A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ THÍCH LUẬN
Tác giả: Tôn giả Bà Tẩu Bàn Đậu (Thế Thân)
Hán dịch: Đời Trần, Tam Tạng Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 10

Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP, phần 1

Trước đã nói về thế giới chúng sinh và khí thế giới, sự sai biệt của chúng có nhiều thứ không đồng.

Sự không đồng như thế là do nhân nào tạo ra?

Không phải theo một tác giả, do nhận biết là trước đã tạo.

Nếu như vậy thì các chúng sinh là thế nào?

Kệ nói: Nghiệp sinh thế, nhiều khác.

Giải thích: Nếu thế gian có nhiều thứ sai biệt thì đều từ nghiệp sinh.

Thế nào là nghiệp của chúng sinh là nhân?

Uất-kim, chiên-đàn v.v… được sinh là rất khả ái nhưng thân của chúng sinh kia thì không như vậy, là do chủng loài của nghiệp kia. Chúng sinh tạo ra nghiệp xen tạp như thế nên thân kia có chín lỗ thải ra chất bất tịnh thật đáng chán ghét. Các vật dụng bên ngoài sinh khởi là rất đáng yêu thích. Nhằm đối trị thân này, nên chư thiên v.v… không tạo nghiệp xen tạp, khiến hai thứ được chiêu cảm của họ đều đáng yêu thích.

Nếu vậy nghiệp này là pháp gì?

Kệ nói: Cố ý cùng đã tạo.

Giải thích: Trong kinh nói: Nghiệp có hai thứ: (1) Nghiệp cố ý. (2) Nghiệp do cố ý tạo.

Đối tượng tạo tác này chỉ là cố ý tạo tác, không phải do thân miệng tạo tác. Hai nghiệp này hoặc thành ba nghiệp, nghĩa là thân, miệng, ý.

Vì sao an lập ba thứ nghiệp này?

Là do nương dựa, do tự tánh, hay là do duyên khởi? Nếu do nương dựa, thì chỉ có một nghiệp là thân nghiệp, vì tất cả sự nương dựa là nơi thân. Nếu do tự tánh, thì chỉ có một nghiệp là khẩu nghiệp, vì ở trong tất cả sự việc chỉ miệng là nghiệp. Nếu do duyên khởi, thì chỉ có một nghiệp là ý nghiệp, vì tất cả đều do cố ý nên khởi. Theo thứ lớp, do ba nhân này nên an lập ba nghiệp. Sư Tỳ-bà-sa đã nói như vậy. Trong ấy,

Kệ nói: Cố ý tức tâm nghiệp.

Giải thích: Tâm nghiệp: Chỉ là cố ý. Ý là tướng gì? Nghĩa là tâm tư đã quyết định.

Kệ nói: Cố ý sinh thân miệng.

Giải thích: Cố ý như thế là dựa vào môn thân miệng khởi. Tức do thân miệng trở lại hiển bày về cố ý. Nên biết đây gọi là hai nghiệp thân, miệng.

Kệ nói: Hai hữu giáo, vô giáo.

Nghiệp thân miệng này, nên biết mỗi mỗi đều có hai loại: Hữu giáo, vô giáo (Hữu biểu, vô biểu) làm tánh. Ở đây, kệ nói: Nêu tướng thân hữu giáo.

Giải thích: Do thuận theo cố ý, nên thân này có tướng mạo như thế, như thế nói là hữu giáo.

Có Sư khác cho: Hành động gọi là hữu giáo. Nếu thân hành động tất do nghiệp hành động, nên hành động là thân nghiệp.

Đối hướng kia nên nói như vậy..

Kệ nói: Vì không động sát-na.

Giải thích: Tất cả pháp hữu vi đều cùng với sát-na tương ưng.

Pháp gì gọi là sát-na?

Được thể vô gián diệt đó gọi là sát-na. Tùy theo pháp có như vậy, gọi là sát-ni-kha. Ví như người có gậy. Vì sao? Vì tất cả pháp hữu vi, từ sau khi được thể, tức là không có. Vì thời này sinh, tức thời ấy hoại, nên cho là pháp ấy được vượt qua xứ khác. Điều này tức không phải đạo lý, thế nên thân nghiệp không phải là hành động. Nghĩa này cũng có thể đúng. Vì nếu tất cả hữu vi đều là sát-ni-kha, thì ông nay nên biết nghĩa này là thành thật. Nghĩa là pháp hữu vi theo sát-na, sát-na diệt.

Làm sao nhận biết?

Kệ nói: Vì diệt tận sau cùng.

Giải thích: Các pháp hữu vi diệt không do nhân. Vì sao? Vì nhân duyên là pháp sinh có, diệt không phải là pháp có. Nếu không phải có thì nhân này đã tạo ra gì? Vì diệt ấy đã là vô sở hữu nên không cần nhân. Lúc pháp có sinh, tiếp theo nếu không diệt, thì thời gian sau cũng tức nên không có pháp có, vì không khác.

Nếu ông nói: Pháp này biến đổi khác mới có diệt, thì pháp ấy tức không phải là sự biến đổi khác ấy. Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì tự thể của pháp này do tự thể biến đổi khác, thì không có lý như vậy. Nếu chứng kiến củi v.v… do tương ưng với lửa, nên diệt không hiện rõ. Bạn thiện là cùng với lửa tương ưng. Do củi đều diệt hết nên không thể thấy. Vì tự nhiệt diệt, pháp khác không sinh lại, nên không thể thấy. Ví như cùng với gió tương ưng nên đèn tắt, cùng với tay tương ưng nên tiếng chuông rung im bặt. Thế nên nghĩa này là do tỷ lượng được thành.

Trong đây, pháp nào là tỷ lượng?

Đã nói do diệt không phải là nhân nơi đối tượng tạo tác. Lại nữa:

Kệ nói: Đều từ nơi nhân sinh.

Giải thích: Nếu diệt tất do nhân thì không diệt, vì không có nhân sinh ra. Sát-na là pháp sinh diệt, như trí, tiếng, ánh sáng v.v… Vì thấy diệt này không có nhân, nên biết tất cả diệt đều không quán nhân.

Nếu có người cho: Do trí riêng nên trí khác diệt. Do tiếng riêng nên tiếng khác diệt. Nghĩa này không đúng. Vì hai trí không cùng khởi, nên trí nghi ngờ và trí quyết định không có đạo lý có thể đều cùng khởi. Khổ, vui, giận, dục cũng như thế. Nếu trí sáng rõ cùng tiếng sinh, thì theo thứ lớp trí không sáng rõ cùng tiếng sinh, vì sao loại pháp không sáng rõ v.v… lại có thể diệt loại pháp sáng rõ v.v…?

Hoặc có người giải thích: Đèn, ánh sáng ở trong phần vị khác, vì không có nơi chốn nương dựa nên tắt. Hoặc do thuận theo pháp, phi pháp nên diệt. Lối giải thích này không đúng. Vì sao? Vì giải thích như thế đều nên thành nhân, pháp được nêu giải không phải là pháp, vì nhân sinh diệt không có đạo lý. Ở trong sát-na khởi công năng như vậy, thì ở nơi tất cả hữu vi có thể tạo ra nhân khác của sự phân biệt như thế.

Lại nên bỏ qua phần tranh luận này.

Nếu nói củi v.v… diệt là do tương ưng của lửa làm nhân, thì trong lối giải thích ấy, đức thành thục đã sinh, thành thục ít, vừa, sau cùng đều ở trong sinh?

Kệ nói: Nhân sinh thành chủ diệt.

Giải thích: Nhân sinh trong thành thục này tức thành nhân diệt. Vì sao? Vì từ củi tương ưng với lửa, đức thành thục sinh nên từ đức này không khác. Khi thành thục ở giữa, sau sinh thì thành thục ít liền diệt, thì nhân sinh kia tức là nhân diệt hoặc diệt này do nhân không khác. Nghĩa này là không đúng.

Kệ nói: Nơi quyết định không chứng.

Giải thích: Theo nhân như thế, trước kia đã được sinh, lại từ nhân này nên pháp kia thành diệt.

Kệ nói: Đối địa cùng sao có.

Giải thích: Đối với ánh sáng có sai biệt, lại được phân biệt nhân kia có khác. Đối với nước tro, tuyết, dấm, mặt trời, nước, vì tương ưng với đất, nên khi đức thành thục có sai biệt sinh, thì trong ấy đâu có đối tượng phân biệt.

