KINH THỦ LĂNG NGHIÊM LƯỢC GIẢNG
ŚŪRAMGAMA-SŪTRA
Tuyên Hoá Thượng Nhân giảng thuật
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Nhuận Châu

QUYỂN  9

SẮC GIỚI

SƠ THIỀN

A-nan! Thế gian nhất thiết, sở tu tâm nhân. Bất giả Thiền-na, vô hữu trí tuệ.

A Nan! Tất cả người tu tâm trong thế gian chẳng nhờ Thiền Na thì chẳng có trí huệ.

Giảng: A nan, bây giờ chúng ta sẽ nói về sắc giới, cõi trời của Tứ Thiền. Tất cả người tu hành trong thế gian chẳng nhờ Thiền Na thì chẳng có trí huệ. Họ chưa có quen tu hành thiền định – chưa có thể kèm chế hết vọng tưởng, và vì vậy họ chưa có trí tuệ.

1. Đãn năng chấp thân, bất hành dâm dục. Nhược hành nhược tọa, tưởng niệm câu vô. Ái nhiễm bất sanh, vô lưu dục giới, thị nhân ưng niệm, thân vi phạm lữ. Như thị nhất loại, danh Phạm Chúng Thiên.

Nếu được giữ thân chẳng dâm dục, khi đi khi ngồi, niệm tưởng đều không, ái nhiễm chẳng sanh, chẳng lưu luyến Dục Giới, làm bạn với Phạm Thiên, hạng này gọi là Phạm Chúng Thiên.

Giảng: Họ có thể làm gì để kiểm soát thân tâm của chính mình và kiềm chế thân chẳng dâm dục. “Khi đi khi ngồi, niệm tưởng đều không” Đi bộ, đứng, nằm, ngồi và ngay cả trong giấc ngủ của họ – mọi lúc mọi nơi, “ái nhiễm chẳng sanh”. Mặc dù gặp phải một thứ hay người đẹp, họ không cho những vọng tưởng ái tình sanh ra. và như vậy họ “chẳng lưu luyến Dục Giới”.

Những người này có thể tùy ý lấy thân tướng Phạm Thiên. Họ làm bạn with các Phạm Thiên. Và không còn những tham vọng. Hạng người nầy gọi là Phạm Chúng Thiên. Họ trở thành những vị thanh tịnh sống tại cõi trời nầy. Họ trở thành một vị thiên trong đại đa số chư thiên trên trời – một trong đại số.

2. Dục tập ký trừ, ly dục tâm hiện. Ư chư luật nghi, ái lạc tùy thuận. Thị nhân ưng thời, năng hạnh phạm đức. Như thị nhất loại, danh phạm phụ Thiên.

Dục lậu đã trừ, “Tâm lìa dục” hiện, ưa hành theo các luật nghi, đức hạnh trong sạch, hạng này gọi là Phạm Phụ Thiên.

Giảng: “Dục lậu đã trừ, Tâm lìa dục hiện, ưa hành theo các luật nghi. ” Bản chất con người thì thích ăn và tình dục. Những thói quen này là bẩm sinh của con người. Nhưng vào thời điểm này, những sinh mệnh này đã lià khỏi những thói quen ham muốn tình dục của họ. Khi họ đã không còn tham vọng, không còn ái tình, trí huệ bắt đầu sanh. Họ tuân hành theo giới luật và giữ các quy tắc luật nghi. Họ thích giới luật và giữ giới trong việc tu hành. Những người này có thể thực hành đức hạnh trong sạch, hạng này gọi là Phạm Phụ Thiên.” Vào mọi lúc và trong mọi tình huống, họ tu hành theo chánh đạo. Hành vi của họ là đạo đức và thanh tịnh. “Phục Thiên” có nghĩa là sự trong sạch. Những người này được tái sanh vào cõi phụ thiên. Giữ chức pháp sư, họ giúp đỡ Đại Phạm Phụ Thiên.

3. Thân tâm diệu viên, uy nghi bất khuyết. Thanh tịnh cấm giới, gia dĩ minh ngộ. Thị nhân ưng thời, năng thống phạm chúng, vi Đại Phạm Vương. Như thị nhất loại, danh đại phạm thiên.

Thân tâm diệu viên, oai nghi đầy đủ, giới cấm trong sạch, lại có sự tỏ ngộ, được thống lãnh Phạm Chúng, làm Đại Phạm Vương, hạng này gọi là Đại Phạm Thiên.

Giảng:  Những người có “thân tâm diệu viên, oai nghi đầy đủ, giới cấm trong sạch, lại có sự tỏ ngộ ”. Đây là những vị không còn suy nghĩ tham vọng, và đầy đủ 3000 oai nghi và tám vạn tế hạnh. Họ hoàn hảo các giới hạnh. Họ giữ giới và trong sạch trong các giới luật của đức Phật đã thuyết. Không những họ giữ giới hoàn toàn, họ còn có một sự hiểu biết toàn diện về giới luật. Họ đã chứng ngộ qua thân, vật chất và pháp giới. Họ “được thống lãnh Phạm Chúng, làm Đại Phạm Vương, hạng này gọi là Đại Phạm Thiên.” Khi cuộc sống của những người này kết thúc, họ được sinh ra trên trời và họ có thể cai trị vô số trong cõi Phạm Thiên.

A-nan! Thử tam thắng lưu. Nhất thiết khổ não, sở bất năng bức. Tuy phi chánh tu, chân tam-ma-địa. Thanh tịnh tâm trung, chư lậu bất động, danh vi sơ Thiền.

