bảo chí

Phật Quang Đại Từ Điển

(寶志) (418-514) Vị tăng thời Nam triều. Đời gọi là Bảo công, Chí công hòa thượng. Người huyện Kim thành (Nam trịnh, Thiểm tây, hoặc Cú dung, Giang tô), họ Chu. Thờ ngài Tăng kiệm ở chùa Đạo lâm làm thầy, tu tập Thiền nghiệp. Khoảng năm Thái thủy (466-471) đời Lưu Tống, sư đi lại nơi Đô ấp, không ở chỗ nào nhất định, có khi làm thơ, mỗi câu nói tựa hồ như sấm kí, nhân dân tranh nhau hỏi về họa phúc. Vũ đế nhà Tề thấy thế cho là mê hoặc quần chúng, bèn hạ ngục. Nhưng ngày ngày vẫn thấy sư ra chơi ngoài làng, chợ, nếu vào khám trong tù thì lại thấy sư đang ngồi trong tù. Nhà vua nghe tin, bèn mời vào vườn Hoa lâm cúng dường, cấm không cho ra vào. Vậy mà sư cũng chẳng bị bó buộc, vẫn thường đến thăm các chùa Long quang, Kế tân, Hưng hoàng và Tịnh danh. Đến Vũ đế nhà Lương dựng nước mới bỏ lệnh cấm. Mỗi lần sư nói chuyện với vua, những điều sư nói toàn là nghĩa trong các kinh luận. Tháng 12 năm Thiên giám 13, sư tịch, thọ chín mươi sáu tuổi. Nhà vua ra lệnh táng ở Chung sơn, gò Độc long, dựng chùa Khai thiện bên cạnh mộ phần. Thụy hiệu là Quảng tế đại sư. Đời sau tiếp tục truy tặng các thụy hiệu như Diệu giác đại sư, Đạo lâm chân giác bồ tát, Đạo lâm chân giác đại sư, Từ ứng huệ cảm đại sư, Phổ tế thánh sư bồ tát, Nhất tế chân mật thiền sư v.v… Sư từng vì những người học tập mà soạn Văn tự thích huấn 30 quyển, Thập tứ khoa tụng 14 bài, Thập nhị thời tụng 12 bài, Đại thừa tán 10 bài. Phật tổ lịch đại thông tải bảo ý chỉ của sư ngầm hợp với tông môn. [X. Lương cao tăng truyện Q.10; Phật tổ thống kỉ Q.36, Q.37; Phật tổ thông tải Q.10, Q.26; Bảo hoa sơn chí Q.7 Chí công pháp sư mộ chí minh; Thần tăng truyện Q.4].