Nghĩa này không hợp lý. Vì sao? Vì nước đã đem nấu thì giảm dần rồi khô hết, nên sự tương ưng của lửa ở trong ấy đâu có tạo tác. Do thế mạnh của lửa này sinh trưởng hỏa giới tức do thế mạnh của hỏa giới nên tụ nước giảm thiểu dần, cho đến phần vị giảm tột cùng, không còn tiếp nhận sự nối tiếp sau. Ở đây, sự việc này là đối tượng tạo tác tương ưng với lửa. Thế nên các pháp có diệt đều không có nhân. Vì là tánh hoại nên tự nhiên mà diệt.

Nếu sinh tức diệt, thế nên sát-na kia diệt, thì nghĩa sát-na diệt được thành. Do sát-na diệt nên không có hành động. Các pháp có ở trong vô gián sinh của xứ khác, thế gian khởi hành động vọng chấp. Ví như cỏ, ánh sáng v.v… Hành động đã không có tướng mạo là thân nghiệp thì nghĩa này được thành. Sư Kinh Bộ nói: Tướng mạo không phải là vật có thật. Vì sao?

Kệ nói:

Hướng một phương tụ sinh

Chấp sắc giả nói đấy

Tướng mạo do tỷ lượng

Dựa tướng sắc quyết định.

Giải thích: Nếu sắc đa số sinh ở một phương, giả nêu gọi là dài. Quan sát sắc này đối với sắc khác ít, giả nêu gọi là ngắn. Nếu ở nơi bốn phương, sắc phần nhiều sinh, thì giả nêu gọi là phương. Nếu ở tất cả xứ, sắc sinh v.v…, thì giả nêu gọi là tròn. Pháp còn lại cũng như thế. Ví như lửa, củi. Nhanh chóng hướng về một phương, đối với xứ khác thấy không có gián đoạn, thì cho là dài. Nếu ở nơi tất cả xứ đều thấy, tức cho là tròn. Thế nên tướng mạo cùng với sắc không có loại riêng. Vì sao? Vì nếu có loại riêng:

Kệ nói:

Hai căn nhận không nhập Quyết định là ý trần.

Giải thích: Nếu mắt thấy sắc này, phân biệt là dài, hoặc thân xúc chạm cũng như thế. Vì vậy tướng mạo này tức nên thành đối tượng nhận lấy của hai căn.

Không có sắc nhập làm đối tượng nhận lấy hai căn.

Kệ nói:

Do phân biệt về cứng v.v… Dài cùng với trí sinh.

Giải thích: Như ở trong xúc, cho các tướng mạo như dài v.v…, ông ở trong sắc nên biết cũng như thế. Do nơi tướng mạo chỉ có nhớ nghĩ khởi, vì cùng với xúc tương ưng, nên không có chứng nhận lấy. Ví như người thấy sắc của lửa. Đối với lửa nóng, xúc chạm, sinh nhớ nghĩ. Ngửi hương của hoa, đối với sắc của hoa, sinh nhớ nghĩ. Ở đây nghĩa ấy là hợp lý, do sắc hương kia là vật thật có, không cùng lìa nhau, thế nên cùng được so sánh với nhau.

Kệ nói:

Nơi tụ tập lớn có

Lại quyết định tướng mạo

Không đồng với trái nhau.

Giải thích: Không có xúc trần ở trong tướng mạo là quyết định. Nhân nơi định này, nên ở trong hai thứ, lại hỗ tương so sánh để nhận biết là quyết định được thành. Nếu không có quyết định tương ưng với xúc được nhận lấy, thì so sánh tướng mạo quyết định được thành. So sánh đối với sắc cũng quyết định nên thành. Hoặc như đối với sắc, ở nơi tướng mạo không nhất định, tức so sánh không nên thành. Hai nghĩa ấy tất không thành. Vì thế do xúc nên so sánh tướng mạo. Nghĩa này không đúng, vì đối với vật có rất nhiều tướng mạo. Như đệm dệt bằng lông v.v… Do thấy rất nhiều tướng mạo, nên tùy thuộc nơi một tướng mạo đã thấy, là rất nhiều tướng mạo đã thành một phần. Nếu là vật thật, thì nghĩa này không thành. Ví như hiển sắc, vì thế tướng mạo không có vật thật.

Lại nữa, tùy thuộc có sắc có chất ngại, thì sắc này tất định có Lân hư. Sắc của tướng mạo không có Lân hư riêng. Thế nên nhiều sắc tụ tập như vậy, giả nêu là dài v.v… Nếu ông nói tướng mạo này là do Lân hư tụ tập, như tướng mạo ấy được mang tên là dài v.v… thì lối giải thích này hoàn toàn rơi vào phần hỗ trợ riêng, vì tướng mạo nơi Lân hư không thành tựu. Nếu tướng riêng của Lân hư kia đã thành tựu thì sự tụ tập của Lân hư kia có thể hợp lý.

Tướng mạo nơi Lân hư theo như Lân hư như sắc v.v…, tự tánh đã không thành tựu, thì làm sao có tụ tập? Nếu ông nói sắc đồng không khác, chỉ thấy tướng mạo có khác, nghĩa là vật chứa bằng đất v.v… thì nghĩa ấy không đúng.

Trước đã không nêu bày chăng? Nếu sắc khởi tướng như thế, trong ấy giả lập là dài v.v… Ví như đàn kiến v.v… không có sự sai biệt, nhưng nói là có khác như bò đi thành vòng tròn v.v… Tướng mạo cũng như thế.

Lại nữa, nếu ông nói ở trong bóng tối, từ xa không thấy sắc, như nơi cây trụi cành lá v.v…, chỉ thấy tướng như dài v.v…, nên tướng khác với sắc. Nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Vì đối tượng thấy này tức là sắc. Vì ở trong ấy không sáng rõ, nên chỉ phân biệt là dài v.v… Ví như đoàn quân đi v.v… Do lý như vậy, tức nghĩa này tất nên như thế. Có lúc không thể phân biệt về chỗ sai biệt, chỉ là nhiều vật tụ tập, do thấy không sáng, rõ.

Nếu như vậy Sư Kinh Bộ các ông, trừ hành động của thân và tướng mạo, trong ấy ông lập pháp gì làm thân nghiệp? Hay chỉ lập tướng mạo làm thân nghiệp hữu giáo? Vì không do thật có. Nếu ông giả nêu về tướng mạo, thì vì sao lập làm thân nghiệp? Do thân làm chỗ nương dựa, nên nghiệp này là thân nghiệp. Nếu cố ý có thể dẫn dắt thân, thì ở nơi vô số xứ tức lập cố ý này làm thân nghiệp. Như hai nghiệp miệng ý ấy, như lý nên nhận biết.

Nếu vậy, như trước đã nói: Nghiệp có hai thứ: (1) Nghiệp cố ý. (2) Nghiệp do cố ý tạo ra.

Hai nghiệp này có gì khác nhau?

Vì phân biệt nên cố ý khởi trước. Nghĩa là chúng ta nên làm như thế, như thế. Đó gọi là nghiệp cố ý. Cố ý phân biệt xong, về sau dẫn đến sự việc cố ý khởi, có thể dẫn dắt thân tạo vô số sự việc, đó gọi là nghiệp do cố ý tạo ra.

Nếu như vậy tức không có nghiệp hữu giáo. Nghiệp hữu giáo này ở nơi cõi dục cũng không có. Vì thế theo lối giải thích ấy là có lỗi lớn.

Nếu như thế thì đối với lỗi này lại có đối trị riêng khởi chăng?

Hoặc nghiệp vô giáo, theo như trước đã nói, gọi là thân nghiệp. Do cố ý sinh có sai biệt, nên nghiệp hiện có này tức tùy thuận cố ý khởi. Ví như quyết định về vô giáo, thì lỗi này không nên có. Vì theo gốc, nên cố ý có sai biệt đã có sự việc dẫn dắt và nương dựa, tức cố ý có sai biệt sinh. Nếu hữu giáo khởi cũng quán gốc, có thể dẫn phát thế mạnh của cố ý, nên ở đây mới được sinh. Do tối tăm, trì độn, huống chi là vô giáo.

Sư Tỳ-bà-sa nói: Tướng mạo của thân là vật thật có. Nghiệp hữu giáo của thân dùng giáo này làm thể.

Kệ nói: Ngôn giáo, ngữ, âm thanh.

