KINH MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 

QUYỂN THỨ BA MƯƠI

PHẨM CHÚC LỤY 
THỨ CHÍN MƯƠI

Bấy giờ đức Phật bảo Ngài A Nan: “Này A Nan! Ý ông nghĩ sao? Ðức Phật có phải là đại sư của ông chăng? Còn ông có phải là đệ tử của đức Phật chăng?”

Ngài A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ðức Phật là đại sư của tôi. Ðấng Thiện Thệ là đại sư của tôi. Tôi là đệ tử của đức Phật”.

– Ðúng như vậy. Ðức Phật là đại sư của ông. Ông là đệ tử của đức Phật.

Nếu như chỗ phải làm của hàng đệ tử thì ông đã làm rồi.

Này A Nan! Ông dùng nghiệp thân,khẩu, ý nhơn từ cúng dường, hầu hạ đức Phật, cũng thường đúng theo ý của đức Phật, không có trái lỗi.

Này A Nan! Thân ta hiện tại đây, ông ái kính, cúng dường, cung cấp, hầu hạ, tâm ông thường thanh tịnh.

Sau khi ta diệt độ, tất cả sự ái kính, cúng dường, cung cấp ấy ông phải dành cho Bát nhã ba la mật.

Nhẫn đến lần thứ hai, lần thứ ba, đưc Phật đem Bát nhã ba la mật chúc lụy cho ông.

Này A Nan! Ông chớ có quên, chớ để mất, chớ làm người đoạn Phật chủng tối hậu.

Này A Nan! Tùy bao nhiêu thời gian mà Bát nhã ba la mật còn tại thế gian, phải biết là bao nhiêu thời gian có Phật ở đời thuyết pháp.

Này A Nan! Nếu có ai biên chép Bát nhã ba la mật, rồi thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, rộng giảng thuyết cho người, lấy các thứ hoa hương,phan lọng, bửu Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, đèn đuốc cung kinh, tôn trọng, ca ngợi, cúng dường, phải biết người ấy chẳng rời thấy Phật, chẳng rời nghe pháp, được thường gần bên Phật”.

Ðức Phật nói Bát nhã ba la mật rồi, Di Lặc Bồ Tát v.v… chư Thiên Ðế Thích, Huệ Mạng Tu Bồ Ðề, Huệ Mạng Xá Lợi phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, Ma Ha Câu Si La, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nan v.v… cùng tất cả đại chúng và tất cả thế gian, chư Thiên, nhơn chúng, Càn thát bà, A tu la v.v..nghe lời đức Phật nói đều rất vui mừng.

TRỌN BA MƯƠI QUYỂN

Dịch xong ngày Phật Ðản 2517
Rằm tháng tư năm Quý Sửu
(17-5-1973)
Tỳ Kheo THÍCH TRÍ TỊNH

THÍCH NGHĨA SÁM PHÁP

1.- Phiền não, nghiệp nhơn, quả báo, ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: “Ba món chướng”.

2.- Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng, chính là nghĩa của hai chữ “Nam Mô”.

3.- Nói đủ là sám ma hối quá. “Sám ma” là tiếng Phạm, nghĩa là “hối quá” tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.

4.- Nhãn, nhĩ, tỷ, thiện, thân, ý, sáu căn và ba nghiệp” thân, khẩu, ý.

5.- Giết Cha, giết Mẹ, giết Thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô gián nên nói là tội Vô gián. Ngục Vô gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.

6.- A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.

7.- Bày lộ tội lỗi ra trước chúng Nhơn, không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hội).