GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc

 

CẤP HAI

Bài 4
CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG

Chuyển luân thánh vương(1) là vị có phước báo bậc nhất ở thế gian, hơn cả người ở châu Bắc Câu-lô, chỉ kém chư thiên cõi Dục(2). Xét kết quả thì biết được nguyên nhân, vậy, chúng ta có thể nghĩ ra: Trong đời quá khứ, vị ấy chỉ tu nghiệp phước đức mà đã không tu nghiệp trí tuệ của bậc xuất thế.(3)

Luân vương có bốn bậc: Ở kiếp tăng1 của tiểu kiếp thứ mười, lúc thọ mạng con người tăng lên đến hai vạn tuổi, Thiết Luân vương xuất hiện, thống trị toàn thể châu Nam Thiệm-bộ. Lúc tăng lên đến bốn vạn tuổi, Đồng Luân vương xuất hiện, thống trị cả hai châu Nam Thiệm-bộ và Đông Thắng-thân. Lúc tăng lên đến sáu vạn tuổi, Ngân Luân vương xuất hiện, thống trị gồm cả ba châu Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng-thân và Tây Ngưu-hóa. Lúc tăng lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi, Kim Luân vương xuất hiện, thống trị toàn cả bốn thiên hạ2. Gọi bốn vị Luân vương là Thiết, Đồng, Ngân, và Kim là căn cứ vào chất liệu làm thành luân bảo(4) của mỗi vị. Những chất liệu ấy đều có liên quan với chúng sinh đương thời; và ngay mỗi vị Luân vương cũng có phước báo riêng của mình; cho nên mới có sự khác biệt giữa các luân bảo như thế.

Khi vua Chuyển luân ra đời, châu Nam Thiệm-bộ này cũng xuất hiện bảy thứ quí báu tốt lành, dành riêng cho vua: 1) Bánh xe báu bằng vàng (kim luân bảo): Đó là bánh xe với cả ngàn cây căm3, toàn bằng chất vàng, vua cùng với bốn đội binh voi, ngựa, xe, và bộ, đều ngồi trên đó; du hành bốn thiên hạ, đem mười nghiệp lành giáo hóa các quốc vương ở các nước, rồi mới trở về lại châu Nam Thiệm-bộ, ngự trong cung điện bốn báu(5). 2) Voi báu trắng (bạch tượng bảo): Đó là con voi thuần trắng, vừa sinh ra đã có sáu ngà, dùng cho vua cưỡi trong những lúc tuần du các nơi gần. 3) Ngựa báu xanh (cám mã bảo4): Đó là con ngựa màu thanh thiên, có thể bay trên không mà đi, dành cho vua cỡi. 4) Ngọc báu mầu nhiệm (thần châu bảo): Đó là viên ngọc tám góc5, treo trên cao, tuy ở ban đêm, nó vẫn tỏa sáng như ban ngày. 5) Ngọc nữ báu (ngọc nữ bảo): Đó là người phối ngẫu của vua, nhan sắc diễm lệ đoan trang, mình thơm như trầm hương, hơi miệng như hoa sen, thân thể ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè, hầu hạ khéo léo, rất hợp ý vua. 6) Quan chủ kho báu (chủ tạng thần bảo): Đó là một người có nhiều công đức, do phước báo mà có được thiên nhãn6, thấy suốt tất cả các vật dụng cất giữ trong kho, vua cần dùng vật gì là lấy ra ngay. 7) Tướng quân báu (binh thần bảo): Đó là một người thông hiểu quân cơ, biết rành sách lược, có tài dùng binh.

Vua Chuyển luân có bốn thứ phước báo: Một là rất giàu, châu báu, nhà cửa, ruộng đất, người hầu hạ, nhiều vô kể; đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”. Hai là tướng mạo trang nghiêm đoan chính, có đủ 32 tướng tốt(6), đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”. Ba là thân thể tráng kiện, không có bệnh tật, an ổn sung sướng, đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”. Bốn là mạng sống dài lâu, đáng gọi là “thiên hạ đệ nhất”.

