bà tư trá

Phật Quang Đại Từ Điển

Phạm: Vasiwỉha.

  1. Bà Tư Tra. Còn gọi là Bà Tử Sắt Đà, Phọc Tư Tiên, Bà Tư Tiên, Bà Tẩu Tiên Nhân. Gọi tắt là Bà Tư, Bà Tra. Là một trong bảy đại tiên, một trong mười đại tiên, một trong hai mươi tám bộ chúng. Là người tiên vào thời đại Phệ Đà ở Ấn Độ. Bà Tư Tra ở thời đại Lê Câu Phệ Đà, là người tiên đại biểu cho giòng dõi Bà la môn, cũng tức là tác giả những bài ca tán trong Lê Câu Phệ Đà quyển 7. Cứ theo luận Đại Trí Độ quyển 3 chép, thì xưa kia vua Bà Tẩu nước Ma Yết Đà vì chán đời mà xuất gia làm tiên nhân. Khi ấy có các Bà la môn tại gia cùng bàn luận với các người tiên xuất gia là, khi tế trời, nên hay không nên sát sinh, ăn thịt. Câu hỏi này được đặt ra cho tiên Bà Tẩu, Bà Tẩu trả lời là nên, những người tiên xuất gia trách cứ và bảo phải nói thực, Bà Tẩu bèn dẫn chứng trong bốn Phệ Đà bảo khi tế trời phải sát sinh, ăn thịt và không thay đổi ý kiến của mình. Bà Tẩu vì thế mà bị tội lớn và toàn thân mất vào trong đất. Lại kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni quyển 1 bảo, người tiên ấy từ địa ngục ra, được liệt vào chúng hội nghe đức Phật nói pháp. Trong Mật giáo, Bà Tư Tra được đặt ở phương đông trong Thai tạng giới Mạn Đồ La Kim Cương bộ. Hình tượng mầu da người, hình vị tiên, nửa trên thân để trần, tay phải cầm hoa sen, nắm tay lại, đặt nơi cạnh sườn, tay trái co lên ngang bả vai và cầm tràng hạt, đầu gối trái dựng thẳng, ngồi trên bệ tròn. Hình Tam muội da là tràng hạt, chủng tử là (va). Còn là thị giả đứng hầu bên trái Thiên Thủ Quan âm trong viện Hư không tạng, là một trong hai mươi tám bộ chúng Tiên Bà Tư Tra (Thai Tạng Giới Mạn Đồ La) của Quan âm. Hình tượng mầu trắng, hình người tiên khổ hạnh, tay phải đưa lên tựa hồ như búng ngón tay, tay trái chống gậy tiên mà đứng. Hình Tam muội da là gậy tiên, chủng tử là (rwaô). [X. Trung a hàm Q.28 kinh Anh vũ; kinh Đại nhật Q.5 phẩm Bí mật mạn đồ la; luận Đại tì bà sa Q.14; Đại nhật kinh sớ Q.16].
  2. Bà tư tra. Là một trong hàng đệ tử của Phật. Còn gọi là Bà tất tra. Trường a hàm quyển 6 kinh Tiểu duyên chép, ở nước Xá vệ, có người Bà la môn tên là Bà tất tra, cùng với Bà la môn Bà la đọa (Phạm, Bhàradvàja, ) cùng đến nơi Phật, được Phật giáo hóa. Lại kinh Tăng nhất a hàm quyển 3 phẩm Đệ tử, cho Bà tư tra là tỉ khưu hạng nhất trong chúng Thanh văn, thường ưa tam muội, lấy Thiền duyệt làm thức ăn.
  3. Bà tư tra. Người đàn bà Bà la môn. Còn gọi là Bà tư sắt đà, Bà tứ tra. Vì chết mất sáu đứa con nên thần trí bà ta thác loạn, thân thể trần truồng chạy nhảy trên đường, sau khi gặp đức Thế tôn thì bà ta trở lại tỉnh táo, và nghe đức Phật nói pháp mà chứng quả vị. [X. kinh Tạp a hàm Q.44; luận Đại tì bà sa Q.126].