A-Xà-Thế

Từ Điển Đạo Uyển

阿 闍 世; S: ajātaśatru; P: ajātasattu;

Vua xứ Ma-kiệt-đà (magadha), người trị vì trong 8 năm cuối cùng tại thế
của Phật Thích-ca Mâu-ni và 24 năm kế tiếp (khoảng từ 494-462 trước Công
nguyên). Ông là người giết vua cha Tần-bà-sa-la (s, p: bimbisāra) và
cùng Ðề-bà Ðạt-đa (s, p: deva-datta) định ám hại đức Phật, nhưng không
thành. Cuối cùng ông tỉnh ngộ theo Phật và phụng sự đạo Phật.

A-xà-thế có nghĩa là “Vị sinh oán” (未 生 怨) – với ý kết oán trước khi
sinh – là kẻ được tiên đoán sẽ giết cha. A-xà-thế muốn đoạt quyền cha
quá sớm, cùng với Ðề-bà Ðạt-đa đạt đa âm mưu vừa giết Phật vừa giết vua
cha. Âm mưu này bại lộ, vua cha tha tội cho con và giao ngai vàng.
A-xà-thế vẫn không yên tâm vì cha còn sống, hạ ngục và bỏ đói cả cha lẫn
mẹ. Về sau A-xà-thế hỏi ý kiến đức Phật có nên xâm chiếm nước Bạt-kì
(p: vajjī) vốn là một nước dân chủ. Ðức Phật cho biết Bạt-kì không bao
giờ thua vì dân nước đó rất đoàn kết. Từ đó A-xà-thế coi trọng dân chủ,
coi trọng Tăng-già và nhân đây được tỉnh ngộ. Sau khi đức Phật nhập
Niết-bàn, A-xà-thế lập một Tháp thờ Xá-lị của Phật. Ông cũng là người
xây dựng một thuyết đường lớn trong lần Kết tập thứ nhất.