Giải thích: Thanh này dùng ngôn ngữ làm tánh, đó gọi là hữu giáo. Nói nghiệp vô giáo tức như trước đã nêu. Sư Kinh Bộ nói: Thanh này cũng không phải là vật có thật. Vì sao? Vì trước đã tin cầu, chỉ quyết định không tạo tác làm lượng. Sư kia dựa vào bốn đại quá khứ để thành lập nghĩa ấy. Vì bốn đại quá khứ đã là tánh vô vi, nên do giải thích về sắc này làm tướng.

Sư Tỳ-bà-sa cho: Nghiệp vô giáo này là vật có thật. Làm sao nhận biết?

Kệ nói:

Ba sắc vô lưu dài

Không tạo tác, nói đạo.

Giải thích: Trong kinh nói: Sắc có ba thứ. Có ba xứ có thể gồm thâu hết các sắc: Có sắc có hiển, có ngăn ngại. Có sắc không hiển, có ngăn ngại. Có sắc không hiển, không ngăn ngại. Đức Phật nói có sắc vô lưu. Như kinh nói: Thế nào là pháp vô lưu? Nếu sắc nơi đời quá khứ, hiện tại, vị lai, ở trong ấy dục không khởi, giận không khởi, cho đến thức cũng như thế, thì đấy gọi là pháp vô lưu. Nếu trừ sắc vô giáo, thì không có sắc không hiển, không ngăn ngại và sắc vô lưu.

Trong kinh lại nói là tăng trưởng. Như kinh nói: Nếu thiện nam, thiện nữ có tín căn cùng với bảy thứ hữu, gồm thâu phước đức, tương ưng với xứ nghiệp, thì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc thức, luôn luôn bình đẳng, phước đức tăng trưởng, phước đức nối tiếp nhau. Cùng với không gồm thâu tương ưng cũng thế.

Nếu lìa vô giáo, thì người có tâm duyên khác, tức xứ nghiệp phước đức không nên có tăng trưởng. Nếu người tự mình không tạo tác, chỉ bảo người khác làm, nếu không có nghiệp vô giáo, thì đạo không nên thành. Vì sao? Vì nghiệp giáo khiến người khác làm, không phải là nghiệp đạo, vì không phải là nghiệp do mình gây tạo. Nếu đã tạo tác, thì tánh này không có sai biệt, nên cũng không phải do Đức Phật, Thế Tôn nói. Các pháp Tỳ-kheo là ngoại nhập, không phải thuộc về mười một nhập. Nghĩa là không có hiển, không có ngăn ngại. Không nói không có sắc, lời nói này tức thành vô dụng. Nếu không thấy sắc vô giáo, ở tại pháp nhập, hoặc lìa sắc vô giáo, thì Thánh đạo không thành tám phần. Nếu người nhập quán về chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thì không tương ưng.

Nếu như vậy thì kinh này đã nói là thế nào? Như kinh nói: Nếu người biết như thế, thấy như thế thì được chánh kiến, cho đến tu tập viên mãn, chánh giác, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Thời gian trước các thứ chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng đã thanh tịnh, lìa nhiễm ô. Lời nói này căn cứ nơi sự việc tu đạo thế gian, trước đã lìa dục.

Nên nêu bày như thế này: Nếu không có sắc vô giáo, thì giới Ba-la-đề-mộc-xoa cũng không nên thành. Vì sao? Vì từ sau khi thọ giới, giới này tức không có. Nghĩa là có thể trở thành người với tâm duyên khác, là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni v.v… Trong kinh nói: Giới xa lìa là bờ đê, vì có công năng ngăn chận giới tà. Nếu giới này không có, thì không nên thành bờ đê. Do giới này v.v… là chứng, nên nhận biết thật có sắc vô giáo.

Ở đây, Sư Kinh Bộ nói: Chứng này rất nhiều vì có vô số thứ hy hữu. Về lý thật thì không như thế. Vì sao? Vì như ông đã nói. Do vì ba thứ sắc nên có sắc vô giáo. Trong ấy, Sư hành quán kỳ cựu nói: Các người hành quán có cảnh giới định. Sắc do uy lực của định sinh khởi. Vì sắc này không phải là cảnh của mắt nên nói là không hiển. Vì không ngăn ngại xứ sở, nên nói là không có ngăn ngại. Nếu ông nói: Ở đây vì sao gọi là sắc, thì đây là vấn nạn về vô giáo, cũng đồng là điều ông đã nói. Do nói sắc vô lưu nên có sắc vô giáo. Nghĩa này đồng với trước. Sắc này do uy lực của định sinh. Ở trong định vô lưu, vì là cảnh giới, nên người hành quán nói đây là sắc vô lưu.

Có Sư khác cho: Sắc của A-la-hán và sắc ngoại gọi là sắc vô lưu, vì không phải là chỗ nương dựa của lưu.

Nếu vậy trong kinh nói làm sao thông hợp? Như kinh nói: Những gì là pháp hữu lưu? Nghĩa là tất cả mắt, tất cả sắc. Nói rộng như kinh. Sắc này vì không phải là đối trị lưu, nên nói là hữu lưu. Do nghĩa sai biệt này, nên sắc có thể nói là hữu lưu, có thể nói là vô lưu.

Nếu như thế thì đâu có lỗi cùng xen tạp?

Do tướng này nên sắc này thành hữu lưu, không do tướng này lại thành vô lưu.

Ở đó có cùng xen tạp gì?

Nếu sắc nhập hoàn toàn là hữu lưu, thì trong kinh này nói làm sao phân biệt thông hợp?

Kinh nói: Sắc hữu lưu: Nghĩa là nếu sắc có tâm chấp giữ kiên cố, do che giấu làm chỗ nương dựa. Nói rộng như kinh là thuyết ông đã nói.

Do phước đức tăng trưởng: Trong ấy, các Sư kỳ cựu đã nói: Đây là pháp như thế. Như thí chủ đã thí các thứ của cải, vật dụng. Người nhận đã thọ dụng như thế, như thế. Do công đức hơn kém của người nhận. Do lợi ích hơn kém của của vật dụng đem thí. Nếu tâm của thí chủ duyên khác, do trước đã duyên nơi cố ý thí được huân tu, thì lúc này tức nối tiếp đạt đến chuyển biến vi tế, khác với loại hơn hẳn. Do đấy, vào thời vị lai, tất sinh ít nhiều công năng nói tiếp của quả báo. Vì căn cứ vào nghĩa này, nên nói phước đức tăng trưởng, phước đức tương tục.

Nếu ông cho: Do chỗ hơn kém của sự nối tiếp riêng, nên đối với người có tâm duyên khác, thì sự nối tiếp riêng tức chuyển biến khác. Vậy hiện nay làm sao được thành?

Lối giải thích này đồng với vô giáo. Do chỗ hơn kém của sự nối tiếp riêng, nên ở trong sự nối tiếp riêng ấy có pháp riêng gọi là vô giáo.

Sự việc này làm sao được thành? Đối với xứ nghiệp không có gồm thâu phước đức, ở đấy làm sao có?

Do thường thường tu tập, nên có thể duyên nơi xứ nghiệp này làm cảnh là cố ý. Trong lúc nằm mộng, cảnh này cũng được theo đấy nối tiếp đều khởi.

Nếu người nói hữu giáo, thì đối với xứ nghiệp không gồm thâu phước đức, trong đó đã không có nghiệp hữu giáo, làm sao có được vô giáo?

Có Sư khác nêu: Đối với xứ nghiệp có gồm thâu phước đức, do thường xuyên tu tập thì có thể duyên nơi xứ ấy làm cảnh là cố ý nên vô giáo được sinh. Nếu thế thì vì sao ở trong kinh nói: Nếu Tỳ-kheo có giới, có pháp thiện, thọ dụng một bữa ăn của thí chủ xong, tu định tâm vô lượng, do thân chứng, xúc nương dựa trong ấy, trụ nơi nhân đời này, có thể thí cho thí chủ vô lượng phước đức, vô lượng lưu thiện, thức ăn an lạc, thì nên tin cầu như vậy.

Trong ấy, vào thời này có cố ý sai biệt gì? Thế nên chuyển biến nối tiếp khác với loại hơn hẳn. Nghĩa này là như lý, là điều ông đã nói. Nếu người sai bảo người khác tạo tác nghiệp đạo làm sao thành?

