AN HUỆ

Phật Quang Đại Từ Điển

(457 – 555) Phạm: Sthiramati. Dịch âm là Tất-sỉ-la-mạt-để. Người nước La-la (nước Phạt-lạp-tì) thuộc nam Ấn Độ. Một học giả lớn của Phật giáo Đại thừa nam Ấn Độ, khoảng một nghìn một trăm năm sau đức Phật nhập diệt. Sư tinh thông Duy thức và Nhân minh học, rất giỏi luận nghĩa, là một trong mười luận sư lớn của Duy thức học. Sư sống đồng thời với ngài Hộ Pháp, nhưng có nhiều điểm chủ trương khác với Hộ Pháp. Về phương diện tác dụng tâm thức, Sư chỉ thừa nhận Tự chứng phần là thực có, còn cho Kiến phần, Tướng phần tình thì có mà lí thì không, vì thế, người ta gọi sư là Nhất phần gia; ngài Hộ Pháp thì lập bốn phần là Kiến phần, Tướng phần, Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần, cho nên, được người ta gọi là Tứ phần gia. Đối với quan điểm dị đồng về tác dụng tâm thức giữa An Tuệ và Hộ Pháp, từ xưa, đã có bài kệ biểu thị như sau: Hai chướng tương ứng bảy chuyển trước; Hai chấp tương ứng duy sáu, bảy; Năm tám không chấp tông Hộ Pháp. Sở tri pháp chấp năm, sáu, tám; Ngã chấp tương ứng duy sáu, bảy; Phiền não tương ứng bảy chuyển trước; Năm, tám pháp chấp tông An Tuệ. Giải rõ nghĩa như sau: Theo ngài Hộ Pháp, thì Phiền não chướng và Sở tri chướng tương ứng với bảy chuyển thức trước (tức mắt tai mũi lưỡi thân ý và mạt na), ngã chấp và pháp chấp chỉ tương ứng với thức thứ 6 và thức thứ 7, còn thức thứ 5 (thân thức) và thức thứ 8 (A-lại-da-thức) thì không chấp; đó là quan điểm của Hộ pháp. Theo ngài An tuệ, thì sở tri chướng và pháp chấp tương ứng với các thức thứ 5, thứ 6 và thứ 8, ngã chấp chỉ tương ứng với thức thứ 6 và thức thứ 7, phiền não chướng tương ứng với bảy chuyển thức trước, pháp chấp tương ứng với thức thứ 5 và thứ 8; đó là quan điểm của An tuệ. Năm thức trước chấp ngã năm thức trước Hộ Thức thứ sáu chấp pháp Thức thứ sáu An Pháp Thức thứ bảy chướng sở tri Thức thứ bảy Tuệ Thức thứ tám chướng phiền não Thức thứ tám. An Tuệ tôn sùng giáo nghĩa của ngài Thế Thân, thừa kế học thuyết của Ngài, từng viết Thích Luận giải thích Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân, tức là bộ Duy Thức Tam Thập Tụng Thích Luận; bản tiếng Phạm của sách này đến nay vẫn còn, được phát hiện tại Ni bạc nhĩ (Népal), nó cũng được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Nhật. Những tác phẩm khác của An tuệ, còn có luận Đại thừa A Tì Đạt Ma Tạp Tập 16 quyển, luận Đại Thừa Quảng Ngũ Uẩn 1 quyển, Đại Thừa Trung Quán Thích Luận 9 quyển, Câu Xá Thực Nghĩa Sớ 5 quyển v.v… Trong đó, Câu Xá Thực Nghĩa Sớ mới được tìm thấy tại Đôn Hoàng thời gần đây, thu vào Đại Chính Tạng tập 29. [X. Thành Duy Thức Luận Thuật Kí Q.1 phần đầu; Giải Thâm Mật Kinh Sớ Q.3; Thành Duy Thức Luận Liễu Nghĩa Đăng Q.1 phần cuối; Thành Duy Thức Luận Chưởng Trung Khu Yếu Q.1 phần đầu; Nam Hải Kí Qui Nội Pháp Truyện Q.4]. (xt. Tứ Phần).