Ba Lăng Hạo Giám

Từ Điển Đạo Uyển

巴 陵 顥 鋻; C: bālíng hàojiàn; J: haryō kōkan; tk. 10;

Thiền sư Trung Quốc, môn đệ của Thiền sư Vân Môn Văn Yển.

Sử sách không lưu lại nhiều tài liệu về Sư, chỉ biết là Sư thường Hành
cước, không lưu lại lâu dài nơi Vân Môn và cũng chưa được thầy ấn chứng
nơi đây. Sau khi rời Vân Môn chu du, Sư chẳng gửi thư từ gì, chỉ dâng
lên ba chuyển ngữ cho sư phụ, đó là 1. Thế nào là Ðạo? – “Người mắt sáng
rơi giếng (明 眼 人 落 井)”; 2. Thế nào là Xuy mao kiếm (吹 毛 劍; là thanh
kiếm cực bén, chỉ cần thổi sợi lông qua liền đứt)? – “Cành san hô chống
đến trăng” (珊 瑚 枝 枝 撐 著 月); 3. Thế nào là tông Ðề-bà (Thánh Thiên)? –
“Trong chén bạc đựng tuyết (銀 椀 裏 盛 雪).” Vân Môn đọc qua liền ấn chứng
qua thư từ và hơn nữa, rất hài lòng với ba chuyển ngữ này, căn dặn môn
đệ đến ngày kị chẳng cần làm gì, chỉ dâng ba chuyển ngữ này là đủ.

Khác với những câu trả lời ngắn gọn của Vân Môn (Nhất tự quan), Sư
thường sử dụng văn vần để trả lời những câu hỏi của thiền khách. Vì vậy
Sư cũng mang biệt hiệu “Giám đa khẩu.”