Ở đây, Sư Kinh Bộ nói: Do người này đã lập giáo gây tổn hại người khác có sai biệt nên thành. Tức đối với người có thể chỉ giáo, chuyển biến vi tế trong sự nối tiếp, khác với loại hơn được sinh. Do sự chuyển biến khác này, đối với sự nối tiếp ấy ở trong vị lai, là sinh ít nhiều quả báo, tức có công năng. Nếu người tự tạo sự việc quả lúc đạt cứu cánh, nên biết nghĩa này là như trước. Sự chuyển biến nối tiếp này khác với loại hơn hẳn, nên được nói là nghiệp đạo. Vì ở nơi quả lập tên nhân, nên nói đây là nghiệp thân miệng, là quả của hai nghiệp thân miệng. Ví như nói có người vô giáo, nên đối với vô giáo lập tên gọi của nghiệp thân miệng.

Đại đức nói: Ở trong năm thủ ấm, do ba thời cố ý khởi, nên người này phạm tội sát sinh đã hiện bày. Nghĩa là nói: Ta nay tất nên giết hại, đang giết hại, đã giết hại. Nếu sự việc này do cố ý sinh, thì chính là do lượng nghiệp đạo này không được thành tựu. Vì sao? Vì chớ nên cho là cha mẹ v.v… của mình đều chưa bị hại. Do vọng phân biệt giết hại, nên nghiệp vô gián thành. Nếu tự giết hại khởi cố ý như thế v.v… thì nghiệp đạo tức thành.

Nếu tác ý như vậy tức hợp đạo lý. Ông vì sao có tâm ganh ghét riêng bác bỏ về vô giáo, tin nhận chuyển biến nối tiếp khác với loại vượt hơn. Cả hai đều không phải là đối tượng giải thích, không có tâm ganh ghét. Tuy nhiên, do thuận theo cố ý cứu cánh thuộc nghiệp đạo gia hạnh của thân, nên nếu đã thành lập pháp riêng này khác với người có thể hành của hai thứ nương dựa để sinh khởi, thì nghĩa này không sinh ái lạc. Nếu do cố ý khởi sự việc gia hạnh sinh cứu cánh, thì nhân nơi sự chuyển nối tiếp này khác với loại vượt hơn nên nghĩa này thành, tức sinh ái lạc. Theo tâm tâm pháp nối tiếp, vì quả báo vị lai sinh, là điều ông đã nói. Do không có nghiệp hữu giáo nên vô giáo tức không.

Nghĩa như thế v.v… ở trước đã đáp, là pháp ông đã nêu dẫn. Do không nói pháp nhập không phải là sắc. Lời này đã đáp. Không hiển, không ngăn ngại, là sắc của cảnh nơi định, tức thuộc pháp nhập, là pháp ông đã nói.

Tám phần Thánh đạo không nên thành: Bạn thiện thỉnh ông vì nêu rõ nghĩa này: Nếu người nhập quán, tu đạo chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì sao người này lại được tướng vô lưu, vô giáo như thế?

Do được phần này, thời gian sau xuất quán, thì không còn hành các sự việc như tà ngữ v.v…, tất có thể luôn hành các phần như chánh ngữ v.v… Vì thế do đối với nhân lập tên của quả nên nói giáo là phần như chánh ngữ v.v…

Nếu như vậy ở đây vì sao không giải thích như thế? Nếu người nhập quán tu đạo, lìa vô giáo, thì được tướng như vậy. Nghĩa là cố ý cùng nương dựa. Do được hai thứ này, nên sau khi xuất quán, không còn hành các sự việc như tà ngữ v.v…, luôn hành theo phần chánh ngữ v.v… Thế nên do nơi nhân lập tên quả, tức an lập được tám phần Thánh đạo.

Có Sư khác cho: Ở đây chỉ không tạo tác làm lượng gọi là ba phần, do uy lực của Thánh đạo ấy, nên người này quyết được định, không còn tạo tà ngữ v.v… Định này không tạo, do được đạo vô lưu làm chỗ nương dựa, nên gọi là vô lưu. Vì sao? Vì đối với tất cả xứ không nhất định, nên kể thật là pháp có thể tánh. Ví như tám pháp ở thế gian: (1) Được. (2) Không được. (3) Nghe tiếng tốt. (4) Nghe tiếng xấu. (5) Khen. (6) Chê. (7) Vui. (8) Khổ.

Trong đây, không được y phục v.v…, không phải là thật có vật riêng cũng được kể ra. Đối với xứ khác cũng như thế. Giới Ba-lađề-mộc-xoa cũng như vậy. Người có tâm tin cầu, do cố ý từ trước đã tạo phương tiện thọ nhận. Đối với nghiệp như đã ngăn chận, giữ gìn thân miệng. Nếu ông nói: Khi tâm duyên khác tức không còn có giới. Nghĩa này không đúng. Do thường hành tập cố ý ấy nên khi sắp phạm việc ác, người này nhớ lại cố ý xưa cần giữ gìn, tức khởi nghĩa về bờ đê, cũng có nhớ giữ, trước đã thệ nguyện không tạo ác. Vì khởi tâm hổ thẹn, nên không phá bỏ giới cấm. Đây tức là nghĩa bờ đê.

Thế nên nương dựa nơi thầy thọ nhận, không làm điều ác. Nếu như ông đã nói: Chỉ nghiệp vô giáo là có thể ngăn chận đoạn trừ lỗi lầm phạm giới, tức nên không có người nào quên nhớ nghĩ việc phá giới.

Nên dừng lại việc tranh luận rộng. Sư Tỳ-bà-sa nói rõ: Có vật riêng, sắc là tánh, gọi là vô giáo. Ở đây nếu có thì như trước đã nói. Đây là nương dựa nơi bốn đại sinh. Hay là dựa nơi bốn đại hữu giáo sinh. Hay là không như thế?

Là nương dựa nơi bốn đại riêng sinh. Vì sao? Vì một hòa hợp này có hai quả thô tế. Nếu không có nghĩa như vậy thì vô giáo đã nương dựa nơi bốn đại, cùng với bốn đại hữu giáo đồng thời khởi, chẳng phải tất cả sắc được tạo. Nếu hiện đời, hoặc vị lai, phần nhiều dựa vào bốn đại quá khứ sinh.

Chỗ nương dựa này là thế nào?

Kệ nói:

Sau sát-na vô giáo

Dục đại quá khứ sinh.

Giải thích: Từ sau sát-na đầu tiên vô giáo của cõi dục nương dựa nơi bốn đại quá khứ sinh. Bốn đại này làm chỗ dựa cho sự sinh ấy. Bốn đại hiện đời của thân này làm chỗ nương dựa cho sự nối tiếp, tức là hai trong bốn đại, theo thứ lớp làm nhân sinh lưu ấy. Ví như bánh xe lăn trên đất, dùng tay chuyển đi, lấy đất làm xứ nương dựa.

Đối tượng nương dựa nơi bốn đại là địa nào? Chủ thể nương dựa nơi nghiệp thân miệng là địa nào?

Kệ nói:

Nương dựa bốn đại mình

Nghiệp thân miệng hữu lưu.

Giải thích: Nghiệp thân miệng của cõi dục chỉ dựa vào bốn đại của cõi dục sinh. Như cõi dục này, cho đến nghiệp thân miệng của định thứ tư nương dựa nơi bốn đại của định thứ tư sinh.

Kệ nói: Vô lưu theo xứ sinh.

Giải thích: Nếu nghiệp thân miệng vô lưu thì theo địa thọ sinh, là chỗ đã đạt được của con người. Nên biết tức dựa vào bốn đại của địa này sinh. Do không rơi vào cõi, nên bốn đại vô lưu là không có. Do sức của bốn đại kia sinh, nên hai nghiệp hữu giáo, vô giáo ở đây nên nhận biết.

Kệ nói:

Vô giáo không tâm giữ

Quả lưu tên chúng sinh

Tâm lưu giữ đại sinh.

Giải thích: Vô giáo, tướng ấy là thế nào? Chẳng phải là tâm tâm pháp, nương dựa nơi quả đẳng lưu. Vì giống với nhân, do là pháp chúng sinh, nên quả đẳng lưu nơi tâm tâm pháp đã nhận lấy bốn đại, dựa vào vô giáo này sinh, không phải là địa định.

Phẩm loại của vô giáo là như thế, còn địa định thì thế nào?

Kệ nói:

Định sinh qủa tăng trưởng

Không lấy đại khác sinh.

