BẠCH CƯ DỊ

Phật Quang Đại Từ Điển

(772 – 846) Thi nhân đời Đường. Tự Lạc Thiên, hiệu Hương sơn cư sĩ, Túy Ngâm tiên sinh. Người huyện Hạ Khuê (phía đông bắc huyện Vị Nam), tỉnh Thiểm Tây. Xuất thân nhà Nho, thông tuệ hơn người. Năm Trinh Nguyên 14 (798) đậu tiến sĩ, năm Nguyên Hòa 2 (807) giữ chức Hàn lâm học sĩ, năm Nguyên Hòa 9, giữ chức Thái tử tả tán thiện đại phu. Viết Thưởng hoa và Tân tỉnh thi (thơ giếng mới) thuật bày sự phù hoa và dua nịnh của người đời, bèn bị giáng chức làm Tư mã châu Giang. Sau lại đổi làm Tư môn viên ngoại lang. Khoảng năm Hội Xương, giữ chức Thượng thư bộ Hình, sau khi mất, được truy phong Thượng thư hữu bộc xạ. Những văn phẩm còn lại, có Bạch thị văn tập 75 quyển, Bạch thị lục thiếp sự loại tập 30 quyển. Lúc trung niên, họ Bạch qui Phật, gần gũi các bậc cao Tăng, thụ tịnh giới, tập Thiền pháp. Lòng thành kính thờ Phật và tư tưởng Phật giáo của ông có thể được thấy trong các văn tập của ông. Cứ theo Túy ngâm tiên sinh mộ chí minh (bài minh khắc trên bia mộ của Túy ngâm tiên sinh) do ông tự soạn vào lúc cuối đời chép, thì chí bình sinh của ông đại khái là bên ngoài dùng Nho để tu thân, bên trong dùng Thích (Phật) để sửa tâm, khoảng còn lại thì lấy núi sông gió trăng thơ ca đàn rượu để vui chí. Ông thường tán thán Phật: Mười phương thế giới, trên trời dưới trời, con nay biết hết, không ai bằng Phật, rờ rỡ vòi vọi, là thầy trời người, nên con lễ chân, tán thán qui y.

Năm Thái Hòa thứ 6 (832), ông trùng tu chùa Hương Sơn ở Lạc Dương, đồng thời, cùng với vị tăng chùa Phật Quang ở Lạc Dương là Như Mãn kết hội Hương hỏa để sửa sang việc Phật, phát nguyện vãng sinh Tây phương, không biếng không nhác, cho đến trọn đời. Năm Hội Xương thứ 6 ông qua đời, hưởng thọ bảy mươi lăm tuổi. [X. Phật tổ thống kỉ Q.42; Phật tổ lịch đại thông tải Q.15, Q.16; Đại Thanh nhất thống chí Q.163; Lư sơn chí Q.13; Lư sơn cổ kim du kí tùng sao; Cựu Đường thư Q.166; Đường thư Q.119]. Bạch Cư Dị