BẦN TĂNG

Phật Quang Đại Từ Điển

I. Bần tăng. Tăng nghèo. Phạm: Zramaịa. Dịch âm: Sa môn na, Sa môn. Lời tự nhún của tăng sĩ. Cũng gọi bần đạo (nghèo đạo), phạp đạo (thiếu đạo). Cùng nghĩa với Chuyết tăng (tăng vụng, ngu). Tăng sĩ dứt đạo tà, siêng tu tám đạo chính để cầu giải thoát, thường tự cho là nghèo đạo, thiếu đức, nên có lối xưng hô nhún nhường này. Đại Tống tăng sử lược quyển hạ chép, các vị sa môn đời Hán, Ngụy, Lưỡng Tấn, đối với vua, hoặc xưng tên, hoặc xưng tôi, hoặc xưng bần đạo. Như các ngài Pháp khoáng dâng thơ lên Giản văn đế nhà Tấn, Chi độn dâng thơ xin về đất Diệm, Đạo an can gián vua Phù kiên v.v… đều tự xưng bần đạo. Người đời sau bắt chước dùng theo cách này. [X. Thích thị yếu lãm Q.thượng; Phiên dịch danh nghĩa tập Q.1; Thiền lâm tượng khí tiên Xưng hô môn].

II. Bần tăng. Chỉ các tăng sĩ vô phúc nghèo khổ.