A Nan! Ba bậc này tất cả khổ não chẳng thể bức bách, dù chẳng phải chánh tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, dục lậu chẳng thể lay động, gọi là Sơ Thiền

Giảng:  “A Nan! Ba bậc này tất cả khổ não chẳng thể bức bách.”. Ba bực nầy là Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên. Đây là những cấp độ cao siêu – cõi trời của Sơ Thiền – trong đó đau khổ và phiền não không làm phiền người tu hành. ”

Mặc dù họ “chẳng phải chánh tu chơn Tam Ma Địa” – mặc dù họ không thâm sâu Phật pháp và không chánh tu thiền định nhưng “nơi tâm trong sạch, dục lậu chẳng thể lay động”. Họ luân giữ giới và nhờ giữ giới, tâm được thanh tịnh đến mức họ không bị di chuyển bởi vạn vật bên ngoài lôi cuốn. Họ không gây ra lỗi lầm. Họ không tham gia vào những ham muốn vô tận của thế giới vật chất như thực phẩm, quần áo và tất cả vật đối tượng của ham muốn. Tất cả là vật lôi cuốn. Những vị sống tại cõi trời này không có yếu điểm., phiền não, thói quen hay tật xấu. Họ được “gọi là Sơ Thiền”. Khi tu hành đạt được quả vị này, mạch máu ngừng đập khi đạt được quả vị Sơ Thiền. Nếu quý vị muốn biết quý vị có đạt được chưa, hãy kiểm ra mạch của quý vị. Đó là một dấu hiệu khi đạt được quả vị này. Nó không phải là quả vị tầm thường

 

NHỊ THIỀN

1. A-nan! kỳ thứ phạm thiên. Thống nhiếp phạm nhân, viên mãn phạm hạnh. Trừng tâm bất động, tịch trạm sanh quang. Như thị nhất loại, danh thiểu quang Thiên.

A Nan! Hàng Phạm Thiên thống lãnh phạm chúng, đầy đủ phạm hạnh, lắng tâm chẳng động; do tịch lặng sanh ra ánh sáng; hạng này gọi là Thiểu Quang Thiên.

Giảng:  Những người nằm ở vị trí trên cõi của Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên có khả năng thống lãnh và thu nhập các vị trong 3 cõi đó. Đó là bởi vì họ đã có đầy đủ phạm hạnh.

“Lắng tâm chẳng động; do tịch lặng sanh ra ánh sáng.” Tâm trí của họ rất yên tĩnh và bình tĩnh, tâm chẳng rung động. Khi tâm được thanh tịnh và tĩnh lặng, một hoà quang sẽ từ từ sáng tỏa. Những vị tu hành được trụ tại cõi Thiểu Quang Thiên.

2. Quang quang tướng nhiên, chiếu diệu vô tận. Ánh thập phương giới, biến thành lưu ly. Như thị nhất loại, danh Vô lượng quang Thiên.

Ánh sáng chói lọi, chiếu soi vô cùng, chiếu khắp mười phương cõi đều như lưu ly; hạng này gọi là Vô Lượng Quang Thiên.

Giảng: “Ánh sáng chói lọi, chiếu soi vô cùng, chiếu khắp mười phương cõi đều như lưu ly. ” Hoà quang của họ chiếu sáng lẫn nhau. Chúng cùng nhau chiếu soi. Quý vị đã bao giờ nhận thấy ánh đèn tương chiếu nhau không? Không có bất kỳ điều gì mà ánh đền không cùng nhau tỏa sáng. Nếu quý vị cầm một cái đèn, và người khác cũng có một cái đèn sáng, 2 ngọn đèn không có chọi nhau. Thật không? Ánh sáng không chọi nhau. Không có một lúc nào khi một ánh đèn lớn lại lấn áp một ánh đèn nhỏ. Không có hỗn loạn trong ánh đèn. Đây là những gì được mô tả ở đây khi nói lên ánh sáng chói lọi. Ánh sáng chiếu soi vô cùng vô tận. Nó chiếu soi khắp mười phương and mọi thứ đều được chiếu sáng như lưu ly. Những bậc tu hành này được trụ tại cõi trời Vô Lượng Quang Thiên.

3. Hấp trì viên quang, thành tựu giáo thể. Phát hóa thanh tịnh, ưng dụng vô tận. Như thị nhất loại, danh Quang âm Thiên.

Hào quang đồng như âm thanh, thành tựu giáo thể, phát ra sự giáo hóa trong sạch, ứng dụng vô cùng; hạng này gọi là Quang Âm Thiên.

Giảng:  “Hào quang đồng như âm thanh, thành tựu giáo thể.” Họ cùng nhau đạt được và duy trì ánh hào quang và theo cách này, họ thành tựu giáo thể. Trong cõi Quang Âm Thiên, mọi người không cần phải la lớn để trò chuyện lẫn nhau. Họ dùng ánh hào quang cho âm thanh. Họ trò chuyện qua chiếu ánh hào quang. Họ không trò chuyện bằng miệng lưỡi, họ không dùng ngôn ngữ. Ánh hoà quang là phương tiện để giáo pháp trong cõi trời này. Đó thực sự là một trường hợp:

– Tâm trí hiểu nhau mà không nói một lời.

Khi họ tỏa ánh hào quang tới nhau trong cõi này, người kia hiểu được người nọ nói gì. Ý tưởng trao đổi với nhau qua ánh hào quang. “Phát ra sự giáo hóa trong sạch, ứng dụng vô cùng; hạng này gọi là Quang Âm Thiên.” Sự ứng dụng của hào quang thực vô hạn

A-nan! Thử tam thắng lưu. Nhất thiết ưu sầu, sở bất năng bức. Tuy phi chánh tu, chân tam-ma-địa. Thanh tịnh tâm trung, thô lậu dĩ phục, danh vi nhị Thiền.

A Nan! Ba bậc này tất cả lo buồn chẳng thể bức bách, dù chẳng phải chánh tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, những phiền não thô động đã uốn dẹp, gọi là Nhị Thiền.