Khi vua Chuyển luân xuất hiện, châu Nam Thiệm-bộ này, đất đai sạch sẽ, bằng phẳng, không có gai gốc, gò đống, hầm hố, phân, nước tiểu, các vật vụn vặt hôi thúi; đầy đủ bảy vật báu(7), khí hậu ôn hòa, người người an vui. Con của Luân vương có một ngàn người. Vua mạng chung liền sinh lên cõi trời Đao-lợi; bảy ngày sau đó thì bốn món báu là bánh xe vàng, voi, ngựa và ngọc, tự nhiên biến mất; ba món báu còn lại là ngọc nữ, chủ kho và tướng quân đều mạng chung. Thành báu cũng biến thành gạch vụn. Thế mới biết, tất cả các cảnh giới ở thế gian đều do nghiệp lực mà tồn tại; khi nghiệp lực chấm dứt thì cảnh giới cũng hoại diệt. Đức Phật phân tích tướng trạng của thế gian, chỉ là khổ đau, trống rỗng, vô thường và vô ngã; thật là cặn kẽ vậy.

 

CHÚ THÍCH

1. Mạng sống con người, bắt đầu tính từ mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm tăng thêm một tuổi, tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi thì ngưng; đó gọi là “kiếp tăng”. Rồi lại tính bắt đầu từ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi một trăm năm giảm đi một tuổi, giảm đến còn mười tuổi thì ngưng; đó gọi là “kiếp giảm”. Trải qua một lần tăng và một lần giảm như thế, là một “tiểu kiếp”.

2. Bốn châu lớn ở Đông, Nam, Tây và Bắc, cũng được gọi là “bốn thiên hạ”.

3. Căm hay nan xe là khúc cây thẳng ở trong bánh xe, đầu trong thì gắn vào vành bao trục xe, đầu ngoài thì gắn vào vành bánh xe. Cái bánh xe được làm bằng một ngàn cái căm như thế, thì đó là một cái bánh xe rất lớn, rất chắc chắn.

4. Màu thanh thiên là màu xanh lam mà có pha tí màu hồng.

5. Đó là hình tám góc.

6. Thiên nhãn là mắt của chư thiên, bất cứ chỗ tối, chỗ sáng, chỗ gần, chỗ xa, chỗ khuất, chỗ trống, đều thấy suốt, không có gì ngăn cản.

 

PHỤ CHÚ

1. Chuyển luân thánh vương: hay gọi tắt là Luân vương, là từ dịch ý của tiếng Phạn cakra-vartirajan, nghĩa là người chủ của bánh xe báu xoay chuyển. Luân vương có bảy món báu đặc biệt mà tất cả mọi người không ai có: bánh xe báu, voi trắng báu, ngựa xanh báu, thần châu báu, ngọc nữ báu, quản kho báu, và tướng quân báu. Vua có bốn đức lớn, không ai sánh bằng: sống lâu, không tật bệnh, tướng mạo đoan trang, và kho đầy của báu. Quốc độ của vua giàu có, nhân dân khắp nơi đều sống trong cảnh thái bình an lạc. Vua thống quản cả bốn châu lớn chung quanh núi Tu-di, dùng chánh pháp để trị đời. Truyền thuyết về sự xuất hiện của Chuyển luân thánh vương, rất được thịnh hành trong thời Phật tại thế. Nhiều kinh luận đã đề cập tới Chuyển luân thánh vương, và nhiều chỗ còn so sánh vị vua này với đức Phật. Luận Đại Trí Độ nói: Phật chuyển pháp luân cũng giống như Luân vương chuyển bảo luân… Luân vương vận chuyển bánh xe báu đi giữa hư không vô ngại, Phật vận chuyển xe pháp đi giữa thế gian vô ngại. Người thấy được bánh xe báu, các tai nạn, độc hại đều tiêu diệt; người gặp được bánh xe pháp, tất cả phiền não, tà kiến đều tan biến… Luận ấy lại nói: Luân vương chưa dứt sạch mọi phiền não; Phật đã xa lìa vĩnh viễn mọi phiền não… Bánh xe báu là vật giả tạm; bánh xe pháp là chân thật. Bánh xe báu là nơi đầy kiết sử, vui với năm dục; bánh xe pháp là nơi không có kiết sử, vui niềm pháp lạc… Nhiều chỗ còn so sánh các Luân vương với các giai vị của Bồ-tát hạnh, như: Thiết Luân vương tương đương với hàng Thập-tín; Đồng Luân vương tương đương với hàng Thập-trụ; Ngân Luân vương tương đương với hàng Thập-hạnh; Kim Luân vương tương đương với hàng Thập- hồi-hướng. Có chỗ nói Luân vương gồm ba loại: Vua A Dục chẳng hạn, là Quân (quân binh) Luân vương; bốn vị Kim, Ngân, Đồng và Thiết Luân vương là Tài (của cải) Luân vương; và đức Phật là Pháp Luân vương.

