bân tông

Phật Quang Đại Từ Điển

(斌宗) (1911-1958) Người Lộc cảng, huyện Chương hóa, Đài loan, họ Thi. Năm 14 tuổi, sư làm lễ xin xuất gia nơi Thiền sư Nhàn vân ở núi Sư đầu (đầu sư tử). Năm 17 tuổi, sư kết am ở Biện phong tu khổ hạnh sáu năm. Năm 23 tuổi, sư về đại lục (Trung quốc trên đất liền), đi khắp các chùa danh tiếng. Năm Dân quốc 23 (1934), sư lễ ngài Viên anh ở chùa Thiên đồng xin nhận giới Cụ túc. Sau, sư đến núi Thiên thai nương nơi lão hòa thượng Tĩnh quyền chuyên học về giáo quán của Thiên thai, Pháp hoa và bốn giáo nghi, lĩnh hội hết ý chỉ sâu xa của Tam quán Thập thừa. Năm Dân quốc 28 (1939), chiến tranh chống Nhật bùng nổ, sư trở về Đài loan, sáng lập Pháp nguyên giảng tự ở chân núi Cổ kì huyện Tân trúc và xây dựng viện Nghiên cứu Phật học. Sau lại mở viện Hoằng pháp ở Đài bắc, cất chùa Pháp tế tại Tân trúc, sư dốc sức giảng kinh hoằng pháp, mở rộng giáo nghĩa Thiên thai. Đại lục đổi chủ, các vị tăng trẻ dời đến Đài loan đều nương tựa nơi sư. Năm Dân quốc 40 (1951), sư đóng cửa đọc Đại tạng. Năm 43 (1954), sư mở cửa ra thất, nhận lời mời của các nơi, sư nói pháp không biết mệt mỏi. Tháng 2 năm Dân quốc 46 (1957), sư tịch ở viện Hoằng pháp, thọ 48 tuổi. Những trứ tác của sư gồm có: Bát nhã tâm kinh yếu thích, Lăng nghiêm kinh nghĩa đăng, Ngã nhân sinh tử chi do lai, Vân thủy thi thảo v.v… Người sau biên thành Bản tông pháp sư di tập để lưu hành ở đời.