Giảng:  “A Nan! Ba bậc này tất cả lo buồn chẳng thể bức bách.” Trong cõi trời của sơ thiền, họ không bị bức bách bởi phiền não và đau khổ. Tuy nhiên, họ vẫn có một chúc lo âu. Nếu có chuyện đưa đến, họ vẫn có một chúc khó khăn để buông bỏ mọi chuyện. Họ bị bân khuân vào việc. Nhưng ở cõi nhị thiền, không còn có lo âu phiền não, và không còn việc để bân khuân. Họ không để gì trong tâm. Họ khác hẵn với những người thường trên thế gian nầy, như họ không bân khuân với mọi chuyện qua lại hay dành cả ngày ngày lẫn đêm lâu âu mọi chuyện. “Bân khuân” có nghiã là bị trở trại, cản trở.

“Dù chẳng phải chánh tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, những phiền não thô động đã uốn dẹp.”. Những vị tu hành nầy tuy chưa phải chánh tu chơn Tam Ma Địa, nhưng họ đã đạt được một quả vị làm cho tâm trí được thanh tịnh. Những phiền não đã được kèm chế. Nhưng họ chưa hẵng có thể kiềm chế những vọng tưởng trong tâm. Bề ngoài những vị tại cõi nhị thiền nhìn như sống không có phiền não và lo âu.

Khi những vị tu hành ngồi thiền và nhập vào nhị thiền định, hơi thở của họ dừng lại. Trong sơ thiền, mạch máu dừng. Trong nhị thiền, hơi thở ngừng. Trong đây tuy nói rằng hơi thở dừng, quý vị còn nhớ những gì tôi nói trong bài trước về con trai và bé gái ?

Phương tiện tu hành của ngoại đạo và Phật đạo tu hành có vài chổ giống nhau. Bề ngoài nhiều chổ giống nhau, với vài chi tiết riêng biệt. Khi mạch máu dừng, không có nghiã là người ấy đã chết? Không, không phải như vậy. bởi vì bề ngoài mạch máu đã ngừng đập, mạch máu của chân tâm vẫn còn. Điều tương tự cũng áp dụng cho hơi thở. Hơi thở và mạch máu của chơn tâm vẫn còn đó và chiếm lấy. Cho nên mạch máu của thân có thể dừng đập. Trong cùng một cách, khi các bằng chứng bên ngoài của hơi thở chấm dứt trong nhị thiền, không có nghiã là người tu hành đã chết. Họ đã nhập định nhị thiền và đã đạt được sự thanh tịnh và phúc lạc. Tuy nhiên, chỉ việc và vật bên ngoài được thống chế. Không phải mọi thứ bên trong đã thống chế. Những vị này được gọi là Nhị Thiền.

 

TAM THIỀN

1. A-nan! Như thị Thiên Nhân. Viên quang thành âm, phi âm lộ diệu. Phát thành tinh hạnh, thông tịch diệt lạc. Như thị nhất loại, danh thiểu tịnh Thiên.

A Nan! Hào quang thành âm, dùng âm thanh tỏ bày diệu lý, thành hạnh tinh tấn, thông với sự vui tịch diệt, hạng này gọi là Thiểu Tịnh Thiên.

Giảng: “A Nan! Hào quang thành âm, dùng âm thanh tỏ bày diệu lý, thành hạnh tinh tấn.” Đối với các vị tu hành ở đại vị nầy, hào quang đã trở thành âm thanh, và khi họ có thể phân biệt âm thanh này càng rõ ràng hơn, nó cho thấy một mức độ tinh tấn và tuyệt diệu của sự tu hành.

“Thông với sự vui tịch diệt” qua tinh tấn và tuyệt diệu của sự tu hành. Tịch Diệc là vắng mặt của vọng tưởng. Vọng tưởng và vạn pháp đã tịch diệt, và họ được gọi là Thiểu Tịnh Thiên. Những vị tu hành cư ngụ tại cõi Thiểu Tịnh Thiên. Thân tâm đã đạt được một phần thanh tịnh. Chưa hoàn toàn thanh tịnh.

2. Tịnh không hiện tiền, dẫn phát vô tế. Thân tâm khinh an, thành tịch diệt lạc. Như thị nhất loại, danh vô lượng tịnh Thiên.

Cảnh “Tịnh Không” hiện tiền, chẳng có bờ bến, thân tâm nhẹ nhàng, thành sự vui tịch diệt, hạng này gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.

Giảng: “Cảnh Tịnh Không hiện tiền, chẳng có bờ bến.” Họ đã được sự thanh tịnh và sau đó họ ngộ được chân lý Vô Vi. Khi hiểu được cái không, chân lý dẫn họ đến chỗ không có bờ bến. Sự thanh tịnh vô hạn.

“Thân tâm nhẹ nhàng, thành sự vui tịch diệt.” Lúc này họ được hoàn toàn tự tại. Họ có tự chủ bản thân. Họ đã đạt được niềm vui của sanh diệt. Trong sanh có diệt, trong diệt có sanh. Một cái gì đó đã mất mà hầu hết mọi người không biết có thể xảy ra. Hầu hết mọi người tham lam vật chất ngoài, và vì vậy chúng đeo đuổi theo chúng.

Bản chất của họ chảy ra thành cảm xúc;
Cảm xúc của họ chảy ra thành ham muốn.

Ý nghĩ ham muốn tình dục được tạo ra. Chúng trở thành cố định trong quan niệm rằng họ phải tìm một đối tượng. Rồi họ để ngọn lửa dục vọng bùng cháy và suốt đời đeo đuổi theo dục vọng. Đó là tình dục.  Vậy có cần thiết phải có thứ gì bên ngoài thân để có niềm vui này không? Không, bởi vì trong Không có Sắc. Nếu quý vị hiểu, trong sắc có không. Quý vị sẽ nhận được cái Không và niềm vui tịch diệt từ trong đó. Kinh Kim Cang có nói:

“Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc.”