2. Chư thiên cõi Dục: Tất cả các loài chúng sinh còn có tâm ham muốn các đối tượng như hình tướng, âm thanh, chạm xúc, ăn uống, tiền của, danh lợi, sắc dục, v.v… đều sống trong phạm vi cõi Dục. Trong cõi này, từ thấp lên cao, gồm có sáu loài như sau: Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, A-tu-la, Người và Trời. Loài Trời ở đây cũng là loài người, nhưng do có tu mười nghiệp lành ở các kiếp trước nên được hưởng phước báo cao hơn loài người ở cõi Người. Trú xứ của họ là các cõi Trời – được gọi là “Trời cõi Dục”; gồm có sáu cõi, từ thấp lên cao như sau:

1- Tứ-vương thiên (Caturmaharajika-deva): Theo thế giới quan của Phật giáo, ở lưng chừng núi Tu-di lại có một ngọn núi chia làm bốn đầu, xoay ra bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc. Mỗi đầu do một vị thiên vương cùng toàn bộ thiên chúng thuộc quyền cư trú. Vị thiên vương trấn ở đầu núi phía Đông tên là Trì Quốc (Dhrtarastra); phía Nam tên là Tăng Trưởng (Virudhaka); phía Tây tên là Quảng Mục (Virupaksa); và phía Bắc tên là Đa Văn (Dhanada). Bốn vị thiên vương này có nhiệm vụ bảo hộ bốn châu thiên hạ, nên được gọi là Hộ Thế tứ thiên vương, và ngọn núi bốn đầu ấy được gọi là Tứ-vương thiên, là tầng trời đầu tiên của sáu tầng trời cõi Dục. Các vị thiên vương cũng như thiên chúng ở cõi trời này sống lâu 500 tuổi; mà một ngày đêm ở đây tương đương với 50 năm ở cõi Người. Sự dâm dục ở đây cũng giống như ở nhân gian. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé năm tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.

2- Tam-thập-tam thiên (Trayastrimsa-deva): cũng có tên là Đao-lợi thiên. Cõi trời này tọa lạc ngay trên đỉnh núi Tu-di, chia làm 33 cung, là tầng trời thứ nhì của sáu tầng trời cõi Dục. Chúa của cõi trời này là trời Đế Thích (hoặc: Thiên Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân, Nhân Đà La, Kiều Thi Ca, v.v… – Sakra Devanam-indra), ngự tại cung trung ương. Ở bốn phương chung quanh, mỗi phương có tám cung (cộng cả thảy là 33 cung). Thiên chúng ở cõi trời này sống lâu một ngàn tuổi (một ngày đêm ở đây dài bằng một trăm năm ở nhân gian). Họ cũng dựng vợ gả chồng, sự dâm dục giống như ở cõi nhân gian. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé sáu tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.