Giải thích: Định vô giáo, vô giáo vô lưu đều từ tâm định sinh. Nương dựa vào định đã sinh để tăng trưởng, không phải là tâm đã nhận lấy, không khác với bốn đại sinh. Không khác, nghĩa là nếu nương dựa nơi bốn đại này, lìa sát sinh, không có sát sinh, tức dựa vào bốn đại ấy, cho đến lìa bỏ lời nói vô nghĩa là vô giáo sinh. Vì sao như thế?

Vì như tâm cùng bốn đại không khác, nên ở trong giới Ba-lađề-mộc-xoa, mỗi mỗi giới đều dựa nơi bốn đại. Bảy giới vô giáo sinh đẳng lưu của sắc hữu giáo. Nếu thuộc về thân là tâm đã nhận lấy.

Sắc hữu giáo này nếu sinh là phá bỏ tướng mạo trước đã nối tiếp khởi hay là không? Nếu như vậy thì có lỗi gì?

Nếu phá bỏ sự sinh trước sau, thì sắc của quả báo đã đoạn, do đâu lại nối tiếp? Tức trái với chủ trương của Tỳ-bà-sa. Còn nếu không phá bỏ mà sinh, thì vì sao ở trong một tụ của bốn đại có đến hai tướng mạo cùng khởi? Bấy giờ, có bốn đại của đẳng lưu riêng sinh, là dựa nơi sắc hữu giáo này sinh.

Nếu vậy dựa theo phần một thân là sắc hữu giáo sinh, thì phần này tức nên là gốc của đại, vì bốn đại kia đã hiện bày đầy khắp. Nếu không hiện có đầy khắp, vì sao do sắc hữu giáo đủ phần khởi?

Do thân không nên sắc kia có xứ. Nghiệp này do nghĩa riêng để nói, tức có hai thứ, ba thứ, năm thứ. Trong đây, vô giáo có hai thứ:

(1) Thiện. (2) Ác.

Kệ nói: Không vô ký, vô giáo.

Giải thích: Vì sao như thế? Vì sức của tâm vô ký là yếu kém, nên không thể dẫn sinh nghiệp có sức mạnh. Nếu nhân đã diệt thì quả đẳng lưu này luôn nối tiếp khởi.

Kệ nói: Ba khác.

Giải thích: Nghiệp khác có ba thứ. Nghĩa là thiện, ác, vô ký. Những gì là khác? Nghĩa là hữu giáo cùng cố ý.

Kệ nói: Lại bất thiện trong dục.

Giải thích: Nếu nghiệp ác, nên biết chỉ ở trong cõi dục, không phải ở cõi khác, do ba căn ác và không hổ không thẹn đều diệt. Nếu là thiện, vô ký, thì tất cả xứ đều có, do không ngăn chận.

Kệ nói: Sắc vô giáo.

Giải thích: Nếu cõi sắc còn có vô giáo, huống chi là cõi dục. Ở cõi vô sắc không có, vì không có bốn đại. Nếu xứ này có thân miệng sinh, thì trong ấy có giới giữ gìn thân miệng.

Nếu như vậy hoặc người thân ở cõi dục, cõi sắc, nhập định bốn vô sắc, tức nên có vô giáo. Ví như vô giáo vô lưu.

Nghĩa này không đúng. Vì nghĩa này không thuận theo ba cõi, nên chung nơi vô giáo của cõi vô sắc, tức không nên nương dựa nơi bốn đại của loại không bình đẳng sinh. Vì trái với tất cả sắc, nên định của cõi vô sắc không thể dẫn sinh sắc. Vì chế phục tướng sắc, nên giữ giới là đối trị phá giới, phá giới chỉ là pháp của cõi dục. Ở cõi dục do bốn thứ xa, nên đối với cõi vô sắc là rất xa. Nghĩa là nương dựa, nhận lấy tướng, cảnh giới và đối trị. Thế nên ở đấy không có vô giáo.

Sư Tỳ-bà-sa đã nói như thế.

Kệ nói: Hữu giáo, có quán, hai.

Giải thích: Sắc hữu giáo ấy, ở trong hai địa có quán là có. Tức cõi dục và định thứ nhất. Các địa trên đều không.

Kệ nói: Dục vô giáo, vô ký.

Giải thích: Ở cõi dục không có vô giáo hữu phú vô ký, nhưng ở xứ Phạm thiên thì có. Vì sao? Vì từng nghe vua Đại Phạm vương có lời nói theo dua nịnh, tà vạy sinh. Đây là ở trong chỗ tụ tập lớn của cõi mình, vì nhằm tránh vấn nạn của Tôn giả A-du-thất để ca ngợi tự thân.

Nếu vậy từ định thứ hai trở lên, nếu không có ngôn thuyết làm sao có thanh nhập? Vì dùng bốn đại ngoài làm nhân, nên có thanh nhập.

Có Sư khác nói: Ở định thứ hai v.v… cũng có ngôn ngữ, chỉ là vô phú vô ký, không có thiện, không có nhiễm ô. Vì sao? Vì nếu con người sinh vào xứ kia, thì như tâm của địa dưới giống với địa này, không thể dẫn sinh khiến hiện tiền. Do sinh nghiệp hữu giáo của thân miệng là rất thô, kém, vì đã từ bỏ. Nên nghĩa trước là nghĩa của bộ kia đã nói.

Lại có nhân gì lìa xứ Phạm thì ở cõi trên không có nghiệp hữu giáo. Còn ở cõi dục lại không có nghiệp hữu giáo hữu phú vô ký?

Kệ nói: Vì duyên khởi không có.

Giải thích: Nếu tâm có giác quán, thì có thể khởi nghiệp hữu giáo của thân miệng. Tâm này ở nơi định thứ hai v.v… thì không có. Ở đây, nếu tâm ấy khởi, tất do tu đạo đoạn dứt. Tâm do kiến đế đoạn dứt là dựa vào môn trong khởi. Thế nên ở trong cõi dục không có hai nghiệp thân miệng hữu phú vô ký. Do thuận theo phát khởi, nên biết tánh thiện ác của các pháp là không như vậy.

Vì sao không phải như thế?

Do bốn thứ nhân: (1) Chân thật. (2) Tự tánh. (3) Tương ưng. (4) Phát khởi.

Ở đây:

Kệ nói: Giải thoát thiện chân thật.

Giải thích: Niết-bàn: Là tất cả khổ đều tịch tĩnh, vì rất bình an, là thiện chân thật. Ví như không có bệnh.

Kệ nói: Hổ thẹn căn tự tánh.

Giải thích: Căn nghĩa là ba căn thiện. Hổ và thẹn, pháp này do tự tánh là thiện, không quán tướng riêng nên phát khởi nhân. Ví như thuốc hay.

Kệ nói: Tương ưng xen tạp kia.

Giải thích: Các pháp cùng với ba căn thiện và hổ thẹn tương ưng, do cùng xen tạp nên là thiện. Nếu pháp kia không cùng với pháp này tương ưng, thì không có tánh thiện. Ví như thuốc hay lẫn lộn với nước.

Kệ nói: Phát khởi tức hữu giáo v.v…

Giải thích: Thân nghiệp, khẩu nghiệp và tâm bất tương ưng các hành, cùng với pháp tương ưng của căn thiện v.v… đã phát khởi. Do phát khởi nên là thiện. Ví như chưng nấu nước thuốc hay đã thành sữa. Các thứ đắc không phải là tâm đồng loại đã phát khởi.

Thế nào là tánh thiện? Do nghĩa này nên thiện. Như đã nói về bốn thứ thiện.

Kệ nói: Trái bốn này là ác.

Giải thích: Những gì gọi là bốn ác? Sinh tử gọi là ác đích thật. Sinh tất cả khổ là thể, là hết sức không bình an. Ví như có bệnh. Ba căn ác và không hổ không thẹn, gọi là tự tánh ác. Vì không quán nhân khác thành. Ví như ác độc. Các pháp tương ưng với ác kia, do tương ưng nên gọi là ác. Ví như ác độc xen lẫn với nước. Pháp ác kia đã phát khởi hai nơi nghiệp thân miệng. Sinh v.v… và đắc do phát khởi nên gọi là ác. Ví như nấu nước độc ác đã thành sữa.

Nếu như vậy thì không có một pháp hữu lưu nào nên thành vô ký, hoặc thành thiện, do đều nhập trong sinh tử.

Như ông đã nói thật sự đều như vậy. Nếu pháp hữu lưu, đối với quả báo không thể ghi nhận gọi là vô ký. Nếu pháp hữu lưu đối với quả báo đáng yêu, có ghi nhận, tức gọi là thiện. Nếu vô ký chân thật tất nên tìm cầu.