Niềm vui Tịch Diệt – Tịch Không – nó còn hơn cả 10 triệu lần so với niềm vui vật chất. Nếu quý vị muốn nhận được, trước quý vị phải từ bỏ sự ham muốn vật chất. Nếu quý vị không chịu bỏ các vật thể bên ngoài, chân không trong quý vị không thể hiện được.

Ở đây, những vị chư thiên đã đi đến cảnh tịnh không, và thân tâm đã được nhẹ nhàng. Họ đã đạt được quả vị và hiểu được: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc.”

Đây không thể giả bộ được. Quý vị không thể nói quý vị đạt được quả vị nầy nếu chưa đạt. Không thể trải qua kinh nghiệm qua lời nói. Chỉ khi nào quý vị đạt được quả vị. Cũng giống như một người uống nước mới biết được nước lạnh hay nóng. Những vị đã đạt được quả vị tịch diệt nầy được cư ngụ tại cõi Vô Lượng Tịnh Thiên.

3. Thế giới thân tâm, nhất thiết viên tịnh. Tịnh đức thành tựu, thắng thác hiện tiền, quy tịch diệt lạc. Như thị nhất loại, danh biến tịnh Thiên.

Thế giới và thân tâm, tất cả đều trong sạch, thành tựu đức tánh trong sạch, thắng cảnh hiện tiền, qui về cái vui tịch diệt, hạng này gọi là Biến Tịnh Thiên.

Giảng: “Thế giới và thân tâm, tất cả đều trong sạch, thành tựu đức tánh trong sạch.” Trong cõi trời đã thảo luận trước đây, chỉ có thân và tâm được thanh tịnh. Những vị tu hành trong cõi trời này đang nói đã đạt được những thần thông như họ có thể thay đổi vị trí của trái đất. Trái đất tràn đầy ô nhiễm, nhưng họ có thể biến nó thành cực lạc. Chân lý nầy cũng giống như chân lý trong câu:

Chân tâm là tịnh độ
Bổn ngã là Phật A Di Đà

Nếu tâm thanh tịnh, tịnh độ cũng thanh tịnh. Nếu tâm không thanh tịnh, quý vị sẽ không thấy được cái thanh tịnh của tịnh độ. Nếu quý vị có ở trong cõi tịnh độ nhưng lại không làm gì hết ngoài trừ khóc lóc suốt ngày, thì đâu có gì là hạnh phúc. Nếu quý vị ở cõi Ta Bà và quý vị vui vẽ từ sáng tới tối, vậy cũng như quý vị đang ở cõi cực lạc. Chân lý tại đây là “Vạn pháp duy tâm.” Chân lý vẫn nằm nơi đó, nếu quý vị có thể nhìn xuyên qua nó và buông thả vạn vật. Nếu có thể buông thả, quý vị sẽ được thoải mái và tự tại. Nếu quý vị không nhìn xuyên qua vạn vật để nhận ra cái tánh, và không buông bỏ nó xuống, quý vị sẽ không nhận được sự yên tĩnh trong hạnh phúc.

Những vị chư thiên khi đạt được quả vị này, họ có được sự thanh tịnh trong thân tâm ý và cái tánh của vạn vật, ánh sáng của bổn ngã. Khi đó “thắng cảnh hiện tiền”. Mọi thắng cảnh có thể giải thích như thế nào? Đây là thắng cảnh hiện hiền trong tâm.

Họ “qui về cái vui tịch diệt, hạng này gọi là Biến Tịnh Thiên.” Chẳng có một nào là không thật. Họ có thể thanh tịnh mọi thứ trong vạn pháp.

A-nan! Thử tam thắng lưu, cụ đại tùy thuận. Thân tâm an ổn, đắc vô lượng lạc. Tuy phi chánh đắc, chân tam-ma-địa. an ổn tâm trung, hoan hỉ tất cụ, danh vi tam Thiền.

A Nan! Ba bậc này đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên ổn, được sự vui vô lượng, dù chẳng phải thật đắc chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm yên ổn trọn đủ sự hoan hỷ, gọi là Tam Thiền.

Giảng: “A Nan! Ba bậc này đầy đủ công hạnh đại tùy thuận.” Có nghiã là họ có hiểu được ý của người khác. Họ có thể làm người khác vui vẻ. “Thân tâm yên ổn, được sự vui vô lượng.” Họ không còn những vọng tưởng trong tâm, và thân của họ không còn đeo đuổi theo các vọng tưởng. Họ nhận được sự thanh tịnh trong thân tâm. Những vị trong cõi sơ thiền và nhị thiền đã buông bỏ được phiền não, đau khổ, lo lắng và lo âu. Những vị ở tam thiền không còn trải qua những phiền não như vậy nữa. Thân tâm của họ đã thanh tịnh và an lạc.

Họ cũng đáng tin cậy. Họ đáng tin cậy như thế nào? Họ không có ý nghĩ tham vọng. Họ không còn phải suy nghĩ tìm kiếm người khác phái trong mọi ý nghĩ và trong mỗi hành động giống như các chúng sanh bình thường. Khi thâm tâm chưa được an lạc, vọng tưởng sanh ra sau khi vọng tưởng khi diệt.