3- Dạ-ma thiên (Yama-deva): Đây là tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục; và cũng là cõi trời đầu tiên tọa lạc ở trong hư không, phía trên trời Đao-lợi. Cõi trời này lúc nào cũng sáng rỡ, không có ngày và đêm. Chúa của cõi này là trời Tu Dạ Ma (Suyama-devaraja). Thiên chúng ở đây sống lâu hai ngàn tuổi (một ngày dài bằng hai trăm năm ở nhân gian), mỗi giây mỗi phút đều thọ hưởng sự hoan lạc ngoài sức tưởng tượng của loài người. Ý niệm dâm dục chỉ khởi lên khi biết đúng lúc, và vợ chồng chỉ ôm nhau là âm dương thành tựu. Đến lúc sinh, người thiên nữ khởi niệm, liền có em bé hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng em bé ba, bốn tuổi ở nhân gian.

4- Đâu-suất thiên (Tusita-deva): cũng gọi là Đâu-suất- đà thiên. Đây là tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục, nằm phía trên trời Dạ-ma. Chúa của cõi trời này là thiên vương San Đâu Suất Đà (Samtusita-devaraja). Cõi trời này chia thành hai viện: nội viện và ngoại viện. Nội viện là nơi cư trú của các vị Bồ-tát một đời thành Phật (bổ xứ) – như trước đây là đức Thích Ca, hiện nay là đức Di Lặc. Thiên chúng ở nội viện thường được đức Di Lặc thuyết pháp hóa độ, thường tu tập tám con đường chân chánh. – Phật giáo Trung-quốc, từ thời Đông-Tấn (317-419) trở đi, tín ngưỡng về cõi tịnh độ Đâu-suất rất thịnh hành. Rất nhiều vị cao tăng các đời từng phát nguyện vãng sinh về Đâu-suất nội viện của đức Di Lặc. – Ngoại viện là nơi thiên chúng cư trú, phần nhiều chỉ hưởng khoái lạc, ít được nghe Phật pháp. Thọ mạng ở đây là bốn ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng bốn trăm năm ở nhân gian). Chúng sinh ở đây, niệm dâm dục nhẹ nhàng, biết đủ, và nam nữ chỉ cầm tay nhau là âm dương thành tựu. Em bé mới sinh đã lớn bằng em bé tám tuổi ở nhân gian.

5- Hóa-lạc thiên (Nirmanarati-deva): cũng gọi là Hóa- tự-tại thiên. Đây là tầng trời thứ năm trong sáu tầng trời cõi Dục. Chúa của cõi này là thiên vương Thiện Hóa (Sunirmita-devaraja). Người ở cõi trời này tự hóa ra các trần cảnh để hưởng thụ, thân tướng thường có ánh sáng; niệm dâm dục càng nhẹ nhàng, và nam nữ chỉ nhìn nhau mỉm cười là âm dương thành tựu; con cái hóa sinh từ đầu gối của cha hoặc mẹ, mới sinh ra đã lớn bằng đứa trẻ mười hai tuổi ở nhân gian. Họ sống lâu tám ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng tám trăm năm ở nhân gian).

6- Tha-hóa-tự-tại thiên (Paranirmita-vasa-vartin): Đây là tầng trời cao nhất trong sáu tầng trời cõi Dục. Chúa của cõi này là thiên vương Tự Tại (Vasavartti-devaraja), cũng là chúa của cả sáu tầng trời cõi Dục, và là một trong những ma vương chủ trương phá hoại Phật pháp. Tuy nhiên, theo kinh luận ghi chép, một vài pháp hội kinh Hoa Nghiêm và Bát Nhã, đã từng được Phật thuyết tại thiên cung này. Thiên chúng ở cõi này chuyên lấy những trần cảnh do cõi trời Hóa-lạc hóa ra để hưởng thụ. Dục niệm ở đây chỉ còn rất ít, thiên nam và thiên nữ chỉ nhìn nhau là âm dương thành tựu. Muốn có con thì khởi niệm, liền có thiên tử hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng đứa trẻ mười tuổi ở nhân gian. Tuổi thọ ở đây là một vạn sáu ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng một ngàn sáu trăm năm ở nhân gian).