Kệ nói: Thật, vô ký hai thường.

Giải thích: Hai thứ pháp vô vi, không phải có phương tiện riêng để thành vô phú vô ký. Nghĩa là hư không và phi trạch diệt. Về nghĩa này nên suy xét.

Nếu nghiệp thân miệng do thuận theo phát khởi, thành tánh thiện ác, thì bốn đại vì sao không phải là tánh thiện, ác? Tác giả ở trong nghiệp là có cố ý, nhưng không phải ở bốn đại.

Như vậy thì người nhập định quán, đối với vô giáo không có cố ý, không phải tâm tĩnh lặng, thì không thể phát khởi vô giáo, vì không phải đồng loại.

Vì sao vô giáo thành thiện?

Thiên nhĩ, thiên nhãn nên lập làm tánh thiện. Ở đấy, vì cố ý đã phát khởi nên trong đây ông phải tạo ra công sức, là điều ông đã nói. Tâm do kiến đế đoạn dứt không thể phát khởi nghiệp thân miệng hữu giáo.

Nghĩa này nếu như vậy thì vì sao Đức Phật Thế Tôn nói: Theo tà kiến, tà giác quán, sinh tà ngữ, tà nghiệp v.v… cũng như thế.

Nghĩa này như vậy v.v… là không trái nhau. Vì sao?

Kệ nói:

Duyên khởi có hai thứ

Sinh nhân, sát-na khởi.

Giải thích: Duyên khởi hữu giáo, vô giáo có hai thứ: (1) Duyên khởi sinh nhân. (2) Duyên khởi cùng sát-na. Là ở nơi một sát-na cùng khởi.

Kệ nói:

Nơi hai đầu hay sinh

Thứ hai tùy kia khởi.

Giải thích: Duyên khởi sinh nhân: Là chỉ cho chủ thể sinh, có thể dẫn khởi, vì chưa có khiến có. Duyên khởi cùng sát-na: Là chỉ cho khả năng thuận theo cùng sinh. Lúc ở nơi sự việc là không lìa nhau.

Tâm này ở trong sự việc ấy thì có công năng gì?

Tuy trước đã được dắt dẫn, nhưng nếu lìa tâm này, thì sự việc tức không khởi. Ví như người chết.

Như vậy nếu người không tâm, ở nơi giới vô giáo sinh, thì tâm này làm sao có? Nếu người có tâm, thì nghiệp thân miệng này tức khởi sáng rõ, là công năng của tâm này.

Trong đây:

Kệ nói: Hay sinh, kiến đế đoạn, ý thức.

Giải thích: Nếu kiến đế tức nên đoạn trừ, tâm thì có thể làm nhân sinh của nghiệp thân miệng. Vì sao? Vì có thể phát khởi giác quán kia sinh tư lương, nên không thể theo đấy khởi duyên. Do khi môn ngoài khởi sự tâm, thì tâm này đã không có. Nên sắc này nếu do kiến đế nơi tâm làm duyên khởi sinh thì sắc này cũng là do kiến đế đoạn dứt.

Vậy sự việc này có lỗi gì? Tức là trái với A-tỳ-đạt-ma. Tạng kia nói: Vì vô minh cùng với minh không trái nhau, nên không có sắc do kiến đế đoạn. Chỗ lập này là chưa thành. Vì sao? Vì bốn đại này nên thành do kiến đế đoạn, vì được khởi đồng với tâm. Lỗi này là không nên có. Như phi thiện phi ác của bốn đại kia, nếu thành như vậy thì lại là thế nào? Điều ấy cũng không thể. Vì sao? Vì sắc này không có đạo lý để thành do kiến đế đoạn. Cũng không thành không đoạn. Vì vô minh cùng với minh là không trái nhau. Thế nên dựa nơi duyên khởi sinh nhân, ở trong kinh nói không có mâu thuẫn.

Kệ nói:

Tu đạo đoạn sinh khởi

Tùy khởi đủ khả năng.

Giải thích: Nếu do tu đạo đoạn dứt, thì ý thức có hai thứ. Nghĩa là chủ thể sinh và khả năng thuận theo.

Kệ nói: Năm thức chỉ tùy khởi.

Giải thích: Vì năm thức không phân biệt, nên chỉ cùng với nghiệp thân miệng khởi chung một sát-na, không thể làm nhân dẫn sinh. Trong đây có bốn trường hợp: (1) Tâm kiến đế chỉ là duyên khởi sinh nhân. (2) Năm thức chỉ là duyên khởi cùng sát-na. (3) Do tu đạo đoạn dứt thì ý thức có đủ hai thứ. (4) Tất cả vô lưu không có hai thứ.

Như duyên khởi của chủ thể sinh, vậy duyên khởi cùng sát-na cũng như thế chăng?

Nghĩa này không nhất định.

Kệ nói:

Nơi công năng sinh thiện

Tùy khởi có ba thứ.

Giải thích: Duyên khởi sinh nhân nếu là thiện, thì duyên khởi cùng sát-na hoặc thiện, ác, vô ký. Duyên khởi sinh nhân nếu là ác, vô ký cũng như thế.

Kệ nói: Đối Phật cùng hoặc thiện.

Giải thích: Đối với một vị Phật, Thế Tôn đều có duyên khởi sinh nhân, duyên khởi cùng sát-na, hai duyên khởi này tất đồng. Nếu thiện thì đồng thiện, nếu vô ký thì đồng vô ký. Hoặc thiện: Nghĩa là có lúc duyên khởi sinh nhân là vô ký, duyên khởi cùng sát-na, hoặc là thiện. Không có lúc nào duyên khởi sinh nhân là thiện, còn duyên khởi cùng sát-na là vô ký. Vì sao? Vì chư Phật thuyết giảng pháp, tâm luôn tăng thượng, không khi nào suy kiệt.

Sư bộ khác cho: Chư Phật, Thế Tôn không có tâm vô ký. Vì sao? Vì Phật, Thế Tôn trong sự nối tiếp tự tánh hoàn toàn là thiện, luôn tịch tĩnh. Ở trong kinh nói:

Na-già hành tịch tĩnh

Na-già dựa tịch tĩnh

Na-già nằm tịch tĩnh

Na-già ngồi tịch tĩnh.

Nếu không do ý muốn của chư Phật, thì tâm khác không khởi nên nói như vậy. Không phải Như Lai có tâm vô ký. Nghĩa là quả báo, oai nghi, tâm biến hóa. Sư Tỳ-bà-sa đã nói như vậy.

Trước đã nêu dẫn: Nếu tu đạo đoạn dứt, thì ý thức có thể tạo ra duyên khởi sinh nhân và duyên khởi cùng sát-na. Nên biết tất cả đây là thiện, ác, vô ký.

Kệ nói: Quả báo sinh, không hai.

Giải thích: Nếu tâm quả báo không thể tạo duyên khởi sinh nhân, thì cũng không thể tạo duyên khởi cùng sát-na, vì không do công dụng sinh cùng dấy khởi sự nối tiếp.

Nay, vì như có thể sinh duyên khởi nên nghiệp thân miệng sinh, hay là như duyên khởi cùng sát-na? Nếu vậy thì có lỗi gì?

Nếu như có thể sinh, thì ở trong cõi dục tức nên có nghiệp hữu giáo hữu phú vô ký, vì thân kiến, biên kiến đã sinh khởi.

Như thế thì tất cả Hoặc của kiến đế cũng không chỉ có thể sinh. Ở đây, nên nói về đạo lý có sai biệt. Nếu như cùng sát-na, như người khởi tâm ác, hoặc tâm vô ký hữu giáo, thì Ba-la-đề-mộc-xoa không nên thành thiện. Như có thể sinh hữu giáo cũng như thế. Không như do kiến đế đoạn trừ, do tu đạo đoạn trừ tâm bị cách biệt. Nếu không do thuận theo duyên khởi cùng sát-na, thì sự nhận định về hữu giáo, thiện, ác tức không nên nói như thế.

Ở trong kinh, Đức Phật, Thế Tôn đã dựa nơi duyên khởi sinh nhân để giảng nói, không phải là dựa vào duyên khởi cùng sát-na để nêu bày. Thế nên ở cõi dục không có nghiệp hữu giáo hữu phú vô ký.

Nếu vậy tức nên nói như thế này: Dựa vào duyên khởi sinh nhân thuộc về pháp riêng để thuyết giảng.