“À, cô ta sinh đẹp quá.” hay là “Chàng ta đẹp trai quá”. Suốt ngày suy nghĩ chuyện đó. Nhưng khi thân tâm được thanh tịnh – sự thanh tịnh diễn tả nơi đây – những mơ tưởng không còn vọng lên nữa. Mọi thứ điều quay về một vấn đề này. Tôi nói và tiếp tục nói, nhưng trong lời giải cuối, nó vẫn đưa quý vị đến nghiệp bởi vì một thứ này. Đó là một suy nghĩ vô minh, cái suy nghĩ thiếu hiểu biết đầu tiên, nó đã khuấy động rất nhiều tai họa mang đến hậu quả. Ái tình và dục vọng bắt đầu từ vô minh. Vì vậy, việc đâu tiên nhắc đến thập nhị nhân quả là Vô Minh. Từ vô minh đưa đến hành động, và từ hành động đưa đến ý thức. Khi ý thức nó hiện ra tên và hình thức. Tất cả bắt đầu ngay tại đó.

Mặc dù những vị được mô tả ở đây chưa diệt hết vô minh, tuy nhiên họ đã có được hạnh phúc vô hạn. “Mặc dù chẳng phải thật đắc chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm yên ổn trọn đủ sự hoan hỷ”. Họ chưa có đại định, nhưng trong thanh tịnh, họ có được sự an lạc. Họ gọi là Tam Thiền. Khi quý vị đạt được quả vị tam thiền, những ý tưởng không còn hiện hữu. Quý vị sẽ nhận được chân lý tịch diệc. Có câu:

Nhứt niệm bất sanh, toàn thể hiện
Lục căn hốt động bị vân giá

Một niệm không sanh, Phật tánh bổn lai liền hiển hiện, cho nên có câu: “toàn thể hiện”. Khi mắt nhìn và lỗ tai lắng nghe là bị chuyển động mà bị che khuất. Lục căn, lục trần, lục thức vừa động thì bị mây che phủ. Che mờ cái tự tánh, chân ngã.  Trước khi đạt được quả vị này, bây gìờ được thảo luận, suy nghĩ của một người vẫn còn hoạt động. Ví dụ, khi mạch máu dừng lại, suy nghĩ vẫn còn,

“Làm thế nào mạch máu dừng lại?” Và với một suy nghĩ nổi lên, mạch máu bắt đầu đập trở lại. Khi hơi thở dừng, một suy nghĩ “Tôi dừng thở”, và khi có suy nghĩ đó, hơi thở trở lại. Đó là việc xảy ra trước khi ý nghĩ dừng lại. Bây giờ, trong tam thiền, không có chuyện như vậy. Khi mạch máu dừng đập hay hơi thở dừng, bất cứ chuyện xảy ra, họ không quan tâm. Những suy nghĩ không còn nảy sanh nữa. Không còn một ý niệm. Kiếm không ra. Cho nên có câu: “Nhứt niệm bất sanh, toàn thể hiện”. Đây là trạng thái của địa vị tam thiền.

 

TỨ THIỀN

1. A-nan! Thứ phục Thiên Nhân. Bất bức thân tâm, khổ nhân dĩ tận. Lạc phi thường trụ, cửu tất hoại sanh. Khổ lạc nhị tâm, câu thời đốn xả. Thô trọng tướng diệt, tịnh phước tánh sanh. Như thị nhất loại, danh phước sanh thiên.

Lại nữa A Nan! Cõi trời này, thân tâm chẳng bị bức bách, nhân khổ đã hết, biết sự vui chẳng thường trụ, lâu ắt biến hoại, hai tâm khổ vui nhất thời cùng xả, tướng thô đã diệt, tánh phước được sanh, hạng này gọi là Phước Sanh Thiên.

Giảng: “Lại nữa A Nan! Cõi trời này, thân tâm chẳng bị bức bách, nhân khổ đã hết.” Tại thời điểm này, đau khổ, khó khăn, lo lắng và trở ngại không còn áp bức những người hành này về mặt thể chất hay tinh thần nữa.

Họ không gieo nhân cho sự đau khổ, nhưng họ không thể trông cậy vào phước lạc vĩnh cửu. Cuối cùng nó sẽ trở nên biến hoại. Đột nhiên họ “biết sự vui chẳng thường trụ, lâu ắt biến hoại. Hai tâm khổ vui nhất thời cùng xả.” Khi họ tới cõi Phước Sanh Thiên và bám lấy sự an lạc nơi đó, họ đã sai lầm. Họ nên bỏ sự an lạc và đau khổ xuống, cho đến khi không còn cái vọng tưởng của khổ đau hay vọng tưởng của an lạc. Khi họ làm được vậy, họ sẽ có sự an lạc tịch diệt.

“Tướng thô đã diệt, tánh phước được sanh.” Các phước lành chân thật là khi vọng tưởng không sanh, không khổ đau, không an lạc. Họ mới có được cái phước báo an lạc chân thật vĩnh cữu. Những vị tu hành được trụ tại cõi Phước Sanh Thiên.

2. Xả tâm viên dung, thắng giải thanh tịnh. Phước vô già trung, đắc diệu tùy thuận, cùng vị lai tế. Như thị nhất loại, danh Phước ái Thiên.

Tâm xả viên dung, thắng giải trong sạch, được sự tùy thuận nhiệm mầu, cùng tột vị Lai, tánh phước chẳng ngăn ngại, hạng này gọi là Phước Ái Thiên.

Giảng: “Tâm xả viên dung, thắng giải trong sạch.” Khi họ có thể viên dung phiền não và an lạc, phước lạc chân chánh hiện lộ. Khi họ đã hiểu được chân lý viên dung này, trí tuệ khai mở. Họ nhận được trí tuệ chân chính.  Họ “được sự tùy thuận nhiệm mầu, cùng tột vị lai.” Không có gì có thể cản trở phước lành này. Độ lớn của nó quá lớn. Những phước lành này đưa đến cái khả năng tùy thuận với cuộc sống của chúng sanh. Loại tùy thuận như sau:

Nếu chuyển về hướng đông, nó chảy về phía đông,
Nếu chuyển về hướng tây, nó chảy về hướng tây,

Giống như một con sông. Mọi thứ được thuận theo việc làm. Mọi việc làm đều đúng. Họ không bị sai lầm.  Mọi thứ đều phù hợp với ý định của người. Tất cả mọi thứ hoàn toàn phù hợp với sự mong muốn của người khác.