Trong sáu cõi trời Dục giới trên, hai cõi Tứ-vương thiên và Đao-lợi thiên đều tọa lạc trên núi Tu-di, cho nên được gọi là “địa cư thiên”; bốn cõi còn lại đều tọa lạc trên hư không, cho nên được gọi là “không cư thiên”.

3. Câu này, ý tác giả muốn nói: Bỏ ác làm lành, ngay cả dứt trừ trọn vẹn mười nghiệp ác và tu tập đầy đủ mười nghiệp lành, thì cũng chỉ đủ tạo phước đức để được hưởng quả báo sung sướng cùng tột ở các cõi trời mà thôi. Đó vẫn là thứ phước báo hữu lậu, không đủ khả năng giúp cho người tu hành phá vỡ vô minh, thoát li ba cõi, dứt tuyệt sinh tử luân hồi. Muốn giải thoát sinh tử để chứng nhập niết bàn, hành giả, ngoài việc tu tạo phước đức, còn phải nỗ lực phát huy trí tuệ, bằng cách tu tập thiền định, suy nghiệm chân lí, cho đến khi tuệ giác bừng sáng, vô minh phiền não hoàn toàn tiêu diệt. Con đường tu tập như vậy, trong Phật giáo gọi là “phước huệ đồng tu” (phước huệ song tu). Đức Thích Ca Mâu Ni, đã từng trải bao đời kiếp tu tạo công đức lành, nhưng phải đợi đến kiếp cuối cùng, do công phu tu tập thiền định một cách triệt để trong bốn mươi chín ngày dưới cội cây bồ đề, mới đạt được quả vị giác ngộ viên mãn, thành bậc Tối Chánh Giác. Bởi vậy, lời chúc “Phước Huệ Viên Thành” được coi là lời chúc đầy đủ ý nghĩa nhất mà các hành giả thường dùng để chúc nhau.

4. Luân bảo: bánh xe báu, một biểu tượng của các đế vương thời cổ Ấn-độ. Trong kinh điển Phật giáo thường nói, đó là một trong bảy thứ quí báu của vị Chuyển luân thánh vương, khiến cho ông trở thành kẻ vô địch, thống nhất bốn châu thiên hạ, khắp nơi sống trong thanh bình an lạc. Tùy theo chất liệu, luân bảo gồm có bốn loại: kim luân bảo, ngân luân bảo, đồng luân bảo, và thiết luân bảo. Theo đó, tùy theo quốc độ rộng hẹp mà Chuyển luân thánh vương cũng có bốn hạng: Kim Luân vương, Ngân Luân vương, Đồng Luân vương, và Thiết Luân vương. – Như Thiết Luân vương thì thống trị chỉ một châu Nam Thiệmbộ; Đồng Luân vương thống trị hai châu là Nam Thiệm-bộ và Đông Thắng-thân; Ngân Luân vương thì thống trị đến ba châu, là Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng-thân và Tây Ngưu-hóa; Kim Luân vương thì thống trị luôn cả châu Bắc Câu-lô, tức khắp cả bốn châu thiên hạ.

Trong Phật giáo, bánh xe báu đó cũng được dùng để tượng trưng cho chánh pháp, nên sau khi thành đạo, đức Phật đã tuyên dương chánh pháp cho loài người, và gọi đó là sự “chuyển pháp luân”. Theo luận Đại Trí Độ, chữ “luân” ở đây có nghĩa là “trí tuệ và pháp tương ưng với trí tuệ của Phật”; và “pháp” ở đây, một cách tổng quát, là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Lời Phật dạy được người thọ nhận hành trì, gọi là “chuyển”. Bởi vậy, đức Phật được tôn xưng là bậc “Pháp Luân Vương”. Từ ý nghĩa của sự “chuyển pháp luân” ấy, luân bảo cũng đã được Phật giáo dùng làm biểu tượng cho “bánh xe pháp” (pháp luân). Bánh xe này gồm có tám nan (biểu thị cho giáo pháp “bát chánh đạo”, hoặc mười hai nan (biểu thị cho giáo pháp “thập nhị nhân duyên”). Bàn tay và bàn chân Phật có tướng bánh xe một ngàn nan, cũng ứng vào ý nghĩa này.

