Ba Thân

Từ Điển Đạo Uyển

S: trikāya; Hán Việt: Tam thân (三 身);

Chỉ ba loại thân của một vị Phật, theo quan điểm Ðại thừa (s: mahāyāna).
Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật – như Ngài đã xuất
hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh – chính là biểu hiện
của sự Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều
hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm ba thân
Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó. Ba thân gồm:

1. Pháp thân (法 身; s: dharmakāya): là thể tính thật sự của Phật, đồng
nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng
sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (s: dharma), là quy
luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy.

2. Báo thân (報 身; s: saṃbhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân (受 用 身): chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ.

3. Ứng thân (應 身; s: nirmāṇakāya, cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hoá
thân): là thân Phật xuất hiện trên trái đất, với nhân trạng, với mục
đích cứu độ con người.

Pháp thân được xem chính là Phật pháp (s: bud-dha-dharma) như Phật
Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này người ta mới nói đến
hai thân kia. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên,
là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật.
Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ trường hợp sử dụng. Có lúc
người ta xem nó là thể tính của mọi sự (Pháp giới [dharmadhātu,
dharmatā], Chân như [s: tathatā, bhūtatathatā], Không [s: śūnyatā],
A-lại-da thức [s: ālayavijñāna]) hay xem nó là Phật (Phật, Phật tính [s:
buddhatā], Như Lai tạng [s: ta-thāgata-garbha]). Trong nhiều trường
phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có
trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập
Lăng-già, kinh Hoa nghiêm). Ðạt Trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực
chứng được Pháp thân.

Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ Tát mà hoá
hiện cho thấy – cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân
hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba
mươi hai tướng tốt (s: dvā-triṃśadvara-lakṣaṇa) và tám mươi vẻ đẹp của
một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của
Thập địa (s: daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi
thiền định và lúc giảng pháp Ðại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ
tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ.

Ứng thân là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên trái đất. Ứng thân do Báo
thân chiếu hiện, dựa trên lòng Từ bi và có mục đích giáo hoá chúng
sinh. Như thân người, Ứng thân chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật,
nhưng Ứng thân có thần thông như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông.
Sau khi chết, Ứng thân tự tiêu diệt.

Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được Vô Trước (s: asaṅga) trình
bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Ðại chúng bộ (s: mahāsāṅghika)
và về sau được Ðại thừa tiếp nhận. Ðáng chú ý nhất là quan điểm Pháp
thân nhấn mạnh đến thể tính tuyệt đối của một vị Phật và không chú trọng
lắm đến Ứng thân của vị Phật lịch sử. Như thế, Phật là thể tính thanh
tịnh của toàn vũ trụ, thường hằng, toàn năng. Các vị Phật xuất hiện trên
trái đất chính là hiện thân của Pháp thân, vì lòng từ bi mà đến với con
người, vì lợi ích của con người.

Với quan điểm Ba thân này người ta tiến tới khái niệm không gian vô tận
với vô lượng thế giới. Trong các thế giới đó có vô số chúng sinh đã được
giác ngộ, với vô số Phật và Bồ Tát.

Ðối với Thiền tông thì ba thân Phật là ba cấp của Chân như, nhưng liên
hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất. Pháp thân là “tâm thức” của vũ
trụ, là thể tính nằm ngoài suy luận. Ðó là nơi phát sinh tất cả, từ loài
Hữu tình đến vô tình, tất cả những hoạt động thuộc tâm thức. Pháp thân
đó hiện thân thành Phật Ðại Nhật (s: vairocana). Cũng theo Thiền tông
thì Báo thân là tâm thức hỉ lạc khi đạt Giác ngộ, Kiến tính, ngộ được
tâm chư Phật và tâm mình là một. Báo thân hiện thân thành Phật A-di-đà.
Ứng thân là thân Phật hoá thành thân người, là đức Thích-ca Mâu-ni.

Mối liên hệ của Ba thân Phật theo quan điểm Thiền tông được thí dụ như
sau: nếu xem Pháp thân là toàn bộ kiến thức y học thì Báo thân là chương
trình học tập của một y sĩ và Ứng thân là y sĩ đó áp dụng kiến thức y
học mà chữa bịnh cho người.

Trong Kim cương thừa thì Ba thân là ba cấp của kinh nghiệm giác ngộ.
Chứng được Pháp thân chính là tri kiến được tự tính sâu xa nhất của muôn
vật, và tự tính này chính là tính Không, trống rỗng. Báo thân và Ứng
thân là thân của sắc giới, là phương tiện tạm thời giúp hành giả chứng
ngộ được tính Không. Trong Phật giáo Tây Tạng, người ta xem Thân, khẩu, ý
của một vị Ðạo sư (s: gu-ru) đồng nghĩa với ba thân nói trên.

Trong Kim cương thừa, quan điểm Ba thân có mục đích phát biểu các tầng
cấp khác nhau của kinh nghiệm giác ngộ. Pháp thân là tính Không, là Chân
như tuyệt đối, bao trùm mọi sự, tự nó là Giác ngộ. Báo thân và Ứng thân
là các thể có sắc tướng, được xem là phương tiện nhằm đạt tới kinh
nghiệm về một cái tuyệt đối. Trong Phật giáo Tây Tạng, người ta xem
thân, khẩu, ý của một vị đạo sư chính là Ba thân, được biểu tượng bằng
thần chú OṂ-AH-HUNG (gọi theo tiếng Tây Tạng). Sức mạnh toàn năng của
Pháp thân được thể hiện ở đây bằng Phổ Hiền (s: samantabhadra). Các giáo
pháp Ðại thủ ấn và Ðại cứu kính (t: dzogchen) giúp hành giả đạt được
kinh nghiệm về tâm thức vô tận của Pháp thân. Báo thân được xem là một
dạng của “thân giáo hoá.” Các Báo thân xuất hiện dưới dạng Ngũ Phật và
được xem là phương tiện để tiếp cận với Chân như tuyệt đối. Báo thân
xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau, tịch tĩnh (s: śānta) hay phẫn
nộ (s: krodha), có khi được trình bày với các vị Hộ Thần (t: yidam) hay
Hộ Pháp (s: dharmapāla).

Ứng thân là một dạng “thân giáo hoá” với nhân trạng. Trong Kim cương
thừa, Ứng thân hay được hiểu là các vị Bồ Tát tái sinh (Chu-cô [t:
tulku]).

Ba thân nêu trên không phải là ba trạng thái độc lập mà là biểu hiện của
một đơn vị duy nhất, thỉnh thoảng được mô tả bằng thân thứ tư là Tự
tính (Tự nhiên) thân (s: svābhāvikakāya). Trong một vài Tan-tra, thân
thứ tư này được gọi là Ðại lạc thân (s: mahāsukhakāya).