Tuy nhiên họ đi về làm một việc gì đó, việc đó thích hợp. Không có trở ngại xảy ra. Mọi chuyện họ làm, không bị rắc rối đến việc làm. Tất cả vấn đề được giải quyết. Đó là ý nghĩa của sự tùy thuận nhiệm mầu, cùng tột vị lai. Cái gì cùng tột vị lai? Đó là như vậy, giới hạn của tương lai. Còn gì để nói. Những vị thiên nầy cự tại cõi Phước Ái Thiên.

3. A-nan! Tùng thị Thiên trung, hữu nhị kì lộ. Nhược ư tiên tâm, vô lượng tịnh quang. Phước đức Viên Minh, tu chứng nhi trụ. Như thị nhất loại, danh Quảng quả Thiên.

A Nan! Từ cõi trời này tẻ ra hai đường: Nếu dùng tâm sáng tỏ đầy đủ phước đức trước kia để tu chứng an trụ, hạng này gọi là Quảng Quả Thiên.

Giảng: “Anan, từ cõi thiên – đó là, từ cõi thứ hai của tứ thiền, Phước Ái Thiên – có hai đường để đi. ”Một đường dẫn đến cõi Quảng Quả Thiên và đường kia dẫn tới Vô Tưởng Thiên. Không còn đường nào khác.

“Những người mở rộng suy nghĩ trước đó” trạng thái của Phước Ái Thiên – dùng tâm sáng rõ đầy đủ phước đức trước kia để tu chứng an trụ. Đó là hạng tu hành cư ngụ tại cõi Quảng Quả Thiên.

Đạo hạnh của họ đầy đủ và rộng lớn và phước đức được rất lớn, vì vậy họ có thể ở trong thiên đường này.

4. Nhược ư tiên tâm, song yếm khổ lạc. Tinh nghiên xả tâm, tương tục bất đoạn. Viên cùng xả đạo, thân tâm câu diệt. Tâm lự hôi ngưng, Kinh ngũ bách kiếp. Thị nhân ký dĩ, sanh diệt vi nhân. Bất năng phát minh, bất sanh diệt tánh. Sơ bán kiếp diệt, hậu bán kiếp sanh. Như thị nhất loại, danh vô tưởng Thiên.

Nếu nơi tâm trước kia, nhàm chán cả khổ vui, lại nghiền ngẫm cái tâm xả chẳng gián đoạn, trọn thành đạo xả, thân tâm tiêu diệt, lắng tâm bặt tưởng, trải qua năm trăm kiếp. Nhưng vì người ấy đã lấy cái sanh diệt làm nhân, thì chẳng thể phát minh tánh chẳng sanh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sanh, hạng này gọi là Vô Tưởng Thiên.

Giảng: “Nếu nơi tâm trước kia, nhàm chán cả khổ vui, lại nghiền ngẫm cái tâm xả chẳng gián đoạn” sẽ mang lại con đường mới này. Nếu những vị trong cõi Phước Ái Thiên được mô tả trước đây có thể nhàm chán khổ vui, họ có thể từ bỏ cả hai. Họ nghiền ngẫm khổ vui, chẳng gián đoạn cho đến khi họ trọn thành đạo xả, thân tâm tiêu diệt, lắng tâm bặt tưởng. Lúc bây giờ, họ đã đạt được thiền định với tâm bặt tưởng. Họ trải qua năm trăm kiếp. Nhưng vì người ấy đã lấy cái sanh diệt làm nhân, thì chẳng thể phát minh tánh chẳng sanh diệt. Họ có mạng sống 500 đại kiếp, nhưng vì cái nhân họ tạo từ cái sanh diệt.

“Nên nửa kiếp đầu thì diệt.” Đây là nói lên sự nhàm chán khổ lạc. Khi họ nhận biết chân lý của sự khổ vui, thì vọng tưởng không còn nảy sinh. Nhưng sau 250 đại kiếp, họ lại nảy sanh vọng tưởng. “Nửa kiếp sau lại sanh.” Cái phước của tu hành thiền định vô tưởng đã hết. Khi phước báo hết, họ có những suy nghĩ sai với Tam Bảo. Khi vọng tưởng nảy sinh, đó là bước đầu cho số mạng đã hết, khi thiền định bị phá vợ họ chỉ trách tam bảo. Họ nói gì? “Đức Phật nói quả vị thứ tư thiền định là đã kết thúc sanh tử, và không bị luân hồi. Bây giờ, tôi đã đạt được tứ thiền, tại sao tôi phải bị trôi vào sáu cõi luân hồi.”

Đó là cách họ chỉ trách tam bảo. Thật ra, tứ thiền mà họ đã đạt được không phải là tứ thiền của A La Hán. Nó không bằng quả vị đầu tiên của A La Hán. Họ đã lầm lẫn với suy nghĩ họ đã vào địa vị thứ tư A La Hán. Họ đạt được quả vị tứ thiền và nghĩ rằng đó là địa vị thứ tư của A La Hán. Người tu hành không có trí thức lầm lẫn. Những vị đi theo con đường này được trụ tại cõi Vô Tưởng.

A-nan! Thử tứ thắng lưu, nhất thiết thế gian. Chư khổ lạc cảnh, sở bất năng động. Tuy phi vô vi, chân bất động địa. Hữu sở đắc tâm, công dụng thuần thục, danh vi tứ Thiền.