Nhân tiện đây, người dịch xin nêu lên điều này: Trong bốn đại châu, châu ở phương Đông tên là Thắng-thân, từ Phật học Hán Việt gọi là “Đông Thắng-thân châu”. Từ trước đến nay, các sách Phật học Việt ngữ (kể cả bộ Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn), đều viết tên châu này là Đông Thắng-thần châu. Có lẽ đó là viết theo Đinh Phúc Bảo trong Phật Học Đại Từ Điển. Trong khi đó, các bộ từ điển sau này như Phật Quang Đại Từ Điển, Từ Nguyên, v.v…, và cả tác giả ở đây, đều viết là “Đông Thắng-thân châu”, Phật Quang Đại Từ Điển có ghi thêm chữ Phạn là “Purva-videha” và giải thích “thắng thân” là thân tướng thù thắng. Có điều ngạc nhiên, Đinh Phúc Bảo (trong bộ Phật Học Đại Từ Điển), viết thì là “Đông Thắng-thần châu”, nhưng cũng giải thích là thân tướng thù thắng. Trong khi đó, sách Trung Anh Phật Học Từ Điển (A Dictionary of Chinese Buddhist Terms) thì ghi ở một trang là “Đông Thắng-thân châu” và ở một trang khác là “Thắng-thần châu”; cả hai từ cùng được ghi kèm chữ Phạn là Purvavideha, và giải thích là đại lục ở phía Đông núi Tu-di. Vậy thì, châu đó tên là Thắng-thần hay Thắng-thân? Trong chữ Phạn VIDEHA, thì ngữ vĩ “deha” (dịch âm Hán ngữ là “đề-ha”), trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, nó được dịch nghĩa là “the body”; và trong Phật Quang Đại Từ Điển, nó được dịch nghĩa là “thân”. Do đó, tên “Thắng-thân” là chính xác.

5. Bốn báu: Theo luận Đại Trí Độ, bốn món báu gồm có: vàng, bạc, tì lưu li, và pha lê. (Xin xem thêm phụ chú số 7 ở dưới.)

6. Chuyển luân thánh vương cũng có 32 tướng tốt như Phật, nhưng theo luận Đại Trí Độ, một cách tổng quát, tướng Phật là tướng giải thoát, dứt tuyệt sinh tử luân hồi; còn tướng của Luân vương vẫn còn là tướng phàm phu, vẫn còn mắc kẹt trong vòng sinh tử luân hồi. Theo kinh Vô Lượng Thọ, 32 tướng của Phật rõ ràng, viên mãn; còn 32 tướng của Luân vương thì mờ nhạt, không trọn vẹn.

7. Bảy báu: Kinh luận Phật giáo thường nêu lên bảy vật báu dùng trang nghiêm các cõi tịnh độ, mà cũng là những thứ trân quí nhất của thế gian. Theo các kinh Trường A Hàm, A Di Đà, luận Đại Trí Độv…, bảy món báu đó gồm có vàng, bạc, lưu-li, pha-lê, xa-cừ, mã- não, và xích-châu.

