BÁC ĐÓA NGÕA

Phật Quang Đại Từ Điển

(博朵瓦) (1031 – 1105) Tên Tây tạng là Po-to-ba. Tên chính là Nhân Khâm Tái, một vị tăng thuộc phái Cam Đan (Tạng: Bka#-gdams-pa) của Lạt-ma giáo Tây Tạng. Sư từng đã sáng lập chi phái Giáo điển thuộc phái Cam Đan, là một trong ba người học trò lớn của Lạc Mẫu Đông (Tạng:Hbrom-ston, còn gọi là Chủng Đôn Ba), người mở đầu phái Cam Đan. Theo ngài Luân Giới Bồ Đề (Tạng:Glaí-st#ul-byan) xuất gia, sư rất coi trọng nhân quả, từng trông nom chùa Trát Giác (Tạng: (Bragrgyab) trong một năm, trí tuệ rộng lớn, thông hiểu các kinh. Vì muốn đến Tây Khang tìm nơi yên tĩnh chuyên tu, nên năm hai mươi tám tuổi sư đến chùa Nặc Trân (Tạng:Rwa-sgren) bái kiến ngài Lạc Mẫu Đông, sinh lòng tin kính sâu xa, bèn xin ở lại học pháp đến ba mươi năm; cùng với Phác Khung Ngõa (Tạng: Phu chun pa), Cẩn Nga Ngõa (Tạng: Spyan sna ba), được gọi là ba đệ tử lớn, và sau giữ chức vụ Tăng viện trưởng của chùa ấy. Từ năm năm mươi bảy tuổi (có thuyết nói năm mươi mốt tuổi) trở về sau, sư mới đi các nơi hoằng pháp, chú trọng kinh điển giới luật, người theo có đến cả nghìn.

Lấy luận Bồ đề đạo đăng làm chủ để giảng, rồi kiêm giảng Đại thừa trang nghiêm kinh luận, Bồ tát địa, Đại thừa tập Bồ tát học luận, Bồ đề hành luận, Bồ tát bản sinh man luận, Pháp tập yếu tụng luận, gọi chung là Cam đan lục luận (sáu bộ luận của phái Cam đan), nhờ đó mà thanh danh phái Cam đan nổi mạnh. Về cuối đời, sư xây dựng chùa Bác đóa (Tạng:Po to), việc giảng kinh truyền trao cho học trò. Sư thị tịch vào năm 1105 Tây lịch, thọ bảy mươi lăm tuổi (có thuyết nói bảy mươi chín tuổi). Đệ tử nổi tiếng nhất thì có: Giả Vũ Ngõa (Tạng:Bya yul ba), Đóa Ba (Tạng:Dol pa), Lãng Nhật Đường Ba (Glan ri thanpa, 1054 – 1123), Bà Nặc Ngõa (Tạng: Sa ra ba, 1070 – 1141). [X. S. Candra Das: Pag sams jon zang; G. N. Roerich: The Blue Annals].