A Nan! Bốn bậc này tất cả cảnh khổ vui của thế gian chẳng thể lay động, dù chẳng phải là chỗ chơn bất động của đạo vô vi, nhưng nơi tâm có sở đắc, công dụng thuần thục, gọi là Tứ Thiền.

Giảng: “A Nan! Bốn bậc này tất cả cảnh khổ vui của thế gian chẳng thể lay động.” Họ trải qua đau khổ hay phước lạc, tâm họ không thay đổi. Họ trải qua đau khổ hay phúc lạc, tâm trí họ không di chuyển.

“Dù chẳng phải là chỗ chơn bất động của đạo vô vi.” Họ vẫn có thể tự chủ và không bị lay động. Nhưng đó là bị ép buộc, họ chưa đắc được quả vị cao hơn. Bởi vì “nơi tâm có sở đắc.” Trong tứ thiền, họ vẫn còn có suy nghĩ về quả vị. Thí dụ như vị vô học nghĩ rằng họ đã đạt được quả vị thứ tư A La Hán. “Công dụng thuần thục.” Họ đã đạt được địa vị cao nhất trong việc tu hành, đối với từng tu của họ. Họ được gọi là Tứ Thiền. Đây là cõi tứ thiền.

 

NGŨ TỊNH CƯ THIÊN

A-nan! Thử trung phục hữu, ngũ bất hoàn thiên. Ư hạ giới trung, cửu phẩm tập khí, câu thời diệt tận. Khổ lạc song vong, hạ vô bốc cư. Cố ư xả tâm, chúng đồng phần trung, an lập cư xử.

Ở đây, còn có năm bậc Bất Hoàn Thiên, đã dứt sạch chín phẩm tập khí của cõi dưới, khổ vui đều hết, chẳng định cư ở cõi dưới, nên an lập chỗ ở nơi tâm xả của đồng phận chúng sanh.

Giảng: “Ở đây, còn có năm bậc Bất Hoàn Thiên.” Năm tầng trên này đôi khi được coi là một trong số cõi trời của tứ thiền. Tuy nhiên, năm cõi này là nơi ở của các hiền nhân, và do đó khác với các cõi trời của nhất, nhì, tam hay tứ thiền. Những người đã được thọ ký quả vị A-hán cư ngụ trong năm cõi trời Bất Hoàn Thiên.

Họ “đã dứt sạch chín phẩm tập khí của cõi dưới, khổ vui đều hết, chẳng định cư ở cõi dưới.” Chín loại thói quen đề cập đến chín loại đầu tiên của 81 loại ảo tưởng của ý. Chúng tôi sẽ không đi vào chi tiết ở đây. Những sinh mệnh này không phải quay trở lại bất cứ đâu tại điểm này. Họ sẽ không quay trở lại cõi thấp hơn.

Họ “an lập chỗ ở nơi tâm xả của đồng phận chúng sanh.” Vô số chúng sinh đạt đến địa vị này, họ sống chung với nhau trong sự trống rỗng trên một đám mây che chở trái đất. Những người ở đó là những hiền nhân đã đạt đến địa vị Bất Hoàn Thiên.

1. A-nan! khổ lạc lưỡng diệt, đấu tâm bất giao. Như thị nhất loại, danh vô phiền Thiên.

Vậy, khổ vui đã diệt, ưa ghét chẳng sanh, hạng này gọi là Vô Phiền Thiên.

Giảng: Họ không có những suy nghĩ về đau khổ và họ không có suy nghĩ của phúc lạc, và vì vậy không có sự tham gia vào cuộc đấu tranh giữa đau khổ và an lạc. Những người không trải nghiệm trận chiến giữa đau khổ và an lạc là những hạng người gọi là Vô Phiền Thiên. Các chúng sinh trên cõi thiên này không có bất kỳ phiền não nào cả.

2. Kỳ quát độc hành, nghiên giao vô địa. Như thị nhất loại, danh vô nhiệt Thiên.

Tự tại phóng xả, chẳng có năng sở, tâm chẳng đối đãi, hạng này gọi là Vô Nhiệt Thiên.

Giảng: “Tự tại phóng xả, chẳng có năng sở, tâm chẳng đối đãi.” là chúng sinh từ cõi thiên đàng trước kia, những người đã có tiến bộ trong tu hành. Trong cõi đầu tiên của ngũ tịnh cư thiên, họ đã không tham gia vào tranh chấp giữa những suy nghĩ của đau khổ và phúc lạc. Điều này có nghĩa là về mặt cơ bản, họ không có những suy nghĩ như vậy. Mặc dù đôi khi có một chút suy nghĩ đó có thể nảy sinh. Họ đôi khi vẫn có đôi chút phân tâm. Nhưng ở cõi này, trong cõi Vô Nhiệt Thiên, họ nhìn sâu vào sự tham gia vô ý nghiã, cho đến khi họ đạt tới điểm mà họ không thể còn phát khởi những loại tư tưởng đó trong tâm. Đối với những vị chư thiên này, những ý nghĩ như vậy không bao giờ nảy sinh. Họ là một trong số những vị Vô Phiền Thiên. Họ không còn sân hận và rất bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh.

3. Thập phương thế giới, diệu kiến viên trừng. Cánh vô trần tượng, nhất thiết trầm cấu. Như thị nhất loại, danh thiện kiến Thiên.

Mười phương thế giới, diện kiến trong lặng, chẳng còn tất cả cấu nhiễm của cảnh trần, hạng này gọi là Thiện Kiến Thiên.