Tranh luận ở đây là đã xong. Như trước đã nói: Có hai thứ vô giáo, nay sẽ nêu rõ.

Kệ nói:

Vô giáo nên biết ba

Hộ, không hộ, khác hai.

Giải thích: Vô giáo này, một gọi là hộ (luật nghi), hai gọi là không hộ (phi luật nghi). Ba khác với hai thứ này, nghĩa là không phải hộ, không phải không phải hộ. Do có thể ngăn chận, có thể diệt trừ sự phá giới nối tiếp, nên gọi là hộ (luật nghi).

Kệ nói:

Hộ Ba-la-mộc-xoa

Định sinh cùng vô lưu.

Giải thích: Hộ này có ba phẩm:

Hộ Ba-la-đề-mộc-xoa: Tức nếu sinh nơi cõi này, nghĩa là giới của cõi dục.

Hộ định: Nghĩa là giới của cõi sắc.

Hộ vô lưu: Nghĩa là giới vô lưu (giới vô lậu).

Kệ nói: Giới mộc-xoa tám thứ.

Giải thích: Những gì là tám? Đó là: (1) Giới Tỳ-kheo. (2) Giới Tỳ-kheo-ni. (3) Giới Thức-xoa-ma-na. (4) Giới Sa-di. (5) Giới Sadi-ni. (6) Giới Ưu-bà-tắc. (7) Giới Ưu-bà-di. (8) Giới Ưu-ba-bà-sa.

Tám thứ hộ ấy gọi là giới Ba-la-đề-mộc-xoa, do đấy gọi hộ này có tám. Nếu căn cứ nơi vật thật, thì số lượng ấy là thế nào?

Kệ nói: Do vật thật có bốn.

Giải thích: Bốn: Nghĩa là giới Tỳ-kheo, giới Sa-di, giới Ưu-bàtắc và giới Ưu-ba-bà-sa.

Hộ Ba-la-đề-mộc-xoa này, nếu căn cứ nơi vật thật, thì chỉ có bốn giới này, vì thể tướng quyết định đồng.

Giới Tỳ-kheo-ni cùng với giới Tỳ-kheo là không khác. Giới Thức-xoa-ma-na, giới Sa-di-ni cùng với giới Sa-di là không khác. Giới Ưu-bà-di cùng với giới Ưu-bà-tắc là không khác.

Do đâu nhận biết như thế?

Kệ nói: Do căn nên gọi khác.

Giải thích: Căn là tướng. Do có thể phân biệt về sự khác nhau giữa nam nữ. Do căn này, nên Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni v.v… được lập có tên gọi riêng.

Vì sao như thế?

Nếu chuyển căn thì Tỳ-kheo thành Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni thành Tỳ-kheo. Sa-di thành Sa-di-ni. Hoặc Sa-di-ni, Thức-xoa-mana thành Sa-di. Ưu-bà-tắc thành Ưu-bà-di, Ưu-bà-di thành Ưu-bàtắc. Vào lúc chuyển căn là không có nhân duyên. Vì bỏ giới trước, không có nhân duyên để lại được giới mới. Thế nên thể tánh của bốn thứ hộ không khác với ba giới.

Nếu người từ giới Ưu-bà-tắc thọ giới Sa-di, từ giới Sa-di thọ giới Tỳ-kheo, vì hộ này do xa lìa tăng trưởng, nên nói mỗi mỗi thứ đều không đồng. Ví như năm, mười, hai mươi cùng như Đà-na-la, Bà để-la v.v… Vì các hộ mỗi mỗi đều sinh đủ.

Kệ nói: Kia đều.

Giải thích: Ba thứ giới này là không cùng xen tạp, mỗi giới đều có tướng riêng sinh khởi. Ở trong ba giới, có ba thứ hộ lìa sát sinh, cho đến ba thứ hộ lìa uống rượu. Số còn lại cũng như thế.

Ba thứ xa lìa có sai biệt gì?

Do duyên khởi khác nên xa lìa có sai biệt: Như nhu cầu dục, thọ trì nhiều thứ học xứ. Như thế, như thế, xa lìa nơi chốn say loạn, phóng dật, nên có thể xa lìa tối đa nhân duyên sát sinh v.v…

Đối với duyên khởi xa lìa luôn có thể được trụ. Thế nên do duyên khởi khác, nên xa lìa có sai biệt. Nếu không có nghĩa như vậy, thì nhhư người xả giới Tỳ-kheo, tức nên xả bỏ ba giới. Hai thứ trước nhập thuộc về giới thứ ba, nên nghĩa này không phải là đã thừa nhận.

Vì vậy ba hộ mỗi thứ đều có Thể riêng.

Kệ nói: Không trái nhau.

Giải thích: Ba hộ này cùng sinh, không do thọ nhận hộ sau, thì xả bỏ hộ trước. Vì sao? Vì chớ nên do xả hộ Tỳ-kheo đã thọ nhận, tức không phải là Ưu-bà-tắc.

Thế nào là thành Ưu-bà-tắc? Thế nào là thành Ưu-ba bà-sa? Cho đến thế nào là thành Tỳ-kheo?

Kệ nói:

Năm, tám, mười tất cả

Vì xứ ác thọ lìa Ưu-bà-tắc bố tát

Sa-di và Tỳ-kheo.

Giải thích: Ở đây nói nên biết như thứ lớp. Đối với năm thứ pháp nên xa lìa, thì thọ trì, xa lìa, người này tức trụ nơi hộ Ưu-bà-tắc. Năm thứ nên xa lìa là: Sát sinh, không cho mà lấy, hành tà dâm, nói dối, uống các loại rượu nơi chốn say sưa.

Đối với tám thứ pháp nên xa lìa, thì thọ trì xa lìa, người này tức trụ nơi hộ Ưu-ba-bà-sa. Tám thứ nên xa lìa: Nghĩa là sát sinh, không cho mà lấy, phi phạm hạnh, nói dối, uống khiến say, trang sức hương hoa, xem nghe múa hát v.v…, chỗ nằm ngồi ngủ nghỉ cao hơn mức thường, ăn uống phi thời.

Đối với mười thứ pháp phải nên xa lìa, thì thọ trì, xa lìa, người này tức trụ nơi hộ Sa-di. Mười thứ phải nên xa lìa: Là tám pháp đã nói ở trước cùng với việc không nhận chứa vàng, bạc v.v…, trang sức hương hoa, xem nghe ca múa được phân làm hai nên thành mười.

Tất cả phải nên xa lìa đối với hai nghiệp thân miệng, thì thọ trì, xa lìa, người này tức trụ nơi hộ Tỳ-kheo, là giới Ba-la-đề-mộcxoa này.

Kệ nói:

Thi la, nghiệp hành thiện

Hoặc nói cùng giữ gìn.

Giải thích: Vì có thể tạo bình đẳng đối với sự việc bất bình đẳng nên gọi là Thi-la. Nếu căn cứ nơi Luận Ni-lục-đa, thì do mát mẻ nên gọi là Thi-la. Như Đức Phật nói kệ:

Thọ trì giới rất vui

Danh sắc không bức não.

Vì nghe người trí tuệ đã khen ngợi, nên gọi là hành thiện. Do đối tượng tạo tác làm tánh, nên gọi là nghiệp. Vậy ở trước là không nói chăng? Vô giáo gọi là vô tác, vì sao gọi là nghiệp?

Do người này có hổ thẹn đã khéo thọ nhận. Căn cứ nơi nháp ác để nói, gọi là vô tác. Nghiệp hữu giáo cố ý này đã tạo tác, nên nói là nghiệp.

Có Sư khác cho: Là nhân của nghiệp, quả của nghiệp, nên nói là nghiệp. Như vậy do nghĩa chung lập tên riêng như Hộ Ba-la-đềmộc-xoa v.v… Lại nữa:

Kệ nói:

Đầu hữu giáo, vô giáo

Nghiệp đạo Ba-mộc-xoa.

Giải thích: Nếu người chính thức thọ giới thiện, thì hữu giáo vô giáo của sát-na đầu tiên được gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Chủ thể thọ nhận, nhân nơi giới này nên được giải thoát các thứ ác. Giải thoát có nghĩa là từ bỏ. Đây cũng được gọi là hộ Ba-la-đề-mộc-xoa. Từ sátna đầu tiên, cho đến thời gian sau, đều có thể ngăn trừ nghiệp ác của thân miệng.

