BÀ SƯ BA

Phật Quang Đại Từ Điển

(婆師波) Phạm: Vàwpa, Pàli: Vappa. Còn gọi là Bà Thấp Bà, Bà Sa Ba, Bà Phu, Bà Phá, Bà Phả, Bà Phạm, Hòa Phá. Dịch ý là Khởi khí, Trường Khí, Lệ Xuất, Chính Ngữ. Là một trong năm vị Tỉ Khưu được độ trước nhất khi đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Dã. Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 3 phẩm Đệ tử, khi liệt kê các loại Tỉ Khưu bậc nhất trong hàng ngũ đệ tử Phật, bảo (Đại 2, 557 thượng): Thầm lặng giáo hóa, ý không mong vinh dự, đó là Tỉ Khưu Bà Phá. Lại sau đức Phật nhập diệt, cùng với Tôn Giả Đại Ca Diếp, khi kết tập tại hai nơi quật ngoại (bên ngoài hang), quật nội (bên trong hang), Bà Sư Ba là thượng thủ của đại chúng ở quật ngoại, tự lãnh đạo đại chúng ở ngoài giới kết tập ba tạng, trở thành ông tổ của Đại Chúng Bộ. Vị La hán này thường vì thương xót nỗi khổ của chúng sinh mà luôn luôn rơi nước mắt, do đó gọi là Lệ Xuất (nước mắt tràn ra). Trung A Hàm quyển 3 kinh Hòa Phá chép, ở nước Ca Duy La Vệ có một người giòng họ Thích, tên là Hòa Phá, lúc đầu theo Ni Kiền Tử, sau được đức Thế Tôn giáo hóa mà qui y cửa Phật, đây có thể là một người khác với Bà Sư Ba. [X. kinh Phật Bản Hạnh tập Q.34 phẩm Chuyển Diệu Pháp Luân; kinh Tì Ni Mẫu Q.1; Tam Luận Huyền Nghĩa Q.hạ; Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm chương Q.2 phần đầu].