Giảng: “Mười phương thế giới, diện kiến trong lặng, chẳng còn tất cả cấu nhiễm của cảnh trần.” Tầm nhìn của họ là tinh tế và hoàn hão cũng như hoàn toàn sáng rõ – không đục hoặc bối rối. Quan điểm của họ là không chứa ý kiến bất bình. Tầm nhìn của họ được cho là hoàn hảo và rõ ràng bởi vì nó không còn ô nhiễm. Tất cả các Pháp phỉ báng được dập tắt. Vô minh và vọng tưởng nhiều như bụi cát đã bị loại bỏ. Những hạng cõi thiên này gọi là Thiện Kiến Thiên

4. Tinh kiến hiện tiền, đào chú vô ngại. Như thị nhất loại, danh thiện hiện Thiên.

Diệu kiến hiện tiền, biến tạo vô ngại, hạng này gọi là Thiện Hiện Thiên.

Giảng: Mọi sự trong cõi thiên ở phần trên mà các vị chư thiên đều thấy là tốt. Hiện nay, với biểu hiện của tầm nhìn thanh tịnh này, mọi thứ họ thấy vượt trội hơn bất cứ điều gì họ từng thấy trước đây. Cõi thiên này thanh tịnh hơn nhiều so với cõi trời đã được mô tả trước. Danh từ “biến tạo” đề cập đến quá trình nấu chảy, đúc, và thời trang. Nó giống như việc nung nóng thực hiện trong lò nung hoặc tạo hình trên đá sắc. Những gì biến tạo ở đây là tâm trí và bản chất của một hiền nhân để tâm trở thành kiên cố không bị cản trở và thoải mái theo mọi hoàn cảnh. Đây là những vị hiền nhân cư ngụ tại cõi Thiện Hiện Thiên.

5. Cứu cánh quần kỷ, cùng sắc tánh tánh, nhập vô biên tế. Như thị nhất loại, danh Sắc cứu kính Thiên.

Sắc trần từ tướng lăng xăng đến chỗ cứu cánh chẳng động, cùng tột tánh sắc chẳng có bờ bến, hạng này gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên.

Giảng: “Sắc trần từ tướng lăng xăng đến chỗ cứu cánh chẳng động.” Cứu cánh có ý nghĩa của tột đỉnh hoặc sự hoàn hảo. “Mức độ tinh tế” ám chỉ đến sự tách rời khỏi ham muốn. Họ đạt được cuối bản chất của tánh không và bản chất của hình thức họ bước vào cùng tột tánh sắc chẳng có bờ bến, hạng này gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên. Họ đạt tới bước vị cuối cùng của sắc giới

A-nan! Thử Bất hoàn Thiên. Bỉ chư tứ Thiền, tứ vị Thiên Vương. Độc hữu khâm văn, bất năng tri kiến. Như kim thế gian, khoáng dã thâm sơn, Thánh đạo tràng địa. Giai A-la-hán, sở trụ trì cố. Thế gian thô nhân, sở bất năng kiến.

A Nan! Với các cõi Bất Hoàn Thiên này, chỉ riêng bốn vị Thiên Vương cõi Tứ Thiền mới được nghe biết, nhưng chẳng thể thấy biết. Như nay trong thế gian, nơi núi sâu rừng thẳm, những đạo tràng của bậc thánh, đều có các vị A La Hán trụ trì, mà người thế tục chẳng thể thấy.

Giảng: “A Nan! Với các cõi Bất Hoàn Thiên này, chỉ riêng bốn vị Thiên Vương cõi Tứ Thiền mới được nghe biết.” Những vị thiên vương ở cõi tứ thiền chỉ biết tới những cõi Bất Hoàn Thiên qua nghe danh tiếng. Họ nghe nhưng chẳng thấy biết.

Cũng giống như nay trong thế gian, nơi núi sâu rừng thẳm, những đạo tràng của bậc thánh, đều có các vị A La Hán trụ trì, mà người thế tục chẳng thể thấy. Các hiền nhân có bồ đề tâm ở những nơi mà mọi người không thể tới. Những người sống ở những nơi như vậy là những vị đại A La Hán và Đại Bồ Tát. Sự hiện diện của họ là một ảnh hưởng hỗ trợ trên các lĩnh vực họ sống. Những người bình thường không bao giờ thấy những vị thánh nhân này. Mặc dầu tất cả đều sống trong cùng một thế giới, mọi người không thể thấy các hiền nhân. Nên trên kinh văn, ngũ tịnh cư thiên cư ngụ nơi cõi yên tịnh xa xôi. Những chư thiên ở tứ thiền không biết nơi cư ngụ của các hiền nhân cư trú.

A-nan! Thị thập bát Thiên, độc hành vô giao, vị tận hình lụy. Tự thử dĩ hoàn, danh vi sắc giới.

A Nan! Mười tám cõi trời kể trên, dù thoát khỏi cảnh dục, nhưng chưa thoát khỏi sắc thân, gọi là Sắc Giới.

Giảng: “A Nan! Mười tám cõi trời kể trên, dù thoát khỏi cảnh dục, nhưng chưa thoát khỏi sắc thân.” Mười tám cõi thiên là ba cõi trong nhất nhi tam thiền (3×3=9), 4 cõi trong tứ thiền, và 5 cõi ngũ tịnh cư thiên. Những cõi này tập trung lại thành cõi sắc giới.

Đối với việc tu hành trong sự không va chạm, những vị chư thiên điều có cách nhìn nhận nhân quả. Họ đã diệt trừ những tham vọng và vượt tới cõi đó, nhưng chưa thoát khỏi sắc thân. Cõi sắc giới bao gồm những vị Bất Hoàn Thiên. Tuy nhiên, vì những cõi này có những vị hiền nhân cư ngụ, họ thực sự nằm trong một chư cấp riêng biệt.Trong kinh, văn bản so sánh các vị hiền nhân sinh sống ở nơi hẽo lánh mà mọi người không biết đến. Đây được gọi là cõi Sắc Giới