Từ sát-na thứ hai trở đi chỉ gọi là hộ Ba-la-đề-mộc-xoa, không được gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Nghiệp căn bản gọi là Ba-la-đề-mộcxoa, không phải là nghiệp của phần sau. Nghiệp đạo cũng như vậy.

Lại nữa, hộ như thế v.v… là hộ nào người nào cùng tương ưng?

Kệ nói: Ứng Ba-mộc-xoa: Tám.

Giải thích: Cùng với hộ Ba-la-đề-mộc-xoa tương ưng có tám bộ. Nghĩa là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cho đến trụ Ưu-ba-bà-sa là thứ tám.

Ngoại đạo là không có thọ giới chăng?

Có giới, nhưng không phải là hộ Ba-la-đề-mộc-xoa. Vì sao? Vì giới của họ không phải hoàn toàn vì giải thoát các thứ xấu ác mà còn khởi tham ái vướng mắc nơi ba hữu.

Kệ nói: Hộ định sinh được định.

Giải thích: Từ nơi định sinh, ở nơi định sinh. Hộ này được gọi là hộ định sinh. Nếu người cùng với định tương ưng, thì người ấy tất cùng với hộ định sinh tương ưng. Trong đây, định cận phần được lập làm định nên nói là định sinh. Ví như xứ gần với thành ấp thì cũng được gọi là thành ấp. Như người đời nói: Ở nơi thành ấp này có ruộng xá-lợi, có ruộng lúa khác.

Kệ nói: Thánh nhân, hộ vô lưu.

Giải thích: Tất cả Thánh nhân cùng với hộ vô lưu là tương ưng. Thánh nhân nghĩa là các bậc hữu học, vô học.

Trong phần nhân câu hữu ở trước đã nói hai hộ theo tâm sinh diệt.

Ở đấy đã nói như thế nào?

Hai hộ ở trong ba.

Kệ nói: Hai sau tùy tâm khởi.

Giải thích: Hai hộ là hộ định, hộ vô lưu, tùy theo tâm sinh, trụ, diệt. Hộ Ba-la-đề-mộc-xoa thì không như vậy. Vì sao? Vì nếu người có tâm duyên khác, thì hộ này cũng được sinh. Hai hộ sau thì không như thế. Lại nữa, hai hộ ấy hoặc gọi là hộ diệt.

Tên gọi này là ở phần vị nào? Kệ nói:

Hai diệt ở vị lai

Chín đạo thứ đệ sinh.

Giải thích: Hộ vô lưu, hộ định là ở trong định vị lai. Nếu ở trong chín đạo thứ đệ thì gọi là hộ diệt. Vì sao? Vì hai hộ này có thể diệt trừ sự phá giới, cùng có thể diệt tan các Hoặc (phiền não) dấy khởi sự phá giới. Thế nên có hộ định, không phải là hộ diệt. Ở đây có bốn trường hợp: (1) Trừ định vị lai cùng đạo vô gián là hộ định hữu lưu. (2) Định phi chí cùng đạo vô gián là hộ vô lưu. (3) Định phi chí cùng đạo vô gián là hộ hữu lưu. (4) Trừ định phi chí cùng đạo vô gián là hộ vô lưu.

Như thế có hộ vô lưu, không phải là hộ diệt, cũng có bốn trường hợp, như lý nên nhận biết.

Như vậy nên Đức Phật, Thế Tôn đã nói kệ:

Do hộ thân lành thay!

Hộ miệng cũng lành thay!

Dựa hộ ý lành thay!

Tất cả hộ lành thay!

Lại có thuyết riêng nói: Nhãn căn của Tỳ-kheo nên khéo bảo vệ, nên khéo an trụ.

Tự tánh của hộ ý, hộ căn này là thế nào?

Hai hộ này không phải là tánh của giới vô giáo. Vì sao?

Kệ nói:

Chánh niệm tuệ hợp thiện Đều nói hộ ý căn.

Giải thích: Vì làm rõ hai hộ đều có đủ hai tánh, nên nói hợp lìa là muốn hiển bày về thứ lớp. Hộ ý dùng chánh niệm của tuệ thiện làm tánh. Hộ căn cũng như thế. Nghĩa này nay nên suy xét. Người nào cùng với hữu giáo, vô giáo nào nơi bao nhiêu thời gian tương ưng?

Trong đây:

Kệ nói:

Nếu trụ Ba-mộc-xoa

Cùng hiện ứng đến xả

Cùng vô giáo tương ưng.

Giải thích: Nếu người trụ nơi hộ Ba-la-đề-mộc-xoa, cho đến chưa xả vô giáo, ở trung gian thì luôn cùng với vô giáo của đời hiện tại tương ưng.

Kệ nói: Niệm trước sau cùng quá.

Giải thích: Từ sau sát-na đầu, cùng với vô giáo của quá khứ cũng được tương ưng. Cho đến khi từ bỏ. Câu này nên biết là nói về tất cả xứ. Như nói: Người trụ nơi hộ Ba-la-đề-mộc-xoa.

Kệ nói: Trụ không hộ cũng thế.

Giải thích: Nếu người trụ nơi không hộ, cho đến chưa xả bỏ chẳng hộ, trong đó thường cùng với vô giáo không hộ của đời hiện tại tương ưng.

Từ sau sát-na thứ nhất cũng cùng với quá khứ tương ưng.

Kệ nói:

Có hộ định tương ưng

Cùng quá khứ, vị lai.

Giải thích: Nếu được hộ định sinh, thường cùng với vô giáo của quá khứ, vị lai tương ưng. Cho đến khi chưa từ bỏ. Vì sao? Nếu trong sinh của quá khứ đã từ bỏ hộ định sinh của quá khứ, thì ở trong sát-na đầu tiên tức đạt được.

Kệ nói: Thánh đầu không cùng quá.

Giải thích: Nếu Thánh nhân cùng với hộ vô lưu (luật nghi vô lậu) cũng như thế. Đây là chỗ sai biệt của Thánh nhân. Nghĩa là nếu đầu tiên đạt được hộ vô lưu, thì không cùng với quá khứ tương ưng, tức ở nơi đời trước chưa từng được đạo vô lưu.

Kệ nói:

Trụ định cùng Thánh đạo

Cùng hiện đời tương ưng.

Giải thích: Như người cùng với hộ định (luật nghi tĩnh lự), hộ vô lưu tương ưng, nếu nhập định quán, cùng quán Thánh đạo, người ấy lần lượt cùng với vô giáo của đời hiện tại tương ưng. Nếu ra khỏi quán thì không như thế. Nếu người trụ nơi hộ, không hộ, thì sự việc này như đã nói. Nếu căn cứ nơi người trụ trung thì thế nào?

Kệ nói:

Trụ trung nếu có hai Đầu, giữa.

Giải thích: Nếu người chẳng trụ nơi hộ (luật nghi), không hộ (phi luật nghi) người ấy gọi là trụ trung. Người ấy không cần định là hữu giáo, vô giáo. Như có giới ác, cùng với vô giáo thuộc về phần giới, ở nơi đầu cùng giữa tương ưng. Đời hiện tại ấy ở nơi giữa quá khứ vị lai, nên gọi là trung.

Kệ nói: Hai thời sau.

Giải thích: Từ sau sát-na thứ nhất tức cùng với quá khứ tương ưng. Lại cùng với đời hiện tại tương ưng, cho đến khi từ bỏ.

Nếu người trụ nơi không hộ, là có khi cùng với vô giáo thiện tương ưng chăng? Nếu người trụ nơi hộ, là có khi cùng với vô giáo ác tương ưng chăng? Nếu tương ưng thì có bao nhiêu thời gian?

Kệ nói:

Trụ không hộ cùng thiện

Trụ hộ lại cùng ác

Cùng vô giáo tương ưng

Cho đến tịnh nhiễm nhanh.

Giải thích: Nếu người trụ nơi không hộ, do tâm tin thiện mạnh mẽ, tạo các sự việc như lễ bái nơi đền tháp, tức phát sinh vô giáo thiện. Nếu người trụ nơi hộ, do tâm phiền não mạnh, tạo các sự việc như bắt bớ, đánh đập kẻ khác, tức sinh khởi vô giáo ác. Hai sự việc ấy cho đến nối tiếp chưa đoạn, khiến vô giáo ở nơi thời này luôn nối tiếp sinh. Người ấy nơi sát-na đầu tiên cùng với vô giáo của đời hiện tại tương ưng. Đối với sát-na khác cũng cùng với quá khứ tương ưng.

HẾT – QUYỂN 10