_Đàn Pháp ấy rộng 2 khuỷu tay, mặt bằng phẳng, dùng phân bò xoa đất, liền dùng bột hương tô đất. Dùng 5 màu vẽ, lại lụa 5 màu đều dài 2 thước 1 tấc (7 dm).Ở bên trong Đàn đặt toà ngồi cho Thiên Nữ. Đem nhóm: bơ, mật, sữa, quả trái vào một cái bát. Hoa, bánh 5 màu đều có 5 cây. Gom chung hạt dẻ, luá mạch thiêu đốt hoa tùy ý cúng dường.

_Về Pháp vẽ Tượng. Thân Thiên Nữ dài 2 thước 5 tấc (25/3 dm), đầu đội mão hoa, tô điểm hoa cực diệu đoan chính Thân mặc áo bào màu đỏ thẩm, dây lưng vàng, giày ủng màu đen. Tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm trái châu Như Ý, Thiên Nữ đó có hào quang đoan chính mà họa sư ở thế gian chẳng có thể vẽ được, ắt cần có hảo thủ, chẳng được tranh luận trả giá. Lúc tương ứng thì Tâm thông linh tự tại, tiền của lụa là dư thừa, liễu đạt tất cả họa phước trong Quan vị cao thiên (dời đổi địa vị cao quan), nam nữ quý tiện thảy đều vui vẻ.

_Phàm có sở động thì tất cả Quỷ Thần đều đến nghinh đón như kính Thiên Quan; sợ hãi chiêm ngưỡng liền được vô ngại cho đến nghề nghiệp hảo diệu của thế gian đều tùy ý mà thành.

Khi có người ác đến hãm hại, liền hô lên: “Giặc cướp” thảy đều được tự trói tự đánh. Nói: “Thả” liền thả. Sự chết chóc, mất mát của thế gian đều như nghiệm.Vạn bệnh trước mắt, khởi ý trì thì đều khỏi bệnh.

_Lại có 8 chân ngôn đều nên thanh tịnh, tắm gội, mặc áo mới sạch. Ở trước hình tượng Phật đều tụng 21 biến, sau đó tác Pháp.

Chân Ngôn thứ nhất:

“Án, Hưng bà, la đế tra, cấp cấp, sa phộc hạ”

*)OṂ (Cảnh giác) HAVAḤ (Lời kêu gọi) RASITA (Hương vị đem lại tâm tư tình cảm) JAḤ JAḤ JAḤ (Câu triệu, kêu gọi khiến cho mau đến) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)

Chân Ngôn thứ hai:

“Án, phạt, la đế tra, lợi, ma na la, sa phộc hạ”

*)OṂ (Nhiếp triệu) SVA (Tự tính) RASITA (Hương vị đem lại tâm tư tình cảm)

MĀYĀ (Huyễn hóa) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)

Chân Ngôn thứ ba:

“Án, lặc xoa na, đế tra, sa tra, sa phộc hạ”

*)OṂ (Quy mệnh) LAKṢANA (Hình tướng) ŚIṬTA (Thon thả mảnh mai)

SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)

Chân Ngôn thứ tư :

“Án, bà bà, lệ, nhạ đế, tra, sa phộc hạ”

*)OṂ (Quy mệnh) BHAVA (Hữu, sự có sự được) ARI (thuộc về sự trung thực, người thành thật) JĀTI (tính chất) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)

Chân Ngôn thứ năm:

“Án, bột nhạ, la đế tra, sa phộc hạ”

*)OṂ (Cảnh giác) BHUJA (Chi phối, lãnh đạo, thưởng thức) RASITA (Hương vị đem lại tâm tư tình cảm) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)

Chân Ngôn thứ sáu :

“Án, dược xoa dược xoa để na bà, sa phộc hạ”

*)OṂ (Quy mệnh) YAKṢA (Dược Xoa) YAKṢASENA (Dược Xoa Quân)

SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)

Chân Ngôn thứ bảy:

“Án, già đế, tỳ phạt duệ, hồng, phán tra, sa phộc hạ”

*)OṂ (Nhiếp triệu) GATE (Thú hướng, lối nẻo) VIJAYE (tối thắng) HŪṂ

(Khủng bố) PHAṬ (Phá bại) SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)

Chân Ngôn thứ tám :

“Án, Chiết lặc, na gia, lợi bà đế tra, sa phộc hạ”

*)OṂ (Quy mệnh) SVARA (Âm thanh) NAYA (Lý thú) REBHA (người xướng ca) ŚIṬA (nhạy bén, tinh nhanh) SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)

Đem ngón giữa, ngón vô danh co lại, để ngón cái đè móng hai ngón, duỗi ngón trỏ với ngón út an trên trái tim. Tay phải cầm tràng hạt niệm chân ngôn. Đây gọi là Ngọc Hoàn Ấn.

 

Đã xong pháp BẢO TẠNG THIÊN NỮ.

Hiệu chỉnh xong vào ngày 01/03/2013