1- Vàng (kim, hay hoàng kim): Theo luận Đại Trí Độ, vàng là do từ cát đá, đồng đỏ trong núi sinh ra. Vàng có bốn đặc điểm: màu sắc không biến đổi; thể chất không ô nhiễm; thay đổi hình trạng (từ vòng sang xuyến, sang tượng cốt, chén đĩa, v.v…) không bị trở ngại; làm cho người ta trở nên giàu sang. Bốn đặc điểm này cũng có thể dùng làm tỉ dụ cho bốn đức Thường, Tịnh, Ngã và Lạc của pháp thân Phật. Cũng từ những ý nghĩa đó, thân của Phật tốt đẹp trang nghiêm vi diệu, nên được gọi là “kim thân”.

2- Bạc (ngân, hay bạch ngân): Theo luận Đại Trí Độ, bạc là do từ đá cháy sinh ra. Vàng và bạc là hai loại quí kim mà mọi người đều biết; riêng trong Phật giáo, đôi khi chúng được dùng để chỉ cho các chốn già lam, như “kim địa”, “ngân địa”, v.v…

3- Lưu-li (hay tì-lưu-li): một loại đá ngọc màu xanh, ánh sáng trong suốt, là thần vật sinh từ thiên nhiên, không phải do người làm được. Tuy nhiên, cũng có thứ ngọc lưu-li do người luyện thành, nhưng đó chỉ là loại ngọc giả mà thôi. Ngày xưa nước Tần (Trung-quốc) nổi tiếng có nhiều loại ngọc thiên nhiên; riêng ngọc lưu-li này cũng có đến mười loại (màu): đỏ, hồng, trắng, đen, tím, vàng, xanh, lam nhạt, da trời, và lá cây.

4- Pha-lê (tức thủy-tinh): Theo luận Đại Trí Độ, hai loại lưu-li và pha-lê là do từ trong các hang núi sinh ra. Giá tuyết đóng băng, trải qua ngàn năm thì thành ngọc, gọi là pha-lê (nghĩa là ngọc nước). Loại thủy tinh ngày nay thường dùng làm các vật gia dụng như li, chén, bình cắm hoa, v.v…, là do con người lấy cát chế biến ra, không phải là ngọc pha-lê thiên nhiên nói trên.

5- Xa-cừ: một loại ốc biển rất lớn, vỏ dầy và cứng. Mặt ngoài của vỏ có nhiều lằn sâu như khắc, mặt trong thì trắng, sáng như ngọc; cho nên được xem là một loại đá ngọc, và được chế biến thành các vật trang sức quí giá. Cũng có người gọi loại san-hô trắng là xa-cừ. Nhưng, từ điển Từ Nguyên còn dẫn ở sách Nghệ Văn Loại Tụ của Trung-quốc, có điều mục nói rằng, xa-cừ là một loại ngọc quí ở Tây-vực; và đó mới là một trong bảy món báu đề cập ở đây.

6- Xích-châu (hay xích-chân-châu): là một loại ngọc màu đỏ, do một loài sâu đỏ sinh ra. Theo luận Đại Trí Độ, loại chân-châu này cực kì quí báu, không phải là san-hô. Loại chân-châu thường thì có màu xám hoặc xám nhạt, nhưng loại xích-chân-châu thì có ửng màu đỏ; nếu được loại màu thuần đỏ thì quí giá vô cùng, trên đời hiếm thấy.

7- Mã-não: là loại ngọc quí màu xanh biếc, rất sáng; khác với loại mã-não thường thấy, là loại đá có vân đỏ.

 

BÀI TẬP

1) Hãy kể tên bốn hạng Luân vương. Các vị Luân vương ấy xuất hiện vào lúc tuổi thọ con người là bao nhiêu? Thống trị bao nhiêu châu?

2) Bảy thứ quí báu riêng của vị Chuyển luân thánh vương là gì?

3) Chuyển luân thánh vương có bốn thứ phước báo; bốn phước báo ấy là những gì?

4) Vào lúc Chuyển luân thánh vương xuất hiện, tình trạng của châu Nam Thiệm-bộ như thế nào?

5) Luân vương sau khi mạng chung sẽ sinh về đâu? Tình trạng bảy thứ quí báu riêng của ông, sau đó sẽ như thế nào?